Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 03:58:22 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đại thắng mùa xuân 1975 theo những cánh quân thần tốc  (Đọc 5762 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #70 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2022, 07:34:51 am »

- Lực lượng tham gia chiến dịch

+ Quân chủ lực gồm: Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232 (tương đương Quân đoàn). Tổng cộng 15 sư đoàn, 5 trung đoàn, lữ đoàn bộ binh, 20 trung lữ đoàn, 8 tiểu đoàn pháo binh; 3 lữ trung đoàn và 6 tiểu đoàn xe tăng; 8 trung lữ đoàn và 2 tiểu đoàn đặc công; 4 trung đoàn và 10 tiểu đoàn thông tin; 1 trung đoàn tên lửa; 2 Sư đoàn vận tải ôtô; có lực lượng hải quân và không quân tham gia.

+ Lực lượng vũ trang địa phương trên địa bàn chiến dịch: 2 trung đoàn, nhiêu tiểu đoàn, đại đội địa phương tỉnh, thành, huyện; 6 trung đoàn đặc công, 1 lữ đoàn biệt động với 60 tổ; dân quân trên địa bàn...


- Mục đích chiến dịch: Với thế và lực mới, Bộ Tư lệnh xác định mục đích chiến dịch: "Đánh đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng, kết thúc chiến tranh, giành thắng lợi triệt để".


- Tư tưởng chỉ đạo:

+ Chuẩn bị chu đáo, đánh chắc thắng, không cho địch co cụm về Sài Gòn, tạo và thúc đẩy tan rã lớn, tan rã nhanh.

+ Tổ chức thọc sâu bằng sức mạnh, đột kích nhanh, đánh thẳng vào mục tiêu chủ yếu.

+ Tiến công quân sự, kết hợp với địch vận, tiến công và nổi dậy, tiến công quân sự đi trước một bước, giữ vai trò quyết định.

+ Phát huy sức mạnh tổng hợp, đột kích liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng.

+ Coi trọng công tác bảo đảm toàn diện. Giữ bí mật về thời gian, lực lượng, khu vực triển khai trên các hướng. Đẩy mạnh công tác Đảng, công tác chính trị trong chiến dịch.


- Cách đánh chiến dịch:

+ Chia cắt chiến lược bằng: cắt đường bộ. đường thuỷ, khống chế đường không, đánh chiếm Vũng Tàu và Lòng Tàu, cắt đường rút ra biển, bao vây cô lập Sài Gòn. Tạo rung chuyển toàn bộ thế trận của địch.

+ Bao vây, ngăn chặn và tiêu diệt quân chủ lực của địch ỏ vòng ngoài, không cho chưng co cụm về Sài Gòn, tập trung lực lượng đánh thắng các trận then chốt trên các hướng.

+ Tổ chức các binh đoàn binh chủng hợp thành cỡ trung đoàn, sư đoàn thọc sâu trên các hướng. Kết hợp chặt chẽ với đặc công, lực íượng vũ trang bên trong, tại chỗ, với quần chúng nổi dậy. Thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào, táo bạo đánh chiếm các mục tiêu chiến lược, đập tan đầu não chỉ huy quân sự, đầu não Ngụy quyền, tiêu diệt, làm tan ra, bắt đầu hàng vô điều kiện.


- Hướng tiến công:

+ Hướng Đông Nam do Quân đoàn 2 đảm nhiệm

+ Hướng Đông do Quân đoàn 4 đảm nhiệm

+ Hướng Bắc do Quân đoàn 1 đảm nhiệm

+ Hướng Tây Bắc do Quân đoàn 3 đảm nhiệm

+ Hướng Tây và Tây Nam do Đoàn 232 đảm nhiệm

Đến 16 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975 mọi công tác chuẩn bị đã cơ bản hoàn thành, lực lượng đột kích trên các hướng đã triển khai áp sát, đang ở tư thế sẵn sàng tiến công.

Trong quá trình thực hành nổ súng tiến công trên các hướng đã diễn ra một số tình huống lớn mang tính tổng quát: Tình huống thứ nhất, từ 17 giờ ngày 26 - chiều ngày 28 tháng 4.

Thực hành tiến công vào tuyến phòng thủ trực tiếp Sài Gòn ở hướng Đông, Đông Nam, Tây, Tây Nam, tiêu diệt địch đánh chiếm một số mục tiêu, cắt giao thông đường bộ, đường thuỷ, chặn đường rút chạy của địch ra biển và xuống đồng bằng Cửu Long, thực hiện kế hoạch bao vây, cô lập Sài Gòn, tạo thế trận có lợi để thực hành tổng tiến công trên toàn mặt trận.


Sau 2 ngày tiến công trên các hướng Đông và Tây Nam đã cơ bản thực hiện được kế hoạch: cắt giao thông trên quốc lộ 4, 15 và sông Lòng Tàu. Đánh chiếm Trảng Bom, một phần căn cứ Nước Trong, Long Thành, Biên Hoà, Đức Thạnh, Bà Rịa, Long Điền, Đất Đỏ; đặc công đánh chiếm một số cầu, ngăn chặn địch ở vòng ngoài, không cho co cụm, bao vây cô lập Sài Gòn trên hướng này theo đúng kế hoạch chiến dịch.


Địch dựa vào thế trận, lực lượng phòng ngự chắp vá, nhưng chống trả rất quyết liệt. Trên hướng Đông và Tây Nam, một số mục tiêu ta chưa đánh chiếm được. Hướng Tây Nam tổ chức cho binh khí kỹ thuật vượt sông còn chậm.


Tuy nhiên dưới áp lực tiến công, sức đột kích rất mạnh của ta trên các hướng tiến công, chiều 28 tháng 4, sở chỉ huy Quân đoàn 3 (Ngụy)đã rút về Gò Vấp, Tư lệnh Quân đoàn 3 (Ngụy) đã sớm chuồn thoát thân ra tầu Mỹ ngoài khơi. Tại Bộ Tổng Tham mưu Ngụy các tướng tá, quan chức đang chen chúc xô đẩy tranh nhau di tản theo Mỹ. Nhật ký chiến sự của Bộ Tổng Tham mưu Ngụy ghi đến 18 giờ ngày 28 tháng 4 rồi bỏ, không ghi tiếp. Trực thăng Mỹ đã phải hạ cánh xuống sân thượng Toà đại sứ Mỹ để chở người di tản.


Tối ngày 28 tháng 4, Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các cánh, hướng tiếp tục phát triển tiến công để bảo đảm cho sáng 29 tháng 4 nhất loạt tổng công kích vào Thành phố Sài Gòn theo kế hoạch đã định.


Tình huống thứ hai, ngày 29 tháng 4

Thực hành tổng tiến công trên toàn mặt trận, chặn đánh và tiêu diệt các tập đoàn phòng ngự chủ yếu của địch ở vòng ngoài, đồng thời thọc sâu bằng sức mạnh của binh chủng hợp thành, kết hợp với lực lượng tại chỗ đánh chiếm các địa bàn quan trọng vùng ven đô thành, chuẩn bị sẵn sàng, đồng loạt tổng công kích vào nội đô.


Sau một ngày tổng công kích trên toàn mặt trận, tình hình diễn ra đúng như ta dự kiến trong kế hoạch hiệp đồng. Ngăn chặn được địch, đánh chiếm được các địa bàn, mục tiêu qui định; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận chủ lực ở vòng ngoài; mở cửa thọc sâu, lực lượng thọc sâu trên hướng Tây Bắc và Tây Nam đã cơ động đội hình vào địa bàn qui định.


Địch đối phó rất quyết liệt trên hướng Đông và Đông Nam. Đặc biệt là cánh Hố Nai - Trảng Bom - sông Buông; Tân Uyên, Đồng Dù trên hướng Bắc, Tây Bắc; Vàm Cỏ, Tân An - Bến Lức trên hướng Tây và Tây Nam. Trước sức mạnh tiến công của ta, hàng ngũ địch bắt đầu tan rã, rút chạy, đầu hàng, chỉ huy rối loạn từ trên xuống. Lực lượng đột kích của ta vẫn rất sung sức, tinh thần rất phấn khởi.


Quần chúng trên từng địa bàn đã được các cơ sở Đảng lãnh đạo, khi có lực lượng chủ lực tràn qua, có lực lượng vũ trang tại chỗ hỗ trợ đã nổi dậy cùng bộ đội lùng quét địch, phá đồn bốt, trụ sở, bắt tề điệp, ác ôn, chiếm các trụ sở, giành chính quyền cơ sở.


Sau khi bổ sung kế hoạch, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tiếp tục tiến công vào nội đô theo kế hoạch đã được ấn định trong hiệp đồng.


Tình huống thứ ba: Ngày 30 tháng 4 năm 1975

Thống nhất hiệp đồng các cánh quân, đồng loạt tổng công kích vào nội thành, chiếm lĩnh các mục tiêu chiến lược đã qui định, hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch.

Vào lúc 11 giờ 30 ngày 30 tháng 4 năm 1975 ta đã đánh chiếm xong 5 mục tiêu chiến lược chủ yếu, bao gồm:

- Dinh Độc Lập - mục tiêu chủ yếu - hợp điểm chiến dịch

- Bộ Tổng Tham mưu Ngụy

- Tổng nha cảnh sát Quốc gia

- Sân bay Tân Sơn Nhất

- Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô

Trong ngày, đồng thời đã chiếm hết các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế, hành chính trong nội thành Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc trong thời gian hơn 3 ngày, Thời gian đột kích vào nội thành Sài Gòn trong 5 giờ. Chiến dịch diễn ra cơ bản đúng như ý định, đúng như kế hoạch, đúng như dự kiến hiệp đồng.


Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại chưa từng có, đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1975 có nhiêu ý nghĩa hết sức to lớn. Là chiến dịch vĩ đại nhất, mang lại thắng lợi to lớn nhất; kết thúc 30 năm chiến tranh lâu dài gian khổ chống ngoại xâm của dân tộc ta; một bước ngoặt của thời đại, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.


Ngược dòng lịch sử cho thấy: một quân đội non trẻ, phương tiện vũ khí thô sơ, kém hiện đại hơn địch, một dân tộc nghèo nàn lạc hậu vê kinh tế nhưng có truyền thống chống giặc ngoại xâm và giàu lòng yêu nước; thế mà, Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ của đế quốc Pháp, Chiến dịch Hồ Chí Minh, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vẫn quân đội ấy, vẫn lòng dân ấy, chúng ta lại đánh bại chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.


Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, quả là một kỳ tích, chỉ có thể có khi đại nghĩa dân tộc, chính sách của Đảng ta đã đi vào lòng người, tạo thành thế trận vững chắc, một sức mạnh tổng hợp không thể có sức mạnh nào địch nổi.


Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, chúng ta đã thu được toàn bộ phương tiện vũ khí trang bị hiện đại, các căn cứ, kho tàng của địch. Nhân dân trên địa bàn hầu như không bị tổn thất, thành phố hầu như còn nguyên vẹn.


Là đỉnh cao nghệ thuật chiến dịch của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Những vấn đề về nghệ thuật chiến dịch, nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh. Những bài học kinh nghiệm, qui luật có nhiều giá trị nhân bản vẫn đang tiềm ẩn trong các sự kiện lịch sử. Thế hệ chúng ta và mai sau vẫn cần tiếp tục nghiên cứu khám phá, vận dụng vào hoạt động quân sự, xây dựng, bảo vệ Tổ Quốc hôm nay và ngày mai.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #71 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2022, 07:38:18 am »

Một số bài học kinh nghiệm chủ yếu về nghệ thuật chiến dịch

Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch tiến công có ý nghĩa chiến lược cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Là trận quyết chiến chiến lược lớn nhất đánh vào sào huyệt chủ yếu của địch.

Là chiến dịch tác chiến hiệp đồng quân binh chủng có qui mô lớn nhất, có phương thức tác chiến phong phú nhất trong 20 năm kháng chiến chống Mỹ. Chiến dịch diễn ra trong thế trận và lực lượng đều áp đảo quân địch.


Là một chiến dịch do Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương trực tiếp chỉ đạo tập trung, sâu sát, kịp thời, sáng suốt và mọi cơ quan chiến lược tập trung bảo đảm nên có nhiều thuận lợi.

Từ những đặc điểm thực tiễn trên cho thấy: Chiến dịch Hồ Chí Minh có đầy đủ các yếu tố để khẳng định là một chiến dịch tiến công có ý nghĩa chiến lược lớn nhất, hoàn chỉnh nhất. Đồng thời cũng khẳng định, đây là một loại hình chiến dịch thường xuất hiện trong thời kỳ cuối của chiến tranh, với đầy đủ các yếu tố như: mục tiêu chiến lược, đối tượng tác chiến chiến lược của chiến dịch; sử dụng lực lượng chiến dịch - chiến lược lớn nhất; do cấp chiến lược trực tiếp tổ chức chỉ đạo và chỉ huy; tiêu diệt và làm tan rã lực lượng chiến lược của địch; kết thúc chiến tranh; củng cố những giá trị mang tính qui luật về trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử. Đây cũng là những yếu tố bao hàm những nội dung về bài học kinh nghiệm của chiến dịch.


Bài học thứ nhất: Nắm bắt đúng, tận dụng và phát huy đươc những giá trị của thời cơ chiến lược, hạ quyết tâm chiến lược kịp thời, chính xác.

Ngược dòng lịch sử, trong năm 1974 các lực lượng vũ trang của ta trên khắp các chiến trường đã điểm hai đòn mang tính chất trinh sát chiến lược thành công. Đó là tiêu diệt lực lượng địch, đánh chiếm thị xã Phước Long ở miền Đông Nam Bộ, Thượng Đức thuộc vùng giáp ranh trên địa bàn Quân khu 5. Hai đòn trinh sát chiến lược này là cơ sở để ta đánh giá đúng khả năng, thực lực và sức mạnh của hai bên.


Theo kế hoạch dự kiến, Tổ Trung tâm thuộc Bộ Tổng Tham mưu soạn thảo, được Quân uỷ Trung ương trình Bộ Chính trị: Ta quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976. Đòn tiến công mở đầu mang ý nghĩa - cuộc mở đầu tiến công chiến lược Mùa Xuân 1975 - chiến dịch Tây Nguyên giành được thắng lợi vang dội gần như ta dự kiến. Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương tiếp tục đánh giá đúng toàn cục, trên tất cả các lĩnh vực.


Thấy rõ khả năng tác chiến trên chiến trường của địch và nhận thấy thời cơ chiến lược mới đã và đang xuất hiện. Những kết luận chung về tình hình đều có lợi cho ta, bất lợi cho địch, cần phải đẩy mạnh hoạt động quân sự mạnh hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn nữa. Từ thực tiễn diễn biến trên chiến trường, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương kết luận, bổ sung quyết tâm: Tập trung lực lượng ít nhất là 12 sư đoàn, tập trung vật chất kỹ thuật, sức mạnh của cả nước quyết tâm thực hiện thắng lợi trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, kết thúc chiến tranh ngay trong năm 1975.


Tận dụng và phát huy thời cơ mới, đồng thời cũng nhằm thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị - Quân uỷ Trung ương- Bộ Tổng tư lệnh đã chỉ đạo Quân khu 5, Quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2 - Quân đoàn cơ động chiến lược của Bộ, nhanh chóng tổ chức một đòn đánh bồi, đánh nhồi, tiến công chiến lược: tiêu diệt và đánh tan lực lượng quân sự của địch trên địa bàn Quân Khu 1 - Quân đoàn 1 của địch, giải phóng các tỉnh miền Trung và một số vùng còn lại trên địa bàn Quân Khu 2 của địch. Không cho địch co cụm về tập trung trên địa bàn Quân Khu 3, Sài Gòn - Gia Định.


Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5 và Quân đoàn 2 đã vượt qua nhiều khó khăn phức tạp, chủ động chạy đua với thời gian, thực hiện hàng loạt các biện pháp rất hiệu quả. Với phương pháp tác chiến chủ động sáng tạo, thực hành tiến công liên tục, đột lích mãnh liệt bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng. Với khí thế phấn khởi của chiến thắng Tây Nguyên dội về. Sau một tháng tiến công mãnh liệt, quân và dân trên địa bàn Quân khu Trị Thiên, Quân khu 5 và Quán đoàn 2 đã tiêu diệt, đánh tan toàn bộ lực lượng của Quân Khu 1 - Quân đoàn 1 của địch, giải phóng 5 tỉnh miền Trung, trong đó có 2 thành phố lớn là cố đô Huế và Thành phố Đà Nẵng. Thu toàn bộ vũ khí trang bị, kho tàng trên địa bàn.


Chiến thắng giải phóng Huế - Đà Nẵng có ý nghĩa cực kỳ to lớn, kết quả của chiến thắng này đã tạo cho ta một thế trận mới, một thời cơ mới vô cùng thuận lợi. Một thế trận, một lực lượng tạo thành một sức mạnh hoàn toàn áp đảo quân địch. Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương đã nắm vững thời cơ có một không hai này, bổ sung quyết tâm: tiến công giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.


Để thực hiện quyết tâm bổ sung mới, trên địa bàn các tỉnh ven biển miền Trung, phát huy chiến quả của chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Trị Thiên - Huế - Đà Nẵng. Thực hành tiêu diệt đánh bại Lữ đoàn dù 3 quân địch phòng ngự chốt giữ đèo Phượng Hoàng, giải phóng toàn bộ các tỉnh ven biển miền Trung, đánh chiếm sân bay Thành Sơn, thị xã Phan Rang - Tháp Chàm, giải phóng tỉnh Ninh Thuận. Một địa bàn rộng lớn, nối liền miền Bắc bằng cả đường bộ, đường biển, đường không với Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn, trải dài đến Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Trước thời cơ mới, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương bổ sung quyết tâm mới: tổ chức trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng miền Nam, kết thúc chiến tranh, thống nhất Tổ quốc ngay trong tháng 4 năm 1975.


Với phương châm chỉ đạo: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo báo, táo bạo hơn nữa”; “Thời gian là lực lượng, thời gian là chiến thắng”. Với một đạo quân tập trung đến 12 sư đoàn trên các hướng, chúng ta hoàn toàn có cơ sở, điều kiện và sức mạnh để thần tốc hơn nữa, có đủ khả năng để chạy đua với thời gian. Chính điều “thần tốc” này đã nảy sinh ra mâu thuẫn mới, mâu thuẫn mà chúng ta phải giải quyết ngay tức khắc; đó là mâu thuẫn bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho đạo quân thần tốc, phải mất khá nhiều thời gian. Để giải quyết mâu thuẫn này, Bộ Chính trị đã thành lập Hội đồng chi viện tiền phương do đồng chí Thủ tướng Phạm Văn Đồng trực tiếp làm Chủ tịch. Nhiều đồng chí Bộ trưởng, Tổng cục, Cục, Tư lệnh các quân binh chủng được lệnh vào ngay chiến trường để tăng cường bộ máy chỉ huy, đôn đốc cho chiến dịch. Với sự chỉ đạo tức thì này, cùng với chi viện từ miền Bắc vào, tận dụng chiến lợi phẩm trên địa bàn ta vừa thu được, mâu thuẫn đã tạm thời được giải quyết và rất hiệu quả.


Với thế trận mới ta đang nắm bắt được, với lực lượng hùng hậu ta đang có sẵn, với sự nỗ lực vượt bậc của cả nước, chúng ta đã bảo đảm đầy đủ cho đạo quân hùng mạnh nhất đang sẵn sàng đợi lệnh. Chiến dịch Hồ Chí Minh mở đầu đúng thời gian qui định, kết thúc trong thời gian nhanh nhất. Đây là một trong những nội dung thể hiện trình độ nghệ thuật ở đỉnh cao của tầm chiến lược về nắm bắt thời cơ, tận dụng thời cơ chiến lược, hạ quyết tâm chính xác, kịp thời trong quá trình chỉ đạo đấu tranh vũ trang để đi đến kết thúc chiến tranh.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #72 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2022, 07:39:11 am »

Bài học thứ hai: Tổ chức sử dụng lực lượng, tạo lập thế trận thể hiện trình độ ở đỉnh cao về nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp, áp đảo quân địch từ đầu đến kết thúc chiến dịch

Bài học thứ nhất đã cho chúng ta thấy: tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương trong quá trình chỉ đạo chiến tranh, đặc biệt là chỉ đạo giai đoạn cuối của chiến tranh. Trong thời điểm lịch sử này, thường xuất hiện những thời cơ mới, bên nào nắm bắt đúng qui luật vận động của chiến tranh, tận dụng và nắm bắt đúng, bên đó sẽ giành thắng lợi. Điều này chứng minh rằng thời cơ do nhiều yếu tố tạo thành, trong đó thế trận và lực lượng là do mỗi bên tham chiến tạo nên, do yếu tố chủ quan cấu thành. Mặt khác thế trận và lực lượng là hai vấn đề luôn có mối quan hệ biện chứng, không tách rời. Thế phải dựa trên cơ sở của lực, có thể tốt, biết phát huy được ưu thế của lực, lực sẽ được nhân lên gấp bội lần, sẽ tạo thành sức mạnh không có sức mạnh nào thắng nổi.


Lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh vũ trang của cách mạng Việt Nam, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ta có ưu thế áp đảo về lực, lại có một thế trận vững chắc do chính chúng ta toàn quyền làm chủ tạo ra, được chuẩn bị trước; đây chính là nhân tố cơ bản cốt lõi quan trọng bậc nhất để giành thắng lợi giờn giã; đồng thời nhân tố này cũng là một bài học, kinh nghiệm quí báu về nghệ thuật tạo lực, tạo thế cho một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, một trận quyết chiến chiến lược quyết định.


So sánh về tương quan lực lượng cho thấy:

- Về địch: lực lượng trên địa bàn Quân Khu 3, tàn quân của Quân Khu 1, Quân Khu 2 dồn về. Quân số có khoảng 250.000 tên, có 152.000 chủ lực, gồm: 7 sư đoàn, có 1 sư đoàn biệt động quân vừa thành lập, 5 lữ đoàn; 500.000 phòng vệ dân sự; 407 khẩu pháo; 624 xe tăng thiết giáp; 862 tầu xuồng các loại, 229 máy bay các loại... nhưng tinh thần chiến đấu đã suy sụp.

- Về ta: tập trung 270.000 quân, có 250.000 chủ lực, với 15 sư đoàn, 14 trung đoàn bộ binh, lực lượng này được tổ chức thành 5 quân đoàn, một số trung đoàn và lữ đoàn độc lập. Tỷ lệ ta 1,7/địch 1 về lực lượng chủ lực; tính theo đầu mối đơn vị tập trung có tỷ lệ ta 3/địch 1. Lực lượng phòng vệ dân sự tuy vượt trội ta nhưng khả năng hiệu lực tác chiến thấp. Ta đã huy động về binh khí kỹ thuật rất lớn: 516 khẩu pháo, tên lửa các loại; 550 khẩu pháo cao xạ; 320 xe tăng thiết giáp, 1 đại đội máy bay A37; 1600 xe kỹ thuật chiến đấu; 10.000 xe vận tải; 60.000 tấn vật chất, có 15.000 tấn đạn với 190.000 đạn pháo lớn.


Ta đã tăng cường vào vùng ven và nội thành 1700 cán bộ, chuẩn bị nhập thành 1300 cán bộ, có 12 Thành uỷ viên, 60 Quận uỷ viên. Nội, ngoại thành có 1200 đảng viên hơn 10.000 quần chúng nòng cốt, 400 tổ chức công khai “biến tướng” với gần 25.000 quần chúng tích cực do ta nắm. So sánh với dân số và lực lượng kìm kẹp của địch, lực lượng chính trị của ta tuy ít hơn về số lượng, nhưng ta có ưu thế hơn hẳn địch; bởi vì, ta đang có cao trào cách mạng sôi động, có lực lượng vũ trang hùng mạnh hỗ trợ, đặc biệt có Đảng lãnh đạo, sẽ phát huy được tác dụng tốt khi thời cơ đến.


So sánh lực lượng trên phạm vi số lượng và chất lượng, đặc biệt trong đó chúng ta có “quả đấm” chủ lực rất mạnh. Kết luận: ta đang có ưu thế áp đảo về lực lượng hơn hẳn quân Ngụy trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Ưu thế áp đảo về lực lượng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh là điều đặc biệt mà trong cả cuộc kháng chiến chống Mỹ ta chưa bao giờ từng có. Điều đó thể hiện trình độ nghệ thuật tập trung lực lượng rất cao, tinh thần chủ động, sáng tạo to lớn, sự phát triển về chất một cách toàn diện của ta.


Nghệ thuật tạo lực mạnh còn thể hiện ở tầm nhìn xa của ta từ rất sớm. Đó là ý định xây dựng các binh đoàn chiến lược lớn cho các đòn chiến lược Xuân 1975, để đón thời cơ mới trong đấu tranh vũ trang. Khi ta xây dựng các quân đoàn cơ động chiến lược, xây dựng các sư đoàn của Quân khu 7, 8, 9, các trung đoàn của Quân khu 6 là nhân tố về lực cực kỳ quan trong. Đồng thời, chính tư duy này đã thể hiện những kinh nghiệm thực tiễn rất sinh động, chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, chắc chắn thời cơ chiến lược mới sế đến trong thời gian gần, khi những động thái của chiến tranh đã đến kỳ phải kết thúc.


Nghệ thuật tập trung lực lượng còn thể hiện hình thức, biện pháp tổ chức cơ động lực lượng đường dài cho những liên binh đoàn cơ động chiến lược lớn. Đó là vừa cơ động, vừa tổ chức chuẩn bị, vừa thực hành tác chiến, tác chiến trong hành tiến bằng sức mạnh binh chủng hợp thành - một hình thức tác chiến ta ít có điều kiện vận dụng trong quá trình của cuộc kháng chiến. Nhưng cuối cùng, với thời gian 24 ngày đêm Quân đoàn 1 đã vượt qua chặng đường dài 1500km, Quân đoàn 2 vừa tác chiến vừa cơ động trên đoạn dường 900km, Quân đoàn 3 liên tục đột kích vượt đoạn đường 1000km; các đạo quân hùng mạnh trên cũng đã vào đến chiến trường, trên địa bàn chiến dịch đúng qui định.


Vấn đề thực tiễn và sáng tạo trong tạo lực còn thể hiện về hình thức biện pháp hiệu quả để tiêu hao tiêu diệt địch từ vòng ngoài, chia cắt địch, không cho địch có thời cơ, thời gian và điều kiện để tập trung co cụm lực lượng, không cho các lực lượng trên các vùng và ngay trên địa bàn chiến dịch chi viện, ứng cứu, liên kết được với nhau.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #73 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2022, 07:39:43 am »

So sánh về thế trận:

Thế trận toàn cục của ta, của Chiến dịch Hồ Chí Minh là thế trận của chiến tranh nhân dân phát triển đến trình độ cao: Thế trận tập hợp của tổng các lực lượng: 2 lực lượng chính trị và quân sự; 3 thứ quân, chủ lực, địa phương và dân quân du kích; của 2 đòn chiến lược tiến công, quân sự và nổi dậy của quần chúng. Tập hợp sức mạnh của từng loại thế trận, tạo thành một lực lượng có sức mạnh được tăng lên gấp bội lần.


Sau 2 đòn tiến công chiến lược, ta đã thực hiện xoá sổ Quân Khu 1 - Quân đoàn 1; Quân Khu 2 - Quân đoàn 2 của địch, ta đã vượt trội hơn địch về thế trận lòng tin của các lực lượng trên toàn chiến trường. Ngược lại địch đã mất hẳn thế trận ở tầm chiến lược về mặt quân sự, trong khi thế trận về niềm tin trong lòng binh sĩ Ngụy đã suy sụp, không thể bù đắp xây dựng lại được. Thực hiện thắng lợi các đòn tiến công, ta không chỉ giành thắng lợi về quân sự, mà còn thắng lợi cả đòn "tâm công"; chính đòn này cũng là nguyên nhân không nhỏ, trực tiếp và gián tiến đưa thế trận lòng người trong đội ngũ Ngụy quân, Ngụy quyền, binh lính địch sụp đổ.


Về mặt thế trận quân sự của chiến dịch cho thấy: trước khi thực hành tổng công kích vào mục tiêu cuối cùng. Trên các hướng chiến trường ta đã thực hành các hoạt động quân sự, chia cắt Sài Gòn - Gia Định cả về chiến lược, chiến dịch, cả đường bộ, đường sông, đường biển và khống chế đường không rất hiệu quả.


Trên hướng Đông của chiến dịch, ta thực hiện đánh chiếm Đường số 1 ở Trảng Bom, đánh chiếm xa lộ và làm tê liệt sân bay Biên Hoà; sẵn sàng lực lượng cắt quốc lộ 15 đi Bà Rịa - Vũng Tàu, sông Lòng Tàu, chặn toàn bộ đường bộ và đường sông ra biển.


Trên hướng Bắc và Tây Bắc ta đã đánh chiếm núi Bà Đen, Ông Hùng, Dầu Tiếng, Chơn Thành. Những địa bàn này bị đánh chiếm đã tạo ra thế trận bao vây, cô lập Sài Gòn với Tây Ninh, Bình Dương.

Hướng Tây và Tây Nam, bộ đội chủ lực đã áp sát và sẵn sàng chia cắt địch ở Cái Vồn, Trung Lương, Cai Lậy. Cắt đứt quốc lộ số 4, Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long kéo dài đến miền Tây Nam Bộ đã hoàn toàn bị cắt đứt. Bên sườn quốc lộ 4, Sư đoàn bộ binh 5 của Quân khu 8 đang án ngữ khu vực Tân An, Bến Lức, Long An, sẵn sàng cơ động chặn địch trên toàn bộ hướng này, không cho địch rút chạy.


Đánh giá toàn diện về thế trận của chiến dịch cho thấy: tất cả các đường giao thông trên bộ, trên sông có thể cơ động lực lượng về ứng cứu Sài Gòn trên các hướng đã bị ta đánh chiếm và chốt giữ. Đường không bị ta khống chế rất hiệu quả. Như vậy, khi ta thực hành tổng công kích vào Sài Gòn - Gia Định, quân địch trên toàn bộ chiến trường đã đang ở trong thế trận chiến lược bị bao vây, chia tắt triệt để. Lực lượng địch từ xa đến gần, lực lượng bên ngoài và bên trong đều không thể ứng cứu cho nhau được. Trước khi hình thành thế trận này, tinh thần binh lính địch đã hoang mang, nay lại càng hoang mang đến cực điểm.


Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, mệnh lệnh tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh chiến dịch. Trên các cánh quân thần tốc, mặc dù yêu cầu về thời gian, tốc độ, bảo đảm hiệp đồng rất cao, vừa cơ động vừa tác chiến trong hành tiến, nhưng trên các hướng các cánh quân đã cơ động vào thẳng khu vực xuất phát tiến công đã được chuẩn bị trước, không phải qua bước tự mình chuẩn bị về thế bố trí. Có những cánh quân vào thẳng vị trí xuất phát tiến công, cách mục tiêu chủ yếu trong nội thành Sài Gòn có 40 - 50km theo đường chim bay là điều rất lý tưởng, chưa chiến dịch chiến lược nào làm được. Vấn đề này đã chứng minh trình độ tổ chức chỉ huy, hiệp đồng bảo đảm và tính chuẩn xác của kế hoạch tác chiến ở tầm chiến lược có bước phát triển rất cao, rất hoàn chỉnh, chứng minh một sáng tạo mới, trong chỉ đạo cơ động tác chiến qui mô lớn.


Một thế trận đặc biệt đã góp phần rất lớn trong thế trận chung của chiến tranh nhân dân, tạo thành thế trận vững chắc hoàn chỉnh của chiến dịch. Đó là, bộ đội địa phương, đặc công, biệt động, lực lượng nằm vùng, cơ sở cách mạng ta đã cài cắm từ trước, nay được bổ sung thêm; hình thành một lực lượng ngầm rất lợi hại, tạo thế đứng vững chắc, áp sát các mục tiêu được phân công, phát động quần chúng, nòng cột cho quần chúng nổi dậy. Đây vừa là thế trận rất hiểm hóc, vừa là bố trí lực lượng rất lợi hại, vừa là yếu tố cấu thành cách đánh của chiến dịch.


Chiến dịch Hồ Chí Minh có qui mô rất lớn và trên địa bàn rộng, có những hướng cánh quân bị chia cắt. Thế trận còn thể hiện trình độ tổ chức chuẩn bị chiến trường khá chu đáo, hậu cần chiến lược, chiến dịch được chuẩn bị đầy đủ trước khi mở màn chiến dịch. Trong 2 năm 1973 - 1974 ta đã mở thêm được 3.778km đường chiến lược, 4000km đường chiến dịch; kéo dài thêm 5000km đường ống dẫn dầu. Đến cuối 1974 lượng dự trữ chiến lược đã có trên 200.000 tấn, 400.000m3 xăng dầu. Riêng Chiến dịch Hồ Chí Minh, hậu cần chiến dịch đã tạo ra một thế trận bảo đảm rất vững chắc, 6 đoàn hậu cần được tổ chức rất chặt chẽ đã vươn sâu theo các hướng cánh quân thần tốc của chiến dịch. Hệ thống kho tàng chiến lược, chiến dịch, trạm cấp phát xăng dầu, bệnh viện dã chiến, bệnh xá trên các tuyến chiến lược, chiến dịch đã chuẩn bị xong; các cơ sở sửa chữa cứu kéo xe pháo đã triển khai, sẵn sàng bảo đảm cho các hướng.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #74 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2022, 07:40:20 am »

Nghệ thuật tạo thế trận chiến dịch

Xét tổng thể, toàn cục và khách quan khoa học, một chiến dịch có tầm chiến lược, một trận quyết chiến chiến lược lịch sử, cả nước tập trung chuẩn bị cho chiến dịch, trong một thời gian ngắn, không thể có một thế trận vững chắc như vậy; chỉ riêng về thế trận ta lập được đã là một huyền thoại còn chứa đựng, tiềm ẩn nhiều giá trị nghệ thuật quân sự rất cao, đến nay chúng ta vẫn cần khám phá khai thác cho hiện tại.


Để có được thế trận đó, ngay từ khi lập kế hoạch, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã chọn, xác định đúng vị trí của từng chiến trường. Từ đây đã sớm có dự kiến trước để chỉ đạo kiến tạo thế trận, đón thời cơ chiến lược cho tương lai gần của trận quyết chiến chiến lược này. Tây Nguyên là chiến trường mở đầu cho cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975, trong đó Buôn Ma Thuột được chọn là mục tiêu chiến lược mở đầu chiến dịch. Chiến trường miền Trung - Quân Khu 1 là chiến trường phá thế chiến lược của địch. Miền Đông Nam Bộ, rừng núi được xác định là chiến trường tiêu diệt lớn quân địch. Sài Gòn - Gia Định là chiến trường quyết chiến chiến lược cuối cùng đánh bại hoàn toàn quân địch. Với ý định trên của chiến lược, các lực lượng chiến dịch trên các địa bàn, đặc biệt là chiến trường B2 quán triệt đầy đủ, kiên trì, vận dụng và chỉ đạo rất sáng tạo, rất hiệu quả. Những hoạt động đó vừa đáp ứng cho thế trận trước mắt trên địa bàn vừa sẵn sàng tạo ra thế trận cho cấp chiến lược lâu dài.


Khi tổ chức thực hiện quyết tâm bổ sung cuối cùng của Bộ Chính trị: giải phóng Sài Gòn - Gia Định, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc ngay trong tháng 4 năm 1975. Chiến dịch bước ngay vào tạo thế trận trực tiếp. Đó là, duy trì thế trận đã tạo được, đẩy mạnh các hoạt động quân sự để tạo thế trận mới, củng cố và phát triển thế trận toàn diện trên nhiều mặt của chiến tranh nhân dân.

- Thế trận cho bảo đảm sử dụng lực lượng lớn, vừa đánh địch bên ngoài, vừa đánh địch bên trong, vừa thọc sâu đánh hiểm, trong ngoài cùng đánh, phát huy đồng thời sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, làm cho ưu thế về lực tiếp tục tăng lên.

- Mở đầu chiến dịch, đồng thời với hình thành thế trận bao vây, chia cắt toàn chiến dịch và từng khu vực, tạo điều kiện tiêu diệt địch. Không cho địch ứng cứu, chi viện liên kết với nhau, không cho chúng co cụm, rút lui chạy thoát.

- Tạo dựng và duy trì một thế trận để phát huy được sức mạnh của cả 2 lực lượng, 3 thứ quân, trong đó sức mạnh của tác chiến hiệp đồng binh chủng của các binh đoàn chiến lược là chủ yếu, quyết định.

- Thế trận đồng thời phát huy được cả 3 vùng chiến lược, rừng núi, đồng bằng, nông thôn và thành thị.


Yêu cầu đặt ra khi tạo thế trận rất cao, thực tế có cao như vậy mới đáp ứng được mục đích, qui mô, tính chất của trận quyết chiến chiến lược trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Chính yêu cầu cao đó đã tạo ra một tinh thần rất khẩn trương, rất kiên quyết. Thực tế ta đã đạt được các yêu cầu do chính chúng ta đề ra một cách tương đối toàn diện, tương đối hoàn thiện. Vì vậy, đã tạo được hiệu suất chiến đấu rất cao, hiệu quả tác chiến chiến dịch rất lớn; phát huy được sức mạnh ưu thế áp đảo từ mở đầu đến khi kết thúc chiến dịch.


Tất cả những điều trên chứng minh rằng: tạo thế là cả một quá trình, phải có quyết tâm cao, kiên trì, liên tục, đồng bộ, luôn nắm bắt đúng thời cơ mới xuất hiện để tạo lập thế mới, thực hành tác chiến để tạo thế, tạo thế để tác chiến có qui mô lớn hơn. Mưu - Kế - Thế - Trận là một tổng hoà các mối quan hệ, chúng ta luôn được nghiên cứu, vận dụng thực hành trong quá trình tác chiến ở cả cấp chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Vận dụng, phát huy, phát triển từng thành phần riêng lẻ và tổng hoà các thành phần đã trở thành đỉnh cao của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam.


Chuẩn bị thế trận chiến dịch tiến công có tầm chiến lược và thường chỉ đạo cho lực lượng tại chỗ chuẩn bị trực tiếp, trước khi lực lượng chiến lược tăng cường xuống địa bàn chiến trường. Thế trận của Chiến dịch Hồ Chí Minh, trên thực tế những yếu tố điều kiện về thế trận đã được hình thành trong cơ quan chiến lược, như đã trình bày ở phần trên. Tuy nhiên cũng chưa có chỉ đạo cụ thể và cũng chưa được nhận thức đầy đủ. Trong khi chuẩn bị thế đứng và tuyến xuất phát tiến công cho cả chủ lực trong chiến dịch, Mặt trận B2 đã đồng thời tạo thế trận triển khai xuất phát tiến công cho cả chủ lực tại chỗ của Miền và chủ lực cơ động của Bộ. Trên 5 hướng tiến công vào Sài Gòn thì 2 hướng Đông và Tây-Tây Nam, B2 đã bố trí Quân đoàn 4, Đoàn 232 đảm nhiệm. Những cánh quân này đã vừa chiến đấu tạo thế từ trước chiến dịch, đồng thời là một cánh quân khi mở chiến dịch, thực tiễn đã diễn ra đúng như đã bố trí.


Nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn cho thấy: Chiến dịch Hồ Chí Minh là một điển hình thành công không chỉ về nghệ thuật tạo lực, tạo thế mà còn rất thành công về nghệ thuật kết hợp lực với thế, thế với lực, tạo thành một sức mạnh tổng hợp mới, có giá trị thực tiễn cao hơn rất nhiều.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #75 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2022, 07:41:58 am »

Bài học thứ ba: Vận dụng cách đánh sáng tạo, hiệu quả

Trên địa bàn chiến dịch là vùng có các mục tiêu lớn cố thủ, sào huyệt cuối cùng của một chính quyền, một chế độ chính trị bán nước hại dân. Một địa bàn có không gian rộng, phức tạp, lực lượng các nơi dồn về đông, tuy phòng thủ vội vã nhưng được tổ chức nhiều tầng. Trong khi ta tập trung lực lượng chiến lược của cả nước tạo ưu thế, có thế trận tốt, với sự bảo đảm vật chất của cả nước, hoàn toàn giữ quyền chủ động về chiến lược.


Mục đích chiến dịch đặt ra rất lớn, giải quyết nhiệm vụ chiến lược cao nhất và cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng vũ trang, lực lượng kìm kẹp của địch, đập tan hệ thống chính quyền của Ngụy, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng Sài Gòn - Gia Định và giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Yêu cầu đặt ra rất quyết liệt: thắng lợi và thắng giòn giã. Đây là những yếu tố tác động trực tiếp đến cách đánh chiến dịch - một vấn đề trung tâm của nghệ thuật chiến dịch phải giải quyết.

Trong điều kiện thời cơ chiến lược lớn xuất hiện, chiến dịch đã phát huy cao độ uy lực của quả đấm thép - quả đấm chủ lực của binh chủng hợp thành và lực lượng vũ trang địa phương tại chỗ, tạo thành sức mạnh của đòn tiến công quân sự chưa từng có trong lịch sử đấu tranh cách mạng ở nước ta, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Song song với sức mạnh quyết định của lực lượng quân sự, là lực lượng chính trị của quần chúng, trong điều kiện có lực lượng quân sự đi trước và hỗ trợ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng chính trị đã nổi dậy với sức mạnh to lớn, dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau.


Vấn đề lãnh đạo và chỉ huy của chiến dịch có ý nghĩa chiến lược quyết định. Trận quyết chiến chiến lược cuối cùng có tầm hết sức quan trọng, có bước phát triển cao nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Vì vậy, Tổng Tham mưu trưởng được chỉ định làm Tư lệnh chiến dịch, Bí thư Trung ương Cục làm Chính uỷ chiến dịch, Phó bí thư Trung ương cục phụ trách đòn nổi dậy của chiến dịch.


Chiến dịch Hồ Chí Minh được tiến hành với 5 quân đoàn và toàn bộ lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, thực hành tiến công trên năm hướng. Đối tượng tác chiến từ 1-2 sư đoàn địch với nhiều binh khí kỹ thuật. Đột kích vào một cụm căn cứ có ý nghĩa chiến dịch của địch, giải phóng Sài Gòn - Gia Định, mục tiêu cuối cùng của chiến tranh.


Từ mục đích, yêu cầu, lãnh đạo chỉ huy, sử dụng lực lượng, hướng địa bàn chiến dịch, mục tiêu tiến công... Chiến dịch Hồ Chí Minh rõ ràng là một chiến dịch tiến công có ý nghĩa chiến lược lớn nhất; một chiến dịch tổng hợp cao nhất, trong đó trên mỗi hướng, từng quân đoàn đã tổ chức thành một cánh quân, nhưng đều tập trung hướng vào mục tiêu chung cao nhất của chiến dịch, mục tiêu cuối cùng của chiến tranh. Điều đó thể hiện, nghệ thuật điều hành chiến dịch hết sức chủ động và linh hoạt. Chủ động và linh hoạt thể hiện tính tập trung thống nhất tổng thể của chiến dịch, đồng thời cũng thế hiện tính sáng tạo trên từng hướng, cánh quân đột kích, hướng mũi thọc sâu cấp binh đoàn binh chủng hợp thành. Sự tổng thể của chiến dịch và độc lập của từng cánh quân trên chính là sự phát triển mới, hoàn thiện hơn, đa dạng hơn, sáng tạo hơn và phong phú hơn của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam ở trình độ cao nhất trong những điều kiện mới.


Khi tiến hành chuẩn bị kế hoạch chiến dịch, nghiên cứu thực tế trên chiến trường về địch và địa hình, mạnh yếu, thế bố trí trên địa bàn; đặc biệt là quá trình chuyển hoá thế và lực của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã xác định, đánh giá và đưa ra kết luận đúng, chính xác 2 đối tượng tác chiến chủ yếu của chiến dịch. Đó là, các sư đoàn chủ lực bố trí ở vòng ngoài; cơ quan đầu não chính trị, quân sự của địch trong nội đô. Từ cơ sở nhận định đánh giá chính xác tầm quan trọng, vị trí của từng đối tượng, Bộ Tư lệnh chiến dịch kết luận:

- Hai đối tượng này có quan hệ mật thiết với nhau.

- Đối tượng thứ nhất bị tiêu diệt sớm, sẽ làm đối tượng thứ hai mất chỗ dựa chủ yếu dẫn đến mau chóng mất ý chí đề kháng, tan rã hoặc đầu hàng.

- Đối tượng thứ hai bị tan rã hoặc đầu hàng sớm, thì đối tượng thứ nhất như rắn mất đầu cũng sẽ nhanh chóng bị tiêu diệt.

Xét tổng thể, toàn diện các phạm vi của chiến dịch và các mối quan hệ, sự vận động phát triển của các nhân tô cho thấy: chiến dịch hoàn toàn có đầy đủ khả năng giành thắng lợi chắc chắn. Giành thắng lợi bằng trí tuệ và sức mạnh tổng hợp. Từ những cơ sở thực tiễn, khoa học trên, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã quyết định những vấn đề cơ bản, chủ yếu của cách đánh chiến dịch như sau:

- Chọn hướng Bắc và Tây Bắc là hướng tiến công chủ yếu, trong đó hướng Tây Bắc là hướng chủ yếu nhất. Bởi vì, đây là hướng địch luôn chú trọng tăng cường phòng thủ từ trước đến nay. Trên hướng này có 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 3 đang chiếm giữ. Địa hình hướng này thuận lợi cho ta triển khai binh khí kỹ thuật và ngắn nhất để thọc thẳng vào nội đô. Đồng thời, đây cũng là hướng ngắn nhất để các lực lượng của ta đột kích, thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu quân sự chủ yếu của địch như: Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh các binh chủng, cơ quan chỉ huy đầu não của chúng và sân bay Tân Sơn Nhất, chỗ dựa cuối cùng để địch có thể rút chạy. Do đó, hướng này sẽ là nơi hiểm yếu của địch.

- Hướng Đông và Đông Nam cũng là hướng hết sức quan trọng. Bởi vì, địa bàn trên khu vực này rộng, lực lượng đông, có khu vực phòng thủ rắn như Biên Hoà, Long Bình, sở chỉ huy Quân đoàn 3. Địa hình thiên nhiên hiểm trở, có nhiều sông suối chia cắt. Đồng thời có nhiều cầu lớn phải bảo đảm để cơ động lực lượng. Trên hướng này ta đánh chiếm và chốt giữ được một số cầu lớn cũng là hướng thọc nhanh được vào Dinh Độc Lập, cơ quan đầu não Ngụy quyền Trung ương, là một mục tiêu chủ yếu trong nội đô. Bộ Tư lệnh cũng kết luận: đây là hướng hiểm yếu quan trọng.

- Hướng Tây Nam là hướng rất quan trọng, bất ngờ và nguy hiểm đối với địch. Đường quốc lộ số 4 là đường huyêt mạch nối liền giữa 2 quân khu. Nối Sài Gòn với đồng bằng sông Cửu Long. Cánh quân của Đoàn 232 hoàn toàn có khả năng chia cắt chiếm giữ các địa bàn quan trọng án ngữ trên toàn bộ trục đường. Đây là thế trận hoàn toàn chủ động của ta, có đủ khả năng đập tan ý đồ cuối cùng điều động lực lượng ứng cứu cho Sài Gòn từ Quân Khu 4 lên, hoặc tháo chạy từ Quân Khu 3 về của địch.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #76 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2022, 07:42:53 am »

Vấn đề chọn hướng tiến công, một nội dung rất quan trọng của cách đánh chiến dịch đã được phân tích thực tiễn, kỹ lưỡng, khoa học, phát triển. Bảo đảm chắc chắn cho cơ động triển khai lực lượng, bảo đảm sự chắc thắng đã được giải quyết, giải quyết trong mối quan hệ biện chứng. Đó là, sự liên quan giữa hướng tiến công và mục tiêu cần đánh chiếm trên các hướng đột kích đó.


Bộ Tư lệnh xác định rất tỷ mỷ những trận đánh quan trọng, mục tiêu cần đánh chiếm ở vòng ngoài, đến từng chiếc cầu cần chiếm giữ và bảo đảm không cho địch đánh phá. Mục tiêu chủ yếu ở vòng trong, nội đô: Bộ Tổng Tham mưu; Tổng nha Cảnh sát; Biệt khu Thủ đô; sân bay Tân Sơn Nhất; Dinh Độc Lập.


Nội dung cốt lõi bao trùm cách đánh, đó là sử dụng lực lượng tổ chức đội hình. Vấn đề sử dụng lực lượng bố trí đội hình phụ thuộc vào nhiều điều kiện, nhiều yếu tố khác nhau như: vị trí tập kết của từng cánh quân, khả năng, sở trường của từng đơn vị binh đoàn trong quân đoàn. Tổ chức lực lượng, bố trí đội hình để phát huy được sức mạnh, sở trường của các đơn vị, các lực lượng ngay từ đầu đến trong suốt quá trình chiến dịch.


Từ thực tiễn đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã quyết định sử dụng trên hướng Bắc, Tây Bắc, hướng chủ yếu của chiến dịch: Quân đoàn 3, Quân đoàn vừa chiến thắng lớn ở Tây Nguyên, đang có khí thế quyết tâm rất cao, quân số đã được bổ sung đầy đủ. Quân đoàn 1 thiếu một sư đoàn nhưng được tăng cường 1 trung đoàn bộ binh, là Quân đoàn dự bị chiến lược của Bộ, vừa cơ động từ miền Bắc vào, hiện đang rất sung sức. Đây là một quyết định chính xác, phù hợp với thực tế, tạo được sức mạnh tập trung trên hướng chủ yếu.


Sử dụng trên hướng Đông, Đông Nam 2 quân đoàn: Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4. Hai quân đoàn đã có nhiêu kinh nghiệm tác chiến hiệp đồng qui mô lớn, cũng vừa giành thắng lợi lớn ở Thừa Thiên - Huế - Đà Nẵng và miền Đông Nam Bộ. Riêng Quân đoàn 2, còn có kinh nghiệm chủ động, thọc sâu và tác chiến trong hành tiến.


Trên hướng Tây Nam sử dụng Đoàn 232, tương đương với quân đoàn, có nhiều kinh nghiệm tác chiến ở vùng đồng bằng, có kinh nghiệm tác chiến chia cắt và chốt giữ.

Trên tất cả 5 hướng của chiến dịch, Bộ Tư lệnh không tổ chức chia thành các nhiệm vụ trước mắt, tiếp sau, mà tổ chức đội hình mỗi hướng thành một cánh quân, hướng tiến công vào từng cụm mục tiêu. Tác chiến đột kích bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng và đều có lực lượng thọc sâu mạnh, lực lượng thọc sâu có qui mô cỡ binh đoàn binh chủng hợp thành. Trên từng cánh quân, chiến dịch đều qui định nhiệm vụ cụ thể, thời gian hoàn thành từng nhiệm vụ. Mỗi cánh quân tác chiến một hướng đều được tăng cường đủ mạnh, có đủ khả năng để hoàn thành nhiệm vụ và đều tổ chức lực lượng dự bị mạnh. Mặc dù trên từng hướng chiến dịch chỉ đạo các quân đoàn phải tổ chức sử dụng lực lượng cỡ trung đoàn, Sư đoàn để đột phá, mở cửa và đều phải tổ chức lực lượng thọc sâu cấp lữ, sư đoàn được tăng cường xe tăng, pháo binh và hành động kiên quyết táo bạo. Đội hình cụ thể của từng cánh quân giao quyền cho các quân đoàn quyết định.


Trong kế hoạch tác chiến của chiến dịch, chiến dịch không xác định và tổ chức lực lượng dự bị từ đầu. Nhưng qui định sau khi tiêu diệt Sư đoàn 25 Ngụy đánh chiếm căn cứ Đồng Dù trên hướng Tây Bắc, Sư đoàn 320 thuộc Quân đoàn 3 làm lực lượng dự bị cho chiến dịch. Đồng thời lực lượng dự bị của chiến lược là Sư đoàn 324 và Sư đoàn 968 cũng đã được lệnh sẵn sàng bước vào tác chiến trong đội hình chiến dịch trên các hướng.


Từ những tổng thể các vấn đề trong nội dung của cách đánh, đặc biệt là tổ chức sử dụng lực lượng. Chiến dịch lựa chọn và vận dụng cách đánh như sau:

Sử dụng một lực lượng thích hợp trên từng hướng, đủ sức hình thành thế bao vây, chia cắt, chặn giữ quản địch lại, không cho chùng rút chạy về Sài Gòn. Tiêu diệt và làm tan rã tại chỗ các sư đoàn bộ binh chủ lực của địch đang phòng thủ vòng ngoài. Đồng thời sử dụng đại bộ phận lực lượng của ta trên các hướng, nhanh chóng thọc sâu, đánh chiếm các địa bàn then chốt ở vùng ven ngoại vi Sài Gòn. Thực hành mở đường cho các binh đoàn đột kích cơ giới hoá đã được tổ chức chặt chẽ trên các hướng, tiến nhanh theo các trục đường lớn đột kích thắng vào 5 mục tiêu đã xác định trong nội thành cho từng cánh quân trên các hướng phải đánh chiếm. Các lực lượng đặc công, các đội biệt động, các lực lượng an ninh vũ trang và tự uệ thành phố, các lực lượng chính trị của quần chúng trong nội đô Sài Gòn - Gia Định cùng phối hợp với các cánh quân bằng: đánh chiếm, chốt giữ các cầu lớn bắc qua sông trên các hướng, chiếm giữ các bàn đạp cho bộ đội chủ lực có điều kiện tăng tốc độ tiến công. Thực hành dẫn đường cho các đơn vị, trừ gian và phát động, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy trên các hướng.


Với cách đánh chiến dịch xác định, thực hành tác chiến của các cánh quân theo cách đánh này đã chứng minh: sự lựa chọn và vận dụng cách đánh chiến dịch là rất đúng đắn, sáng tạo, đầy mưu lược, táo bạo, giành thắng lợi trên từng hướng nhanh trong khi ta tổn thất, thương vong lại rất thấp.


So sánh với các chiến dịch tiến công thông thường, kể cả các chiến dịch tiến công có ý nghĩa chiến lược, sử dụng lực lượng qui mô lớn. Xét về trật tự thời gian, lực lượng thọc sâu trong các chiến dịch khác, thường được sử dụng vào chiến đấu sau khi các lực lượng thê đội 1 thực hành đột phá xong và thường có qui mô nhỏ hơn. Chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng thọc sâu tổ chức qui mô lớn hơn, thường là cấp sư đoàn bộ binh ngồi trên xe tăng, được tăng cường pháo binh, công binh, cao xạ và các lực lượng bảo đảm khác. Lực lượng thọc sâu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh là một binh đoàn cơ giới binh chủng hợp thành rất mạnh. Thời cơ sử dụng lực lượng thọc sâu sớm hơn, có hướng diễn ra đồng thời với đột phá. Kết quả, lực lượng thọc sâu của các cánh quân trên các hướng, được các đơn vị đặc công, biệt động thành phố hỗ trợ đã tiêu diệt 1 sư đoàn và 3 lữ đoàn địch; 5 mục tiêu chiến lược xác định trong chiến dịch đều do lực lượng thọc sâu đánh chiếm.


Từ cách sử dụng lực lượng, yếu tố quyết định cách đánh, kết quả thực tiễn đã chứng minh: cách đánh trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã thể hiện trình độ nghệ thuật phát triển đên đỉnh cao của sự toàn diện của cách đánh. Tổ chức lực lượng thọc sâu bằng sức mạnh binh chủng hợp thành với qui mô lớn, thực hành tác chiến trong hành tiến, thời cơ sử dụng táo bạo, tạo được sự bất ngờ lớn đối với địch, tạo được đột biến lớn trong chiều sâu phát triển chiến dịch... Thể hiện sự phát triển vượt bậc đến đỉnh cao của nghệ thuật chiến dịch.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #77 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2022, 07:43:55 am »

Trình độ nghệ thuật vận dụng cách đánh chiến dịch còn thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn, hiệu quả giữa cách đánh chiến dịch với cách đánh cấp chiến thuật. Giải quyết thành công, thể hiện tính thực tiễn, khoa học giữa mối quan hệ của vây địch, diệt địch có tổ chức lực lượng mạnh ở vòng ngoài với tốc độ thọc sâu nhanh, thọc thẳng vào trung tâm mục tiêu, đánh gục cơ quan đầu sỏ của địch ở trong tung thâm. Hành động tác chiến đồng thời này đã tạo sự đột biến lớn, hiệu quả cao nhất, chưa chiến dịch nào có được.


Kết quả của sự kết hợp đồng thời giữa đột phá chiến dịch với thọc sâu chiến dịch trên từng hướng tuy có sự khác nhau về thời gian, chỉ đạo thời cơ sử dụng như: hướng Bắc, Tây Bắc lấy thọc sâu làm hành động tác chiến chính; hướng Đông và Tây Nam lấy hành động đột phá mở cửa trước, nhưng vẫn nắm vững thời cơ mở được cửa là thọc sâu ngay, không chờ đợi kết quả của đột phá. Điều này cho thấy, sự chủ động linh hoạt, sáng tạo, đa dạng và thực tiễn của từng hướng, nhưng vẫn nằm trong tư tưởng chỉ đạo chung của chiến dịch, không máy móc, dập khuôn và không hướng nào để lỡ thời cơ thọc sâu, hoặc không chặt chẽ giữa hành động đột phá với thọc sâu.


Ngày 29 tháng 4, khi các cánh quân thực hành tổng công kích vào thành phố, tất cả các hướng đều tiến công đồng loạt, liên tục, không chia thành các bước, không thực hành đánh lần lượt. Lực lượng chủ lực đã hành động đồng thời tiến công vòng ngoài với hành động thọc sâu quyết liệt. Đặc công, biệt động đánh bên trong, thực hiện trong ngoài cùng đánh. Sự kết hợp chặt chẽ giữa đòn tiến công của lực lượng quân sự, đã thực sự là uy lực hỗ trợ cho đòn nổi dậy của quần chúng trên địa bàn chiến dịch, đặc biệt là trong nội đô Sài Gòn.


Để có được cách đánh phong phú, sáng tạo và hiệu quả như trên, là sản phẩm của nhiều nhân tố. Đó là có sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương đã trực tiếp hướng dẫn chỉ đạo cách đánh; Bộ Tư lệnh chiến dịch nghiên cứu sâu sắc, toàn diện mọi nhân tố thực tiễn, dân chủ, bàn bạc trao đổi trong Bộ Tư lệnh, các cơ quan chiến dịch với các quân đoàn, từng bước hoàn chỉnh cách đánh chưng của chiến dịch. Trên cơ sở cách đánh chung chiến dịch, chỉ đạo vận dụng một cách linh hoạt vê cách đánh cho các quân đoàn trên các hướng.


Cách đánh trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã tạo ra một bất ngờ lớn đối với địch. Mặc dù địch biết ta đang chuẩn bị tổng công kích vào Sài Gòn - Gia Định từ nhiều hướng. Tiến công từ những hướng nào địch có thể dự đoán được một cách tương đối, nhưng vẫn bị bất ngờ. Khi ta thực hành tổng công kích đã trở tay, xoay xở không kịp. Thực tiễn so sánh giữa thế và lực thì địch không có giải pháp nào có thể xoay chuyển được thế trận. Lực lượng nào, ở đâu tự chống đỡ lấy, thực tế sự chống đỡ chắp vá, tự phát, không đáng kể và cũng không thể chống đỡ được. Chỉ huy đã thực sự bị rối loạn rất sớm, tư duy tan rã, sụp đổ đang bao trùm cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn. Với cách đánh bất ngờ, dũng mãnh, sáng tạo, đa dạng và áp đảo, bất cứ nơi nào ta công kích địch cũng sớm đầu hàng và tan rã.


Sự thành công lớn về cách đánh trong Chiến dịch Hồ Chí Minh còn thể hiện thành công về hiệp đồng. Sự thành công đó được thế hiện ngay từ kế hoạch hiệp đồng, duy trì và bổ sung hiệp đồng, thực hành các nội dung hiệp đồng trong quá trình công kích của từng cánh quân, của các cánh quân trên toàn mặt trận rất thành công, rất giỏi của Bộ Tư lệnh chiến dịch, các cơ quan và các cánh quân.


Qui mô binh hoả lực, phương tiện của chiến dịch nhiều; tác chiến trên 5 hướng trong phạm vi chiến dịch rộng đến 8 tỉnh, có thành phố lớn, trên 3 triệu dân, đường phố ngang dọc chi chít, hàng trăm mục tiêu quân sự, kinh tế quan trọng; 3/5 cánh quân đều cơ động từ xa đến, chiến trường chưa quen biết; thời gian tổ chức chuẩn bị chiến đấu ngay trong một cánh quân cũng quá gấp; thời gian chuẩn bị chiến dịch lại càng gấp hơn. Lượng vật chất kỳ thuật, đạn dược bảo đảm cho từng cánh quân rất lớn và nhiều lực lượng bảo đảm... Trong những điều kiện thực tiễn diễn ra hết sức phức tạp khẩn trương như vậy, nhưng các cánh quân đều rất nhịp nhàng ăn khớp với nhau về thời gian, địa điểm trong cách đánh một cách đồng thời của 5 cánh quân. Tất cả 5 hướng đều tiến vào nội đô Sài Gòn, cùng đánh chiếm các mục tiêu chiến lược đã được xác định gần như đồng thời cùng một thời gian, từ 10 giờ 30 đến 11 giờ 30 ngày 30 tháng 4. Sau đó cùng hợp điểm về Dinh Độc Lập. Những sự đồng thời lớn trên không có một sự cố nào lớn về hiệp đồng giữa các cánh quân. Có thể khẳng định, sự hiệp đồng để bảo đảm cho cách đánh chiến dịch là một thành công lớn kỳ diệu, được đánh giá như một huyền thoại về trình độ tổ chức chỉ huy của Bộ Tư lệnh chiến dịch, của các cơ quan và các lực lượng trên các hướng công kích.


Thực tiễn giữa kế hoạch dự kiến với diễn biến thực tế đã chứng minh, kế hoạch hiệp đồng cơ bản là đúng và chính xác. Từ khi mở đầu đến khi kết thúc chiến dịch, Bộ Tư lệnh chiến dịch hầu như không phải xử trí tình huống đột xuất, bất ngờ, phức tạp nào, không phải điều chỉnh bổ sung những tình huống diễn biến mới.


Chiến dịch Hồ Chí Minh, một chiến dịch tiến công có ý nghĩa chiến lược, những bài học kinh nghiệm tổng thể đã phát triển đến đỉnh cao, làm phong phú thêm nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam, nhất là nghệ thuật chiến dịch tiến công của chiến tranh nhân dân Việt Nan trong thời đại Hồ Chí Minh.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #78 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2022, 07:39:57 am »

Bài học thứ tư: Chiến dịch Hồ Chí Minh đã tận dụng và phát huy được giá trị của ba thứ quân, lấy tác chiến hiệp đồng quân binh chủng là chủ yếu, kết hợp được đòn tiến công quân sự và đòn nổi dậy của quần chúng phát huy được sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân.


Hoạt động quân sự - đấu tranh vũ trang là đặc trưng chủ yếu của chiến tranh. Trong giai đoạn "vãn hồi" của cuộc chiến, những đòn quân sự luôn giữ vai trò quyết định, thành bại của chiến tranh, đây là một qui luật khách quan. Khởi nghĩa vũ trang cũng là một qui luật của chiến tranh giải phóng, chiến tranh cách mạng. Lực lượng chính trị của quần chúng cách mạng có vị trí vai trò rất to lớn trong khởi nghĩa vũ trang. Đó là quan điểm tư tưởng chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ của Đảng ta.


Chuẩn bị lực lượng chính trị và đòn nổi dậy của quần chúng. Trong lịch sử các tầng lớp nhân dân Thành phố Sài Gòn - Gia Định có truyền thống kinh nghiệm đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, đấu tranh trực diện với địch. Phong trào đấu tranh ở cả vùng ven và trong nội đô, có lúc có nơi còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung phong trào vẫn rất sôi nổi. Mặc dù sống dưới chế độ kìm kẹp của chính quyền tay sai, nhân dân vẫn thây rõ bản chất xấu xa của kẻ thù, tầm hiểu biết về cách mạng vẫn rất sâu sắc, sẵn sàng hưởng ứng các cuộc đấu tranh khi có thời cơ. Những kinh nghiệm và truyền thống đấu tranh đó là những cơ sở rất quan trọng đê tổ chức và phát động quần chúng tiến hành nổi dậy. Vấn đề quan trọng nhất trong điều kiện này là: tập hợp được lực lượng của quần chúng và hướng dẫn họ hành động đúng thời cơ như thế nào?


Nắm vững những qui luật tất yếu của chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng. Thấy rõ vai trò và sức mạnh của quần chúng, giá trị của đòn nổi dậy, sự kết hợp giữa các đòn quân sự với đòn nổi dậy của quần chúng. Công tác chuẩn bị cho đòn nổi dậy của quần chúng được triển khai từ rất sớm. Các Hội nghị của Quân uỷ Miền tháng 7 năm 1974; Hội nghị Quân chính toàn Miền (chiến trường B2); Hội nghị đánh phá “bình định” do Trung ương Cục triệu tập tháng 10 năm 1974... Tại các Hội nghị này đểu đã phê phán những tư tưởng hữu khuynh, đều xác định chủ trương phát động quần chúng, đẩy mạnh 3 mũi giáp công, mở các vùng “lõm”. Đánh giá thực trạng về công tác này, tại thời điểm tháng 10 năm 1974, ở vòng ngoài thành phố ta đã xây dựng được cơ sở ở 80 xã vùng ven và 14 cơ sở ở xã đô thị hoá, có 251 ấp/337 ấp có cơ sở của ta, trong khi vẫn còn tới 86 ấp trắng. Đặc biệt ta đã đưa được 6 trung đoàn đặc công, 2 trung đoàn và 5 tiểu đoàn địa phương vào đứng hoạt động ở vùng ven, 1 lữ đoàn biệt động đứng trong nội đô là một thắng lợi rất lớn. Để chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, ngày 29 tháng 3 năm 1975, Trung ương Cục ra Nghị quyết 15, sau đó phổ biến cho Thành uỷ. Ngày 12 tháng 4, Thành uỷ có chỉ thị và hướng dẫn cụ thể để đẩy mạnh đòn nổi dậy, nêu thời cơ và những việc cần triển khai ngay trên các địa bàn. Điều chỉnh cách chỉ đạo nổi dậy cho từng cánh. Cánh A phụ trách các huyện Nam thành phố và nội đô; cánh B phụ trách các huyện ngoại thành và Gia Định. Tăng cường một số thành uỷ viên, quận uỷ viên vào chỉ đạo trực tiếp trong nội thành và vùng ven. Trung ương Cục phân công đồng chí Nguyễn Văn Linh trực tiếp phụ trách đòn nổi dậy của quần chúng. Trước ngày mở đầu chiến dịch, trên toàn thành phố, lực lượng chính trị ta đã tổ chức được hơn 40.000, trong đó có: 400 đảng viên, hơn 700 nòng cốt đoàn viên, hơn 4500 quần chúng có vũ trang, hơn 30.0000 quần chúng tích cực, hơn 400 tổ chức quần chúng công khai hợp pháp. Để bảo đảm cho các lực lượng này hoạt động, lôi kéo cổ vũ các quần chúng khác, ta đã chuẩn bị nhà in để in tài liệu, hàng trăm xe phóng thanh, may cờ, may biểu ngữ...


Như vậy, ngay từ nhận thức, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã đánh giá rất cao vai trò của đòn nổi dậy của quần chúng. Từ nhận thức đúng, đã chỉ đạo tổ chức lực lượng rất chu đáo, làm nòng cốt cho đòn nổi dậy từ trước khi mở đầu chiến dịch.


Chiến dịch Hồ Chí Minh đã sử dụng đòn tiến công quân sự rất mạnh, áp đảo quân địch, đi trước một bước thúc đẩy hỗ trợ, tạo đà cho đòn nổi dậy của quần chúng rất hiệu quả. Liên tiếp trong 2 ngày mở đầu chiến dịch, ngày 27 và 28 tháng 4, đòn tiến công quân sự đã đánh thiệt hại nặng Sư đoàn bộ binh 22 và cắt lộ 4 ở khu vực Tân An, Bến Lức; Sư đoàn bộ binh 18 và Thiết đoàn 3 quân Ngụy ở Trảng Bom, Biên Hoà; Sư đoàn thuỷ quân lục chiến ở Long Bình và Lữ đoàn dù 1 ở Bà Rịa.


Sáng ngày 29 tháng 4, đòn quân sự đã liên tiếp chặn đánh, tiêu diệt và làm tan rã các Sư đoàn 22, 25, 5, 18, Thuỷ quân lục chiến, Lữ đoàn dù 1, Lữ đoàn kỵ binh ở tuyến ngoài của địch. Cũng trong ngày 29 tháng 4, các Binh đoàn cơ giới hoá thực hành thọc sâu, tiêu diệt và làm tan rã luôn Sư đoàn biệt động quân vừa thành lập. Vượt qua các mục tiêu, chốt nhỏ lẻ trên dọc đường áp sát thành phố như Vĩnh Lộc, Bà Hom, Bà Quẹo, Lái Thiêu, cầu Đồng Nai. Cùng với lực lượng chủ lực đột phá, thọc sâu từ bên ngoài vào, các lực lượng đặc công, biệt động, bộ đội địa phương đã phá huỷ các trận địa pháo, đánh chiếm các đồn bốt, chiếm giữ các cầu vùng ven đô. Tính đến ngày 29 tháng 4, các lực lượng chủ lực thực hiện đòn tiến công quân sự cơ bản đã tiêu diệt và làm tan rã các đơn vị chủ lực địa phương là xương sống của địch. Đồng thời các đòn tiến công quân sự cũng đã kéo theo sự sụp đổ hoàn toàn bộ máy kìm kẹp, hệ thống chính quyền ở vùng ngoại vi thành phố.
Sự kết hợp tiến công rất kiên quyết và mạnh như vũ bão giữa đòn quân sự với sự nổi dậy của nhân dân thành phố dưới sự lãnh đạo của các cơ sở Đảng. Với sự hỗ trợ trực tiếp của các đơn vị đặc công, đội biệt động, bộ đội địa phương tại chỗ đã nổi dậy giành chính quyền cơ sở ở nhiều khu vực nội ngoại thành, trên thực tế đòn nổi dậy đã thực sự được phát động đúng thời cơ. Ở ngoại thành, tận dụng áp lực của các binh đoàn chủ lực tác chiến lướt qua, quần chúng ở cơ sở có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tại chỗ, kết hợp nổi dậy với tiến công binh vận khôn khéo và kiên quyết, đã làm quân địch tan rã, vứt súng, cởi bỏ quân phục, bỏ chạy tháo thân hoặc trà trộn vào dân để trốn tránh tạm thời. Đông đảo quần chúng đã xông vào phá huỷ các đồn bốt, chiếm các trụ sở xã ấp ở Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Gò Vấp, Thủ Đức... thu nhiều giấy tờ tài liệu, hạ cờ Ngụy, kéo cờ ta; chủ động lập chính quyền cách mạng, tham gia giải phóng các huyện ngoại thành.


Trong nội đô, khi đại quân trên các hướng tiến vào thành phố, quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ nổi dậy đánh chiếm đồn bốt, treo cờ, binh vận, uy hiếp tại chỗ làm tan rã bọn tề Ngụy, cảnh sát, dân vệ, chiếm trụ sở khóm phường của địch; giành quyền làm chủ ở 3 phường, khóm thuộc Quận 1; 2 phường thuộc Quận 2; 3 phường khóm và cơ quan hành chánh Quận 3; 3 phường khóm, cơ quan Quận 4; 6 phường khóm, cơ quan hành chánh Quận 5; 6 phường khóm cơ quan hành chánh Quận 6; 6 điểm toà hành chánh Quận 7; 4 điểm, toà hành chánh Quận 9; 8 điểm, toà hành chánh Quận 10; 4 điểm, toà hành chánh Quận 11; 5 điểm thuộc Quận Phú Nhuận; 4 điểm thuọc Quận Tân Bình; các cơ sở và toà hành chánh Gia Định. Các lực lượng kìm kẹp cảnh sát, dân vệ, cơ quan hành chánh chính quyền từ khóm phường, quận huyện dưới áp lực rất mạnh của đòn tiến công quân sự, trong đó có một phần do lực lượng vũ trang tại chỗ và quần chúng nổi dậy đánh chiếm hoặc tự tan rã tại chỗ. Đến chiều 30 tháng 4, về cơ bản ta đã giành quyền làm chủ, cách mạng đã kiểm soát tất cả các quận, huyện, xã phường trên toàn địa bàn thành phố Sài Gòn - Gia Định. Sau này khi có điều kiện ta đã thống kê được: có 107 điểm nổi dậy của quần chúng, gồm 31 điểm ở vùng ngoại thành, 76 điểm ở vùng nội thành; 32 điểm trong ngày đêm 29 tháng 4, 75 điểm vào sáng 30 tháng 4.


Thời khắc cuối cùng được tính bằng giờ của “triều đình” bán nước hại dân khi nội các ngụy đang “bàn” giải pháp ngừng bắn ở Dinh Độc Lập thì viên tướng Pháp - Va-luy-xem xộc vào phòng tình hình, ngăn đem cuộn băng ghi âm lời tuyên bố tự nguyện hạ vũ khí của “Tổng thống” Ngụy đi phát thanh. Hắn bàn với “Tổng thống” Ngụy bày kế chặn cuộc tổng công kích của ta vào Sài Gòn. Thật nực cưòi, thô bạo và trắng trợn, nhưng cuối cùng “giải pháp” đầu hàng vô điều kiện là giải pháp tối ưu và “thông minh” nhất cho sinh mạng của bọn chúng. Cuộn băng vẫn được phát đi, đề nghị “ngừng bắn... để cùng thảo luận về bàn giao chính quyền”.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #79 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2022, 07:41:10 am »

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã chỉ thị ngay cho mặt trận như sau: “Tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch, tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí của quân địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của địch”.


Bộ chỉ huy chiến dịch, sau khi thảo luận tập thể, đã ra mệnh lệnh gửi cho các quân khu, quân đoàn và các đơn vị:

“1. Các quân khu, quân đoàn, đơn vị tiếp tục phát triển tiến công thật nhanh vào các khu vực và mục tiêu đã qui định trong thành phố và địa phương.

2. Kêu gọi quân địch đầu hàng, nộp toàn bộ vũ khí, bắt giữ và tập trung các sỹ quan từ cấp tá trở lên.

3. Nếu chỗ nào địch chống cự thì lập tức tiến công tiêu diệt ngay”1 (Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân, NxbQĐND, H.2003, tr.251).


Ngày 30 tháng 4, ngay sau khi đập tan các đơn vị còn lại của địch ở Ngã tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả, Thủ Đức, cổng số 1 Bộ Tổng Tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, cầu Bình Phước, cầu Bình Triệu, cầu Sài Gòn, cầu Rạch Chiếc, cũng là thời điểm bộ máy kìm kẹp, chính quyền quân Ngụy ở những vùng này cũng tan vỡ theo. Các binh đoàn thọc sâu trên 5 cánh quân đồng thời đánh chiếm ngay các mục tiêu chiến lược đã được phân công; chín giờ 30 phút Tổng thống vừa được tiến cử Dương Văn Minh, người theo phái “có thể” thương lượng được với cộng sản, tuyên bố trên đài Sài Gòn xin ngừng bắn để bàn giao chính quyền, trên thực tế, chúng không còn gì để bàn giao. Mệnh lệnh của Tổng thống Ngụy quyền truyền lệnh cho Quân đoàn 3 lúc này cũng không có người nhận. Toàn bộ lực lượng chủ lực, địa phương, cảnh sát đã bị tiêu diệt hoặc đã tan rã. Hệ thống chính quyền quân Ngụy từ cơ sở quận huyện đã bị đập tan hoặc đã tan rã, hoặc đã bỏ chạy, đang bị quần chúng nhân dân nổi dậy truy lùng. Chính quyền Trung ương đã mất hết ý chí và đang tan rã, nội các Ngụy quyền Trung ương cuối cùng của chế độ do Mỹ dựng lên đang tập trung ở Dinh Độc Lập xin đầu hàng vô điều kiện lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975.


Kết quả sự phối hợp và tận dụng được hiệu quả của đòn tiến công quân sự, đòn tiến công chính trị nổi dậy của quần chúng diễn ra với rất nhiều hình thức phong phú đa dạng và hiệu quả, thực chất nổi dậy của quần chúng là một đòn chiến lược lợi hại, có tác dụng hết sức quan trọng và to lớn, góp phần giành thắng lợi chiến dịch nhanh chóng, gọn, triệt để và trọn vẹn:


Quần chúng đã xuống đường phố làm binh vận, lôi kéo tuyên truyền lực lượng kìm kẹp tại chỗ, thúc đẩy chúng vứt bỏ, giao nộp vũ khí, cởi bỏ quân phục, rút khỏi trụ sở, đồn bốt, tự bỏ về nhà hoặc chạy trôn ẩn náu.

Vận động quần chúng may cờ từ trước, khi lực lượng đột kích trên các cánh quân tiến quân vào đến đâu thì có cờ của Mặt trận Giải phóng mọc lên đến đó. Nhân dân tràn ra đường phố, treo cờ căng khẩu hiệu, sử dụng loa kêu gọi binh sỹ địch không được hoảng loạn bắn súng bừa bãi, phải giao nộp vũ khí đầu hàng. Sử dụng xe honđa, xe ôtô dẫn đường, chở bộ đội ta vào đánh chiếm các mục tiêu, truy lùng bọn ác ôn đang lẩn trốn trong thành phố.


Trên tất cả các nơi có cơ sở Đảng, công nhân viên chức trong các nhà máy, xí nghiệp đều đứng lên chiếm giữ và bảo vệ hầu như toàn vẹn các xí nghiệp công nghiệp, các kho bãi, tổ chức canh gác, giữ gìn tài sản, hồ sơ, máy móc, chờ người của cách mạng mới đến bàn giao. Điển hình là Nhà máy điện Chợ Quán, Nhà máy điện Thủ Đức, Nhà máy nước Thủ Đức vẫn tiếp tục bảo đảm nguồn điện, nước không bị gián đoạn. Đài phát thanh, Đài truyền hình thành phố sau 12 giờ ngày 30 tháng 4 đã phát hình theo chương trình mới của cách mạng. Ngay trong ngày 30 tháng 4 mọi sinh hoạt của thành phố đông dân nhất miền Nam hầu như đã trở lại sinh hoạt bình thường, thành phố tưng bừng như ngày hội với cờ hoa khẩu hiêụ và ánh sáng.


Kết quả của đòn nổi dậy thực sự là đòn chiến lược lợi hại, có nhiều tác dụng, nhiều giá trị nhân bản trong tư tưởng, phương châm chỉ đạo tập hợp lực lượng, vận dụng các phương thức đấu tranh, thời cơ sử dụng đòn nổi dậy trên địa bàn. Đòn nổi dậy của quần chúng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra trên địa bàn khá rộng lớn, nhưng chỉ giành được chính quyền ở cơ sở khóm, xã phường, quận, huyện. Không có tổng nổi dậy - tổng khởi nghĩa. Xét những nguyên nhân cụ thể cho thấy: trên thực tế phần lớn các mục tiêu chiến lược đã hoàn toàn tan rã và không còn hoạt động từ trưa ngày 28 tháng 4. Ngày 29 tháng 4 các hướng có thể rút chạy đã hoàn toàn bị ta vây chặt. Năm cơ quan đầu não cũng là 5 mục tiêu chiến lược gần như đồng thời bị các cánh quân trên các hướng đánh chiếm một lúc từ 10 giờ 30 đến 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4. “Như vậy, đến ngày 30 tháng 4, trên thực tế không có và cũng không cần thiết phải tổ chức chỉ đạo tổng nổi dậy - tổng khởi nghĩa”1 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Chiến dịch Hồ Chí Minh, H.1991, tr.90).


Những đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bao giờ cũng đi trước một bước, làm động lực thúc đẩy lực lượng chính trị của quần chúng vận dụng các hình thức đấu tranh đúng thời cơ. Đây là một qui luật của tập hợp và phát huy sức mạnh của các phương thức đấu tranh trong chiến tranh cách mạng. Các lực lượng tại chỗ trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ngoài những hoạt động tác chiến quân sự như: đánh chiếm hơn 100 mục tiêu lớn nhỏ, đánh chiếm 13 cầu, chiếm giữ 10 cầu bảo đảm cho chủ lực qua sông, khống chế sân bay Biên Hoà, pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhất...; thực hành dẫn đường cho các Binh đoàn chủ lực tiến nhanh vào các mục tiêu chiến lược; phát động hàng chục vạn quần chúng nhân dân và làm nòng cốt cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền làm chủ ở cơ sở trên nhiều địa bàn trong nội đô.


Có thể khẳng định rõ ràng một cách chắc chắn và khoa học rằng: nghệ thuật chỉ đạo kết hợp sức mạnh của các lực lượng, các hình thức phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân của Đảng ta là hoàn toàn đúng, sáng tạo và phong phú, có nhiều giá trị nhân bản nhân văn của chiến tranh cách mạng. Đòn nổi dậy của quần chúng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã thực sự có vai trò hết sức to lớn, đã làm nổi bật vẻ hoành tráng của bức tranh chiến tranh nhân dân Việt Nam.


Trong lịch sử các cuộc chiến tranh giải phóng trên thế giới. Lịch sử các cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc ta, khó có thể sưu tầm được một trường hợp nào khi: thủ đô của địch lại “bão hoà” về lực lượng vũ trang và bộ máy kìm kẹp, nhưng lại luôn bất ổn về chính trị, nhiều lần rung chuyển, lung lay vì các cuộc đấu tranh bền bỉ, quyết liệt của quần chúng như trường hợp Thành phố Sài Gòn.


Trong giai đoạn kết của chiến tranh cứu nước, chưa bao giờ sự kết hợp sức mạnh của đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị lại có điều kiện thuận lợi. Tập hợp thành một cao trào sâu rộng và hiệu quả như bây giờ. Sự hiệu quả đó đã góp phần thúc đẩy hơn nửa triệu quân Ngụy được trang bị mạnh nhanh chóng tan rã. Chính sự kết hợp đòn nổi dậy của quần chúng nhân dân đã góp phần kết thúc cuộc chiến “gọn gàng”, “sạch sẽ”, không rơi vào cảnh “tắm máu” như phương Tây “tiên đoán”. Mặt khác, đòn nổi dậy của quần chúng đã góp phần “trấn an” thành phố hơn 3 triệu dân, ngay trong ngày giải phóng vẫn có điện, nước sinh hoạt bình thường. Sinh mạng, tài sản của dân chúng vẫn được bảo đảm an toàn, không hề có cảnh “hỗn quân, hỗn quan” như mấy ngày “rã đám”, “tử thủ” của Ngụy quyền.


Nghiên cứu lịch sử cho thấy: đây quả là một kỳ tích, một huyền thoại, khắc sâu vào lòng người. Chỉ có cuộc chiến chính nghĩa của một dân tộc đại nghĩa, một dân tộc khát khao tự do độc lập, vùng lên giành quyền làm chủ vận mệnh của mình hoà nhập và tận dụng được cùng các đòn sấm sét của các Binh đoàn chủ lực mới có sự kỳ diệu đó được. Đồng thời kết quả của đòn nổi dậy là một nét độc đáo trong thế và lực tổng hợp của chiến tranh nhân dân. Thắng lợi là tất yếu của trí tuệ và ý chí của một dân tộc được tập hợp dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng và Bác Hồ kính yêu. Một bước ngoặt lịch sử chói lọi, đưa dân tộc ta tiến lên trong giai đoạn cách mạng mới.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM