Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:07:50 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 1  (Đọc 3087 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #40 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2021, 06:49:31 pm »

NGHỆ THUẬT ĐÁNH BẤT NGỜ TRONG CHIẾN THẮNG ĐỐNG ĐA


Giành bất ngờ và phát huy hiệu lực của bất ngờ là một trong những nhân tố chủ yếu, nhân tố thực chất đưa tới chiến thắng Đống Đa lừng lẫy.

Như chúng ta đã biết, từ xưa tới nay, trong chiến tranh, trên tất cả các quốc gia, ở mọi loại tác chiến, từ các hội chiến lớn đến các trận đánh nhỏ, người chỉ huy quân sự ở cấp nào cũng mong muốn và đều có ý chí, nguyện vọng giành lấy bất ngờ và phát huy hiệu lực của nó để giành thảng lợi. Toàn bộ lịch sử quân sự đã chứng minh điều đó.


Trong cuốn Binh pháp thập tam thiên, một cuốn sách lý luận quân sự nổi tiếng của Trung Quốc, ra đời cách đây 2.500 năm, Tôn Tử đã viết:

"... Tiến công nhất định sẽ thắng là vì đã đãnh vào chỗ địch không chú ý đề phòng...".

Đến đầu thế kỷ XIX, ở nước Phổ, khi viết tác phẩm lý luận quân sự đồ sộ bàn về chiến tranh, Claudơvít đã dành cả chương IX trong tập 3 để nói về bất ngờ.

Ở Việt Nam ta, vào thế kỷ XV, trong bài cáo Bình Ngô, khi bàn về nhân tố này, Nguyễn Trãi cũng nêu rõ:

   "Lấy yếu thắng mạnh nên đánh bất ngờ
   Lấy ít địch nhiều thường dùng mai phục"

Nguyễn Huệ cũng vậy. Về nghệ thuật đánh bất ngờ, ông xứng đáng ở vị trí bậc thầy. Bằng nghệ thuật quân sự điêu luyện của mình, không chỉ ông đã đánh thắng địch trong từng hội chiến, từng trận chiến đấu mà còn đánh thắng địch trong cả một cuộc chiến tranh lớn chính vì ông đã biết gây cho chúng một bất ngờ lớn về chiến lược.


Trong chiến thắng Đống Đa, do giành được và phát huy hiệu lực của nhân tố bất ngờ trên tất cả mọi mức độ mà Nguyễn Huệ đã đánh tan đạo quân xâm lược Mãn Thanh, kết thúc thắng lợi cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại năm 1789.


Xét về tương quan lực lượng, ở hội chiến này đã nổi bật lên hai điều kiện. Thứ nhất là về quân số, địch có 3 ta có 1. Tuy rằng cố gắng hết mức nhưng Nguyễn Huệ vẫn không đủ sức tập trung được lực lượng đáng kể cho từng trận, từng hội chiến. Như vậy, rõ ràng là không chỉ trong toàn bộ cuộc chiến tranh mà ngay trong từng mức độ tác chiến, ưu thế số lượng vẫn luôn luôn nghiêng về phía quân Mãn Thanh. Thứ hai là dù đã chuyển sang tạm dừng tác chiến, địch vẫn đang nắm trong tay quyền chủ động chiến lược. Do hai điều kiện đó, Tôn Sĩ Nghị vẫn đinh ninh là đối phương không thể đủ khả năng để thực hành tiến công chiến lược.


Quy luật của chiến tranh từng xác định đã tiến công là phải tạo được ưu thế. Nhưng vì số quân không nhiều, trong chừng mực nào đó cũng có phần bị động, Nguyễn Huệ không thể đánh thắng một đạo quân đông lại đang nắm quyền chủ động chiến lược như vậy được. Bởi thế, không có cách nào hơn là ông phải phát huy yếu tố bất ngờ, tạo thế mạnh, áp đảo đối phương, nhất là phát huy yếu tố bất ngờ chiến lược. Gây được bất ngờ là tạo được ưu thế, dùng mạnh đánh yếu, dùng thế mạnh hủy diệt trong một thời gian ngắn nhất mà ta lại tổn thất ít nhất. Bất ngờ chiến lược sẽ nhân sức mạnh áp đảo lên gấp bội.


Vậy bất ngờ chiến lược được biểu hiện như thế nào? Trước hết, Nguyễn Huệ sử dụng một phương thức hành động hết sức bất ngờ là thực hành tiến công chiến lược ngay sau khi địch lầm tưởng là đối phương "sợ hãi đã ôm đầu chạy trốn", phải bỏ Bắc Hà rút về Biện Sơn - Tam Điệp. Thứ hai là tạo cho địch những nhận định sai lầm và duy trì niềm tin đó về ý đồ chiến lược của ta. Biết rõ Tôn Sĩ Nghị tự cao tự đại, xem đối phương "như hạng trâu dê", "nhổ bãi nước bọt, xoa tay là xong", trên đường tiến quân ra Bắc, Nguyễn Huệ cho người đem thư trá hàng: "Nay đại nhân vâng lệnh của Thiên hoàng đế, hỏi tội thần về việc đuổi chúa, cướp nước. Thần xiết bao run rẩy sợ hãi. Chuyến này đến đây, thần sẽ tới tại chỗ gần gũi để chờ lệnh đại nhân phân xử". Quả nhiên, viên tướng họ Tôn trúng kế, lớn tiếng ra lệnh: "Hãy rút về Thuận Hóa để chờ phân xử’. Từ đó, hắn càng chắc mẩm "tên tù trưởng mọi rợ sợ oai phải đầu hàng" nên không hề có sự đề phòng, có chăng chỉ là sự đối phó với các cuộc tiến công nhỏ. Thứ ba là Nguyễn Huệ cho chủ lực xuất hiện phía cạnh sườn và sau lưng địch ở Hải Dương, Lạng Giang, Phượng Nhãn nhằm cắt đứt đường rút lui, đường tăng viện và tuyến hậu cần chiến lược của địch đồng thời giáng một đòn rất hiểm là đánh thẳng vào nơi sơ hở nhất, thọc sâu vào đại doanh của địch ở cung Tây Long, làm rối loạn ngay từ đầu sự chỉ huy của cơ quan đầu não, cô lập hoàn toàn tập đoàn chiến lược phía Ngọc Hồi để tiêu diệt được nhanh gọn. Thứ tư là đi trước địch, chọn đúng thời cơ chuyển sang tiến công chiến lược, tiến công một cách thần tốc. Biết rằng "đến sang xuân, vào ngày mồng 6" địch "sẽ xuất quân", Nguyễn Huệ cướp thời gian, quyết giành thắng lợi vào trưa mồng 5. Lợi dụng những ngày Tết, thời gian người ta thường nghỉ ngơi, quân lính giặc cũng "đang chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân" nhất là vừa mới giành được một số thẳng lợi bước đầu, dễ sơ hở, Nguyễn Huệ mở ngay đợt phản công chiến lược, vì lực lượng có hạn, nếu không nhanh chóng tiêu diệt địch, để thời gian tác chiến kéo dài, địch sẽ tìm cách đối phó, ông đã hành động hết sức quyết liệt, nâng cao tốc độ tiến công lên 16km/ngày tưởng chừng như "tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên" khiến chính Tôn Sĩ Nghị cúng phải hốt hoảng kêu lên: "Sao mà thần đến thế!". Thứ năm là Nguyễn Huệ áp dụng phương thức tổng hội chiến để tiến hành tác chiến nghĩa là cùng một lúc, vào rạng sáng mồng 5, khi đạo quân Đặng Tiến Đông tiêu diệt xong các đồn Nam Đồng, Khương Thượng, đang tiến nhanh về phía cung Tây Long thì ở phía Nam, quân chủ lực, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Huệ, cũng bắt đầu nổ súng công kích vào tập đoàn chiến lược Ngọc Hồi, giết chết tại trận hàng vạn tên cùng với các phó tướng Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long.


Do giành được bất ngờ chiến lược như vậy nên kết quả là trong vòng năm ngày đêm, bằng một tổng hội chiến thần tốc, Nguyễn Huệ đã đánh bại hoàn toàn đạo quân xâm lược Mãn Thanh, tiêu diệt và làm tan rã 29 vạn tên, quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi, giành lại quyền làm chủ kinh thành Thăng Long cũng như làm chủ trên cả đất nước. Thật là một sự kiện rất hiếm có trong lịch sử quân sự Việt Nam cũng như trong lịch sử quân sự thế giới.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #41 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2021, 06:50:00 pm »

Không chỉ gây nên sự bất ngờ lớn về chiến lược, Nguyễn Huệ còn gây nên những bất ngờ khác cho địch trong từng hội chiến, từng trận đánh.

Ở Ngọc Hồi, phải lấy 1 thắng 2, quân địch lại biết quân ta đã có mặt ở Hà Hồi, sớm muộn rồi chúng cũng bị tiến đánh, vậy phải làm thế nào để đạt được bất ngờ? Nhằm giấu kín ý đồ đánh lớn, trong ngày mồng 4, trên toàn chính diện, Nguyễn Huệ cho các đội kỵ binh, các đội quân lưu động tiến hành các trận đánh nhỏ, thực chất là để tiêu hao lực lượng địch, gây cho chúng những hoang mang, những sai lệch. Vì thế cho tới đêm mồng 4, Tôn Sĩ Nghị vẫn cho rằng "đối với giặc, không có gì đáng lo ngại". Hứa Thế Hanh cũng tuyên bố: "Đến sáng mai hội quân lại đánh, xem ta quét sạch người Nam". Việc sử dụng pháo binh đối với địch ở đây cũng là một điều không ngờ. Tôn Sĩ Nghị vẫn yên trí quân ta chỉ có voi chiến làm lực lượng đột kích. Chả thế mà điều quân luật thứ tư của quân Thanh đã ghi rõ: "... Sức voi tuy khỏe, chung quy cũng là thân máu thịt, không thể đương được với súng ống của ta. Nếu thấy voi ra trận, xa thì bắn súng, gần thì dùng cung và lao, làm cho nó bị đau và chạy trở lại, giày xéo lẫn nhau, quân ta nhân cơ hội ấy mà tiến lên chém giết...". Sự thật thì đến trận Ngọc Hồi, quân ta đã sử dụng pháo - voi, đặt đại bác trên lưng voi chiến, pháo di chuyển nhanh hơn, tính cơ động phát huy tốt hơn, việc sử dụng pháo binh linh hoạt thêm, tạo được hỏa lực cao trên những điểm quyết định. Bởi vậy khi bất ngờ trông thấy "voi chở đại bác xông ra trận" quân địch vội bỏ chạy tán loạn vì khiếp nhược, không chống cự nổi. Ở Ngọc Hồi, địch xây dựng trận địa thành tuyến chiến lũy khá kiên cố. Muốn chọc thủng tuyến trận địa này phải áp dụng một phương pháp tác chiến mới, bất ngờ với địch, Nguyễn Huệ dùng chiến thuật những tung đội sâu, có sự hợp đồng tác chiến giữa bộ binh, tượng binh và pháo binh. Sau khi pháo binh bắn mật tập, bộ binh xung kích tràn lên, có tượng binh làm lực lượng đột kích đi cùng.


Ở Đầm Mực, do giấu kín được tuyến cơ động, đạo quân của đại đô đốc Bảo đã bất ngờ xuất hiện ngay trên tuyến địch định rút về. Sau đó bằng pháo binh, tượng binh, quân ta đã dồn toàn bộ số quân địch vừa thoát chết ở Ngọc Hồi, vào trận địa phục kích. Và ở đây, chúng đã bị đội tượng binh, 200 con voi chiến giày nát. Trong số đó có cả tổng binh Thượng Duy Thăng.


Ở Thăng Long, trong từng trận chiến đấu, địch cũng không khỏi bị những bất ngờ. Tại Khương Thượng, cũng do biết giữ bí mật tuyến cơ động nên đạo quân Đặng Tiến Đông đã bất ngờ xuất hiện được ở nơi địch yếu nhất, sơ hở nhất, hoàn toàn không có sự chuẩn bị. Do xuất hiện bất ngờ, nổ súng bất ngờ, xung kích bất ngờ nên trận đánh đả được giải quyết nhanh gọn. Tuyệt vọng vì thiếu biện pháp ứng phó, Sầm Nghi Đống đã treo cổ tự tử. Tại cung Tây Long, sau khi san phẳng các đồn Khương Thượng, Nam Đồng, quân ta dùng lực lượng kỵ binh nhẹ, bất ngờ chọc thủng vào soái phủ, gây nên sự hoảng loạn cực kỳ cho chính bản thân chủ tướng Tôn Sĩ Nghị, phó tướng Hình Đôn Hạnh, tổng binh Lý Hóa Long, ở đây, một điều diễn ra quả thật bất ngờ và khủng khiếp với quân địch là cùng với quân đội tiến công vào Thăng Long, nhân dân chín xã ngoại thành cũng lần lượt nổi dậy, dùng rơm rạ đốt thành "trận rồng lửa", khắp bốn bề vây kín quân cướp nước.


Qua một số nét vừa trình bày, chúng ta thấy chiến thắng Đống Đa là một mẫu mực về nghệ thuật đánh bất ngờ trên cả ba mức độ: chiến lược, hội chiến và chiến đấu.

Nhờ phát huy được yếu tố bất ngờ, quân đội và nhân dân Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, do Nguyễn Huệ lãnh đạo và chỉ huy, đã thu được những kết quả to lớn: đánh thắng địch khi chúng không chuẩn bị, không chờ đợi; nhanh chóng giáng cho chúng những tổn thất hết sức nặng nề; làm tê liệt ý chí chiến đấu và gây nên những hoảng loạn trong đội ngũ của địch; tước mất mọi khả năng đề kháng của chúng do đó đã đánh bại hoàn toàn một đạo quân xâm lược lớn mạnh trong một thời gian cực ngắn với một tổn thất thấp nhất.


Vì vậy, trong hoàn cảnh phải lấy ít đánh nhiều, sự bất ngờ là một nhân tố tạo thành thế mạnh áp đảo. Qua thực tiễn chiến thẳng Đống Đa, nổi rõ lên những điều kiện đạt bất ngờ đó là: tạo sai lầm cho địch đối với ý định của ta; giữ tuyệt đối bí mật kế hoạch hành động và những chuẩn bị tác chiến; tính đột nhiên trong công kích vào những nơi địch không chờ đợi; hành động kiên quyết và thần tốc và cuối cùng là sử dụng khéo léo các phương tiện và các phương thức chiến đấu mới.


Tóm lại, tạo bất ngờ là kết quả của cả một quá trình rất phức tạp. Đó là thành quả của thiên tài trí tuệ thống soái tối cao, của tài năng sáng tạo ở mọi cấp chỉ huy, của năng lực chiến đấu cao và kỷ luật nghiêm của rộng rãi quần chúng binh sĩ, của phương pháp hành động của mọi binh đội, của toàn bộ sự đào luyện về quân sự và chính trị của quân đội Việt Nam do Nguyễn Huệ chỉ huy ở thời đại này.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #42 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2021, 08:54:08 pm »

KIỂU CÔNG KÍCH THỨ NĂM TRONG LỊCH SỬ


Trên chiến địa, khi quân đội hai bên đối địch, nếu có ý định tiến công, thường áp dụng các kiểu công kích - theo tiến trình lịch sử - sau đây:

Thứ nhất: Kiểu công kích đơn giản nhất, công kích bằng trận tuyến song song. Đó là khi mà cả hai bên tiến công đồng thời trên toàn bộ chính diện bằng cách dàn đều lực lượng, suốt từ phía sườn này sang phía sườn kia và kết cục trận đánh được giải quyết bằng sức mạnh. Tiêu biểu cho kiểu công kích này là hội chiến Ma-ra-tông (490 trước Công nguyên). Thứ hai, công kích theo đội hình chếch. Đó là phương pháp tập trung lực lựợng, tiến công vào một bên sườn quân địch, do Ê-pa-mi-nông-đát sáng tạo ra và đã chiến thắng rực rỡ ở hội chiến Lớt (371 trước Cổng nguyên). Thứ ba, công kích bằng cánh quân ở giữa, còn các cánh hai bên sườn lùi lại phía sau làm đội dự bị. So với hai kiểu trên, kiểu công kích này có nhiều thiếu sót hơn cả, ít được áp dụng và không khi nào mang lại kết quả. Do áp dụng kiểu công kích này, đạo quân La Mã đã bị bao vây và bị tiêu diệt gọn ở hội chiến Can (216 trước Công nguyên). Thứ tư, công kích bằng các cánh quân cạnh sườn, hoặc là đồng thời hoặc là lần lượt. Trong khi ấy, cánh quân trung tâm lui về phía sau. Đây là chiến thuật mà Na-pô-lê-ông rất ưa thích. Khi giáp chiến, ông bắt buộc kẻ địch phải giảm bớt số quân ở trung tâm để tăng cường cho các cạnh sườn, còn bộ phận trung tâm, ông bố trí lùi lại phía sau và được tăng cường bằng một lực lượng lớn kỵ binh dự bị và cuối cùng lao vào lỗ thủng chính giữa đội hình quân địch và kết thúc trận đánh bằng một đòn tiêu diệt. Hội chiến Au-xtéc-lích (1805) là một điển hình của kiểu công kích này.


Qua bốn kiểu công kích trên, chúng ta thấy rõ ở kiểu công kích thứ nhất, việc thực hiện thuần túy là bằng sức mạnh, bằng vũ lực. Từ kiểu công kích thứ hai trở đi mới có sự tham gia của tư duy, của trí tuệ. Ở đây, một điều cần nhớ: nhược điểm muôn thuở của đội hình chiến đấu là mạnh phía trước, phía chính diện, và yếu ở hai bên. Biết rõ như vậy, các vị chỉ huy quân sự của mọi thời đại đều tìm hết cách tăng cường lực lượng để bảo vệ cạnh sườn của mình và "khai thác triệt để" mặt yếu này của đối phương để giành thắng lợi. Tại Ma-ra-tông, một hội chiến được công kích theo kiểu dàn đều lực lượng, những người cầm quân chiến đấu hai bên đều tìm đủ cách khắc phục việc "hở sườn". Quân Ba-tư dùng kỵ binh, quân Hi Lạp dùng bộ binh nặng, những người lính tinh nhuệ nhất. Chỉ tiếc rằng hành động công kích ở đây còn rất "thật thà", chỉ biết chia đều lực lượng trên một đội hình chiến đấu xơ cứng, nặng nề nên hiệu suất chiến đấu đã bị hạn chế rất nhiều. Từ chỗ dàn đều lực lượng ở Ma-ra-tông đến chỗ tập trung sức mạnh ở Lớt, quân đội các thành bang Hi Lạp cổ đại phải trải qua thực tế chiến trận hơn một trăm năm. Thế nhưng sự dồn sức đó cũng chỉ biết hướng vào một điểm trên cánh của chính diện. Phải chờ đến hội chiến Ac-ben-la (331 trước Công nguyên), hành động vu hồi vào cạnh sườn và phía sau mới hình thành rõ nét. Đây là một hội chiến - dưới sự chỉ huy của A-lếch-xăng Ma-xê-đoan - tiêu biểu cho sự phát triển nghệ thuật quân sự tới mức cao nhất của nhà nước chiếm hữu nô lệ Hi Lạp. Nhà nước La Mã ra đời. Đội hình chiến đấu ma-ni-puyn (cũng gọi là ma-níp) rồi đội hình cô-hoóc lần lượt thay thế đội hình pha-lăng. Bởi vậy, các lực lượng chiến đấu đã "có sức cơ động lớn, nên đội quân La Mã đã vượt xa đội quân Hy Lạp". Thế nhưng điều đáng tiếc là tại hội chiến Can, Va-rông, vị chỉ huy quân đội La Mã, đã không phát huy được ưa thế đó mà đã tổ chức đội hình siết chặt dày đặc của mình theo kiểu pha-lăng, lạc hậu tới ba trăm năm, với thế trận mạnh ở giữa và yếu ở hai cạnh sườn, một kiểu đội hình mà những điểm yếu được phơi trần ra nên đã dễ dàng bị quân Các-ta-giơ, dưới sự chỉ huy của Ha-ni-ban, tiêu diệt gọn. Từ thời điểm đó, hội chiến Can được xem là một minh chứng lịch sử về nghệ thuật hợp vây, một trong những hội chiến điển hình đối với sự hình thành và phát triển của nền nghệ thuật quân sự châu Âu cũng như trên phạm vi toàn thế giới trong thời cổ đại. Vượt qua thời trung đại, cụ thể là tới 2021 năm, từ hội chiến Can (216 trước Công nguyên) đến hội chiến Au-xtéc-lich (1805), nghệ thuật quân sự loài người mới nhận được một kiểu công kích mới, kiểu công kích thứ tư, cũng là kiểu công kích đầu tiên trong thời đại vũ khí nóng. Ưu điểm nổi bật của kiểu công kích này là Na-pô-lê-ông đã biết khai thác triệt để chỗ yếu từ hai bên cạnh sườn của đội hình chiến đấu bằng cách tăng cường lực lượng ở những chỗ đó phía đội hình quân mình rồi lần lượt tiến công vào hai cạnh sườn đội hình đối phương. Cũng trong hội chiến này, pháo binh từng trở thành chiến thuật riêng, vốn được áp dụng vào trong thực tiễn chiến trường - có thể xem như là một nghệ thuật đặc biệt của người Pháp mà sau đó, tất cả các dân tộc châu Âu đều bắt chước - đã nhanh chóng làm rối loạn đội hình địch ngay từ đầu, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ binh tiến lên tiêu diệt địch theo đội hình giãn thưa kết hợp các khối dọc.


Trở lên trên, bài viết đã lần lượt trình bày bốn kiểu công kích tại chiến trưòng châu Âu, từ cổ đại đến cận đại. Đặc biệt là ở châu Á, cụ thể là ở Việt Nam, vào cuối thế kỷ XVIII, quân đội Tây Sơn, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, đã xuất hiện một kiểu công kích mang màu sắc phương Đông. Đó là công kích thẳng vào chính diện đồng thời vu hồi vào hai cạnh sườn và sau lưng. Hội chiến Ngọc Hồi - Đống Đa (1789) là một thí dụ điển hình. Tại đây, Nguyễn Huệ đã xác định rõ đối tượng công kích là những tập đoàn chủ yếu nguy hiểm nhất của đối phương. Vì vậy, đồn Ngọc Hồi và cung Tây Long, hai vị trí then chốt trong toàn bộ thế bố trí của địch đã trở thành những mục tiêu của hành động. Còn các mục tiêu khác ở Sơn Tây, ở phía bác sông Hồng, ông thấy không cần "đụng chạm" tới vì biết rằng chúng sẽ phải tháo chạy khi bị uy hiếp mạnh. Đối với toàn chiến cục, Nguyễn Huệ thực hiện phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa khối công kích tiến đánh phía trước với khối bao vây, vu hồi phía sau. Riêng các mục tiêu công kích, ông không áp dụng phương pháp "cuốn chiếu" mà tiến hành tiến công gần như cùng một lúc, trước sau chỉ gói gọn trong một trống canh. Nhằm bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ, gây rối loạn cho sự chỉ huy của địch ngay từ đầu, cung Tây Long - nơi đặt đại bản doanh của chủ tướng Tôn Sĩ Nghị - được xử lý trước bằng một lực lượng gọn nhẹ, có sức đột kích mạnh và nhất là có sức cơ động nhanh, dưới sự chỉ huy của một vị tướng tài: đô đốc Đặng Tiến Đông. Còn Ngọc Hồi, một "điểm rắn", một vị trí rất "gai góc", do Hứa Thế Hanh chỉ huy, một viên tướng người Mãn, có "tầm cỡ" từng được vua Càn Long đánh giá là một "đề đốc đại viên" thì Nguyễn Huệ trực tiếp đảm nhiệm. Để chắc thắng, riêng ở vị trí này, ông cũng áp dụng phương pháp tác chiến bằng sự hiệp đồng chặt chẽ giữa công kích phía trước - phía Nam Ngọc Hồi với lực lượng chủ yếu - và bao vây phía sau - của đội dự bị mạnh, với mấy trăm voi chiến, đặt dưới sự chỉ huy của đại đô đốc Bảo - đã dồn số tàn quân địch - từ Ngọc Hồi thoát ra - xuống Đầm Mực và tiêu diệt hoàn toàn. Như trên đã nói, đối với toàn chiến cục, Nguyễn Huệ thực hiện kiểu công kích thẳng vào chính diện đồng thời vu hồi vào các cạnh sườn và sau lưng. Theo thuật ngữ quân sự phương Đông, đây là phương pháp tác chiến theo kiểu "chính - kỳ". Vì thực chất của nó là "dùng chính để đối địch, dùng kỳ để đánh thắng". Tại hội chiến này, phương pháp đó được thể hiện thành nhiều lớp, lồng vào nhau, tạo thành một thế trận bao vây chặt và kín khiến đối phương không thể nào thoát ra được. Nếu như đội dự bị, sau đó trở thành đạo kỳ binh - xuất hiện ở Đầm Mực - của chính binh đánh thẳng vào chính diện Ngọc Hồi thì tất cả lực lượng ở đây lại là chính binh của đạo kỳ binh đánh vào cung Tây Long. Và tất cả các lực lượng tác chiến này ở phía Nam sông Hồng lại trở thành chính binh của đạo kỳ binh, dưới sự chỉ huy của đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, đánh vào phía sườn trái của địch ở Hải Dương cũng như của đạo kỳ binh, dưới sự chỉ huy của đại đô đốc Lộc, tiến ra Lạng Giang, Phượng Nhãn, phục kích, chặn đường rút chạy của tàn quân địch. Chỉ tiếc là gió mùa đông - bắc cản trở, cánh quân phục kích này không hoàn thành được nhiệm vụ, nếu không, chắc chắn rằng vị Tổng đốc Lưỡng Quảng họ Tôn kia đã không thoát thân về được tới Thiên triều để đi nhậm chức Tổng đốc Lưỡng Giang.


Ở đây có một điều đáng quan tâm là so với bốn kiểu trên thì kiểu công kích này xuất phát từ phương pháp tác chiến "chính - kỳ" cổ xưa của phương Đông nhưng có đưa vào đấy các yếu tố mới mà nổi bật lên là những người chiến binh nông dân giàu lòng yêu nước, có khả năng chiến đấu cao so với thời ấy và những khẩu súng cầm tay nòng trơn bên cạnh những cây giáo dài quen thuộc, hai yếu tố làm cơ sở cho việc xuất hiện đội hình giãn thưa kết hợp các khối dọc. Và rồi phép đánh "chính - kỳ" truyền thống kết hợp với đội hình chiến đấu mới đó - dưới tài năng quân sự kiệt xuất của Nguyễn Huệ - đã hình thành nên một kiểu công kích mới, kiểu công kích thứ năm trong lịch sử quân sự thế giới.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #43 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2021, 08:54:54 pm »

ĐIỆU HỔ LY SƠN


Nói đến đấu tranh vũ trang là phải nói đến sức mạnh, mạnh được yếu thua. Trong loài thú lại không có con vật nào có sức mạnh bằng con hổ, khi mà trình độ khoa học kỹ thuật của loài người đang còn thấp kém, sức mạnh còn hoàn toàn dựa trên năng lực sinh học. Cho nên "chúa sơn lâm" vẫn hay được dùng làm biểu tượng cho sức mạnh quân sự nhất là khi tư thế của con thú dữ này là nằm trong hang, ở trên núi. Bên cạnh đó, binh thư cổ lại dạy "tị thực, kích hư" - tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu. Điều đó có nghĩa là khi đối phương còn ở trong căn cứ, trong thành quách thì không nên công kích mà tốt nhất là dụ chúng ra khỏi vị trí - như lừa con hổ ra khỏi núi - để mà diệt. Từ đó, thuật ngữ quân sự xuất hiện cụm từ "điệu hổ ly sơn". Đây cũng là cách đánh sở trường của quân và dân ta trong tác chiến vận động. Trong lịch sử chiến tranh yêu nước Việt Nam đã nổi lên nhiều dẫn chứng sinh động như thế.


Đó là trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1285. Số là sau 5 tháng nhử quấn xâm lược vào sâu, dàn mỏng lực lượng địch, đẩy chúng vào thế bị động, cuối tháng 5, quân và dân ta bắt đầu mở trận đánh lớn vào khối đại quân của chúng ở Thăng Long, đưa cuộc chiến tranh sang giai đoạn phản công chiến lược.


Để thực hiện ý đồ này, quân các lộ và các đội dân binh từ hướng bác, hướng tây và tây nam đã đánh úp hàng loạt các đồn lũy bao quanh Thăng Long nhằm thu hút, kìm chân và đánh lạc hướng địch để quân chủ lực bất ngờ giáng một đòn mãnh liệt vào bến Chương Dương (Thường Tín, Hà Tây), một cơ sở hậu cần chiến lược cách kinh thành 40km về hướng đông nam. Đến lúc đó, chủ tướng Thoát Hoan mới thấy rõ hướng hành động chủ yếu của đối phương nên đã vội vàng tung kỵ binh ra đối phó. Như vậy một việc làm rơi trúng ý định của quân ta. Ngay từ khi kỵ binh địch đang vận động trên chiến trường, quân và dân ta đã tổ chức những trận địa mai phục tại các xóm làng quanh khu vực Chương Dương, sẵn sàng tiêu diệt chúng. Đây cũng là trận thử sức đầu tiên giữa bộ binh ta với kỵ binh địch theo cách đánh "dĩ đoản binh chế trường trận", nghĩa là công kích kỵ binh ngay khi chúng đang vận động, khác hẳn cách tập kích vào kỵ binh đang nằm ngủ trong lều trại ban đêm như ở trận Đông Bộ Đầu 27 năm về trước. Để diệt địch, quân ta dựa vào hệ thống hầm hào, dùng cung nỏ bắn gục những con ngựa chiến rồi xông lên, giết chết những kỵ thủ vừa bị hất ngã bằng vũ khí lạnh. Chính tại chiến địa này, quân chủ lực ta đã bẻ gẫy mũi nhọn tiến công của những gu-ran (đơn vị 1000 người) kỵ binh tinh nhuệ nhất của thế giới đương thời. Nhưng vấn đề không chỉ có vậy mà đòn chí tử đó đã làm rung chuyển cả khối đại quân xâm lược khiến chúng phải vội vã tháo chạy khỏi Thăng Long để rồi lại bị tiêu diệt lớn tại các trận địa chờ sẵn ở Vạn Kiếp, một hội chiến quyết định thẳng lợi hoàn toàn cuộc chiến tranh chống Nguyên - Mông lần thứ hai.


Đó còn là trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Ở đây, ai cũng thấy rằng sau thất bại từ biên giới vào cuối năm 1950, quân xâm lược đã phải rút bỏ nhiều vị trí chiếm đóng và mất một năm ra sức cũng cố lực lượng, Đ.Đ. Tát-xi-nhi, Tổng chỉ huy kiêm Cao ủy Pháp tại Đông Dương, mới dám đi tới quyết định phản công, giành lại quyền chủ động chiến lược và cho quân đánh chiếm Hòa Bình.


Đối với ta, sự kiện quân sự này có hai điều thuận lợi: một là cuộc tiến công đó tuy có gây ra những khó khăn nhưng đã tạo thời cơ để ta tiêu diệt sinh lực địch vì lực lượng cơ động tinh nhuệ của chúng phải phân tán trên một chiến tuyến xa lạ, địa hình không thuận lợi mà công sự lại chưa vững chắc; hai là phần lớn lực lượng cơ động đã tập trung tại Hòa Bình nên thế bố trí của địch ở đồng bâng Bắc Bộ bị dàn mỏng, mà tương đối sơ hở so với trước là các vùng từ hữu ngạn, tả ngạn sông Hồng đến vùng trung du. Vì trên thực tế, sau Chiến dịch Biên giới, trên chiến trường chính, các lực lượng vũ trang ta tuy có giữ vững được quyền chủ động chiến lược nhưng cũng vẫn chưa giành được ưu thế quân sự, chưa phá được phòng tuyến địch, chưa làm thay đổi được tình thế ở đồng bằng Bắc Bộ. Nay tự địch kéo quân ra là một cơ hội rất tốt để quân ta tiêu diệt chúng. Tương kế, tựu kế, Đảng ta quyết định mở chiến dịch Hòa Bình và bố trí các sư đoàn chủ lực đánh địch trên hai mặt trận: vây hãm và tiêu diệt quân cơ động của địch trên chiến trường này đồng thời phối hợp với các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương phá thế bình định, phát triển chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch tại đồng bằng Bắc Bộ.


Kết quả là sau hơn 100 ngày đêm liên tục chiến đấu, quân ta đã kết thúc thắng lợi chiến dịch Hòa Bình. 22.000 tên địch bị diệt, riêng ở mặt trận sau lưng địch có 15.000 tên. Đây là số địch bị diệt cao nhất từ trước tới thời điểm ấy trong một chiến dịch. Bên cạnh đó, ta còn tiêu diệt, bức rút, bức hàng hơn 1000 đồn bốt, tháp canh. Các căn cứ du kích được mở rộng và nối liền thành một thế liên hoàn từ Bắc Ninh đến Bắc Giang xuống sát tới đường số 5 qua một số tỉnh thuộc đồng bằng Bâc Bộ. Hai triệu dân đã được giải phóng.


Đó lại còn là trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Tại chiến dịch Plây Me (19-10 - 26-11-1965), sau khi cụm cứ điểm Plây Me (do 1 tiểu đoàn bộ binh ngụy phòng ngự), bị quân ta bao vây, áp sát và gây nhiều thiệt hại nặng, chiều 23-10-1965, địch buộc phải điều chiến đoàn 3 thiết giáp ngụy đến ứng cứu. Nhưng rồi chiến đoàn này cũng bị loại khỏi vòng chiến đấu. Biết rằng việc bao vây, áp chặt đã đạt đủ mức gây cho địch tác động phản ứng dây chuyền, quân ta chuyển toàn bộ lực lượng về vị trí chuẩn bị đón đánh quân Mỹ đến ứng cứu và chọn thung lũng Ia Đrăng, ở phía tây cứ điểm Plây Me, làm điểm quyết chiến. Lực lượng đó không ngoài sư đoàn kỵ binh bay số 1. Vì khi triển khai lực lượng trên toàn miền Nam, đế quốc Mỹ đã đưa vào chiến trường Tây Nguyên những đơn vị chiến đấu tinh nhuệ vào bậc nhất mà nòng cốt chính là sư đoàn này. Và trên thực tế, trước khi bước vào chiến dịch, sư đoàn ấy đã có mặt tại An Khê. Qua việc chuẩn bị chiến đấu của quân ta, có người đã đặt ra câu hỏi: sư đoàn kỵ binh bay số 1 Mỹ đổ quân xuống thung lũng này là do ta chủ định dụ địch hay chỉ là hành động ngẫu nhiên của chúng? Nếu không chủ định thì làm sao có được sự lập lại tới hai lần ở hai chiến dịch: Sa Thầy (1966) và Đác Tô 1 (1967)?


Quả nhiên, thấy quân ngụy bị giáng đòn đau, đúng như dự kiến, từ 14 đến 17-11-1965, lữ đoàn 3 thuộc sư đoàn kỵ binh bay số 1 đã liên tiếp đổ quân xuống thung lũng Ia Đrăng. Thực hiện triệt để khẩu hiệu "bám thắt lưng địch mà đánh", các phân đội bộ binh ta đã chủ động hiệp đồng công kích ngay khi quân địch vừa chạm chân tới đất. Về mặt lý thuyết, đổ bộ hạ cánh bằng máy bay lên thẳng là một phát minh mới nhất của quân đội Mỹ và cũng là một phát minh mới nhất thế giới đương thời nhưng trên thực tế chiến đấu, lực lượng kỵ binh đã lộ rõ những mặt yếu chí tử khi chiến đấu ở ngoài công sự. Bởi vậy chỉ qua bốn ngày giao chiến với đối phương, lữ đoàn 3 đã bị loại khỏi vòng chiến đấu sau khi tiểu đoàn 2 bị tiêu diệt - như phía Mỹ đã chịu thừa nhận - tiểu đoàn 1 bị thiệt hại nặng. Chiến dịch Plây Me kết thúc. Thắng lợi ở phía ta.


Về kết quả trận đánh, sau này bại tướng Oét-mo-len đã phải thừa nhận: sư đoàn kỵ binh bay số 1 "có 300 người chết, như vậy là tổn thất rất nghiêm trọng...". Nhưng đâu có phải chỉ là "tổn thất" tuy rằng "rất nghiêm trọng" mà sự kiện quân sự ở thung lũng Ia Đrăng còn có một tác động hết sức sâu xa như lời nhận xét của trung tướng về hưu Harold G.Moore (lúc đó là trung tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 tham chiến ở Ia Đrăng): "Ia Đrăng, trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam". Và còn hơn thế nữa như lời nhận xét của Uy-liêm Bân-đi, trợ lý ngoại giao Mỹ: "Ia Đrăng... đã trở thành một cái mốc lịch sử". 
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #44 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2021, 08:55:35 pm »

CHỮ HIẾU TRONG QUAN NIỆM CỦA TRẦN QUỐC TUẤN


Lịch sử Việt Nam có đoạn ghi lại lời An Sinh Vương Trần Liễu dặn con trai là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trước khi qua đời: "Nếu con không vì cha mà lấy thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt. Vương suy nghĩ kỹ, không theo lời cha, cử động rất cẩn thận". Bài viết này muốn tìm hiểu về "cử động rất cẩn thận” đó, cụ thể là tìm hiểu chữ "hiếu" trong quan niệm của Trần Quốc Tuấn.


Trước hết, chúng ta hãy xét đến nội dung và ý nghĩa của từ này. "Hiếu" nghĩa là "hết lòng thờ cha mẹ". Theo phép "hội ý" của tiếng Hán, chữ "hiếu" bao gồm chữ "tử" cõng chữ "lão", ý muốn nói người con phụng dưỡng cha mẹ. Sinh ra từ thời chiếm hữu nô lệ Trung Quốc, chữ "hiếu" nằm trong lễ giáo của đạo Nho. Theo lịch sử thế giới cổ đại, đạo Nho, do Khổng Tử đề xướng, không phải là một thứ tôn giáo, mà là một học thuyết chính trị. Nó ra đời vào cuối thời Xuân Thu (từ - 770 đến - 476), khoảng cuối thế kỷ VI - đầu thế kỷ V trước Công nguyên. Thực chất học thuyết này, lúc mới hình thành, chỉ là một hệ thống quan hệ ứng xử giữa con đối với cha mẹ (hiếu), bề tôi đối với vua (trung), bè bạn đối với nhau (tín) và người đối với người nói chung (nhân, nghĩa). Hệ thống khái niệm của đạo Nho chỉ nhằm xây dựng con người như là một phần tử của thiên hạ, của một cộng đồng văn hóa chứ không phải xây dựng con người như là một thành viên, một công dân của một nước, một Tổ quốc theo đúng nghĩa của nó. Điều đó cũng dễ hiểu. Bởi lẽ Khổng Tử sống dưới thời Đông Chu, khi thiên hạ đã được chia thành hàng trăm nước lớn nhỏ. Các nước ấy tựu trung chỉ là những miền đất, cấp cho người này, người nọ, không có một quá trình hình thành nào cả. Ví như nước Tề là phần lãnh thổ phong cho Khương Tử Nha, một đặc đẳng công thần của nhà Chu; nước Lỗ là phần lãnh thổ phong cho Bá Cầm, con Chu Công Đán, cháu gọi vua Chu Võ Vương bằng bác ruột. Vào thời đó, Khổng Tử cũng như mọi kẻ sĩ đi ngao du khắp nơi, ai khéo dùng thì một dạ, một lòng với người đó. Ngũ Viên - thường gọi là Ngủ Tử Tư - là một kiểu người như vậy. Đây là một loại trung thần điển hình ở Trung Quốc cổ đại bởi sự tận tụy hy sinh với vua Ngô Hạp Lư, người đã biết cách sử dụng ông ta. Nhưng chính ông ta lại đem quân Ngô trở về tiêu diệt nước Sở, miền đất đã sinh ra ông ta, rồi sai người quật mả vua Sở Bình Vương, đem thây ra quật ba trăm roi, chỉ vì trước đó, nhà vua đã nghe lời gièm pha, giết chết cha ông ta là Ngũ Xa và anh ruột ông ta là Ngũ Thượng, vì hiếu với cha, ông ta đã nhẫn tâm đưa quân nước ngoài giẫm đạp lên quê cha đất tổ. Cuối cùng, con người vong quốc đó lại bị ngay Phù Sai - con trai và là người nối ngôi Hạp Lư - bức tử.


Theo chân đạo Nho, chữ "hiếu" vào Việt Nam. Mà Việt Nam vốn là một đất nước có quá trình hình thành qua hàng ngàn năm xây dựng và chiến đấu. Nếu như Tổ quốc là một khái niệm hoàn toàn xa lạ trong đạo Nho thì nó lại là một khái niệm trung tâm văn hóa Việt Nam. Bởi vậy, vào đất nước này, chữ "hiếu" đã bị khúc xạ qua chủ nghĩa yêu nước. Đồng thời tiếp thụ chữ "hiếu" trong cách ứng xử với cha mẹ, người Việt Nam còn phát triển và đưa vào khái niệm này một nội dung mới, lớn hơn rất nhiều. Đó là chữ "hiếu" đối với Tổ quốc. Bên cạnh "tiểu hiếu", ở Việt Nam còn có "đại hiếu". Chính vì "đại hiếu" mà từ thế kỷ XIII, Trần Quốc Tuấn, một người xuất thân từ trong một gia đình đại quý tộc phong kiến "thông minh hơn người, đọc đủ các sách, có tài văn võ" nhưng không câu nệ "làm con chớ nên trái ngược" mà hành động theo lời cha dặn. Ông đem ý kiến đó thăm dò các gia nô là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người can rằng: "Làm kế ấy tuy được phú quý một lúc mà để lại tiếng xấu nghìn năm... Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu". Một hôm, ông ướm thử ý kiến con trai trưởng là Hưng Võ Vương Nghiễn: "Ngày xưa có được thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào"? Hưng Võ Vương trả lời: "Nếu là họ khác cũng còn không nên huống chi cùng một họ". Ông khen ngầm là phải. Lại một hôm, ông đem câu ấy hỏi con thứ là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Ông không ngờ rằng Quốc Tảng đã trả lời: "Tống Thái Tổ là một ông lão làm ruộng mà thừa thời cơ dấy vận đã có được thiên hạ". Nghe vậy, ông rút gươm chỉ vào mặt: "Kẻ làm tôi phản loạn là do đứa con bất hiếu này". Hưng Võ Vương nghe tin, vội vàng chạy đến xin lỗi hộ, ông mới tha. Giận quả, ông dặn người con trai trưởng: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài rồi mới cho Quốc Tảng vào". Sở dĩ Trần Quốc Tuấn không thực hiện lời di huấn của cha vì biết chắc rằng điều đó chỉ làm giảm sức chiến đấu của đất nước trước quân xâm lược Mông -   Nguyên. Đạo Nho nói rất nhiều đến điều "nhân" và xác định cái gốc của nó là chữ "hiếu". Hữu Nhược, người học trò xuất sắc của Khổng Tử từng nói: "Người mà biết giữ gìn hiếu thảo với cha mẹ và tôn kính với anh em, tức là biết nắm lấy cái gốc của điều "nhân". Nhưng chính Khổng Tử, khi nói về mối quan hệ giữa con người với nhau, cơ sở để phát sinh điều "nhân" - chữ "nhân" bao gồm hai thành tố: chữ "nhân đứng" là "người" và chữ "nhị" là "hai" - cũng đã từng căn dặn học trò là Tử Cống: Có một chữ mà trọn đời mình có thể làm theo là chữ "thứ", "nghĩa là việc mình không muốn, chớ làm cho người khác". Là một người theo đạo Nho một cách sáng tạo, Trân Quốc Tuấn biết gạt bỏ "tiểu hiếu", mối quan hệ giữa hai người - cha và con - nén mình, gạt bỏ dục vọng, làm theo cha chỉ có lợi cho riêng bản thân, để đi cùng "đại hiếu", mối quan hệ giữa một công dân với cả cộng đồng dân tộc, mong đem lại lợi ích to lớn cho đất nước.


Tóm lại, với một quan niệm tiến bộ, Trần Quốc Tuấn đã biết suy tính, cân nhắc, "cử động rất cẩn thận", đưa vào chữ "hiếu" một nội dung hoàn toàn mới. Đó là "hiếu" với Tổ quốc, với dân tộc. Trong hàng ngũ đại quý tộc phong kiến Việt Nam, tư tưởng của ông đã đi trước thời đại khá xa.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #45 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2021, 08:56:28 pm »

NHÀ TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ THIÊN TÀI CỦA THẾ GIỚI TRUNG ĐẠI


Ở thế kỷ XIII, dân tộc Việt Nam chúng ta có thể tự hào rằng đã sản sinh cho cả loài người một nhà tư tưởng quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn mà trên phạm vi toàn thế giới, từ cuối thế kỷ V đến giữa thế kỷ XVII - dài gần một ngàn hai trăm năm dưới thời trung đại - không một trí tuệ nào đủ sức vượt qua.


Các tác phẩm lý luận quân sự của ông gồm có "Vạn Kiếp tông bí truyền thư", "Binh thư yếu lược", "Hịch tướng sĩ" và bản "Di chúc" (lời đặn dò vua Trần Anh Tông trước khi ông qua đời). Theo "Văn uyên các thư mục" - được soạn năm 1441, dưới thời nhà Minh (Trung Quốc) - ông còn là tác giả cuốn "Kinh sử hỗ ký". Quyển sách đó đã bị thất lạc. Còn "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" chỉ lưu lại được bài tựa của Trần Khánh Dư ở đầu sách.


"Hịch tướng sĩ" và bản "Di chúc" đã được sử sách xác định rõ. Còn cuốn "Binh thư yếu lược" hiện đang lưu hành mặc dù có những tồn nghi về nội dung nhưng vẫn là cuốn binh thư đầu tiên của Việt Nam cũng như của thế giới trung đại. Là người viết nhiều tác phẩm lý luận quân sự nhất trong giai đoạn sơ kỳ và trung kỳ của thời đại này "thời đại cằn cỗi" về lý luận quân sự, như nhận xét của Ph.Ăng-ghen, đồng thời Trần Quốc Tuấn cũng được xem là người đại biểu ưu tú nhất trên lĩnh vực này.


Thật vậy. Ở Trung Quốc, bảy cuốn binh thư cổ xưa và tinh hoa nhất, được mệnh danh là "Võ kinh thất thư" (bảy cuốn sách kinh điển về quân sự) thì tới sáu cuốn được viết ra từ trước công nguyên. Riêng cuốn thứ bảy - "Đường - Lý vấn đối" của Lý Tĩnh - ra đời vào giữa thế kỷ XI, thực ra nội dung tác phẩm này không có gì mới. Vấn đề chủ yếu trong đó chỉ là sự bàn luận về những quan điểm, ý tứ của sáu cuốn binh thư trước đó. Còn ở La Mã cổ đại, cuốn "Tóm lược những nguyên tắc quân sự' của Vê-gie-xơ (Végèce)- được viết vào cuối thế kỷ IV, đầu thế kỷ V - là cuốn sách lý luận quân sự cuối cùng của chế độ chiếm hữu nô lệ phương Tây. Phải chờ đến những năm 1519-1520, khi châu Âu bước vào giai đoạn hậu kỳ thời trung đại, thời Văn hóa phục hưng - khi súng đại bác đã tham gia chiến đấu rộng rãi trong các quân đội - loài người mới được đón nhận cuốn sách lý luận quân sự mới - "Nghệ thuật của chiến tranh" - mà Ma-ki-a-ven-li (Machiavelli), người I-ta-li-a, là tác giả.


Ở đây có một điều đáng nói là sau 161 năm (1207-1368) tồn tại - 72 năm (1207-1279) tiến hành chiến tranh chinh phạt và 89 năm (1279-1368) đặt nền thống trị ổn định trên đất trung nguyên - đế quốc Mông - Nguyên không hề để lại cho đời sau một cuốn sách nào về lý luận quân sự. Mặc dù ở thời đại đó, bằng cách sử dụng kỵ binh, người Mông Cổ đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của nghệ thuật quân sự trên hành tinh của chúng ta.


Nếu ở phạm vi thế giới, mãi cho đến thế kỷ XVIII, khi cuộc Chiến tranh giành độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1775-1783) và cuộc Chiến tranh cách mạng Pháp (1789-1792) nổ ra, chiến tranh nhân dân mới trở thành thông lệ thì ngay từ thế kỷ XIII - nghĩa là trước đó 500 năm - Trần Quốc Tuấn đã có những luận điểm quân sự nổi tiếng như "chúng chí thành thành" (ý chí nhân dân là bức thành), "quốc - gia tinh lực" (nước - nhà chung sức). Ông huy động toàn dân tiến hành chiến tranh giữ nước bằng "thế trận hình người". "Hình trận dáng chữ nhân, gọi tên là nhân trận, thuận cũng là chữ nhân, nghịch cũng là chữ nhân, tiến cũng là chữ nhân, thoái cũng là chữ nhân, hợp lại cộng làm một người, tan ra cũng làm một người. Một người làm một trận, nghìn muôn người hợp làm một trận, nghìn muôn người động làm một người" (Binh thư yếu lược). Thế trận được hình tượng hóa bằng chữ nhân đó gọi một cách nôm na là thế "kiềng ba chân", rất chắc chắn, vững chãi trong phòng ngự, là "mũi nhọn ngọn giáo" rất sắc bén, mạnh mẽ trong tiến công.


Thời trung đại, thành luỹ và kỵ binh là hai công cụ chủ yếu để tiến hành chiến tranh. Trong đó, kỵ binh Mông Cổ - dưới sự chỉ huy tài giỏi của Thành-cát-tư Hãn và con cháu ông ta - đã giẫm đạp lên bao nhiêu lãnh thổ của nửa phần châu Âu và nửa phần châu Á. Mặc dù học tập "binh pháp các nhà", song Trần Quốc Tuấn không hành động theo cách "lấy kỵ binh chống kỵ binh" như luận điểm nghệ thuật quân sự phổ biến lúc bấy giờ. Dựa vào sức mạnh của quần chúng vũ trang, ông thực hiện một chiến lược quân sự hết sức sáng tạo là "dĩ đoản binh chế trường trận", lấy bộ binh chống kỵ binh, một sự kế thừa và phát huy cao độ truyền thống "lấy yếu chống mạnh" ở thế kỷ XIII. Ông cho đấy là "việc thường trong binh pháp" trong khi ở thời điểm đó, "sự phục vụ trong bộ binh bắt đầu bị coi khinh như là một thuộc tính của những tên nô lệ và nồng nô" (Ph.Ăng-ghen, Tuyển tập luận văn quân sự). Chính nhờ nghệ thuật "không đặc biệt" đó mà đã ba lần, dân tộc ta chiến thắng oanh liệt thứ binh chủng "bậc nhất" của thế giới đương thời.


Tính sáng tạo là đặc trưng thực chất của lý luận quân sự Việt Nam trong thời trung đại. Trần Quốc Tuấn cũng không đi ra ngoài đặc trưng đó. Ông chủ trương lấy nông dân làm nguồn bổ sung dồi dào, vô hạn cho bộ binh dưới hình thức "bách tính giai binh" (trăm họ là lính), "tận dân vi binh" (mỗi người dân là một người lính). Còn hình thức động viên đông đảo trai tráng nhập ngũ chỉ xuất hiện ở nước Cộng hòa Pháp trong cuộc chiến tranh chống lại khối liên minh của các nước phong kiến châu Âu sau năm 1789 và xuất hiện ở nước Phổ năm 1813 trong cuộc chiến tranh chống lại sự xâm lược của quân đội Na-pô-lê-ông (Napoléon). "Biện pháp số lượng" của ông chính là nhầm tạo thành những lực lượng cơ động - quân triều đình - và những lực lượng tại chỗ - quân các vương hầu, phong quân (quân thường trực địa phương từ tỉnh đến huyện) và dân binh làng xã - trên khắp đất nước để hạn chế tới mức cao nhất tính cơ động của kỵ binh Mông Cổ. Dù nhanh đến đâu cũng không bằng đã có sẵn tại chỗ và từ trước. Các lực lượng vũ trang ấy, ngày nay ta vẫn gọi chung là "ba thứ quân", đã hình thành trong hoàn cảnh lịch sử như vậy. Đây là một kiểu tổ chức quân sự hết sức độc đáo, chưa hề có ở bất cứ một nước nào trên thế giới trung đại. Tuy thế nhưng ông cũng luôn luôn đặt lên vị trí hàng đầu chất lượng của những người cầm vũ khí. "Quân cần tinh, không cần nhiều" (Đại Việt sử ký toàn thư). Bên cạnh đó, ông còn cho rằng đội ngũ tướng lĩnh, những người chỉ huy đóng vai trò quyết định của việc cầm quân tác chiến. Theo ông: "Tướng mà dùng nhân ái đối với kẻ dưới, lấy tín nghĩa phục nước láng giềng, trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, giữa biết việc người, coi bốn biển như một nhà, đó là tướng chỉ huy được cả thiên hạ, không ai địch nổi". (Binh thư yếu lược). Điều này, ở thời trung đại, ngoài ông ra, chắc chắn rảng không một tài năng nào vươn tới.


Tóm lại, với tư tưởng "nghìn muôn người sống làm một trận, nghìn muôn người hợp làm một trận", tư tưởng "tận dân vi binh" và tư tưởng "dĩ đoản binh chế trường trận", Trần Quốc Tuấn thực sự xứng đáng là một nhà tư tưởng quân sự thiên tài của cả thế giới trung đại vì đã có những quan điểm về chiến tranh, về quân đội và về nghệ thuật quân sự rất độc đáo, rất mới và đi trước thời đại rất xa.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #46 vào lúc: 29 Tháng Mười Hai, 2021, 08:57:25 pm »

SUY NGHĨ VỀ CHỮ "HIẾU" CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH DẠY BỘ ĐỘI


Chủ ttịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ của dân tộc, người sáng lập Đảng và quân đội ta. Người đã dạy cán bộ, chiến sĩ quân đội phải trung với nước, hiếu với dân và coi đó là phẩm chất cao quý của người lĩnh cách mạng.

Ngày 26-5-1946, lần đầu tiên, Người đưa khẩu hiệu sáu chữ vàng "Trung với nước, hiếu với dân" ghi trên lá cờ trao tặng Trường võ bị Trần Quốc Tuấn (Trưởng sĩ quan lục quân I) nhân dịp khai giảng khóa I, và cũng là chung cho cả toàn quân, vì trước đó, ngày 22-5-1946, Người vừa ký sắc lệnh đổi tên Vệ quốc đoàn thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Ngày hôm ấy, trong lời huấn thị, Người còn dặn thêm: "Trung với nước, hiếu với dân là một bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta". Hai năm sau, ngày 1-5-1948, nhân dịp Trường võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng khóa IV, Người lại viết thư: "... Sau nữa, tôi vui lòng tặng trường sáu chứ: Trung với nước, hiếu với dân". Ngày 22-12-1964, nhân dịp quân đội ta tròn hai mươi tuổi, cũng là lúc dân tộc ta bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược, Người đã phát triển thành khẩu hiệu chung cho toàn quân: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân... Nhiệm vụ nào cúng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng...". Tháng 9-1967, trong bức điện gửi Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam, Người biểu dương: "Là tinh hoa của dân tộc, các anh hùng, chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã nêu cao tinh thần trung với nước, hiếu với dân...". Ngày 26-7-1951, trong bức thư gửi Bộ trưởng Bộ thương binh - cựu binh, Người còn biểu dương các thương binh: "Anh em thương binh đã hy sinh một phần xương máu để giữ gìn Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, đã tận trung với nước, tận hiếu với dân". Như vậy, khi đề cập mối quan hệ giữa bộ đội với nhân dân, chữ "hiếu" đã được nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới.


"Hiếu" nguồn gốc của từ nghĩa là "hết lòng thờ cha mẹ", phụng dưỡng cha mẹ. Xuất hiện từ thời chiếm hữu nô lệ Trung Quốc, chữ "hiếu" nằm trong lễ giáo của đạo Nho. Đạo Nho do Khổng Tử đề xướng, ra đời vào cuối thời Xuân Thu, khoảng cuối thế kỷ VI - đầu thế kỷ V trước Công nguyên. Thực chất, học thuyết chính trị này, lúc mới ra đời, chỉ là một hệ thống về quan hệ ứng xử giữa con đối với cha mẹ (hiếu), bề tôi đối với vua (trung), bạn bè đối với nhau (tín) và người đối với người nói chung (nhân, nghĩa). Vì hệ thống khái niệm của đạo Nho chỉ nhằm xây dựng con người như là một phần tử của thiên hạ, của một cộng đồng văn hóa chứ không phải là xây dựng con người như là một thành viên, một công dân của một nước, một tổ quốc theo đúng nghĩa của nó.


Khi phát biểu quan điểm đối với những thành tựu văn hóa loài người, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "... Học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học". Theo Người, một trong những điều hay là chữ "hiếu”.


Theo chân đạo Nho, chữ "hiếu" vào Việt Nam, một dân tộc có quá trình hàng ngàn năm xây dựng và chiến đấu. Nếu như Tổ quốc là một khái niệm hoàn toàn không có trong đạo Nho thì nó lại là một khái niệm trung tâm của văn hóa Việt Nam. Bởi vậy, chữ "hiếu" khi vào nước ta đã được khúc xạ qua chủ nghĩa yêu nước. Đồng thời tiếp thụ chữ "hiếu" trong cách ứng xử với cha mẹ, người Việt Nam còn phát triển và đưa vào khái niệm này một nội dung mới, lớn hơn rất nhiều. Đó là chữ "hiếu" đối với Tổ quốc. Từ thế kỷ XIII, Trần Quốc Tuấn, một người xuất thân trong gia đình đại quý tộc phong kiến, nhưng không chịu nghe lời cha, cướp ngôi vua mà lại một lòng vì non sông gấm vóc, đem hết sức mình, liên tiếp tham gia ba lần kháng chiến chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc và lập nên những chiến công hiển hách. Sang thế kỷ XV, Nguyễn Trãi không theo cha sang Trung Quốc làm tròn đạo hiếu mà ở lại Tổ quốc để rồi mười năm sau trở thành linh hồn của cuộc chiến tranh giải phóng.


Ở những thế kỷ trước, tổ tiên ta đã biết phá vỡ mối quan hệ chật hẹp trong chữ "hiếu" của đạo Nho để vươn tới một mối quan hệ mới, cao đẹp hơn là quan hệ giữa người công dân đối với Tổ quốc. Tiếp thụ cái hay của lễ giáo đạo Nho và kế thừa truyền thống đạo làm người của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa vào khái niệm này một quan hệ ứng xử hoàn toàn mới, rộng lớn hơn cho lực lượng vũ trang cách mạng: hiếu với dân. Vì Người cho rằng: "Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội". Cho nên chỉ có bộ đội, những người đứng trên tuyến đầu trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, những người quyết "hy sinh xương máu, có khi cả tính mệnh" mới thấu hiểu hết ý nghĩa sâu sắc của đạo làm con, "không phải là "cứu tinh của nhân dân" mà là "có trách nhiệm phụng sự nhân dân".


Nội dung cơ bản của "hiếu với dân" theo tư tưởng Hồ Chí Minh là Quân đội ta là của nhân dân do Đảng lãnh đạo; bộ đội là con em của nhân dân cho nên phải chiến đấu hy sinh quên mình vì nhân dân. Nhân dân là nền tảng của quân đội, cha mẹ của bộ đội, cho nên phải giáo dục, đoàn kết, giúp đỡ bộ đội đánh giặc, công tác. Bảo vệ nhân dân, giải phóng nhân dân khỏi ách nô lệ là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của quân đội. Người thường kêu gọi: "Hỡi toàn thể bộ đội, quân dân, tự vệ! Chúng ta quyết không để cha mẹ, bà con ta cho chúng giết hại". Nhiệm vụ thứ hai là giúp dân, "xây dựng một đời sống tự do, sung sướng hơn". Người thường nhắc nhở bộ đội: "Phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại". Vì: "Chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó thì không thể thắng lợi được". Người cũng thường nói: "Muốn thành công, phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi, và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng... nhân hòa là quan trong hơn hết". "Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân", vì vậy, bộ đội - lực lượng vũ trang của nhân dân - dù "bất cứ trong tình huống nào cũng phải bám chắc lấy dân, dựa vào dân để mà tồn tại. Đó là cái chìa khóa của mọi thắng lợi". Muốn "dựa vào dân", "bám chắc lấy dân", "phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu", làm thế nào để "dân như nước, mình như cá". Theo lời dạy của Người, ngay từ khi dân tộc ta chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ lần thứ nhất: "Quân đội Việt Nam và dân chúng Việt Nam đã liên kết thành một khối, quyết không chịu làm nô lệ dưới một chế độ thuộc địa nào". Đó chính là sức mạnh vô địch của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Điều cơ bản xuyên suốt tư tưởng quân sự của Hồ Chủ tịch là sức mạnh không bờ bến của nhân dân".


Tuân theo lời dạy "trung với nước, hiếu với dân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua hai cuộc chiến tranh giải phóng vừa qua, Trường võ bị Trần Quốc Tuấn đã có gần 100 học viên ngã xuống, 2 học viên được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 4 học viên được phong quân hàm trung tướng. Quân đội ta từ ngày thành lập 22-12-1944 đến ngày 22-12-1994, sau năm mươi năm chiến đấu và trưởng thành, đã được tặng thưởng ba huân chương Sao vàng, 888 người được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (có 87 người là nữ, 249 người là liệt sĩ). Trong hai năm gần đây thêm nhiều đơn vị, địa phương, cá nhân tiếp tục được nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tất cả cán bộ, chiến sĩ quân đội ta xứng đáng với tên gọi trìu mến là "Anh bộ đội Cụ Hồ".


Tính từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng lực lượng vũ trang nhân dân ta sáu chữ vàng "trung với nước, hiếu với dân", đến nay đã hơn nửa thế kỷ. Danh ngôn đó đã và đang thấm sâu vào máu thịt của từng chiến sĩ trong quân đội ta, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh vũ trang trong 30 năm chiến tranh cứu nước vừa qua và công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #47 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2021, 07:17:49 pm »

GỌI "BỘ ĐỘI CỤ HỒ" BẰNG "ANH" KHÔNG AI GỌI BẰNG "CHÚ"


Vào những năm cuối thập kỷ 40 của thế kỷ này, sau khi dân tộc ta giành được chính quyền, bắt đầu đi vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong xã hội đã xuất hiện cụm từ "Anh bộ đội Cụ Hồ".

Về lý luận, "bộ đội" là tên gọi chung các đơn vị từ cấp trung đoàn trở lên trong nhiều quân chủng, trừ không quân và hải quân. Thuật ngữ này còn được dùng để chỉ tên quân chủng (bộ đội lục quân, bộ đội tên lửa chiến lược, bộ đội phòng không...), binh chủng (bộ đội bộ binh cơ giới, bộ đội xe tăng...) hoặc bộ đội chuyên môn (bộ đội thông tin, bộ đội đường sát...).


Từ ngữ "bộ đội" lúc đầu có thể chỉ lưu hành trong hàng ngủ các nhà khoa học quân sự và các vị chỉ huy với tư cách là một thuật ngữ để nói đến các đơn vị thuộc các lực lượng vũ trang cách mạng, chiến đấu trên đất liền là chính, vì lúc đó, quân đội ta chưa có không quân và hải quân. Từ trong quân đội, "bộ đội" truyền ra ngoài và được nhân dân sử dụng làm ngôn ngữ sinh hoạt thường ngày. Thực ra về lý luận, nội dung từ "bộ đội” không có gì mới song về thực tiễn xã hội Việt Nam vào những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp thì nó lại mang tính cách mạng rõ rệt. Theo nếp suy nghĩ cố hữu, lúc bấy giờ, mọi người không có thiện cảm với từ "quân đội". Ai cũng ngờ rằng "tập đoàn người vũ trang" này chính là nơi tụ tập những tên lính khố xanh, khố đỏ, những tên lính lệ, lính dõng, những kẻ nợ máu truyền kiếp của nhân dân và đem so sánh với những chiến sĩ "vì nhân dân quên mình" để rồi đặt niềm tin vào họ, những người được mệnh danh là "bộ đội".


Sử dụng từ "bộ đội", người Việt Nam đã có được một từ thích hợp để đặt cho quân đội non trẻ của mình, một công cụ của chính quyền nhân dân, tiến hành chiến tranh giải phóng nhằm giữ vững thành quả của Cách mạng tháng Tám, cuộc cách mạng đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho nên không phải không có lý do mà người ta gọi những chiến sĩ đấu tranh vũ trang đó là "Anh bộ đội Cụ Hồ". Đây cũng là một hiện tượng lạ, một cách thể hiện "hết sức Việt Nam". "Vì hiếm có nước nào trên thế giới mà nhân dân lấy tên của lãnh tụ đặt cho quân đội nước mình như ở ta”. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì "từ trong khu giải phóng Việt Bắc, đồng bào các dân tộc đã trìu mến gọi các đơn vị vũ trang là "bộ đội Ông Ké" hay "bộ đội Ông Cụ" một cách thân thương, chân chất như tấm lòng của đồng bào đối với vị lãnh tụ của mình, mà nhiều người lúc đó chưa biết tên Bác. Có lẽ về sau, khi biết tên Người, đó là Bác Hồ, là Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam mới, mọi người đã gọi "bộ đội Ông Ké" là ”bộ đội Cụ Hồ"; và cũng từ chiến khu Việt Bắc, tên gọi yêu quý ấy xuất hiện từ thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp".


Ai cũng biết rằng Cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến bùng nổ, tất cả mọi người, không kể già trẻ, trai gái, giàu nghèo, sang hèn đều hăng hái tham gia các ngành công tác xã hội. Riêng ngành quân sự, đặc biệt là những chiến sĩ trực tiếp cầm súng đối mặt với quân thù, tuyệt đại đa số là nam giới, là những thanh niên trên dưới đôi mươi. Như vậy, người ta gọi bộ đội bằng "anh" cũng là thỏa đáng, vì đại từ này vừa chỉ lứa tuổi, chỉ giới tính lại vừa thể hiện sự kính trọng của xã hội đối với lớp người đã mạnh khỏe lại dũng cảm, dám đem xương máu để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Họ là thế hệ thanh niên đầu tiên tham gia quân đội theo chế độ tình nguyện. Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, lớp quân nhân "anh bộ đội" bước sang tuổi trung niên. Sau chín năm chiến tranh, con em họ lên tuổi thanh niên và bắt đầu nhập ngũ. Đó cũng là lúc Nhà nước ta bãi bỏ cách tuyển quân theo chế độ tình nguyện mà ban hành luật tuyển quân theo chế đệ nghĩa vụ quân sự. Vào thời điểm này, cụm từ "chú bộ đội" ra đời. "Chú" vốn là một đại từ chỉ người, "dùng hạn chế trong một số tổ hợp" như chú rể, chú tiểu... "Chú bộ đội" là "người con trai hoặc người đàn ông trẻ tuổi", mặc quân phục. Với tư cách là một đại từ phiếm chỉ, khái quát, "chú" không chỉ dùng để gọi lớp chiến sĩ nghĩa vụ quân sự đầu tiên của quân đội, lớp đàn em kế cận của những "Anh bộ đội Cụ Hồ", mà chủ yếu là dùng để chỉ chung cho tất cả mọi quân nhân thuộc các thế hệ con, cháu của họ nữa. Rõ ràng là từ giữa những năm 60 trở lại đây, khi mà các thế hệ kế tiếp những "Anh bộ đội Cụ Hồ" gia nhập quân đội, người ta vẫn gọi những lớp chiến sĩ trẻ này là "chú bộ đội" mà ít khi gọi là "anh bộ đội" mặc dù tuổi đời của họ cũng hệt như ông, cha họ trước đó mấy chục năm, khác chăng ở chỗ một bên nhập ngũ theo chế độ tình nguyện và một bên theo chế độ nghĩa vụ quân sự. Đây tựa như một sự ưu ái của ngôn từ, một sự quy ước chung của xã hội. Người ta chỉ chấp nhận để đại từ "anh" - với tính khái quát rất cao - trước cụm từ "bộ đội Cụ Hồ". Hình như ai nấy đều cho rằng đặc biệt thế hệ "Anh bộ đội Cụ Hồ" mới xứng đáng là "anh", là "cha, anh" còn tất cả mọi thế hệ bộ đội kế tiếp, mãi mãi chỉ là em, là con, là cháu...


Tóm lại, tìm hiểu cụm từ "anh bộ đội" để rồi từ đó tìm hiểu tiếp đến cụm từ "chú bộ đội", chúng ta biết được hoàn cảnh ra đời của từ "bộ đội" đối với quân đội cách mạng khi mà quân đội cũ không còn nữa. Giữa hai cụm từ trên có một mối quan hệ thật bền chặt, khăng khít. Nội dung của chúng thể hiện rõ tính liên tục của một truyền thống yêu nước và cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh vũ trang giữa các thế hệ. Thế hệ "Anh bộ đội Cụ Hồ" từ nửa thế kỷ nay vẫn là một tấm gương ngời sáng để cho các thế hệ "chú bộ đội" phấn đấu noi theo.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #48 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2021, 07:18:51 pm »

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HÓA


Hiện nay, từ văn hóa được nhắc đến khá nhiều: văn hóa trong học đường, văn hóa trong thương nghiệp, văn hóa trong giao tiếp... và như vậy cũng có văn hóa trong quân sự nói chung, trong nghệ thuật quân sự nói riêng. Đây là một vấn đề rất lớn, khó có thể giải quyết trong một vài trang báo. Tuy thế, nhân đây, người viết bài này xin được đề cập đôi điều về một khía cạnh nhỏ là "nghệ thuật quân sự - nhìn từ góc độ văn hóa" để bạn đọc cùng tham khảo.


Trước hết, chúng ta nên thống nhất với nhau rằng ”văn hóa trong nghệ thuật quân sự" là nghiên cứu nghệ thuật quân sự dưới góc độ văn hóa, chính xác hơn là góc độ khoa học văn hóa, gọi tắt là văn hóa học. Vậy nghệ thuật quân sự là gì? Đó là "lý luận và thực tiễn về chuẩn bị và thực hành tác chiến". Còn đối tượng của văn hóa? Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, là "mối quan hệ qua lại giữa thế giới biểu tượng với thế giới hiện thực, được biểu hiện thành những kiểu lựa chọn, với các độ khúc xạ riêng". Từ đó, chúng ta xác định rõ nghiên cứu nghệ thuật quân sự dưới góc độ văn hóa, không phải là nghiên cứu chính bản thân nghệ thuật quân sự. Đó là đối tượng của khoa học quân sự. Đây là nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa thế giới biểu tượng với lý luận và thực tiễn về chuẩn bị và thực hành tác chiến mà những người tham chiến lựa chọn ra phương pháp tác chiến thích hợp nhất với bản sắc riêng để chiến thắng.


Bằng cách làm rõ phần lý luận, chúng ta hãy tìm những ví dụ từ trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. "Dĩ đoản binh chế trường trận", "lấy ít đánh thắng nhiều", "dùng mai phục, đánh bất ngờ", "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu"... là những biểu tượng trong nghệ thuật quân sự được hình thành qua những kiểu lựa chọn về phương pháp tác chiến độc đáo mang theo bản sắc riêng của người Việt Nam, từng đánh thắng bao nhiêu quân cướp nước từ thời cổ đại đến thời hiện đại. Sở dĩ dân tộc ta xây dựng được một truyền thống đánh giặc giữ nước hào hùng thể hiện dưới một nền nghệ thuật quân sự hiếm có như vậy là vì tuy cùng phương châm "lấy ít đánh thắng nhiều" nhưng trước từng kẻ thù cụ thể, dân tộc ta lại so sánh, cân nhắc, tính toán để lựa chọn ra một phương pháp tác chiến riêng biệt, có hiệu quả cao, không hề "rập khuôn", để đánh thắng. Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc: ở thế kỷ XI là "tiến công trước, làm nhụt nhuệ khí giặc", ở thế kỷ XIII là "dĩ đoản binh chế trường trận", ở thế kỷ XVIII là "thần tốc"; trong các cuộc chiến tranh giải phóng; ở thế kỷ XV là "tiến công, từ nhỏ đến lớn, từ bộ phận đến toàn cục", ở thế kỷ XX là "đánh lâu dài", "đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, cuối cùng đánh đổ hoàn toàn quân xâm lược". Ngay trong từng cuộc chiến tranh, từng chiến cục, các nhà lãnh đạo đất nước, các vị chỉ huy quân sự cũng dùng tài quyền biến, điều chỉnh lại phương pháp tác chiến cho phù hợp với tình hình nhẳm đi tới chiến thắng, ví như ở thế kỷ XIII, để chuẩn bị đối phó với một cuộc chiến tranh xâm lược của quân Nguyên - Mông sắp sửa diễn ra, tháng 11-1282, tại Bình Than, các vua Trần và triều đình dự kiến sẽ tập trung lực lượng đánh địch ngay từ thời kỳ đầu cuộc chiến. Thế nhưng đến tháng 2-1285, khi quân đội chúng kéo vào, ở cương vị Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, Trần Quốc Tuấn thấy trước sức mạnh ào ạt của kẻ thù, không thể hành động đúng như kế hoạch cũ và hướng tới mục đích bảo toàn lực lượng, đã tổ chức ngay một cuộc rút lui chiến lược, thực hiện phương châm "kiên thủ chờ suy" để rồi sau đó phản công giành thắng lợi quyết định. Vào năm 1975, Đảng ta chủ trương sẽ tiến hành phản công chiến lược, giành lại đất nước trong thời gian hai năm nhưng khi chiến dịch Tây Nguyên rồi tiến đến chiến dịch Huế - Đà Nẵng thắng lợi, một thời cơ mới đã xuất hiện. Trước tình hình đó, kế hoạch ban đầu được rút ngắn, rút ngắn dần và cuối cùng thời gian hành động chỉ còn chưa đầy hai tháng và bằng phương châm "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng" sự nghiệp đấu tranh thống nhất Bắc - Nam đã hoàn thành vào ngày 30-4-1975. Không chỉ ở quy mô chiến lược, chiến cục, mà ngay cả ở quy mô chiến dịch cũng đã có những trường hợp tương tự. Ví như ở chiến dịch Biên giới năm 1950, lúc đầu thị xã Cao Bằng được chọn làm điểm đột phá nhưng sau khi nghiên cứu tình hình thực địa, Bộ tư lệnh chiến dịch thấy chủ trương đó không thích hợp nửa nên đã dựa vào phương châm "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" và chọn Đông Khê làm trận đánh mở màn. Mất cứ điểm này, như đứt một mắt xích, quả nhiên, quân Pháp buộc phải rút bỏ toàn bộ hệ thống căn cứ chiếm đóng trên đường số 4. Chiến dịch đã nhanh chóng thắng lợi. Đầu năm 1954, khi bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ, chủ trương của Đảng ta là dốc toàn bộ lực lượng để "đánh nhanh, giải quyết nhanh". Nhưng tại chiến trường, sau khi thấy quân địch tăng cường lực lượng, tổ chức phòng ngự kiên cố, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận thức ra rằng kế hoạch hành động đề ra trước đó không thể bảo đảm thẳng lợi được nên dù phải khắc phục rất nhiều khó khăn, vẫn kiên quyết đề nghị chuyển nhanh phương châm chiến dịch sang "đánh chắc, tiến chắc". Với sự lựa chọn một kiểu tác chiến chính xác, sát hợp với tình hình chiến trường như vậy, dân tộc ta đã làm nên "Một Điện Biên chấn động địa cầu", kết thúc vẻ vang chín năm kháng chiến thánh thần chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là ở Việt Nam, còn trên phạm vi thế giới, những nền nghệ thuật quân sự đạt tới những chiến thắng đáng kể cũng chính là kết quả của những sự lựa chọn phương pháp tác chiến thích hợp. Vào thời trung đại, ở thế kỷ XIII trong khi quân đội các nhà nước phong kiến Âu - Á chỉ mới sử dụng kỵ binh ở quy mô chiến thuật, biên chế phân tán loại binh chủng này vào các đơn vị bộ binh thì Thành-cát-tư Hãn, Thống soái quân sự Mông Cổ, đã biết tổ chức kỵ binh tập trung thành những binh đoàn chiến lược hùng hậu, cơ động theo quy mô lớn, trên những không gian rộng và trong những thời gian dài. Nhờ phương pháp tác chiến mới lạ đó, kỵ binh Mông Cổ đã tạo được những quả đấm quyết định trong quá trình chinh phục 40 quốc gia chạy suốt từ bờ Hoàng Hải đến tận Trung Âu. Thế nhưng vào đến nước Đại Việt, kỵ binh Mông - Nguyên đành chịu bó tay vì trên xứ sở này, phương pháp tác chiến của loại binh chủng hạng nhất ở thời trung đại đã không phát huy được tác dụng để giành chiến thắng. Cũng như vậy, vào thời hiện đại ở châu Âu, trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945), dựa trên các học thuyết quân sự "chiến tranh tổng lực" của Lu-đen-đoóc (Ludendorf - người Đức), "chiến tranh trên không" của Đu-ê (Douhet người I-ta-li-a) và "chiến tranh cơ giới" của Phu-lơ (Fuller - người Anh), Hít-le đã thực hiện kiểu "chiến tranh chớp nhoáng" nhằm giành thắng lợi trước khi đối phương triển khai được các nguồn dự trữ của mình. Đó là chiến lược tiến công bất ngờ, không cần tuyên chiến, sử dụng rộng rãi, ồ ạt xe tăng, máy bay và bộ đội đổ bộ đường không. Với phương pháp tác chiến hiện đại này, quân đội phát xít Đức đã thu được những kết quả khả quan khi tiến đánh một số nước châu Âu. Trong thế tiến công như chẻ tre, Hít-le tưởng rằng cứ hành động theo "bài bản" cũ là có thể đè bẹp Hồng quân khi huy động một lực lượng đồ sộ vượt qua biên giới Liên Xô (cũ) và trên thực tế, chúng có thu được một số "thành tích" ở thời kỳ đầu. Nhưng cũng từ thời điểm đó, chúng không hiểu rằng tính chất cuộc chiến tranh đã thay đổi, tương quan lực lượng hai bên không còn như cũ và dĩ nhiên, phương pháp tác chiến đã lỗi thời để rồi cuối cùng nhận lấy sự đầu hàng không điều kiện.


Tóm lại, qua những phần trình bày trên, từ lý luận đến thực tiễn lịch sử quân sự của Việt Nam và thế giới, chúng ta có thể kết luận được rằng Văn hóa trong nghệ thuật quân sự thực chất là cái dấu ấn của con người - kể cả hai bên đối địch - lên lý luận và thực tiễn về chuẩn bị và thực hành tác chiến.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM