Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 07:28:13 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 5  (Đọc 2682 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #50 vào lúc: 05 Tháng Hai, 2022, 04:45:28 pm »

5. Vừa chiến đấu vừa xây dựng và bảo vệ căn cứ địa

Trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng hay trong chiến tranh bảo vệ Tố quốc, do tương quan lực lượng buổi đầu ta kém địch, nên các nhà lãnh đạo đều có tư tưởng chỉ đạo vừa chiến đấu vừa xây dựng căn cứ địa, hậu phương. Mặt khác, căn cứ địa, hậu phương của ta là mối uy hiếp thường xuyên đối với địch, là mục tiêu đánh phá thường xuyên, ác liệt của quân thù; vì vậy, cần phải tích cực chiến đấu để bảo vệ căn cứ địa.


Trong truyền thống quân sự thời phong kiến, các lãnh tụ nghĩa quân khi lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa thường lựa chọn xây dựng căn cứ địa ở vùng quê hương, tuy phạm vi còn nhỏ hẹp nhưng có điều kiện nhân hòa, địa lợi. Dựa vào sự ủng hộ của nhân dân từng bước xây dựng và mở rộng căn cứ địa. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương "vừa cày ruộng vừa đánh giặc", vừa chiến đấu vừa xây dựng căn cứ địa ở núi rừng Thanh Hóa và Nghệ An. Tại căn cứ Lam Sơn, Lê Lợi giao cho hai cha con Ngô Kinh, Ngô Từ, quê ở Yên Phong (Yên Định) quản lý trang trại, xây dựng cơ sở vật chất, chăm lo sản xuất binh lương; Trương Lôi và Võ Uy, hai tướng có tên trong Hội thề Lũng Nhai tổ chức cày ruộng, cung ứng lương thực cho nghĩa quân. Ngay từ đầu, trong tư tưởng của mình, Lê Lợi đã suy nghĩ và quan tâm đến vấn đề khai hoang, sản xuất lương thực cung cấp cho nghĩa quân đánh giặc. Ngoài việc nghĩa quân tự lực sản xuất lương ăn, trong thời kỳ này, Lê Lợi còn đặc biệt chú ý đến việc huy động vật lực trong nhân dân, nhất là trong vùng hoạt động của nghĩa quân. Cùng với việc xây dựng lực lượng, tích trữ lương thực và vũ khí, Lê Lợi còn cho đắp lũy để bảo vệ căn cứ Lam Sơn. Lũy Lam Sơn hay còn gọi là "Lũy vua Lê" chạy dài theo tả ngạn sông Chu, qua Dao Xá, Hào Lương xuống tận Yên Trường (Thọ Xuân). Thời kỳ đầu, quân Minh liên tục tiến đánh, càn quét, nhằm tiêu diệt nghĩa quân, Lê Lợi tổ chức nhiều cuộc tập kích, phục kích giặc để bảo vệ nhân dân, bảo vệ khu căn cứ của mình. Khi nghĩa quân chuyển hướng tiến công vào Nam, cả một vùng rộng lớn đông người nhiều của thuộc vùng Nghệ An, Hà Tĩnh đã được giải phóng, trở thành đất đứng chân của nghĩa quân. Được nhân dân ủng hộ, từ đội du kích nhỏ bé của buổi đầu khởi nghĩa, nghĩa quân Lam Sơn đã phát triển tới hàng vạn người, gồm đủ quân bộ, quân thủy, voi chiến và thuyền chiến. Đất đứng chân - căn cứ địa được mở rộng từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa. Lúc bấy giờ, ngoài cơ sở hậu cần của nhân dân, Lê Lợi và Nguyễn Trãi còn chủ trương "vừa cày ruộng vừa đánh giặc". Tướng Đinh Lễ được lệnh chỉ huy quân sĩ khai phá ruộng đất ở hai bên bờ sông La; tướng Nguyễn Biên cũng khai hoang một vùng rộng lớn gọi là "vũng voi đạp lúa" ở gần quê nhà, để cung cấp lương thực cho nghĩa quân. Xung quanh các doanh trại và đồn lũy đều tổ chức khẩn hoang, kết hợp chiến đấu với sản xuất quân lương. Nghĩa quân còn xây dựng cả một hệ thống đồn lũy ở căn cứ Đỗ Gia (Hương Sơn, Hà Tĩnh) để bảo vệ an toàn cho Bộ tham mưu khởi nghĩa. Đến giai đoạn cuộc khởi nghĩa Lam Sơn phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc có quy mô toàn quốc, các lãnh tụ nghĩa quân càng lo xây dựng các vùng giải phóng ở các châu lộ phía Bắc thành vùng hậu phương rộng lớn. Các vùng giải phóng được chính quyền mới được thành lập. Nghĩa quân đã thi hành nhiều chính sách nhằm động viên lớn nhất sức người, sức của để bảo đảm thắng lợi cho cuộc chiến tranh. Trong quá trình khởi nghĩa, việc xây dựng và bảo vệ căn cứ địa, vùng giải phóng luôn được nghĩa quân thực hiện tốt.


Trong quá trình lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thực hiện chủ trương vừa chiến đấu vừa xây dựng và bảo vệ căn cứ địa, hậu phương. Thời kỳ Cách mạng Tháng Tám, ngay từ khi các căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai và Cao Bằng mới được xây dựng, thực dân Pháp và phát xít Nhật đã thấy rõ đó là mối nguy cơ lớn đối với nền thống trị của chúng, nên đã tập trung lực lượng tiến hành càn quét quyết liệt, hòng triệt phá cơ sở của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, chính vì muốn tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo, phá hoại tiềm lực kháng chiến của chính quyền cách mạng, thực dân Pháp đã tìm mọi cách đánh phá căn cứ địa Việt Bắc và các vùng tự do khác, tiến hành càn quét liên tục các căn cứ du kích ở vùng sau lưng chúng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai luôn coi việc đánh phá cơ sở chính trị, căn cứ địa, hậu phương của ta như một quốc sách, một vấn đề có tầm quan trọng chiến lược hàng đầu. Chúng ra sức thực hiện kế hoạch bình định hết đợt này đến đợt khác, từ bình định cấp tốc đến bình định đặc biệt, bình định bổ túc,... coi đó là nội dung, biện pháp chủ yếu của chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh".


Một trong những mục tiêu của việc đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược sang Lào và Campuchia cũng chính là nhằm đánh phá hậu phương trực tiếp của chiến tranh cạch mạng miền Nam.


Để đánh phá căn cứ địa, hậu phương của Việt Nam, phá hoại kinh tế, phá hoại giao thông và uy hiếp tinh thần của nhân dân Việt Nam, hòng làm suy yếu tiềm lực của hậu phương và ngăn chặn sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ hết sức chú trọng ưu thế về không quân của chúng. Đặc biệt, đế quốc Mỹ còn tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn đối với miền Bắc trong một thời gian dài, hòng cứu vãn tình thế thất bại của chúng ở miền Nam và ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam. Chúng tăng cường đánh phá các đường hành lang vận chuyển tiếp tế của Việt Nam và các vùng giải phóng miền Nam.


Vì những lẽ đó, việc củng cố căn cứ địa, hậu phương phải gắn liền với việc tích cực chiến đấu chống âm mưu phá hoại và lấn chiếm cua địch. Yêu cầu bảo vệ căn cứ địa, hậu phương là phải giữ vững được địa bàn, bảo vệ được cơ sở cách mạng và tài sản của nhân dân, bảo vệ sản xuất, bảo vệ giao thông vận tải, giữ vững trật tự trị an, giữ vững ý chí chiến đấu của quân và dân Việt Nam trong mọi tình huống.


Về nhiệm vụ bảo vệ căn cứ địa, hậu phương ở miền Nam trước đây, Nghị quyết của Bộ Chính trị tháng 1-1970 chỉ rõ: phải làm tốt công tác bố phòng chống địch, bố trí lực lượng vũ trang địa phương một cách hợp lý, xây dựng làng xã chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu đánh bại mọi cuộc càn quét bằng bộ binh hoặc các cuộc tập kích bằng biệt kích, bằng đổ bộ đường không của địch, đưa các lực lượng vũ trang luân phiên ra phía trước tham gia chiến đấu.


Công tác chiến đấu bảo vệ căn cứ địa, hậu phương không chỉ có hoạt động phòng thủ, mà trong đó đã bao hàm tư tưởng tích cực tiến công. Đó chính là tư tưởng quân sự về bảo vệ gắn với tích cực tiến công đánh phá và thu hẹp hậu phương của địch, biến hậu phương địch thành tiền phương cách mạng. Hoạt động tiến công hậu phương địch một mặt buộc chúng phải phân tán đối phó, không thể tập trung lực lượng đánh phá căn cứ địa, hậu phương của ta; mặt khác, sẽ hạn chế việc vơ vét tài nguyên, vật lực và nhân lực phục vụ cho chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của đế quốc Mỹ.


Quán triệt tư tưởng trên đây, trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra nhiệm vụ bảo vệ căn cứ địa đi đôi với chiến đấu để mở rộng căn cứ địa. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phương châm cơ bản để bảo vệ vùng tự do của ta là đẩy mạnh mọi hoạt động tiến công vào vùng sau lưng địch, phát triển chiến tranh du kích; đồng thời, tích cực chiến đấu bảo vệ vùng tự do khi bị tiến công. Nhờ vậy mà các vùng tự do của ta được giữ vững và củng cố, những căn cứ du kích và khu du kích không ngừng xuất hiện sau lưng địch, hậu phương của quân cách mạng ngày càng mở rộng, còn hậu phương của địch thì ngày càng bị thu hẹp. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân thù đánh phá căn cứ địa, hậu phương của ta càng quyết liệt hơn, nhằm mục đích không chỉ thủ tiêu cơ quan đầu não, tiêu diệt các lực lượng kháng chiến, phá hoại tiềm lực kinh tế, quân sự... mà còn uy hiếp tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân. Chúng còn mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, thực hiện chiến tranh phá hoại, đánh phá toàn diện hậu phương miền Bắc. Quân và dân miền Bắc đã kiên cường chiến đấu đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Quân và dân Việt Nam thường xuyên rút kinh nghiệm trong các cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, làm tốt công tác phòng không, sơ tán; vừa chiến đấu vừa duy trì sản xuất tốt. Mọi hoạt động được chuyển mạnh sang thời chiến. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương lớn của cả nước luôn được bảo vệ vững chắc và đã phát huy tác dụng hết sức to lớn đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Quân và dân miền Nam đã anh dũng đập tan các cuộc hành quân đánh phá, càn quét, lấn chiếm... của quân thù, luôn giữ vững và làm chủ được các địa bàn, bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.


Tóm lại, tư tưởng xây dựng căn cứ địa, hậu phương trong chiến tranh là một nội dung quan trọng trong tư tưởng quân sự Việt Nam từ xưa đến nay. Tư tưởng này được phát triển hoàn thiện trong thời kỳ chiến tranh yêu nước và cách mạng ở nước ta. Trong chiến tranh 30 năm, Đảng, quân đội và nhân dân Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống căn cứ địa, hậu phương ngày một vững mạnh trên địa bàn cả nước với nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm hậu phương lớn của quốc gia, hậu phương trực tiếp trên những hướng chiến lược trọng yếu và các căn cứ địa trên từng chiến trường, có mạng liên lạc và giao thông vận tải nối hậu phương với tiền tuyến, nối hậu phương với các chiến trường. Đó là kết quả vận dụng tư tưởng xây dựng căn cứ địa, hậu phương trong chiến tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #51 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2022, 04:32:55 pm »

II- TƯ TƯỞNG QUỐC PHÒNG

Quốc phòng là hoạt động thường xuyên của mọi quốc gia nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Tư duy, tư tưởng quốc phòng xuất hiện và phát triển trong quá trình hoạt động quốc phòng. Tư tưởng đó thường là của một giai cấp, một đảng phái, của một nhà nước hay của từng cá nhân tham gia lãnh đạo, chỉ huy, điều hành công tác quốc phòng. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức, huy động sức mạnh mọi mặt của quốc gia để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Do điều kiện địa - chính trị - quân sự và do hoàn cảnh lịch sử thường xuyên phải chống ngoại xâm, nên ở Việt Nam, tư tưởng quốc phòng xuất hiện sớm với nhiều quan điểm tiến bộ. Dưới đây là một số quan điểm tư tưởng quốc phòng tiêu biểu đã hình thành, phát triển và được vận dụng thành công trong quá trình dựng nước và giữ nước ở Việt Nam.


1. Tư tưởng quốc phòng trong các triều đại phong kiến

a) Quốc phòng cần có phương lược tốt và kế sách lâu dài, phải chuẩn bị ngay từ thời bình

Ngay từ buổi đầu dựng nước, người Việt đã lo phòng giữ đất nước. Các nhà nước đầu tiên vừa ra đời, tuy còn sơ khai, nhưng cũng đã lo việc phòng thủ, chống mối đe dọa bị ngoại bang xâm lược. Tư tưởng quốc phòng thời kỳ đầu dựng nước thường có nội dung bao gồm các hoạt động kiến thiết các trung tâm quân sự cũng như liên kết lực lượng quân sự giữa các vùng. An Dương Vương, vua nước Âu Lạc đã xây Loa Thành kiên cố, tổ chức và trang bị cho quân đội để bảo vệ kinh đô. Căn cứ vào cấu trúc thành Cổ Loa và hệ thống vũ khí cung nỏ, chúng ta hiểu được phần nào tư tưởng phòng vệ bảo vệ kinh đô của An Dương Vương và quân đội Âu Lạc.


Từ sau khi lật đổ ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, giành được độc lập, các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê, Mạc, Tây Sơn và nhà Nguyễn đã kê tiếp nhau xây dựng và bẫb vệ đất nước. Dưới sự lãnh đạo của các vương triều nói trên, quân và dân Đại Việt đã phải tiến hành gần mười cuộc chiến tranh giữ nước. Kẻ thù thường là những thế lực to lớn, đông quân và có cùng chung biên giới với nước ta. Hoàn cảnh lịch sử đã buộc các triều đại phong kiến Việt Nam luôn để cao cảnh giác, chuẩn bị tiềm lực quốc phòng để bảo vệ nền hòa bình, ổn định đất nước, cũng như để có khả năng đánh thắng quân xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trên phương diện này, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ nền hòa bình, ổn định của đất nước là hai mục tiêu chính của nền quốc phòng - đây cũng là mục tiêu cốt lõi trong truyền thống quân sự của Việt Nam.


Trong các nhà nước quân chủ Việt Nam đã xuất hiện những bậc minh quân, hiền thần cùng các chí sĩ yêu nước, có tinh thần dân tộc rất cao. Những con người này khi lãnh đạo đất nước thường lo lắng và quan tâm đến nền quốc phòng. Họ hiểu rằng, ngay từ trong hòa bình vẫn phải cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng lực lượng để giữ nước. Thông qua các chiếu chỉ, lời răn, thậm chí bằng cả thơ văn, bài hịch, nhiều vị vua sáng, tôi hiền đã nêu lên những quan điểm tư tưởng tiến bộ trong chỉ đạo sự nghiệp quốc phòng.


Bảo vệ đất nước, chuẩn bị lực lượng và kế sách đánh giặc là tư tưởng lớn, là nhu cầu thường xuyên được những người đứng đầu triều đình và các đại thần hết sức quan tâm. Các vua Lý, Trần, Lê đều ban chiếu, dụ nhắc nhở quần thần, tướng lĩnh thường xuyên cảnh giác, bảo vệ biên cương cả khi hòa bình cũng như khi có chiến tranh. Trong bài thơ Đoạt sáo Chương Dương độ của Thái sư Trần Quang Khải làm ngay sau khi đại thắng quân Mông - Nguyên năm 1285 có câu: "Thái bình tu trí lực, vạn cổ thử giang san", có ý nhắc nhở rằng: Thái bình mà gắng sức tu rèn trí lực thì mới giữ được giang sơn bền vững đời đời1 (Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai sau Trần Quốc Tuấn. Bài thơ của ông như sau: "Đoạt sáo Chương Dương độ, cầm Hồ Hàm Tử Quan. Thái bình tu trí lực, vạn cổ thử giang san").


Bài thơ đó hàm chứa một nội dung tư tưởng quốc phòng tiến bộ: dựng nước cũng chính là giữ nước, và trong hoàn cảnh Việt Nam, muốn giữ nước phải dựng nước. Năm 1300, vua Trần Anh Tông biết Trần Quốc Tuấn ôm không thể qua khỏi, đã đến bên giường bệnh, lo lắng hỏi: "Chẳng may chết, giặc phương Bắc lại sang thì kế làm sao?"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.79). Đó là nỗi lo thường trực của nhà vua, vì hiểm họa ngoại xâm luôn rình rập, uy hiếp từ phương Bắc.


Sau khi đánh thắng giặc Minh, giải phóng đất nước, Lê Thái Tổ, vị vua dựng nghiệp của triều đại Lê Sơ, trong lúc khôi phục đất nước vẫn không quên việc tổ chức củng cố quốc phòng, ông thường đích thân đi kinh lý các vùng biên ải phía Bắc. Trong một lần kinh lý, nhà vua đã làm bài thơ lưu lại cho các thế hệ, trong đó có câu: "Biên phòng hảo vị trù phương lược, xã tắc ưng tu kế cửu an", tức là biên phòng luôn phải có phương án tốt, đất nước phải lo kê lâu dài. Và kế lâu dài đó của Lê Thái Tổ là không chỉ chăm lo riêng về mặt võ bị mà còn phải chú ý đến nhiều mặt khác, cả chính trị, kinh tế, văn hóa..., như sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua lên ngôi đã ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, mở mang trường học. Có thể gọi là kế xa rộng mở mang cơ nghiệp vậy"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.237). Và trước khi đi xa, vua Lê Thái Tổ cũng không quên di chúc cho con cháu đời sau phải luôn "lo giữ nước từ khi chưa nguy".

   
Ngay cả khi chiến tranh vừa kết thúc hay sắp kết thúc, những nhà lãnh đạo chiến tranh của Việt Nam đã lo nghĩ đến việc hòa hiếu với đối phương để duy trì hòa bình đất nước. Đúng lúc quân Tống đang bị đánh tan tác ở bờ bắc sông Như Nguyệt (1077), Lý Thường Kiệt đã chủ động "dùng biện sĩ để bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu, mà vẫn bảo tồn được tông miếu xã tắc"1 (Việt sử lược, Sđd, tr.158). Ông đã cử người sang trại quân Tống, buộc Quách Quỳ phải chấp nhận giải pháp "cầu hòa" một hình thức đầu hàng không điều kiện, vừa có thể bảo vệ mạng sống cho bao binh lính, giữ thể diện cho "thiên triều", vừa có thể tạo điều kiện cho sự hòa hiếu dài lâu với nhà Tống. Thời Trần, sau kháng chiến chống Mông - Nguyên thắng lợi, những người lãnh đạo Đại Việt cũng đã duy trì ngoại giao với nhà Nguyên, thả tù binh, cấp thuyền và lương ăn cho về nước. Đặc biệt, trong cuộc chiến tranh giải phóng đầu thế kỷ XV, khi quân Minh đã "chí cùng lực kiệt", phương sách viện binh cũng đã bị đánh tan, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã chấp nhận sự đầu hàng của nhà Minh bằng cách tổ chức Hội thề Đông Quan và cấp ngựa, cấp thuyền, lương thảo cho bọn Vương Thông và 10 vạn tù binh về nước. Tư tưởng kết thúc chiến tranh đó vừa chứng tỏ tính nhân đạo của ta, vừa thể hiện một kế sách quốc phòng lâu dài của các nhà lãnh đạo cuộc chiến; đúng như Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô đại cáo rằng: "Nghĩ vì kế lâu dài của nước nhà, Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh, sửa hòa hiếu cho hai nước, Tắt muôn đời chiến tranh"1 (Nguyễn Trãi: Toàn tập, Sđd, tr.73).


Vua Quang Trung tại Tam Điệp, trước khi ra lệnh mở cuộc tiến công đánh tan quân Thanh giải phóng Thăng Long, đã nghĩ việc đặt quan hệ ngoại giao với nhà Thanh để có hòa bình xây dựng thế nước. Trước ba quân ông nói: "Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc này, không phải là Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?"2 (Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, tr.184).


Những điều trên chứng tỏ, trong tư duy, trong tư tưởng của nhiều nhà lãnh đạo đất nước từ nhiều thế kỷ trước đây đã thường xuyên lo nghĩ đến vấn đề phòng thủ đất nước, rằng quốc phòng cần có phương lược tốt và phải có kế lâu dài. Chính vì đặc điểm nạn ngoại xâm là mối đe dọa thường xuyên và nguy hiểm nhất đối với sự sống còn của dân tộc, nên các triều đại, ngay cả khi vừa kháng chiến thành công đã nghĩ đến phát triển mọi mặt, làm sao để có cuộc sống hòa bình, cho dân giàu, nước mạnh, quốc phú, binh cường, đất nước cường thịnh để sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #52 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2022, 04:34:18 pm »

b) Phòng thủ đất nước (tức quốc phòng) là bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vương triều, bảo vệ tài nguyên đất nước

Nước Đại Việt xưa nổi tiếng là một xứ sở đẹp và giàu có. Sách Đảo di chí lược của Trung Quốc đời Nguyên chép: "Nước Giao Chỉ đất rộng người đông, khí hậu thường nóng, ruộng đất phần lớn phì nhiêu" và "đất Giao Chỉ sản nhiều vàng, bạc, đồng, chì, thiếc, ngà voi, lông chim trả, nhục quế, cau, v.v..."1 (Uông Đại Nguyên: Đảo di chí lược. Dẫn theo Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975, tr.26-28). Sách An Nam chí nguyên chép: "Đất Giao Chỉ dựa vào núi và phụ vào biển, có rất nhiều sản vật quý", "ở đó có ruộng đất màu mỡ, cấy lúa, trồng dâu và chăn nuôi đều thích nghi cả... Muối thì trắng như tuyết. Cánh chim trả thì đỏ tía đẹp mắt. Vàng thì sẵn ở châu Phú Lương và Quảng Uyên. Hạt trai sáng thì sẵn ở các xứ Tĩnh An và Vân Đồn. Còn san hô và đồi mồi thì sẵn trong biển..."2 (Cao Hùng Trưng: An Nam chí lược, Tlđd, tr.95). Sử cũ nước Việt Nam viết rằng: "Nước Đại Việt là nơi đô hội ở phương Nam, ruộng cấy lúa tốt, đất trồng dâu tốt, núi sẵn vàng bạc, biển sẵn châu ngọc. Người ở đâu đến sống, buôn bán cũng đều làm giàu được"3 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, t.I, tr.33). Một đất nước giàu đẹp, lại ở vị trí địa lý quan trọng thì không thể tránh khỏi cặp mắt nhòm ngó đầy tham vọng của những thế lực bành trướng xâm lược từ bên ngoài qua thế kỷ này đến thế kỷ khác. Kinh nghiệm lịch sử hơn một nghìn năm trước đã được sử gia Phan Huy Chú khái quát như sau: "Cái tiếng phong phú ấy đồn đi xa, nên Trung Quốc lúc nào cũng nghĩ cách chiếm lấy nước mình, đặt ra quận huyện để cai trị từ lâu rồi. Lúc chưa lấy được thì nghĩ cách để lấy, khi đã lấy được thì không chịu bỏ ra nữa"1 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.I, tr.33). Chính vì thế, các vị minh quân khi trị vì đất nước đều nghĩ đến việc quốc phòng. Vua Lý Anh Tông cũng đã dặn thái tử thay mình trị nước rằng: "Nước Việt Nam non sông gấm vóc, nhân tài tuấn kiệt, đất thiêng, châu ngọc, bảo bối... không thứ gì không có, nước khác không thể nào ví được. Con nên giữ nước cẩn thận"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1967, t.I, tr.257).


Sức mạnh quốc phòng thời Lý - Trần thể hiện cao độ trong những lần kháng chiến chống ngoại xâm. Sử gia Phan Huy Chú viết: "Cái chiến công dẹp quân Chiêm, phá quân Tống; cái oai hùng ba lần đánh bại quân Nguyên, cũng đủ cho biết binh lực của hai đời ấy cường thịnh thế nào"3 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, t.III, tr.5). Sự phục hưng đất hước được tiến hành mạnh mẽ từ thời Lý, do đó nhà Lý đã có đủ lực lượng, sức mạnh để "tiên phát chế nhân" và phòng thủ thành công ở sông Như Nguyệt. Đúng như Trần Quốc Tuấn đã nói: "Thời đó đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.79).


Vương triều Trần hết sức quan tâm chuẩn bị tiềm lực đất nước. Ngay từ năm 1282, tức là trước cuộc chiến tranh xâm lược của quân Mông - Nguyên nổ ra 3 năm, vương triều Trần đã lo phòng thủ, chuẩn bị kháng chiến. Vua Trần đã chủ động tổ chức Hội nghị Bình Than - hội nghị các vương hầu, quý tộc và tướng lĩnh cao cấp để bàn kế đánh hay phòng, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trong những năm tới. Trong bối cảnh ấy, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng đã ban hịch kêu gọi các tướng sĩ phải thường xuyên cảnh giác trước âm mưu của giặc. Ông nhắc nhở các tướng sĩ phải luôn đề phòng, chăm lo huấn luyện binh sĩ, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tông miếu xã tắc, mồ mả tổ tiên, bảo vệ thái ấp, bổng lộc, gia đình, vợ con và danh dự của người làm tướng.


Dưới thời nhà Lê, vấn đề quốc phòng bảo vệ Cương vực quốc gia tiếp tục được triều đình rất chú trọng. Nhà vua thường đi kinh lý các miền biên giới và biển đảo, vẽ bản đồ hình thế núi sông, xác định rõ cương vực quốc gia, những nơi hiểm yếu, chia đặt các đơn vị hành chính lộ - trấn - châu, cử quan cai quản, đặc biệt quan tâm đối với những vùng biên viễn. Chẳng hạn, năm 1469, vua Lê Thánh Tông cho ban hành Bản đồ Hồng Đức, cả nước chia thành 12 đạo thừa tuyên, ghi rõ biên giới, núi sông, biển đảo của nước Đại Việt. Đây là bằng chứng khẳng định chủ quyền biên giới, lãnh thổ quốc gia của Lê Thánh Tông và triều Lê. Nhà vua còn cắm mốc xác định chủ quyền lãnh thổ. Trước đó, năm 1435, Nguyễn Trãi soạn xong sách Dư địa chí, ghi chép rất công phu diện mạo núi sông, tên đất, tên làng, thổ nhưỡng, thủy văn, sản vật đặc trưng, phong tục tập quán từng vùng. Đó là những công trình, tác phẩm địa lý học đầu tiên góp phần khẳng định chủ quyền quốc gia, xác định cương vực lãnh thổ đất nước.


Vua Lê Thánh Tông là vị vua anh minh, tài trí, đưa nước Đại Việt đến giai đoạn thịnh trị nhất thời Lê Sơ. Nhà vua luôn thấu hiểu giá trị của từng tấc đất, ngọn núi, thước sông của ông cha để lại; xác định rõ trách nhiệm của bản thân và quần thần là phải giữ gìn biên cương, lãnh thổ quốc gia; thường xuyên nhắc nhở và chỉ cho những người làm nhiệm vụ bảo vệ và giải quyết những vấn đề biên giới thấy rõ vai trò, trách nhiệm, chức phận trong việc bảo toàn từng mảnh đất của tổ tiên để lại và yêu cầu phải bảo vệ đến cùng. Ông nói: "Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào lại vứt bỏ? Các ngươi phải cương quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay gian. Nếu các ngươi đem một thước núi, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.462).


Dưới thời phong kiến, "trung quân ái quốc" là quan điểm truyền thống. Yêu nước là yêu vua, bảo vệ đất nước cũng là bảo vệ vua và triều đình. Nói cách khác, tư tưởng quốc phòng trong thời phong kiến Việt Nam có hình thức tư tưởng trung quân ái quốc. Đây chính là đặc trưng lịch sử của tư tưởng quốc phòng: vì nhà nước phong kiến trực tiếp nằm dưới quyền lực tuyệt đối của vua và bộ máy quan lại, do đó nhà nước và cương vực quốc gia đều được định dạng đồng nhất với quyền lợi của triều đại. Đặc trưng lịch sử này có điểm tích cực: triều đình phong kiến luôn chú trọng bảo vệ cương vực quốc gia xét như bảo vệ lợi ích thiết thân của hoàng tộc. Tuy nhiên, như đã nói, trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, như dưới thời vua Tự Đức vào nửa cuối thế kỷ XIX, khi nhà vua ý thức quyền lợi hoàng tộc đặt lên trên quyền lợi quốc gia, thì những chính sách bảo vệ cương vực lại nhường chỗ cho những chính sách bảo vệ an ninh nội địa của Việt Nam. Trong giới hạn đó, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã quay sang hướng phản nghịch lại lợi ích dân tộc, dẫn đến thảm họa, mất nước. Tóm lại, điều quan trọng nhất trong tư tưởng quốc phòng của các quân vương, tướng lĩnh tiến bộ là ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Đó là tư tưởng tích cực, chủ động và kiên quyết bảo vệ chủ quyền, biên giới, lãnh thổ của nhà nước phong kiến tiến bộ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #53 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2022, 04:36:23 pm »

c) Muốn củng cố quốc phòng vững chắc phải chăm lo võ bị, xây dựng quân đội, chọn dùng tướng giỏi, thực hiện cố kết lòng người, khoan thư sức dân, tìm nguồn sức mạnh giữ nước trong dân

Quân đội luôn là công cụ để bảo vệ nhà nước, bảo vệ nền độc lập, tự chủ. Khi xây dựng nhà nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chú ý xây dựng quốc phòng, trong đó có thành Cổ Loa là trung tâm quân sự - chính trị và một đội quân cung nỏ lợi hại. Từ thế kỷ X, các nhà nước phong kiến dân tộc đều quan tâm đến xây dựng quân đội thường trực, bôi theo quan niệm: quân đội là lực lượng chủ chốt của nền quốc phòng, nhất là trước nguy cơ thường xuyên bị nạn ngoại bang đe dọa xâm lược. Truyền thống xây dựng trung tâm quân sự - chính trị kết hợp với hoạt động phát triển quân đội như vậy còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng chính trị nói chung và tư tưởng quân sự nói riêng ở Đại Việt mãi đến thế kỷ XV.


Vua Lý Nhân Tông lúc lâm chung đã căn dặn các đại thần, tướng lĩnh: "Nên sửa sang giáo mác để đề phòng việc không ngờ, chớ làm sai lời ta, dù nhắm mắt cũng không di hận"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.257). Ông cha ta thời Trần luôn coi "việc quân là việc thiết yếu của quốc gia" và "quân đội là một thiết bị giữ nước không thể thiếu được". Quan điểm của Trần Quốc Tuấn là xây dựng quân đội "cốt tinh không cốt đông"; chú ý nhân tố chính trị - tinh thần; trước những kẻ thù xảo quyệt như giặc phương Bắc thì theo ông "phải chọn dùng tướng giỏi", "có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được"2 (Di chúc năm 1300 của Trần Quốc Tuấn). Đầu thế kỷ XV, biết quân Minh sắp sang xâm lược, Hồ Quý Ly đã tỏ ý lo lắng của mình trước triều đình nhà Hồ: "Ta làm sao có được trăm vạn quân để chống giặc Bắc"3 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.201). Trong bài thơ Quan duyệt thủy trận của Nguyễn Trãi viết lúc hòa bình cũng có câu: "Yên rồi còn nghĩ chuyện binh nhung", thể hiện tư tưởng coi trọng việc binh của các nhà quân sự - chính trị thời quân chủ.


Nhiệm vụ giữ nước nặng nề buộc nhiều vị vua phải suy nghĩ, khiến triều đình phải chuẩn bị binh lực, vật lực, chuẩn bị cho chiến tranh. Các vị minh quân thường quan tâm đến việc quân cơ như: bạt dụng lương tướng, lập giảng võ đường, nhắc nhở các vương hầu, quý tộc, tướng lĩnh luyện tập võ nghệ, đọc binh thư, học binh pháp... Giữa thế kỷ XV, chính lúc đất nước đang thái bình thịnh trị, vua Lê Thánh Tông cũng nhắc nhở: "Phàm có nhà nước tất có võ bị" và ra chỉ dụ khuyên các tướng sĩ, binh lính, hãy năng luyện rèn võ nghệ, sẵn sàng đối phó với giặc ngoài.


Chính sách "ngụ binh ư nông" là chính sách xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội gắn liền với nông dân, nông nghiệp dưới các triều Lý, Trần và Lê Sơ. Đó là một chính sách quân sự, quốc phòng tiến bộ. Nhà nước ghi tên tất cả những đinh nam đến tuổi trưởng thành vào "sổ quân" để khi cần thì gọi nhập ngũ; nhà nước cũng chia quân thường trực thành nhiều phiên, thay nhau ở lại quân ngũ hoặc được về nhà sản xuất, để tự túc lương ăn. Phần lớn quân sĩ khi có việc thì gọi nhập ngũ, khi không có việc thì ở nhà làm ruộng. Đó cũng là một hình thức kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, giữa nông và binh thời quân chủ ở nước Việt Nam.


Các nhà nước phong kiến tiến bộ ở Việt Nam đều có tư tưởng thân dân. Đó là nguyên nhân thành công của họ trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trên thực tế, sự tham gia của nhân dân vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước càng khẳng định lòng tin của triều đình, của giới quý tộc về yai trò quyết định của dân chúng. Nhân dân được coi là cơ sở để tiến hành các cuộc chiến tranh giữ nước. Chính vì lẽ đó mà Trần Quốc Tuấn đã đề nghị vua Trần Nhân Tông nên thực hiện "chúng chí thành thành", xây dựng bức thành kiên cố bằng ý chí của nhân dân, và ông đã tổng kết kinh nghiệm thành công của các cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc. Ông cũng đã nói với vua Trần Anh Tông rằng: "Đời Đinh - Lê dùng được người hiền lương đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một lòng, lòng dân không chia, xây thành Bình Lỗ mà phá được giặc Tống, đó là một thời... Mới rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước góp sức, giặc tự bị bắt... vả lại, khoan thư sức dân đế làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.88). Như vậy, Trần Quốc Tuấn - nhà chính trị, quân sự nổi tiếng thế kỷ XIII, người anh hùng vĩ đại của dân tộc, người có công lao lớn nhất trong cả ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên đã nhận thức một cách sâu sắc vai trò của nhân dân trong sự nghiệp quốc phòng giữ nước. Ông luôn khẳng định rằng, cố kết được lòng dân là bức thành trì kiên cố nhất; việc tăng cường sức dân, tranh thủ sự đồng lòng của nhân dân là "kế sâu rễ bền gốc", là điều kiện tiên quyết bảo vệ nền độc lập dân tộc.


Vai trò quyết định của nhân dân đối với sự sống còn của một dân tộc là một chân lý mà những người có đầu óc sáng suốt đương thời không thể không thấy được. Và cũng chính vì thế mà các quý tộc, quan lại tiến bộ trong các nhà nước quân chủ đều vững lòng tin vào sự nghiệp đánh giặc mỗi khi phát động được toàn dân tham gia. Trước sự hăm dọa láo xược của vua Nguyên rằng, sẽ tiếp tục một lần nữa tiến quân đập nát thành Thăng Long, sứ thần Đại Việt lúc đó là Đào Tử Kỳ đã hiên ngang nói: "Thành Thăng Long kia chỉ là vật nhỏ mọn đề phòng kẻ trộm cướp vặt, phá tan nó có khó gì. Còn như để chống lại kẻ thù từ bên ngoài đến chực ăn cướp nước chúng tôi thì chúng tôi đã có một tòa thành vững vàng như núi không kẻ nào phá được, đó là sức mạnh của nhân dân chúng tôi"1 (Long thành giật sử. Dẫn theo Phạm Ngọc Phụng: Tổ tiên ta đánh giặc, Nxb. Quân giải phóng, Sài Gòn, 1975, tr.175). Như vậy, trên vũ đài tư tưởng của giai cấp phong kiến trong giai đoạn tiến bộ, nhân dân từng được nhìn nhận như một lực lượng xã hội quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Tư tưởng quốc phòng "dựa vào dân" thời bấy giờ chứa đựng nhiều yếu tố tích cực, tiến bộ. Và chính nhờ những yếu tố tích cực, tiến bộ đó mà các nhà nước phong kiến dân tộc đã thu được những thành quả lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.


Nhìn lại lịch sử Việt Nam, có thể thấy Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là thủ lĩnh quân sự đầu tiên đã tổng kết được tư tưởng xây dựng quân đội dựa trên mối quan hệ liên hợp tướng - quân - dân. Đây cũng là tư tưởng nền tảng và là mấu chốt quan trọng nhất trong tư tưởng quân sự Việt Nam về lực lượng quân sự. Tư tưởng quân sự có tính thân dân sâu sắc này cũng là biểu hiện đặc trưng của tư tưởng thân dân thời Trần. Từ tư tưởng đó, nền quân sự Việt Nam có một bước chuyển biến rất lớn, dần phát triển vượt lên tư tưởng quân sự đặt trọng tâm vào hoạt động xây đắp các trung tâm quân sự lớn. Tuy vậy, cũng có thể thấy rằng, trong lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam thời phong kiến có sự phát triển song song hai luồng tư tưởng quân sự như vậy: một hệ thống tư tưởng coi trọng sự ủng hộ chính trị của nhân dân, đề cao một nền quân sự kết hợp hài hòa với sự phát triển của đất nước cùng đời sông nhân dân; hệ thống tư tưởng quân sự còn lại chủ yếu hướng đến quá trình chính quy hóa lực lượng quân sự, đi kèm với tư tưởng xây dựng một nhà nước trung ương mạnh, pháp luật chặt chẽ, có khả năng kiểm soát toàn bộ an ninh quốc gia và quốc phòng. Hai tư tưởng này không phải lúc nào cũng mâu thuẫn với nhau, song có ảnh hưởng rất lớn tới trọng tâm của chính sách phát triển quốc gia.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #54 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2022, 04:39:00 pm »

2. Tư tưởng quốc phòng của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Sau cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền dân chủ cộng hòa non trẻ đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng. Trong bản Tuyên ngôn độc lập công bố trước quốc dân ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vũng quyền tự do, độc lập ấy"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.4). Sự nghiệp quốc phòng từ đó được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sát sao với một hệ thống quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, được hình thành và từng bước hoàn chỉnh trong đấu tranh chống đế quốc và các thế lực phản động.


Hệ thống quan điểm - tư tưởng đó là xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại, liên minh phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, đồng thời kế thừa và phát huy tư tưởng, truyền thống quân sự, quốc phòng của dân tộc.


a) Quan điểm quốc phòng toàn dân

Quan điểm quốc phòng toàn dân phản ánh nét độc đáo về chủ trương và biện pháp xây dựng nền quốc phòng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là quan điểm được đúc kết từ lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, một dân tộc nhỏ luôn phải đương đầu với kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn mình. Cuộc đấu tranh đó sở dĩ giành được thắng lợi vẻ vang là do sức mạnh của tinh thần dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn và nền tảng đại đoàn kết toàn dân của nhân dân Việt Nam.


Trong lịch sử đấu tranh giữ nước, các thế hệ người Việt rất coi trọng xây dựng tiềm lực giữ nước với những chính sách tiến bộ như "tận dân vi binh"; "bách tinh giai binh", "toàn dân là lính", "dĩ dân vi bản", "cả nước chung sức", "cử quốc nghênh địch"... nên các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ... đã duy trì được nền độc lập lâu bền, đánh thắng nhiều kẻ thù hung bạo. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét: "Thời nhà Trần, nhân dân ai cũng là binh, cho nên mới phá được giặc dữ. Thế nước mạnh là nhờ vậy’’. Lịch sử cũng để lại những bài học mất nước cay đắng của một số triều đại xa dân, không huy động được đông đảo dân chúng đứng lên đánh giặc giữ nước, như nhà Hồ, nhà Nguyễn.


Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp thu truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, kết hợp sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử; từ đó, Đảng luôn coi quan điểm quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân là những nội dung cơ bản của lý luận quân sự Việt Nam, được thực hiện triệt để trong chiến tranh cách mạng nói chung cũng như trong công cuộc xây dựng quốc phòng nói riêng..


Sau Cách mạng Thángg Tám thắng lợi, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đoàn kết để giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương, nền quốc phòng của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải do toàn dân xây dựng và dựa vào sức mạnh mọi mặt của toàn dân. Chỉ khi nào động viên, tổ chức được đông đảo quần chúng tham gia thì sự nghiệp bảo vệ đất nước mới thật sự vững chắc. Khi quân Pháp vừa nổ súng xâm lược ở Nam Bộ (23-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc. Khi cuộc chiến tranh với thực dân Pháp không thể tránh khỏi, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc từ đêm 19-12-1946. Quan điểm tư tưởng dựa vào dân, tin ở sức mạnh của toàn dân đã chỉ đạo xuyên suốt mọi hoạt động chiến đấu, xây dựng, bảo vệ hậu phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi (7-1954), miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, công cuộc xây dựng và củng cố quốc phòng bắt đầu tiến hành có quy củ, trên quy mô của một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Tuy nhiên, miền Nam vẫn nằm trong sự cai quản của đế quốc Mỹ và tay sai. Từ đây, nhân dân Việt Nam bắt đầu một cuộc đấu tranh mới, lâu dài và gian khổ chống đế quốc Mỹ và chính quyền phản động tay sai ở miền Nam, nhằm thống nhất đất nước, hoàn thành độc lập dân tộc, dân chủ trên phạm vi toàn quốc. Trong cuộc đấu tranh lâu dài đó, Trung ương Đảng xác định miền Bắc là cái nền, cái gốc của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và đề ra chủ trương phải ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, có tiềm lực mọi mặt vững mạnh đế giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh đến thắng lợi hoàn toàn. Vì vậy, việc "xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh, củng cố quốc phòng trong hòa bình là một trong những công tác chủ yếu để tăng cường lực lượng cách mạng. Quan điểm quốc phòng toàn dân trong giai đoạn đấu tranh chống đế quốc Mỹ được khẳng định đầy đủ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương Đảng họp tháng 3-1957. Tư tưởng chỉ đạo trong Nghị quyết là "tích cực xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng", xác định đây là sự nghiệp to lớn, có quan hệ trực tiếp đến an ninh của quốc gia, độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, đến đời sống hòa bình, hạnh phúc của nhân dân và tiền đồ phát triển của cách mạng. Cho nên, đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Quan điểm toàn dân làm quốc phòng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Chế độ này là của ta, phải bảo vệ chế độ của ta. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là của ta, phải bảo vệ Nhà nước của ta. Ai xâm phạm đến Nhà nước của ta, đến chế độ ta, ta phải chống lại họ, bất cứ bằng lời nói hay việc làm"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.I, tr.296).


Cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm của nhân dân Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là khoa học quân sự trên thế giới đã có những bước tiến vượt bậc. Triệt để tận dụng những thành tựu mới - sản phẩm của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, nhiều nước trên thế giới chủ trương xây dựng nền quốc phòng đồng nghĩa với việc tập trung xây dựng quân đội chính quy tinh nhuệ và hiện đại. Trong khi đó, trên cơ sở quán triệt nhiệm vụ cách mạng, đặc biệt là yêu cầu của cuộc chiến tranh nhân dân chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Trung ương Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định: Sức mạnh bảo vệ đất nước vững chắc nhất là sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là thành phần chủ yếu, mà quân đội cùng với công an là lực lượng nòng cốt. Nền quốc phòng đó được hội tụ bởi sức mạnh tổng hợp của mọi người dân Việt Nam, của chế độ mới, của nền văn hóa và kinh tế mới. Cơ sở nền tảng của nền quốc phòng toàn dân chính là sức mạnh của chế độ dân chủ nhân dân. Một nền quốc phòng thực sự do dân, vì dân với nội dung và ý nghĩa đầy đủ nhất, phát triển cao nhất, được vận dụng trong một chế độ mới sẽ cho phép động viên một cách rộng rãi, tổ chức một cách khoa học mọi lực lượng của toàn dân, của cả nước, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, tiến hành kháng chiến thắng lợi. Tự lực, tự cường - độc lập, tự chủ kết hợp với tranh thủ sự ủng hộ quốc tế là những đặc điểm nổi bật trong tư tưởng xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở Việt Nam. Đó chính là những điểm khác biệt căn bản giữa tư tưởng xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở Việt Nam so với tư tưởng xây dựng quốc phòng của các nước khác; giữa tư tưởng xây dựng quốc phòng thời đại Hồ Chí Minh so với tư tưởng quốc phòng trong các triều đại phong kiến trước đây. Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được tạo thành bởi nhiều yếu tố, nhiều mặt, đó là sức mạnh tổng hợp, được hình thành dưới sự lãnh đạo của Đảng, được điều hành bởi bộ máy tổ chức, quản lý của Nhà nước và sự tham gia tự nguyện của nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #55 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2022, 04:41:15 pm »

b) Quan điểm quốc phòng toàn diện

Quan điểm quốc phòng toàn diện bao gồm xây dựng và liên kết các mặt hoạt động về: chính trị, tư tưởng, kinh tế, quân sự, văn hóa, ngoại giao, nhằm nâng cao khả năng quốc phòng để đất nước có hòa bình, ổn định mà xây dựng. Tư tưởng quân sự Việt Nam từ trong truyền thống cũng nhận thức được tính toàn diện của quốc phòng nên đã có những đúc kết sâu sắc truyền lại cho các thế hệ mai sau như: "Dân giàu nước mạnh", "Quốc phú binh cường", "Quốc gia tính lực", "Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước góp sức" thì giữ được nước, v.v...


Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, công cuộc xây dựng nền quốc phòng được tiến hành với quy mô rộng lớn, gắn liền với mọi hoạt động của xã hội. Ngay trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy". Quyết tâm đó thể hiện quan điểm quốc phòng toàn diện trong thời kỳ lịch sử mới.


Về chính trị, muốn xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh thì phải không ngừng hoàn thiện vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường sự quản lý của Nhà nước, không ngừng củng cố sự thống nhất về chính trị - tư tưởng trong nhân dân. Điều quan trọng nhất là giáo dục và phát huy lòng yêu nước của nhân dân, đoàn kết được mọi giai tầng xã hội vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, thì dù "địch chiếm trời, chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam"1 (Văn kiện quân sự của Đảng, Sđd, t.3, tr.15). Dựa vào lòng yêu nước, đồng thời với việc ban hành các chính sách xã hội đúng đắn, Đảng và Nhà nước đã tập hợp được các tầng lớp nhân dân, mọi lực lượng yêu chuộng hòa bình, tiến bộ để thực hiện thắng lợi chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công".


Trong kháng chiến, cần làm cho nhân dân thấy rõ trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đi đôi với việc tiếp tục nêu cao ý thức cứu nước, Đảng đề cao công tác giáo dục ý thức giữ nước cho toàn dân, liên tục củng cố mặt trận chính trị. Trên cơ sở đó, Đảng chủ trương động viên toàn dân tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng vững mạnh.


Về kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn coi kinh tế là cơ sở vật chất của quốc phòng. Vì thế, khi đất nước có chiến tranh cũng như trong hòa bình, nhiệm vụ xây dựng kinh tế không bao giờ lơi lỏng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Trung ương Đảng ra Chỉ thị kháng chiến kiến quốc, vừa phải đánh giặc vừa phải ra sức tăng gia sản xuất đế cung cấp cho tiền tuyến và cải thiện đời sống nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Thực túc thì binh cường... chiến sĩ trước mặt trận thi đua giết giặc lập công thì đồng bào ở hậu phương phải thi đua tăng gia sản xuất. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Việt Nam có miền Bắc hoàn toàn giải phóng thì nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, là cơ sở để củng cố miền Bắc vững chắc, làm tốt vai trò là căn cứ địa cho cách mạng cả nước. Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở miền Bắc được kết hợp chặt chẽ với việc nâng cao sức mạnh quốc phòng và ngược lại, quốc phòng được củng cố sẽ tạo điều kiện ổn định để xây dựng kinh tế.


Cho rằng kinh tế là cơ sở cho quốc phòng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi chiến tranh là một hiện tượng xã hội căn bản phụ thuộc vào kinh tế và đánh giá đúng nhân tố kinh tế trong việc xây dựng sức mạnh quân sự của đất nước, như Ph.Ăngghen đã từng viết trong tác phẩm Chống Đuyrinh rằng: Không có gì lại phụ thuộc vào tiền đề kinh tế hơn là chính ngay quân đội và hạm đội. Lênin cũng cho rằng: Phải chuẩn bị chiến tranh một cách lâu dài, nghiêm túc bắt đầu từ sự phát triển kinh tế trong nước. Xây dựng, phát triển kinh tế của đất nước là cơ sở vật chất cho sức mạnh quốc phòng. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng là một quy luật trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Viêt Nam.


Về quân sự, sức mạnh quân sự luôn có vị trí quan trọng, trực tiếp quyết định sức mạnh quốc phòng trong cả thời bình cũng như thời chiến. Sức mạnh quân sự của Việt Nam là sức mạnh toàn dân đánh giặc, có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, dựa trên sự vững mạnh toàn diện của chế độ xã hội mới.


Tư tưởng quân sự thời phong kiến luôn coi trọng xây dựng lực lượng quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang nhiều thứ quân, gồm quân triều đình, quân địa phương các châu lộ và dân binh làng bản; trong đó quân triều đình là lực lượng nòng cốt, chủ yếu. Nhà nước phong kiến thi hành chính sách "ngụ binh ư nông", gắn kinh tế với quốc phòng, tạo ra một lực lượng quân đội thường trực có số lượng hợp lý, một lực lượng dự bị đông đảo, bảo đảm yêu cầu vừa sản xuất vừa canh phòng giữ nước.


Trong thời hiện đại, nhiệm vụ xây dựng lực lượng quân sự bao gồm nhiệm vụ tích cực xúc tiến vũ trang toàn dân, công tác quân sự hóa toàn dân, thực hiện vũ trang quần chúng cách mạng một cách rộng rãi đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh, chính quy, từng bước hiện đại. Trong xây dựng quốc phòng, Đảng và Nhà nước Việt Nam ta coi xây dựng lực lượng vũ trang là chủ yếu, trong đó nòng cốt là quân đội và công an, kết hợp quốc phòng với an ninh.


Khi đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Quân sự là việc chủ chốt trong kháng chiến" và kêu gọi phải "đẩy tới quân sự, kháng chiến trên hết, quân sự trên hết"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.551). Thời kỳ này, tư tưởng quốc phòng gần như đồng nhất với tư tưởng quân sự. Trong xây dựng quân sự thì việc xây dựng lực lượng vũ trang có tầm quan trọng nhất. Nghị quyết Trung ương lần thứ 12 khóa II (3-1957) xác định: "Phải tích cực xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng... tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy hiện đại"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.186-287). Cùng với xây dựng quân đội còn phải chú ý xây dựng lực lượng dự bị hùng hậu mà vấn đề căn bản của việc xây dựng lực lượng hậu bị mạnh là động viên toàn dân tích cực thi hành nghĩa vụ quân sự.


Để bảo đảm cho đất nước có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, đủ sức đập tan mọi âm mưu và hành động chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc, trước hết phải nâng cao tinh thần cảnh giác và trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội và nhân dân. Hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ chung cũng như phòng thủ khu vực, phù hợp với nhiệm vụ quân sự trước mắt và lâu dài. Kế hoạch đó cần xác định tầm quan trọng về quốc phòng của mỗi địa bàn chiến lược, tập trung lực lượng đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố khả năng phòng thủ về mọi mặt ở những vùng đặc biệt quan trọng.


Căn cứ vào kế hoạch phòng thủ và xuất phát đầy đủ từ yêu cầu kết hợp củng cố quốc phòng với xây dựng kinh tế mà xác định phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang; chuẩn bị kế hoạch động viên thời chiến và đề ra những yêu cầu cụ thể đối với các ngành khác ở trung ương cũng như địa phương trong việc phục vụ quốc phòng trước mắt và lâu dài.


Về văn hóa - xã hội, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân còn quan hệ mật thiết với sự nghiệp phát triển văn hóa giáo dục, phát triển khoa học - kỹ thuật, phát triển y tế, thể dục thể thao... Văn hóa - xã hội luôn là một nhân tố quan trọng của sức mạnh quốc phòng. Bởi vì "xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Chính con người có giác ngộ chính trị, có kiến thức, có sức khỏe sẽ là động lực quan trọng để xây dựng và củng cố quốc phòng. Đấu tranh chống văn hóa độc hại của đế quốc, phong kiến, bảo vệ và phát huy văn hóa tốt đẹp của dân tộc cũng là một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, liên quan mật thiết đến quốc phòng.


Tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, quân thù thường sử dụng tất cả các thủ đoạn, về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật quân sự... Chúng tìm cách phá hoại an ninh hậu phương của Việt Nam. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam cũng chứng minh cho thấy giặc ngoài bao giờ cũng cấu kết với thù trong. Chính vì vậy, để xây dựng được một nền quốc phòng toàn dân vững mạnh thì cần kết hợp cả quốc phòng với an ninh. An ninh trật tự xã hội có được bảo đảm, chính trị có ổn định, quốc phòng mới có điều kiện củng cố và phát triển; ngược lại, nền quốc phòng có vững mạnh mới đủ sức răn đe các thế lực hiếu chiến, các lực lượng chống đối, góp phần ổn định chính trị và giữ vững anh ninh quốc gia.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #56 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2022, 04:42:14 pm »

c) Quan điểm quốc phòng hiện đại

Trước sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thấy nhất thiết phải từng bước xây dựng một nền quốc phòng hiện đại. Muốn vậy, phải cố gắng xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân, để có cơ sở vật chất mà hiện đại hóa quốc phòng. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế đất nước chưa phát triển, việc hiện đại hóa nền quốc phòng, đặc biệt là hiện đại hóa trang bị, vũ khí cho lực lượng vũ trang ta phải dựa một phần quan trọng vào sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, trước hết là Liên Xô và Trung Quốc. Do đó, Trung ương Đảng chủ trương hiện đại hóa quốc phòng phải tiến hành từng bước, một mặt đề cao tinh thần tự lực, tự cường, đồng thời phải biết tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao yếu tố con người, cho rằng: "Người trước súng sau". Quan điểm quốc phòng hiện đại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là không ỷ lại vào trang bị vũ khí hiện đại mà quan trọng nhất là phải đào tạo được đội ngũ cán bộ có giác ngộ chính trị, có kiến thức khoa học, có năng lực vận dụng sáng tạo để làm chủ vũ khí, trang bị hiện đại.


d) Quan điểm quốc phòng liên minh

Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn và khôn khéo nhằm góp phần tích cực nâng cao sức mạnh quốc phòng. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là bài học lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam để giành thắng lợi trước kẻ thù xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cách mạng Việt Nam "là bộ phận hợp thành không thể tách rời của cuộc đấu tranh của quần chúng lao động toàn thế giới chống bọn đế quốc áp bức"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.515). Chúng ta chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc mình, đồng thời phải làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Tuy nhiên, muốn giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế thì mỗi dân tộc trước hết phải nêu cao tinh thần tự lực tự cường, độc lập tự chủ của mình. Rõ ràng "muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.293) và mặt khác "giúp bạn củng là tự giúp mình".


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, bằng đường lối ngoại giao đúng đắn, Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân tiến bộ thế giới. Trên bán đảo Đông Dương, do cùng chung cảnh ngộ bị đế quốc xâm lược và cùng chung kẻ thù, nên nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã sớm hình thành khối liên minh chiến đấu Việt - Miên - Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp và sau đó trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Khối liên minh ấy đã phát huy tác dụng hỗ trợ lẫn nhau; đó chính là một trong những nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến của mỗi nước.


Công cuộc củng cố quốc phòng ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà của nhân dân Việt Nam đã được Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác viện trợ cả về kinh tế và quân sự. Có sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, lại có sự giúp đỡ của quốc tế, nền quốc phòng Việt Nam đã phát huy được tối đa sức mạnh của mình, đã bảo vệ được miền Bắc, đánh thắng giặc Mỹ ở miền Nam, hoàn thành sự nghiệp thống nhất nước nhà.


Nhìn lại lịch sử tư tưởng quốc phòng Việt Nam, ta có thể thấy rõ một tuyến phát triển liên tục của ba nội dung chính: Một là, mục tiêu của nền quốc phòng là bảo vệ nền hòa bình, độc lập dân tộc, tự chủ quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Hai là, phương tiện của nền quốc phòng là lực lượng quân sự được chính quy hóa từng bước, kết hợp với sự ủng hộ chính trị của nhân dân, phát triển nền quốc phòng lên quốc phòng toàn dân, với xu hướng hiện đại, toàn diện. Ba là, bản chất của nền quốc phòng là hoạt động quân sự nằm trong tổng thể các hoạt động kinh tế - chính trị của đất nước, do đó cần kết hợp quốc phòng với an ninh - vì thế, xu hướng của nền quốc phòng luôn được đặt trong bối cảnh phát triển đường lối chính trị của các lực lượng chính trị đại diện cho quốc gia - dân tộc.


Như vậy, trong thời phong kiến cũng như trong thời hiện đại, tư tưởng về nền quốc phòng, hay tư tưởng giữ nước, không bao giờ tách rời với tư tưởng về ổn định và phát triển kinh tế - chính trị - xã hội, hay tư tưởng dựng nước. Thực vậy, bản chất của nền quốc phòng, như đã nói ở Chương I, xét đến cùng, là một biểu hiện của tinh thần dân tộc, của chủ nghĩa yêu nước và của truyền thống quân sự. Trải qua lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước lâu dài và nhiều thử thách, tư tưởng quốc phòng đã đạt đến sự phát triển đỉnh cao trong thời hiện đại với đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự phát triển ấy gắn liền với hai chiến công lẫy lừng của lịch sử quân sự thế giới nói chung và lịch sử quân sự Việt Nam nói riêng, trước hai thế lực quân sự hàng đầu của thời đại: thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.


Nắm vững luận điểm của Lênin về "bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc", Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa luôn luôn chủ trương quốc phòng phải gắn liên với an ninh, quốc phòng không chỉ bảo vệ Tố quốc mà còn phải bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xác định, quốc phòng và an ninh là hai mặt hoạt động quan trọng, có quan hệ chặt chẽ với nhau do quân đội và công an là lực lượng nòng cốt thực hiện, nhằm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #57 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2022, 05:46:36 pm »

Chương V
TƯ TƯỞNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG


I- XÁC ĐỊNH VAI TRÒ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TRONG TIẾN TRÌNH ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

Trong lịch sử hàng nghìn năm, dân tộc Việt Nam thường xuyên phải đương đầu với nhiều thế lực xâm lược. Chỉ tính từ thế kỷ III trước Công nguyên, tức là từ cuộc chiến đấu chống quân xâm lược nhà Tần đến nay, trải qua 2.300 năm, người Việt Nam đã phải cầm vũ khí chiến đấu chống quân thù tới 12 thế kỷ. Để chiến thắng những kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự to lớn, dân tộc Việt Nam đã phát huy cao độ ý chí kiên cường, trí tuệ tài ba và năng lực sáng tạo, thực hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, cả nước đánh giặc. Từ thực tiễn phong phú trong quá trình đấu tranh giữ nước, các nhà lãnh đạo quốc gia qua các triều đại trước đây cho đến ngày nay đã có nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh để làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.


Theo nhiều nguồn tài liệu, từ thời An Dương Vương, lực lượng vũ trang đã được xây dựng khá mạnh và được trang bị vũ khí khá tốt. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do tư tưởng chỉ đạo về chính trị - ngoại giao của An Dương Vương, "giặc vào sát cõi mà chưa từng sai một viên tướng, ra một đạo quân. Đợi đến lúc giặc vào sát quốc đô, vẫn còn muốn giải quyết cơ mưu trong chốc lát"1 (Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr.51), nên cuộc kháng chiến chống quân xâm lược thất bại, nước Âu Lạc bị thôn tính và sáp nhập vào đất Nam Việt của Triệu Đà (179 trước Công nguyên). Từ đó, nhân dân bị đọa đày, bị áp bức nặng nề, nhưng cũng từ đó, ý thức dân tộc của người Việt trỗi dậy mạnh mẽ.


Suốt hơn 10 thế kỷ kiên cường đấu tranh chống ách đô hộ phương Bắc, đầu thế kỷ X, nước Đại Việt đã giành được độc lập. Từ bài học hiểm họa xâm lăng trước đó và nhất là trước các mưu đồ khôi phục lại nền đô hộ của các thế lực phong kiến phương Bắc, các triều đại nối tiếp nhau đều rất chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Vua Lý Nhân Tông nhắc nhở các đại thần rằng: "Nên sửa sang võ bị để đề phòng việc không ngờ"2 (Đại việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.296). Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương xây dựng "đội quân nhân nghĩa" và cho rằng: "Binh là cốt để bảo vệ dân, chứ không làm hại cho dân"1 (Nguyễn Văn Nguyên: Những vấn đề văn bản học "Quân trung từ mệnh" của Nguyễn Trãi, Sđd, tr.349). Khi đất nước đã được giải phóng khỏi ách quân xâm lược nhà Minh, Lê Thái Tổ vẫn đặc biệt quan tâm đến củng cố quân sự và đã ra lệnh: "Đại thần văn võ, trăm quan các ngươi hãy chăm đến việc nông trang, chỉnh đốn quân ngũ, sửa sang chiến cụ, thuyền bè"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.302). Nguyễn Trãi trong bài thơ Quan duyệt thủy trận đã viết: "Yên rồi còn nghĩ chuyện binh nhung"3 (Nguyễn Trãi: Toàn tập, Sđd, tr.289).


Dưới các đời vua kế tiếp, vai trò của lực lượng vũ trang trong sự nghiệp bảo vệ quốc gia tiếp tục được khẳng định. Một tháng sau khi lên ngôi (7-1460), trong sắc chỉ gửi cho 5 đạo quân và các phủ, trấn, Lê Thánh Tông nhấn mạnh: "Có quốc gia là phải có võ bị"4 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.390). Ông cho rằng, một trong những nhiệm vụ của người làm vua là phải: "Chăm lo hỏi han việc võ bị, coi trọng tướng quyền" (Bài thơ ngự chế: Đạo làm vua)5 (Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr.215). Từ quan điểm đó, suốt 38 năm trị vì, Lê Thánh Tông đã xuống chiếu 37 chỉ, dụ, đề cập đến vấn đề quốc phòng, trong đó có 28 chỉ, dụ, về xây dựng, tổ chức quân đội. Để giữ nghiêm việc quân, Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) có chương Quân Chính gồm 48 điều quy định các việc trong quân đội. Có thể thấy, dọc theo lịch sử Việt Nam thời trung đại, tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang chủ yếu phát triển theo hai nội dung: Một là, liên tục bồi dưỡng và mở rộng về lượng và chất của quân đội chính quy; hai là, gắn chặt công tác bồi dưỡng lực lượng vũ trang với hoạt động xây dựng quốc gia và nhiệm vụ quốc phòng.


Tiếp thu di sản quân sự của dân tộc, thấm nhuần quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang trong đấu tranh cách mạng, kết hợp với những kinh nghiệm đấu tranh phong phú trong quá trình đi tìm đường cứu nước, nên từ rất sớm, Nguyễn Ái Quốc đã xác định chính xác vai trò của lực lượng vũ trang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Năm 1927, cùng với tác phẩm Đường cách mệnh ra đời, Nguyễn Ái Quốc cho xuất bản bán nguyệt san Lính cách mệnh. Bán nguyệt san Lính cách mệnh khẳng định: "Cách mệnh vô luận ở về thời đại nào, theo về hoàn cảnh nào, muốn cho thành công thì nhất định phải dùng vũ lực; bởi vì thống trị giai cấp nó đè nén mình, nó hà hiếp mình, là nó cậy nó có vũ lực của nó, nên bây giờ cách mệnh cũng phải có vũ lực của cách mệnh để đánh cho bọn giai cấp thất thế đi, hết nọc đi, thì cách mệnh mới thành công được"1 (Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.412).


Từ quan điểm đó, tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam (1930), Chánh cương vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo chủ trương: "Tổ chức ra quân đội công nông". Mặc dù lúc đó chưa hội đủ điều kiện để có thể tổ chức quân đội công nông, nhưng tư tưởng đó có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng xây dựng lực lượng vũ trang - một trong hai lực lượng (chính trị, quân sự) cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng (10-1930) tiếp tục khẳng định sự cần thiết phải xây dựng lực lượng vũ trang và nhấn mạnh rằng: "Ngay từ bây giờ Đảng phải tổ chức bộ quân sự của Đảng"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.116) nhằm thực hiện các nhiệm vụ do Đảng đề ra.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #58 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2022, 05:47:53 pm »

Sau khi Đảng ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng thống nhất trong cả nước, phong trào cách mạng của quần chúng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, từ trong phong trào cũng bộc lộ những thiết sót và đã xuất hiện quan điểm sai lầm đối với việc tổ chức các đội tự vệ của một số cấp ủy địa phương. Có ý kiến cho rằng, không nên tổ chức các đội tự vệ, vì không có vũ khí. Nếu tình thế buộc phải tổ chức, thì chỉ tổ chức tự vệ tạm thời trong từng cuộc đấu tranh rồi giải tán đi. Bên cạnh các quan điểm "hữu khuynh" đó, lại xuất hiện quan điểm "tả khuynh" cho rằng cần phải quyên tiền để mua vũ khí trang bị cho các đội tự vệ, từ đó chuyển lên đấu tranh vũ trang, mặc dù chưa có đủ điều kiện. Trong thực tiễn, đã có một số địa phương giải tán đội tự vệ. Trước tình hình đó, cuối năm 1930, Nguyễn Ái Quốc viết Báo cáo về những nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Quốc tế Cộng sản. Trong báo cáo, Nguyễn Ái Quốc khẳng định ba quan điểm chủ yếu: Thứ nhất, phải nhận thức đúng tầm quan trọng của đội tự vệ. Theo Nguyễn Ái Quốc, "tổ chức tự vệ của nông dân rất quan trọng trong các cuộc đấu tranh ở thôn xã"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.566). Thứ hai, không những cần phải tổ chức mà còn phải phát triển và huấn luyện đội tự vệ. Thứ ba, hoạt động của đội tự vệ là nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Gắn liền với các quan điểm đó, Nguyễn Ái Quốc phê bình việc giải tán đội tự vệ ở một số địa phương trong tỉnh Thái Bình và cho rằng: "Giải tán tự vệ là sai lầm".


Về sau, Nguyễn Ái Quốc nêu lên chân lý giản đơn và thiết thực rằng: "Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải đánh phátxít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.329). Lực lượng vũ trang trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám phát triển nhanh chóng, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, hỗ trợ đấu tranh chính trị, chế áp lực lượng đối phương ở những địa bàn xung yếu để khởi nghĩa nổ ra thắng lợi trên phạm vi cả nước.


Lực lượng vũ trang, nòng cốt là quân đội nhân dân không chỉ có vai trò to lớn trong khởi nghĩa vũ trang, mà còn có vai trò quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ mọi thành quả cách mạng. Chính vì thế mà ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mặc dù bộn bề công việc đối nội, đối ngoại, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn hết sức lưu tâm đến việc xây dựng lực lượng vũ trang, đã thành lập Bộ Tổng tham mưu, Cục Chính trị, Phòng Quân giới (9-1945). Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Trung ương Đảng ra nhiều nghị quyết đề cập đến việc phát triển lực lượng vũ trang. Đặc biệt, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (3-1957), Đảng chủ trương: "Tích cực xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hóa và hiện đại hóa''1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.18, tr.287). Quan điểm cơ bản đó của Đảng phản ánh quy luật phát triển của quân đội, không chỉ soi sáng cho thực tiễn xây dựng quân đội nhân dân lúc đó mà còn soi sáng cho các giai đoạn sau này trong công cuộc xây dựng lực lượng chiến đấu sắc bén của cách mạng. Tiếp đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam tiếp tục khẳng định rõ thêm vai trò lực lượng vũ trang trong đấu tranh cách mạng: Xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang nhân dân là một trong những điều kiện quan trọng của cách mạng nước Việt Nam để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ và phát triển những thành quả của cách mạng.


Việc xác định vai trò của lực lượng vũ trang vô cùng hệ trọng. Chính vì thế mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhiều lần đề cập đến vấn đề này. V.I.Lênin khẳng định, muốn cứu thoát những người lao động khỏi ách áp bức địa chủ và tư bản, muốn cứu thoát họ khỏi sự phục hồi của chính quyền địa chủ và tư bản, tất phải xây dựng một đạo hồng quân. Từ tư tưởng đó, V.I.Lênin đã ký Sắc lệnh thành lập Hồng quân Xôviết (28-1-1918) và Hải quân công nông (11-2-1918). Khi ký sắc lệnh đó, một lần nữa Lênin nhấn mạnh: Muốn bảo vệ được chính quyền công nông để chống bọn cá mập, tức bọn địa chủ và tư bản, chúng ta phải có hồng quân mạnh mẽ. Chúng ta đã chứng tỏ, bằng hành động chứ không phải bằng lời nói, rằng chúng ta có khả năng thành lập được Hồng quân... Có Hồng quân mạnh, chúng ta sẽ vô địch, ở phương Đông, trong bối cảnh chung bị chủ nghĩa đế quốc xâu xé, xâm lược và thống trị tàn bạo lại xuất hiện hai khuynh hướng: Khuynh hướng "bất bạo động", tức là không dùng, không xem bạo lực là phương thức đấu tranh và khuynh hướng "súng đẻ ra chính quyền", "súng đẻ ra hết thảy"; từ đó xem nhẹ việc xây dựng lực lượng vũ trang hoặc đề cao quá mức lực lượng đó mà không thấy vai trò của lực lượng chính trị trong khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Điều đó cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa to lớn khi mà các nhà lãnh đạo quốc gia ở Việt Nam trong các triều đại phong kiến trước đây cũng như sau này Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định đúng mức vai trò của lực lượng vũ trang, tạo cơ sở cho các cấp và quần chúng quyết tâm và sáng tạo trong thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang, ủng hộ và giúp đỡ lực lượng đó không ngừng phát triển làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, chủ quyền quốc gia.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #59 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2022, 05:49:38 pm »

II- VŨ TRANG TOÀN DÂN, XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TỪ NHÂN DÂN

Vũ trang toàn dân, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang từ nhân dân là một trong những nội dung cơ bản trong tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang của dân tộc Việt Nam. Hình thành nên truyền thống quân sự trong xây dựng lực lượng vũ trang như vậy là do các cuộc kháng chiến của Việt Nam là chính nghĩa, nhân dân có lòng yêu nước nồng nàn; các nhà lãnh đạo quốc gia trong nhiều thời kỳ lịch sử đã biết quy tụ sức mạnh toàn dân trên cơ sở chăm lo cho sự bền vững của xã hội, biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc; từ đó chủ trương vũ trang toàn dân, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang từ nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh thắng các thế lực xâm lược to lớn, giành thắng lợi trong sự nghiệp cứu nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.


Từ rất sớm, dân tộc Việt Nam đã có dân chúng vũ trang tự đứng lên chống ngoại xâm. Thế kỷ III trước Công nguyên, dân Âu Lạc cùng các tộc Việt khác đã nổi lên chiến đấu, "cùng nhau đặt người tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần"1 (Lưu An: "Hoài Nam Tử", Nhân gian huấn, q.18. Dẫn theo Phan Huy Lê (chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2012, t.I, tr.189). Cách tổ chức lực lượng đó là hình thức lạc dân tự nguyện vũ trang đứng lên đánh giặc. Cũng từ rất sớm, dân tộc Việt Nam đã tổ chức quân đội để chống ngoại xâm. Quân đội An Dương Vương có bộ binh và thủy binh, có thành Cổ Loa và vũ khí rất lợi hại là "nỏ Liên Châu" bắn được nhiều phát một lúc. Điều đó chứng tỏ trình độ phát triển khá sớm của tổ chức quân sự nước Việt Nam.


Ngay từ thời Đinh, Tiền Lê, bên cạnh từng bước kiện toàn, chính quy hóa các đội quân còn mang tính "gia binh", những đội quân "nghĩa dũng". Đinh Tiên Hoàng đã thực hiện chế độ kiểm kê số dân để tuyển lính. Nhà Đinh đã tổ chức quân Thập đạo, "mỗi đạo 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.213), tính ra quân số đông đến 1 triệu người. Thực chất, đó chỉ là đội quân "biển số", tức là trong số đó, chỉ có một phần nhỏ thường xuyên tại ngũ, còn phần lớn được ghi tên trong sổ, khi có việc gọi ra làm lính, hết việc lại trở về sản xuất. Từ một khía cạnh khác, quân Thập đạo là biểu tượng của sự gắn kết giữa quân sự và dân sự, giữa quân đội và nhân dân: nhân dân chính là quân đội không thường trực. Đây thực sự là một phương thức vũ trang cho toàn dân chúng, rất cần thiết đối với một nước nhỏ để chống ngoại xâm.


Thời Lý, Trần, để vũ trang toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang tinh gọn nằm trong nhân dân, các triều vua kế tiếp lúc đó đã thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông". Nội dung chính sách "ngụ binh ư nông" gồm hai vấn đề cơ bản: một là, thực hiện chế độ binh dịch đối với tất cả các đinh tráng; hai là, thực hiện chế độ quân lính chia phiên về sản xuất. Theo chính sách đó, quân thường trực không phải tất cả đều thường xuyên tại ngũ mà chỉ có số quân cấm vệ phải thường xuyên làm nhiệm vụ bảo vệ triều đình, còn các loại quân khác (quân canh gác cổng thành và quân các lộ) đều được chia thành nhiều phiên; theo định kỳ, một bộ phận tại ngũ để canh phòng và luyện tập, còn bộ phận khác về nông thôn sản xuất tự túc. Việc lập sổ hộ tịch và kiểm kê dân đinh ở các làng xã cũng được triều Lý, Trần tổ chức chặt chẽ và cụ thể hơn so với triều Đinh, Tiền Lê. Để tiện cho việc tuyển quân, theo định lệ là hằng năm vào mùa xuân, các làng xã phải lập sổ hộ tịch, kê khai số người, chia thành từng hạng (thượng, trung, hạ). Tất cả đinh nam từ 18 tuổi trở lên được biên tên vào cuốn sổ màu vàng; từ 18 tuổi đến 20 tuổi gọi là hoàng nam, trên 20 tuổi gọi là đại hoàng nam. Trên cơ sở kiểm kê, quản lý chặt chẽ số nhân đinh trong cả nước, triều đình tùy theo nhu cầu xây dựng quân đội mà gọi từng hạng dân đinh nhập ngũ. Trong thời bình, nhà nước chỉ tuyển chọn một số đinh tráng nhất định sung vào quân ngũ để canh phòng và luyện tập. Số còn lại ở nhà làm ruộng, khi cần nhà nước chiếu sổ gọi tòng quân.


Chính sách "ngụ binh ư nông" và cách quản lý nhân đinh chặt chẽ đó đã đem đến kết quả tốt đẹp. Triều Lý, Trần vừa tổ chức được đội quân thường trực cần thiết, vừa có sẵn đội quân dự bị đông đảo và lực lượng dân binh (hương binh, thổ binh) hùng hậu ở các làng, bản trong cả nước. Bởi vậy, thời Trần, lúc đất nước bình yên quân số chưa đến 10 vạn, nhưng trong kháng chiến chống Mông - Nguyên, có lúc triều đình đã huy động được 20 - 30 vạn quân để đánh giặc. Trong khi đó thì khắp cả nước "nhân dân ai cũng là binh nên mới phá được giặc dữ"1 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.4, tr.3). Thực tiễn sinh động thời Lý, Trần, phản ánh sâu sắc quan điểm vũ trang toàn dân, xây dựng quân đội từ nhân dân.


Lê Lợi bắt đầu cuộc nổi dậy ở Lam Sơn với mục đích "đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân". Để đạt được điều đó, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã nêu rõ quan điểm dựa vào dân để xây dựng nghĩa quân: "Giương gậy làm cờ, tập hợp bốn phương manh lệ"2 (Nguyễn Trãi: Bình Ngô đại cáo (Hoàng Văn Lựu dịch và chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính), trích trong Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.285). Quan điểm đó đã phản ánh niềm tin của các thủ lĩnh Lam Sơn về khả năng và sức mạnh tiềm tàng của những người nông dân cày ruộng nghèo khổ. Quá trình khởi nghĩa, Lê Lợi và Nguyễn Trãi còn chủ trương: "Vỗ nuôi sĩ tốt, vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài"3 (Nguyễn Trãi: Quân trung từ mệnh tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969, tr.130). Được các tầng lớp nhân dân tham gia, khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh giải phóng, nghĩa quân được xây dựng thành quân đội, gồm nhiều đạo quân, có cả quân bộ và quân thủy. Bên cạnh quân đội còn có dân chúng vũ trang nổi lên đánh giặc và nhiệt tình giúp đỡ, gia nhập quân đội. Khi biết tin Lê Lợi đóng quân gần thành Đông Quan, "hào kiệt ở vùng kinh đô cùng với nhân dân ở các phủ huyện, các tù trưởng ở các biên trấn đều tấp nập đến cửa quân nguyện ra sức liều chết để đánh các thành giặc ở các nơi"1 (Nguyễn Trãi: Lam Sơn thực lục (Trần Nghĩa dịch), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr.42). Mô tả lực lượng hùng hậu và thanh thế của quân Lam Sơn, trong một bức thư gửi Vương Thông, Nguyễn Trãi đã viết: "Trước kia quân bất quá vài trăm người mà nay thì binh phụ tử ở Thanh Hóa gần hai vạn, quân có tiếng là tinh tráng dũng cảm ở Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa cũng lên đến vài vạn người, quân đồng tâm hợp lực ở các lộ Giao Châu không dưới mười vạn, còn các chiến sĩ khác cũng chẳng dưới ba mươi vạn. Trước thì thầy bạn thân thiết phân tán các nơi, mà nay thì kẻ sĩ mưu trí tài thức theo về đông đúc, không khác gì rừng cây rậm rạp, răng lược khít nhau. Trước thì khí giới tay không mà nay thì thuyền chiến ngất mây, áo giáp rực sáng, tên đạn chất đống, thuốc súng đầy kho"1 (Nguyễn Trãi: Lam Sơn thực lục (Trần Nghĩa dịch), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr.42). Chính lực lượng nghĩa quân hùng hậu đó được tổ chức từ "bốn phương manh lệ", tức là từ dân chúng lao động nghèo, qua chiến đấu lần lượt lập được nhiều chiến công, cuối cùng đánh thắng quân Minh, giải phóng đất nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM