Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 01:26:51 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Âm vang Điện Biên  (Đọc 2749 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #20 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 12:52:31 pm »

GIAN LAO CHIẾN SĨ QUÂN Y ĐIỆN BIÊN


NGUYỄN NGHĨA


Khi chiến dịch Điện Biên sắp mở màn, đơn vị chúng tôi (d346, e57, f304) có nhiệm vụ hành quân nghi binh cho chiến trường chính. Tôi là một chiến sĩ quân y đã trải qua nhiều cuộc hành quân đường dài, có cuộc năm sáu tháng liền, nên khá nhiều kinh nghiệm về bảo vệ sức khoẻ, giữ vững số quân chiến đấu với chỉ tiêu 98%. Gần như đã thành kỷ luật. Các chiến sĩ phải bảo vệ đôi chân bằng cách ngâm chân nước nóng. Cho dù mệt nhọc đến đâu, khi hạ trại, từng tiểu đội, từng tổ ba người chia nhau người nấu nước, người đào hố lót ni lông đựng nước nóng... Một hôm tình cờ phát hiện tiểu đoàn trưởng đi họp về muộn chưa ngâm chân đã vào màn ngủ, tổ quân y chúng tôi dứt khoát "bắt" thủ trường phải dậy ngâm chân, chúng tôi tự tay nấu nước, mặc dầu đêm đã khuya. Chúng tôi nghĩ đôi chân người chỉ huy rất quan trọng không thể lơ là việc chăm sóc.


Cái rét của núi rừng Việt Bắc như cắt da, cắt ruột. Nhưng cứ khoảng 3 giờ sáng, chúng tôi đã hành quân, cứ thế, ngày tiếp ngày trên vai đè nặng từ 30 đến 50 ki-lô-gam gồm gạo, súng đạn, thuốc men và cả gia tài người lính. Tôi có bệnh gai cột sống, đi lâu, đứng lâu mang nặng, lưng đau ghê gớm, thường cứ 10 phút nghỉ phải nằm một chút mới đi tiếp được. Dụng cụ "chuyên dùng" của tôi là cái mo cau lót mông, nối với chiếc ba lô đệm lưng khi nằm, còn liều thuốc giảm đau là vừa đi vừa ước giá có một đôi patanh bánh to mà trượt hoặc nhẩm một bài hát, một câu hò.


Về sau này, vài đồng nghiệp nhìn tấm phim chụp cột sống của tôi đã phải thè lưỡi ngạc nhiên và thốt lên rằng: "Thật không thể ngờ được vì sao có thể tồn tại đôi chân ngàn dặm, trên cái lưng bệnh hoạn nặng nề như thế".

Tôi nhớ một lần đơn vị tạm nghỉ, tôi được bố trí ở một nhà dân trên lưng đồi. Sáng sáng, cô gái con chủ nhà rủ tôi đi lấy măng rừng. Cô gái có đôi tay trắng nõn, đào đất cứ thoăn thoắt, bộ ngực căng tròn. Khi lấy lên được một củ măng, đôi mắt hạt huyền của cô long lanh nhìn tôi như cười. Lúc này chỉ một mình chúng tôi giữa rừng sâu, tôi chợt nhớ một câu ca dao: cổ tay em vừa trắng lại tròn, có lẽ gối chăn, gối chiếu không êm, gối lụa không mềm bằng gối tay em! Trong tôi trào lên nỗi thèm muốn nếm thử cái cảm giác gái trai ra sao. Tôi cố nén mình, tập trung tư tưởng, nghĩ về phẩm chất đạo đức cán bộ đảng viên, kỷ luật quân đội, về quan hệ quân dân. Và cuối cùng, tôi đã thắng, tâm hồn thanh thản.


Đợt hành quân nghi binh rồi cũng đến hồi kết thúc, chúng tôi được lệnh vượt đèo Pha Đin trong đêm, để tiến lên mặt trận Điện Biên. Đến địa điểm tập kết, toàn tiểu đoàn tôi chỉ có một người ốm phải để lại sau.

Đơn vị chúng tôi tham gia vây đánh Hồng Cúm. Giai đoạn làm hầm, làm đường kéo pháo bắt đầu: Một kế hoạch toàn diện được phổ biến như: an toàn lao động, bảo vệ sức khỏe, ngụy trang giữ bí mật, phân công nhiệm vụ và giao chỉ tiêu v.v... không khí thi đua sôi nổi và rất hào hứng. Chỉ với dụng cụ thô sơ của người lính: chiếc cuốc cán gập, con dao, cái rựa, thêm một số xà beng công binh cho mượn, các chiến sĩ quân y chúng tôi làm nên những kỳ tích. Chẳng hạn chiếc hầm thương binh đào sâu 3 mét, nắp hầm âm 1 mét, sàn lát gỗ tròn đường kính 20-30 centimét, nắp hầm là lớp đất dày 40-50 centimét, bên trên là những cây vầu bó tròn, trên cùng là ba lớp đất, ván xen kẽ đảm bảo 2 quả pháo 120 ly rơi xuống không hề gì. Những ngày đầu đào đất, nhiều anh em tay bỏng rộp nhưng vẫn vui, lại còn nghĩ ra nhiều sáng kiến, chẳng hạn dùng giẻ sạch thay găng tay, ngâm tay bằng nước nóng có pha muối loãng sau khi đã chích hút hết dịch trong ổ phồng rộp. Nhờ vậy mà không ai bị nhiễm trùng, vết phồng rộp chóng lành.


Đời sống rất khó khăn gian khổ, chủ yếu là ăn rau tàu bay với cơm nếp nhão, ai mệt lắm mới được ăn cơm, cháo nấu gạo tẻ. Tuy vậy, anh em ai cũng sợ ốm không góp được công sức đến cùng cho Điện Biên.

Một lần nọ có đồng chí cấp dưỡng không quen biết, gánh rau cải tươi đi qua đoạn đường chúng tôi đang làm. Các chiến sĩ vốn háo rau, mỗi người chỉ xin một lá rau thôi đã hết vèo già nửa gánh. Tôi cũng xin được một lá và nhai thật chậm để kéo dài cái vị thơm mát, ngọt bùi chưa từng thấy trong đời. Đồng chí cấp dưỡng thương đồng đội quá không nỡ ngăn cản, đứng im cho anh em "trấn lột" rồi xếp lại gánh rau, tiếp tục đi, trên môi nở nụ cười.


Đất ở thung lũng Điện Biên là loại đất sét cứng như đá, quân ta lại phải đào hào dưới bom đạn địch, bom bi, bom chùm, bom nổ trên không... nên thật gian nan, vất vả. Cái mũ rơm và cái cuộn rơm che lưng ra đời từ đấy. Đêm đêm quân ta cứ lấn dần, lấn dần, càng gần hàng rào dây thép gai của địch bao nhiêu, giao tranh càng dữ dội bấy nhiêu. Đêm ta đào, ngày địch lấp. Quân ta quyết giành từng tấc đất thấm đẫm mồ hôi và xương máu của chiến sĩ.


Mãi đến nay, tấm gương dũng cảm hy sinh của một đồng đội tên là Hùng thỉnh thoảng lại hiện lên rất rõ trong tâm trí tôi. Hùng, quê ở Diễn Châu - Nghệ An. Anh nhập ngũ khi đã trên 30 tuổi, có 1 vợ, 2 con. Người anh đậm, nét mặt rất hiền. Anh thương yêu tất cả mọi người và ai cũng quý anh. Trưa ngày 27 tháng 4, trong trận chiến đấu giữ chốt không cho địch lấp giao thông hào, anh đã dũng cảm, mưu trí chỉ huy đơn vị đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Hai lần bị thương: lần thứ nhất, mảnh cối găm sâu vào đùi phải, rất nguy hiểm. Anh bảo tổ quân y chúng tôi giấu kín đừng cho các chiến sĩ của anh biết để diệt nốt bọn Pháp ngoan cố. Lần thứ hai, vết thương quá nặng bởi một viên đạn xuyên ngực, anh đã hy sinh giữa lúc trận Điện Biên sắp kết thúc. Cả trung đội đều khóc thương anh khôn xiết. Tôi càng ngậm ngùi khóc anh, tự trách mình sao không cương quyết bắt anh phải rời trận địa ngay khi anh bị thương lần đầu.


Lúc này nhiệm vụ của tổ quân y chúng tôi càng khó khăn phức tạp hơn, phải bám sát các mũi tiến quân bảo đảm an toàn, tổ chức cấp cứu thương binh, nhanh hơn tốt hơn. Đào nhiều hầm ếch dọc giao thông hào, tăng cường công tác vệ sinh phòng bệnh, vận động anh em đào hố xí, hố tiểu, bếp Hoàng Cầm cỡ nhỏ theo đúng yêu cầu ngày càng cao của chiến đấu. Đêm nào hầu như cũng có thương binh đưa về, cái hầm ếch của chúng tôi đã trải đến cái dù thứ mười mà vẫn tanh mùi máu! Hầm tuyến hai thương binh nặng chật ních vì chưa chuyển thương kịp. Lúc này, ngoài lực lượng dân công hỏa tuyến còn có đồng bào các thôn bản lân cận kéo đến giúp đỡ bộ đội. Các mẹ, các chị người giã gạo, người đút cơm cháo cho thương binh, các trai tráng thì giúp chuyển thương.


Tuy vậy, toàn mặt trận có lúc thật yên ắng. Cả hai bên đang chuẩn bị cho một trận chiến ác liệt hơn. Bên ta chuẩn bị một đợt công kích quan trọng. Bên địch thì toan tính việc phòng thù và cố chết rút lui. Thương binh của chúng đã quá tải, rên rỉ kêu la mà không thể chuyển về Hà Nội được. Sân bay Mường Thanh bị quân ta khống chế. Đồ tiếp tế của địch thả lạc xuống trận địa của ta, có cả những con bò thui còn nóng hổi, những suất ăn sáng, đồ hộp đủ các loại.


Sau chiến thắng Điện Biên, tôi được về sống và học tập giữa lòng Thủ đô Hà Nội. Tôi có một kỷ niệm nhỏ về tấm lòng của người Hà Nội đối với bộ đội, với chiến sĩ Điện Biên. Một sáng chủ nhật, tôi vào một tiệm cắt tóc lớn, được mọi người chào đón niềm nở và được ngồi vào ghế cắt tóc ngay. Vì mệt lại ngồi trên ghế êm, tôi ngủ thiếp đi lúc choàng tỉnh thì đã quá trưa; dễ tôi đã ngủ đến vài ba tiếng đồng hồ. Thấy tôi có vẻ ngượng ngùng, anh thợ cắt tóc cười nói:

- Mọi người thấy anh bộ đội ngủ ngon quá, bảo nhau im lặng để anh ngủ thêm chút nữa.

Một người khách nhìn chiếc huy hiệu Điện Biên tôi đeo trên ngực thân mật nói:

- Đánh giặc ở Điện Biên mấy tháng liền, gì mà chẳng mệt. Rồi cả mấy người khách xúm lại quanh tôi, thi nhau hỏi chuyện Điện Biên...


N.N
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #21 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 12:54:14 pm »

MỘT KỶ NIỆM CỨU DÂN BỊ NẠN


NGUYỄN ĐĂNG CHƯƠNG


Những ngày đầu chiến dịch Điện Biên Phủ, trung đội công binh chúng tôi làm nhiệm vụ phá bom trên đèo Pha Đin. Tôi được trung đội trưởng giao phụ trách tổ quan sát máy bay, cùng với hai đồng chí Út và Thân, có nhiệm vụ xác định chính xác vị trí những quả bom chưa nổ, cắm cờ đánh dấu để tối đến các tổ phá bom của trung đội ra phá, bảo đảm giao thông thông suốt. Tôi chọn đỉnh núi cao nhất trên đỉnh đèo đặt đài quan sát. Đứng ở đó nhìn đèo Pha Đin từ hướng Thuận Châu lên giống như một con trăn khổng lồ uốn mình quanh các triền núi. Còn nhìn về hướng Tuần Giáo thì lại giống như con trăn đang cuộn mình nằm ngủ, thấy rõ cả năm tầng đường. Pha Đin dài tới 32 ki-lô-mét, có nhiều vực sâu, núi cao, là con đường độc đạo đi Lai Châu và Điện Biên. Chính vì vậy mà nó trở thành trọng điểm đánh phá cùa máy bay địch nhằm ngăn chặn quân ta đang hành quân lên Điện Biên.


Ở trên đài quan sát, khi không có máy bay thật yên tĩnh, nghe rõ cả tiếng gió thổi rì rào, tiếng suối chảy róc rách, tiếng chim hót líu lo. Những lúc ấy, tâm hồn chúng tôi thật thư thái. Một buổi sáng đẹp trời, tôi đang mê mải nghe chim hót trong rừng cây, ngắm những tảng mây trắng nõn như bông đi lang thang về phía chân ười xa tắp, thì chợt thấy ở trên đường cái, thấp thoáng có hai bóng người. Tôi vội lấy ống nhòm ra nhìn. Đó là một người đàn ông và một cô gái đang đi rất vội vàng, tất bật. Họ đi đâu vào giờ nguy hiểm này? Đoạn đường trống trải quá, có máy bay thì rất nguy. Tôi chưa kịp nghĩ thêm, thì hai chiếc máy bay "Hen-cát" bay xoẹt qua đầu nhả hai loạt đạn. Chiếu ống nhòm tôi thấy hai người dân trên đường đang giãy giụa. Tôi vội lệnh cho Út ở lại, điện ngay về cho trung đội cử người ra cứu nạn, còn tôi và Thân mang theo túi thuốc chạy nhanh xuống cứu đồng bào. Đến nơi tôi thấy người đàn ông bị đạn xuyên qua ngực đã chết tại chỗ, còn người con gái thì ngất xỉu, máu me đầm đìa ở cánh tay phải. Chúng tôi khiêng xác người đàn ông tạm đặt vào bụi cây rồi dìu cô gái xuống một khe suối cạnh gần đó để cấp cứu. Đó là một cô gái Thái độ 15, 16 tuổi, tôi dùng thuốc sát trùng vết thương, tạm băng lại, chờ quân y đến giải quyết tiếp. Anh Tác - trung đội trưởng dẫn tổ quân y và cáng thương đến. Chúng tôi quyết định chuyển gấp cô gái về tuyến sau để cấp cứu. Tôi và Thân chuyển thi thể nạn nhân đến chỗ kín đáo dưới chân núi đài quan sát, đào sẵn huyệt và chuẩn bị những thứ cần thiết để sẩm tối trung đội tổ chức chôn cất nạn nhân. Chôn cất xong, ngày ngày chúng tôi thắp hương trên mộ, có bát cơm của lính, có ca nước suối rừng cúng người xấu số. Mấy hôm sau anh Tác cho biết đã tìm được địa chỉ nạn nhân. Ông tên là Lò Văn Min, cô gái tên là Lanh ở bản Chiềng Ban gần huyện lỵ Thuận Châu. Cô gái là giáo viên cấp 1, cánh tay trái của cô bị dập nát nên phải cưa đến quá khuỷu tay. Cô đã tỉnh, sức khỏe đang hồi phục dần dần...


Tôi thấy thương cô gái quá: mất cha lại mang thương tật. Rồi cô và gia đình sẽ sống ra sao? Cô có đủ ý chí và nghị lực vượt qua tai họa này không? Tương lai và hạnh phúc của cô sẽ ra sao?

Chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn. Lệnh của cấp trên điều gấp đơn vị tôi lên Điện Biên làm nhiệm vụ chiến đấu. Trước khi xuất phát hành quân, tổ quan sát chúng tôi đã kịp thắp nén hương vĩnh biệt người đàn ông xấu số. Thế rồi, chiến tranh như một cơn lốc cuốn hút chúng tôi vào những trận chiến đấu sống mái với quân thù. Hết đánh Pháp tiếp theo là đánh Mỹ. Suốt mấy chục năm chiến tranh cực kỳ tàn khốc, tôi đã chôn cất nhiều đồng chí và đồng bào ngã xuống vì bom đạn quân thù. Nhưng tôi không quên người đàn ông xấu số và người con gái đáng thương ở trên đèo Pha Đin năm ấy. Và bây giờ, chiến tranh đã đi qua, tóc trên đầu tôi đã bạc nhưng những câu hỏi từ hơn 40 năm trước vẫn còn đang day dứt trong lòng tôi: người con gái ấy sống ra sao? Tương lai, hạnh phúc của cô sẽ như thế nào? Có lẽ những câu hỏi ấy sẽ chẳng có lời giải đáp, vì tôi đã sắp đến tuổi bảy mươi rồi còn đi đâu được nữa...


Năm 1999, sư đoàn chúng tôi tổ chức đi Điện Biên thăm lại chiến trường xưa nhân kỷ niệm lần thứ 45 chiến thắng Điện Biên Phủ. Anh chị em cựu chiến binh chúng tôi phấn khởi lắm. Có mấy cụ tuổi đã tám mươi mà vẫn quyết tâm đi. Có cụ hăng hái nói: "Sau chuyến đi này có phải "đi Văn Điển" cũng không ân hận"...


Xe đến đỉnh đèo Pha Đin thì dừng lại nghỉ 15 phút. Đài quan sát cũ của tôi ở đỉnh núi kia nhưng tôi không thể lên thăm được. Tôi tìm đến mộ người đàn ông xấu số nhưng ở đó chẳng còn dấu tích gì. Tôi nghĩ rằng gia đình đã bốc mộ ông về quê rồi...

Ba hôm sau, chúng tôi trở về Hà Nội. Xe đến Thuận Châu nghỉ lại cạnh một trường học. Tôi tranh thủ mua chai mật ong vì tôi biết mật ong Thuận Châu rất tốt. Một hồi trống tan học vang lên. Học sinh chạy ùa ra cổng. Một cô giáo ở trong trường bước ra. Sao tôi trông ngờ ngợ? Do linh cảm, tôi chủ động đến trước cô giáo hỏi: "Cô cho tôi hỏi thăm bà Lanh ở Chiềng Ban hồi chiến dịch Điện Biên Phủ bị thương cụt tay phải có còn dạy học hay đã nghỉ hưu?" Cô giáo rất ngạc nhiên nhìn tôi dò hỏi: "Ông là ai sao lại quen mẹ tôi?". Tôi mừng đến bàng hoàng vì cuộc gặp gỡ quá bất ngờ! "Cháu ơi, ngày ấy đơn vị bác đã cứu mẹ cháu, đã kịp thời băng bó vết thương, rồi chuyển mẹ cháu về phía sau. Đơn vị bác đã chôn cất ông cháu rất chu đáo. Ngày ngày bác và anh em trên đài quan sát đều thắp hương cho ông. Mẹ cháu có khoẻ không? Gia đình cháu sống ra sao?"...


Tôi nói đến đây thì cô gái oà lên khóc. Cô nói giọng như nghẹn lại: "Từ ngày cháu còn nhỏ, mẹ cháu đã nhiều lần nói đến các anh bộ đội đã cứu mẹ cháu như thế nào. Mẹ cháu vẫn khỏe. Bố cháu cũng là bộ đội, anh cháu là sĩ quan biên phòng. Hoà bình được vài năm thì gia đình cháu đưa ông ngoại cháu về quê...".


Còi xe đã giục tôi hai, ba lần. Không thể chần chừ được nữa tôi chỉ còn kịp ghi cho cô giáo địa chỉ gia đình và số điện thoại. Xe chạy đã xa mà cô giáo vẫn tần ngần đứng đó, trong lúc vội vàng tôi chẳng kịp hỏi tên cô là gì nữa.

Khoảng chừng một tháng sau tôi nhận được thư của bà Lanh, thư do cháu cầm Liên viết:

Bác Chương kính mến!

Hôm gặp bác, cháu về nói chuyện lại. Cả nhà, nhất là mẹ cháu rất vui mừng, nhưng tiếc không gặp được bác. Giá mà bác ở lại gia đình cháu vài ngày thì vui vẻ biết bao!

Sau ngày bị thương, mẹ cháu phải tập viết tay trái, bây giờ tuổi lại nhiều viết khó khăn nên cháu thay mặt mẹ cháu viết thư cho bác. Sau khi ông mất, mẹ bị thương, gia đình cháu khó khăn lắm, nhưng cũng may, chỉ ít lâu thì hoà bình được lập lại. Họ hàng, đoàn thể và nhà trường đã giúp đỡ gia đình cháu nhiều. Mẹ cháu sau khi phục hồi sức khoẻ lại tiếp tục được dạy học. Mười năm sau mẹ cháu được cử đi học cao đẳng Sư phạm, được chuyển lên dạy cấp hai. Làm hiệu trưởng được vài năm mẹ cháu nghỉ hưu. Năm nay mẹ cháu đã 60 tuổi. Năm 24 tuổi mẹ cháu xây dựng gia đình. Bố cháu là thượng tá ở Quân khu 2 cũng đã nghỉ hưu vài năm nay. Anh cháu và cháu đều có gia đình. Thế là bố mẹ cháu đều đã có cháu nội, chấu ngoại. Lần nào hai mẹ con ngồi tâm tình, mẹ cháu lại nhắc đến các anh bộ đội ngày đánh Điện Biên, mặt mẹ cháu lại buồn, có lần mẹ cháu khóc. Bác ơi, bác cố thu xếp lên chơi với gia đình cháu một lần đi. Bác viết thư, gửi ảnh bác và gia đình, mẹ cháu và gia đình mong thư của bác lắm.

Kính chúc bác cùng gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc.

Cháu của bác
CẦM LIÊN


Tôi đọc đi đọc lại ba bốn lần, rồi gấp bức thư cất cẩn thận, ngồi hồi tưởng lại câu chuyện cứu dân năm xưa. Mối tình quân dân thắm thiết ấy kéo dài đến ba thế hệ, mãi mãi là một kỷ niệm đẹp và sâu sắc đối với tôi.

N.Đ.C.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #22 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 12:55:36 pm »

BỨC TRANH ĐỊCH VẬN VẼ GẤP TẠI TRẬN ĐỊA


MAI VĂN HIẾN


Ngày 13 tháng 3 năm 1954, ta nổ súng tiêu diệt Him Lam và ngày 15 vị trí Độc Lập cũng không còn.

Sáng ngày 16, trời còn sương mù dày đặc (ở vùng này tới tận 10 giờ sáng sương mới tan) tôi được lệnh về Bộ chỉ huy mặt trận. Đồng chí Phan Hiền phụ trách công tác báo chí và địch vận, nói với tôi:

- Anh Hiến, sau khi địch mất Him Lam, Độc Lập, chúng nó ở Bản Kéo rất nao núng, có ý định đầu hàng, anh vẽ ngay một bức tranh để kêu gọi chúng hạ vũ khí, đỡ phải tấn công, cần lắm, anh làm ngay đi. Ngay hôm nay, chiều quân báo đến lấy, trương lên sát Bản Kéo. Gấp lắm rồi. Anh cố nhé.

- Thưa anh, tranh cỡ nào và vẽ cái gì ạ?

- Theo tôi bé nhất cũng phải bằng cái kia, để chúng nó nhìn cho rõ và vẽ cái gì đó để bọn địch nhớ nhà, nhớ gia đình là được.

Tôi nhìn theo tay đồng chí ấy chỉ cái "bé nhất" bằng "cái kia" là một cái mái lán rộng đủ cho cả một trung đội.

Tôi thật sự bàng hoàng, vậy là bức tranh bé nhất... ít ra mỗi chiều cũng phải nhiều mét, ngang 4, dọc 5, vị chi là hai mươi mét vuông. Giấy đâu? Thế là tôi chạy đến cơ quan ấn (bây giờ ta gọi là nhà in) để xin. Không phải dễ, cuối cùng anh em cũng đưa cho một số giấy bản, mỗi tờ to bằng nửa trang báo Nhân dân hiện nay. Màu đâu? Lại lộn đến cơ quan ấn. "Ông hoạ sĩ ơi! Làm gì có cho ông, ông xem ở chỗ kia kìa, toàn mực in cặn cả, dùng được thì dùng". Thế là vơ vội mấy cái hộp mực cặn và cũng phải cực kỳ nhanh chóng xin một ít dầu hoả. Tưởng là xong! Chưa đâu. Nhiều thứ lắm, nào là: xay cơm nếp để dán các tờ giấy cho bằng cái mái lán và tìm chỗ để vẽ... Làm gì có chỗ, chỉ có một cách là vẽ dưới đất. Thế là lại phải nhờ một số anh em bộ đội dẫy cỏ và nện đất cho phẳng để có một "mặt bằng" đủ cho cái "bé nhất..." an vị. Coi như là tạm xong. Thế còn bút vẽ? Gay quá, không biết giải quyết thế nào. Nhìn ra xung quanh, thấy ai cũng tất bật vội vã, không có ai là hoạ sĩ, nếu có hỏi cũng chả ăn thua gì. Không có đồng hồ, chả biết mấy giờ. Sương chưa tan, đảo mắt nhìn ra tờ giấy to tướng, trong lòng lại có thêm một điều lo lắng mới. Giấy bản với sương sớm hình như có một sự hòa hợp nào đó cho nên bức tranh tương lai của tôi cứ ướt sũng ra và tất nhiên không giữ nổi cái phẳng phiu ban đầu.


Hết sương, trời hửng nắng, tôi sướng quá nhìn tờ giấy. Thật là lạ, nó vươn mình, doãi ra, doãi ra, nếu không có tiếng oàng oàng của đại bác thì tưởng chừng nghe thấy tiếng răng rắc của nó đấy. Trời càng hỏng nặng, lại một mối lo mới đẻ ra: Một tờ giấy trắng to như thế kia lại được ưu ái trải rộng ở một chỗ vô cùng quan trọng, tức là địa điểm của Bộ chỉ huy mặt trận. Máy bay địch liên tục bay, không thể để chúng nó thấy "mục tiêu" hấp dẫn này, cho nên phải ngụy trang. Họa sĩ lồm ngồm vừa bò vừa vẽ, mỗi bên có 4 đến 5 anh em bộ đội mỗi người cầm một cành cây đầy đủ lá tươi hẳn hoi, thấy máy bay địch xuất hiện thì lập tức úp các cành cây lên tranh, úp luôn cả hoạ sĩ. Đến thánh Tây cũng chẳng thấy được. Cứ thế, cứ thế, bức tranh rồi cũng tiến triển được. Vẽ bằng bút gì? Một đồng chí bộ đội nói cứ lấy cái sống lá chuối rừng đập dập một đầu ra mà vẽ. Như vậy không bao giờ sợ thiếu bút. Hay thật! Về sau tôi kể lại chuyện này, có anh em hỏi: giấy trải ra đất, ông quỳ lên để vẽ thì nó rách mất còn gì? Ấy, phải nhờ mấy ông bộ đội chặt cho vài cây tre dài đặt ngang bức tranh rồi quỳ lên đấy mà vẽ. Như vậy giấy không thể rách được nhưng đau đầu gối lắm, lại phải nhờ đan tiếp cho 2 tấm liếp mỗi tấm một mét vuông đặt xuống rồi bò lên mà vẽ; vẽ xong chỗ nào lại lấy tán kia đặt lên vẽ chỗ khác. Cuối cùng, tranh cũng xong, xoa tay, hút một điếu thuốc lào, mặt trời chưa lặn. Tôi vội vàng chạy đi tìm đồng chí Phan Hiền báo cáo là tranh đã xong, mời các đồng chí có trách nhiệm ra xem (đồng chí Phan Hiền sau này làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp, đã mất, có lần gặp tôi, đồng chí vẫn còn nhắc tới bức tranh).

Anh Hiền vui vẻ nói:

- Xong rồi đấy à? Khá lắm! Tí nữa anh em quân báo sẽ đến. Mệt lắm hả? Anh chuẩn bị để tôi vào mời đồng chí Chủ nhiệm chính trị ra xem và thông qua.

Mấy phút sau, đồng chí Lê Liêm, Chủ nhiệm chính tri mặt trận đến, tay cầm điếu thuốc lá, hồ hởi cười với mọi người:

- Chào các đồng chí, đâu, tranh đâu?

Những cành lá ngụy trang lần lượt được nhấc lên và bức tranh cũng từng phần hiện ra cùng với sự phấp phỏng lo âu mỗi lúc một lớn của tôi. Đồng chí Chủ nhiệm cứ lượn xung quanh bức tranh để xem cùng với một số người khác, dáng băn khoăn.

- Xem thế này khó quá, không nhìn bao quát được từ trên xuống dưới. Muộn rồi, có cách nào dựng nó lên không nhỉ?

- Thưa đồng chí, nó bằng giấy, vả lại chả có chỗ nào để dựng nó lên cả, cho nên phải vẽ dưới đất.

- Thế thì xem toàn bộ thế nào?

- Đây có cái cây, đồng chí trèo lên, từ trên cao nhìn xuống thì thấy hết ạ!

- Ừ nhỉ, phải đấy!

Thế là chủ nhiệm trèo cây. Từ cái chạc ba, đồng chí vừa vẩy vẩy thuốc lá vừa nói vọng xuống:

- Nói chung tôi thấy như vậy là được. Thế nhưng mà... à, họa sĩ, tên là gì nhỉ, Hiến hả? Này anh Hiến, anh nắm được ý của đồng chí phụ trách địch vận đấy: vẽ người mẹ ôm con nhìn vào nơi xa xăm. Họa sĩ nên vẽ người mẹ và đứa con buồn thêm một tí thì mới đúng, còn cái khẩu hiệu thì nét kẻ phải to lên cho rõ hơn. Họa sĩ chịu khó chữa một tý nhé, tôi thấy được!

Anh em xúm lại quanh gốc cây đưa đồng chí Chủ nhiệm xuống, vất vả như cách đây mấy phút đưa đồng chí ấy lên.

Tôi ra công sửa chữa bức tranh. Chiều tối, mấy đồng chí quân báo đến. Trước đó tôi đã dặn phải đan một tấm liếp khổ 4m x 5m để dán bức tranh vào rồi cột vào các giàn giáo. Bức tranh được cuộn lại, to hơn cái ống bương. Tôi hỏi, thế "quân ta" định dựng nó ở Bản Kéo thế nào? Hoạ sĩ cứ yên trí, chúng tôi đã dựng các thứ khung bằng tre từ sáng sớm sẵn sàng cả rồi. Tối chúng tôi bò vào và trương lên. Thôi chào họa sĩ nhé!


Tôi thở phào, nhẹ cả người, thế là xong một việc và tất nhiên tôi có chú ý theo dõi tác phẩm "vĩ đại" của mình (chả gì nó cũng 20 mét vuông cơ mà), thì được biết nó đã "sống", và tôi đã được chứng kiến bọn địch ở Bản Kéo mất tinh thần, ra hàng, vì bị bao vây, uy hiếp mạnh, vì tác động của hai trận Him Lam và đồi Độc Lập.

M.V.H
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #23 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 12:59:04 pm »

RÀ PHÁ BOM NỔ CHẬM Ở ĐIỆN BIÊN


NGUYỄN THÁI HUYÊN


Đại đội 217 của tôi làm nhiệm vụ rà phá bom chậm, phụ trách cung đường từ đỉnh xuống chân đèo Pha Đin, hướng về ngã tư Tuần Giáo.

Từ Sơn La lên Lai Châu chỉ có một con đường là quốc lộ 41 vòng lượn theo những dãy núi cao nguyên thủy. Rất nhiều đèo, đèo Pha Đin là cao nhất, dài hơn hai mươi cây số.

Khi quân đội ta bắt đầu tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thì quân địch càng tăng cường đánh chặn ta dọc các chặng đường hành quân, vận tải lương thực, thuốc men, vũ khí... phục vụ chiến trường. Hàng ngày, máy bay địch lùng sục bắn phá, chọn những cung đoạn, một bên là vách núi, một bên là vực thẳm để thả bom, đào sâu, bóc mặt đường và thả bom nổ chậm.


Trung đội trinh sát chốt trên đỉnh đèo Pha Đin, chọn những điểm cao để quan sát. Mỗi lần máy bay đến thả bom, nghe tiếng bùng bục, mặt đất rung chuyển, không có tiếng nổ, là họ lao tới, tìm chỗ quả bom rơi cắm lên đó một cờ chéo, màu đỏ, báo hiệu ở đây có bom nổ chậm.


Là trung đội trưởng B2, kiêm quản trị trưởng, tôi đi theo tổ tiền trạm đến với trung đội trinh sát. Tôi trèo đèo, mồ hôi tháo ra như tắm. Vào cái quán tự giác của bà con dân tộc Thái, tôi chọn mấy quả chuối tiêu vỏ vàng rộm và hai quả ổi thật to. Tôi bỏ tiền vào cái rá trả cho chủ quán vắng mặt rồi tiếp tục đi. Cây cối hai bên đèo xơ xác. Cây thì đổ gục, cây thì nằm ngang trên hố bom. Mặt đường bị bom đạn cày xới tung toé. Đến một đoạn đường vòng hẹp, nhìn xuống vực thẳm tôi thấy hai chiếc xe ô tô tải, cái chúc đầu xuống, cái giơ bốn bánh lên trời. Chợt nhớ lời tâm sự của anh em lái xe:

- Đường hẹp, mưa thì trơn như đổ mỡ. Lái xe chạy suốt đêm, mắt cứ ríu lại. Xe chạy bằng đèn gầm thiếu ánh sáng, chệch một tí là xong đời!

Cả đoạn đèo này là trận địa rà phá bom của đơn vị. Hàng ngày khi mặt trời lặn là toàn đội kéo quân ra. Anh em theo cờ hiệu mà đào, lôi đầu những quả bom nằm cạn, lăn xuống vực thẳm. Còn quả ở sâu thì khoan lỗ, đặt mìn kích thích cho nó nổ.

Giá mà có cái máy rà mìn, rà bom thì thật tuyệt vời? Chiến sĩ phá bom nổ chậm ở đây chỉ có lòng dũng cảm và cái thuốn. Thuốn là một ống sắt tròn dài độ 4, 5 mét, đầu mũi nhọn, phía trên có khoan mấy hàng lỗ, cái xà beng xuyên qua, hai người hoặc bốn người quay, khoan xuống, khoan xuống sâu, lại chuyển xà beng lên lỗ trên.


Quả bom nổ chậm nổ đúng giờ hẹn thì ổn, nếu gặp thằng "vô kỷ luật" nổ sớm thì cái sống và cái chết gần nhau như tấc gang.

Kẻng báo động vang lên: máy bay địch xuất hiện tốp máy bay ba chiếc gầm rú dữ dội. Chúng nó lao xuống rồi bay vút lên. Bom rơi xuống mặt đường, có vài quả rơi xuống vực thẳm. Bọn giặc lái xảo quyệt thả bom phá trước để diệt những người đang ở trên đường, sau đó mới thả bom nổ chậm.


Tôi vừa nằm xuống một hố bom cũ đã nghe những tiếng nổ vang tai buốt óc. Mảnh bom, đất đá rơi rào rào, khói bụi mù mịt một vùng. Sức ép quả bom tạo thành luồng gió tạt qua người tôi. Chiếc mũ nan có lưới, buộc những mẩu vải xanh lá cây bay đâu mất, chân bên trái của tôi tê buốt.


Tôi cố gượng ngồi dậy. Chân tôi bị mảnh bom xuyên qua, xé rách mảnh quần và một mảng da đùi, máu chảy loang lổ. Tôi lôi cuộn băng trong xắc-cốt, băng nhanh vết thương. Tuy rất đau, nhưng tôi mừng là mình chưa bị nặng, mặc dù miệng hố bom chỉ cách tôi năm mét, mùi thuốc khét lèn lẹt.


Tôi tìm cành cây làm gậy chống, lê bước đi. Mấy anh em đang lom khom cắm cờ hiệu. Một tốp khác đang xúm xít bên một mô đất cao. Thôi, chết rồi, chắc có người bị thương! Tôi nghĩ vậy.

Thấy tôi đến, tiểu đội trưởng Chiểu, chạy tới mếu máo nói:

- Báo cáo trung đội trưởng, đồng chí Tùng bị thương nặng ạ.

- Thế còn các chốt khác?

- Không ai việc gì.

Tùng bị thương bên mông và vai, bông quấn khắp người nhưng máu vẫn thấm qua bông, đỏ thẫm. Anh nằm thẳng đơ, miệng rên khe khẽ. Trong chốc lát, anh được đưa về phía sau. Thương đồng đội có người khóc. Họ nhìn theo cái cáng cho đến khi khuất hẳn. Tôi cử người đi lấy cáng. Đây là dụng cụ thường dùng để chở đất đá.


Các đoàn dân công Bắc Giang, Phú Thọ, Thanh Hóa... lần lượt ra mặt đường cùng với bộ đội để san lấp hố bom, sửa lối đi. Họ cười nói vui vẻ, hồn nhiên.

Hôm nay, đâu phải lần đầu tiên, trận địa trên đèo cao này đã có năm người bị thương, hai người bị thương nặng, đành phải xuất ngũ. Đơn vị bạn có hai người hy sinh.

Trong đội viên có người dao động. Đồng chí Đạo, cán bộ Cục Công binh, chính trị viên đại đội thường hay nói vui:

- Bom nổ, chưa chắc bị thương, bị thương chưa chắc đã chết! Nhiều người đi chợ cũng bị máy bay giặc Pháp bắn chết. Sống với chết là lẽ thường, lý tưởng là sống mãi...

Biết vậy, nhưng rà phá bom đâu phải chuyện đùa. Xe bị ùn tắc đậu một dãy dài dưới đèo. Các đoàn dân công, xe thồ chở gạo, vũ khí về Điện Biên đều ngồi đợi. Họ đi tìm nhận đồng hương, cười nói rôm rả. Một số lại gần xem chúng tôi làm.

Mũi khoan chạm quả bom, tiếng rèn rẹt, nhè nhẹ, báo hiệu có bom. Anh em ra sức đào lôi đầu nó lên. Dân công hoảng sợ, la hét chạy ra xa:

- Chết, coi chừng bom nổ!

Bom dọn đến đâu, các đoàn dân công san đường, lấp hố bom đến đó. Phá xong quả bom cuối cùng, chúng tôi báo hiệu "an toàn". Xe ô tô, xe thồ, dòng người như thác đổ về Điện Biên Phủ. Nỗi vui sướng của họ, hoà lẫn với niềm vui của chúng tôi.

Ở đây biết bao nhiêu ngày đêm chúng tôi đối mặt với bom nổ chậm, gian khổ hy sinh, nhưng sung sướng nhất là đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên vẻ vang, tận mắt thấy bộ đội ta áp giải đoàn quân Pháp bại trận, cúi đầu "diễu hành" qua "lễ đài" Pha Đin. Trời yên, núi rừng bình lặng. Mọi người đổ về xuôi. Riêng đại đội rà phá bom mìn chúng tôi còn ở lại, làm tròn nhiệm vụ: đi trước về sau!

N.T.H
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #24 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 01:01:34 pm »

KỲ TÍCH KÉO PHÁO Ở ĐIỆN BIÊN PHỦ


TRẦN NGỌC TRỮ và HOÀNG PHÁT VÂN


Được tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ là một vinh dự, lại được tham gia kéo pháo càng vinh dự hơn. Chúng tôi xin kể lại câu chuyện kéo pháo cách đây 50 năm, một kỳ tích của pháo binh nói riêng và quân đội ta nói chung.

Sau khi hành quân tới mặt trận, các đơn vị đang chờ đợi kế hoạch chuẩn bị chiến đấu thì chúng tôi được cấp trên cho biết rõ: "Để giữ yếu tố bí mật, giành yếu tố bất ngờ, nhất là đối với lực lượng lựu pháo 105mm và cao xạ 37mm lần đầu tiên xung trận, Bộ chỉ huy mặt trận chủ trương mở đường, dùng sức người kéo pháo vào trận địa". Thực ra lúc đó chúng ta hoàn toàn có khả năng làm đường để xe ô tô trực tiếp kéo pháo vào trận địa, nhưng rất khó giữ được bí mật... Hiểu rõ chủ trương sáng suốt của cấp trên, chúng tôi ai nấy đều hăng hái bắt tay vào nhiệm vụ mới mẻ này. Các lực lượng làm đường gồm có Đại đoàn 308, một tiểu đoàn công binh và năm đại đội sơn pháo, súng cối. Sáng sớm ngày 15 tháng 1 năm 1954, trên năm ngàn con người được rải đều trên suốt các bìa rừng, sườn núi, có nơi chỉ cách địch có 4 ki-lô-mét, trong tầm đại bác của chúng. Hàng ngàn cánh tay vung lên, sỏi đá toé lửa và lăn xuống vực sâu, cây to bị đánh bật gốc. Pháo binh địch thỉnh thoảng bắn vu vơ. Đang giữa tiết đông mà quần áo chúng tôi đều đầm đìa mồ hôi. Cơm ăn ngay tại chỗ, ăn xong lao vào việc ngay. Con đường hiện ra dần dần không phải nhờ có phép lạ mà chính là bằng quyết tâm và sức lao động phi thường của quân ta. Chỉ ít ngày sau, con đường kéo pháo dài 15 ki-lô-mét, rộng 3 ki-lô-mét đã hoàn thành, cả đoạn đường có trên chục dốc cao, có dốc tới 40 độ, bên đường là vực sâu. Đường làm đến đâu anh em lại vít cành cây, dựng dàn mướp trồng cây để ngụy trang đến đó.


Những cỗ pháo nặng trên hai tấh bắt đầu cắt khỏi xe, được kéo bằng tay từ ki-lô-mét 70 đường Tuần Giáo. Lực lượng tham gia kéo pháo gồm Đại đoàn 312, trung đoàn lựu pháo và trung đoàn pháo cao xạ. Lúc đầu, Ban chỉ đạo tổ chức kéo thử một khẩu lựu pháo và một khẩu cao xạ để rút kinh nghiệm. Hai mươi chiến sĩ bộ binh kéo một khẩu, còn pháo thủ thì đẩy, nhấc và chèn bánh. Trên khoảng đất bằng ở cửa rừng Nà Nham, với chừng ấy người, chúng tôi kéo pháo chạy băng băng, anh em ai cũng phấn chấn. Nhưng đến một dốc nhỏ, pháo chỉ nhích được từng gang, khá nặng nề, vất vả. Sau đó phải tăng lên 30 người rồi 40 người một khẩu mới vượt qua được dốc. Càng lên cao, pháo càng ì ạch, càng phải tăng người. Cuối cùng, phải tăng tới 100 người một khẩu cộng với lực kéo của tời mới đưa được pháo lên dốc. Vất vả nhất phải kể đến pháo thủ vác càng, anh em lái không nổi nên lúc càng văng sang phải, lúc quặt sang trái, vòng kéo dằn trên vai đau điếng. Phần lớn là kéo vào ban đêm, nhưng có ngày lợi dụng chỗ có rừng cây kín đáo, anh em kéo mải miết cả ngày.


Để nâng cao tốc độ kéo, bảo đảm cho ngày nổ súng đúng quy định, anh em đã được họp bàn rút kinh nghiệm, nhiều ý kiến đóng góp rất sôi nổi: "Yêu cầu công binh mở rộng đường vòng, bạt bớt dốc, thiết bị tời chắc chắn, dùng dây cóc rừng để kéo, bố trí dây kéo hợp lý hơn...".


"Hai... ba... nào!", tiếng hô của đồng chí chỉ huy kéo pháo mạnh mẽ, thôi thúc điều khiển chúng tôi kéo nhịp nhàng. Trăm con người ngả rạp rồi lại chồm lên như những lớp sóng dồn, quyết bắt pháo đi nhanh. Pháo thủ Vó có sáng kiến buộc bó lá cây nhỏ vào lưỡi cày để càng tự lết xuống đất, không phải vác càng. Khẩu đội tưởng Luân lại có sáng kiến hay hơn là đẽo guốc gỗ hình con vịt buộc vào lưỡi cày để lướt trên mặt đường được nhẹ nhàng.


Tiếng "hai... i... ba, nào!", "dô... ta, nào!" đã khản đặc, có người hô như hết hơi. Có hôm trời mưa dầm dề, đường trơn, dốc tuột, mấy trăm bàn chân đứng mãi một chỗ, đất rắn đã biến thành bùn. Kéo suốt mấy đêm, ai nấy đều thèm ngủ, hễ ngơi tiếng dô ta là có thể ngủ ngay trên đường. Cán bộ đang hội ý, có người ngủ gật, cụng đầu vào nhau tỉnh dậy bật cười.


Trong gian khổ vất vả, nhiều gương dũng cảm xuất hiện. Một hôm khẩu pháo của đại đội 1 đang đổ dốc suối Reo bỗng bị tụt quá nhanh, pháo thủ Mậu đã ghé vai vào bánh kết hợp với dây ghìm cản cho pháo khỏi tụt nhanh, nhưng khẩu pháo vẫn cướp đà đè vào đùi Mậu. Anh em ráng sức kéo ngược lại để cứu Mậu nhưng pháo vẫn không nhúc nhích. Khi thấy lâu, đồng chí Mậu nói với anh em: "Thôi, chân tôi đằng nào cũng đã hỏng, cứ cho pháo lăn qua để đưa pháo vào trận địa kịp nổ súng".


Hôm sau lại một sự kiện nữa xảy ra. Tại đoạn đường từ Lai Châu đi Điện Biên, khẩu pháo của đại đội 6 đang đổ dốc thì dây tời bị đứt, lôi cả dây cả người xềnh xệch trên dốc, không sao cưỡng nổi. "Dũng cảm cứu pháo, còn người còn pháo", những tiếng hô ấy ngân vang trong lòng các chiến sĩ. Trong giờ phút nguy kịch này, ba pháo thủ Chức, Cứ và Ngói đã rượt theo pháo để lao chèn, nhưng pháo cứ lồng lên băng qua mọi cây chèn, mọi mô đất. Cứ và Ngói bị hất ra, chỉ còn mình Chức. Khẩu pháo lao nhanh sắp lăn xuống vực. Không chậm trễ, Chức ôm chèn lao mình vào một bên bánh. Khẩu pháo chồm qua người Chức mất đà lao quặt vào gốc cây trên đồi rồi khựng lại. Tấm gương hy sinh quên mình cứu pháo của Nguyễn Văn Chức cũng như gương hy sinh của Tô Vĩnh Diện ở cao xạ pháo đã nhanh chóng truyền đi khắp tuyến đường kéo pháo. Chúng tôi đều cảm phục, thương tiếc các anh, càng xót xa căm phẫn khi được tin 14 đồng chí của Trung đoàn 675 vừa ngã xuống hôm trước vì một quả đạn pháo địch ở ngã ba Bản Tố khi anh em vào thay bộ binh kéo pháo.


Chính trong thời khắc hào hùng đó, bài hát Hò kéo pháo của Hoàng Vân ra đời, kịp thời động viên bộ đội ghi nhận một sự kiện phi thường.

   ... Sắp tới rồi đồng chí pháo binh ơi!
   Vinh quang thay sức người lao động...

Bảy ngày đêm trôi qua, hàng ngàn chiến sĩ đã vượt qua khó khăn, lập kỳ công bí mật đưa pháo vào trận địa an toàn. Tưởng như vậy đã hoàn thành nhiệm vụ, chỉ chờ lệnh nổ súng nhưng tức thời lại được lệnh của cấp trên "kéo pháo ra" để thực hiện phương châm "đánh chắc, tiến chắc". Bao băn khoăn thắc mắc nảy sinh trong tư tưởng của bộ đội, nhưng sau khi được giải thích, động viên, anh em chúng tôi lại khẩn trương bắt tay vào việc.


Kéo pháo vào đã gian khổ, nhưng kéo pháo ra còn quyết liệt hơn vì địch đã phát hiện được đường kéo pháo của ta, đại bác của chúng bắn xối xả cản đường. Hàng ngày, máy bay địch ném bom napan đốt rừng, thiêu trụi cây, nhưng bộ đội ta vẫn dũng cảm vượt qua lưỡi lửa, quyết tâm đưa pháo ra. Các cỗ pháo được ngụy trang kín đáo, việc chỉ huy kéo pháo có kinh nghiệm hơn, nhưng dưới làn bom đạn địch, không đêm nào là không có thương vong. Có lúc đạn địch rơi giữa hàng quân kéo pháo, một số đồng chí ngã xuống, nhưng đơn vị vẫn ghìm chặt pháo, không hề nao núng buông tay. Ánh sáng của đèn dù soi rõ nét mặt hao gầy, nhưng đầy vẻ kiên quyết của chiến sĩ ta. Trăm người như một, không ai lo lắng đến tính mạng của mình mà chỉ lo giữ gìn pháo.


Sau tám ngày đêm kéo pháo ra, tất cả các khẩu pháo được đưa tới vị trí an toàn. Bom đạn địch bắn phá dữ dội như vậy, nhưng anh em chúng tôi vẫn bảo vệ được pháo nguyên vẹn, bảo đảm ngày nổ súng mở màn chiến dịch đúng quy định.

T.N.T và H.P.V
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #25 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2022, 08:24:47 am »

LÊN ĐƯỜNG TẬP KẾT VỚI CÁI MŨ "ĐIỆN BIÊN"


MINH TRỊ


Tiểu đoàn 308 là một trong ba đơn vị chủ lực trực thuộc Phân liên khu miền Tây - Nam Bộ. Đầu năm 1954, tiểu đoàn được lệnh phân tán các đại đội tác chiến xuống 3 huyện điểm của tỉnh Sóc Trăng phối hợp với các địa phương phát triển lực lượng du kích.


Cuối tháng 4 năm 1954, đồng bào đi chợ vùng tạm chiếm mua về mấy tờ báo Sài Gòn đưa tin "Giao tranh ác liệt ở mặt trận Điện Biên Bắc Việt". Thời gian này, các đơn vị võ trang được lệnh ra sức kìm chân địch ở miền Nam, không cho chúng rút quân chi viện chiến trường "Điện Biên" đang bị quân ta vây chặt hàng ngàn quân! Đó là lần đầu, cán bộ chiến sĩ ở đây nghe cái tên "Điện Biên". Anh em hỏi nhau: "Điện Biên" ở đâu? "Thuộc tỉnh nào ở ngoài Bắc?". "Điện Biên" ở... xa lắm, tuốt địa đầu phía Tây Bắc biên giới đất nước. Đây là cái lòng chảo dồn quân Pháp rút từ các nơi về, rộng mấy chục ngàn hécta phải tiếp tế bằng đường hàng không, nay đang bị pháo binh ta áp đảo dồn dập... Kế đó, khắp nơi, náo nức tin quân ta toàn thắng ở Điện Biên, cả tập đoàn quân của tướng Đờ-cát kéo cờ trắng ra hàng vào ngày 7 tháng 5. Đầu tháng 8 toàn đơn vị tập trung nghe nói về "Hiệp định Giơnevơ" và nhiệm vụ quan trọng: Thực hiện lệnh ngừng bắn trên toàn Nam Bộ vào ngày 11 tháng 8, chuẩn bị tiếp quản tạm thời "thị trấn Tắc Vân" cùng lúc với Tiểu đoàn 307 tạm thời tiếp quản thị trấn Cà Mau. Đây là khu vực 200 ngày tập kết để chuyển quân ra Bắc.


Một số cán bộ của tiểu đoàn được biệt phái sang công tác ở Ban chuyển quân vừa mđi thành lập đặt trụ sở ở ngã ba kênh Chắc Băng, bên kia là "bến tàu" dã chiến vừa cấp tốc xây dựng. Nơi đây đoàn tàu há mồm của quân đội Pháp sẽ đến đón từng đợt quân ta "tập kết" xuôi ra cửa biển Cần Thơ hoặc Vũng Tàu rồi chuyển qua các tàu lớn Arkanghen, Stravabôn (Liên Xô) và Kilinsky (Ba Lan) để tới bến sầm Sơn (Thanh Hóa). Các đơn vị lần lượt đến đóng quân dài theo hai bờ kênh Chắc Băng xuống tận ngã ba sông Thới Bình, chờ kế hoạch điều động của Ban chuyển quân. Lúc này chiếc "mũ bộ đội" của phái đoàn Quân đội nhân dân từ miền Bắc vào làm việc, lần đầu tiên xuất hiện: chiếc mũ nan, bọc vải xanh lá cây và bọc lưới... Đồng bào và chiến sĩ nhiệt liệt hoan hô chào đón phái đoàn. Mọi người trầm trồ chỉ cho nhau xem chiếc mũ biểu tượng của chiến thắng "Điện Biên" chấn động toàn cầu! Rồi trong đội ngũ bộ đội chuẩn bị tập kết ra Bắc, có một sáng kiến được nêu ra: Quân ta xuống tàu tập kết nên đội chiếc mũ "Điện Biên". Ai nấy đều hoan nghênh. Thế rồi những bàn tay chiến sĩ khéo léo lập tức tìm vật liệu, "sáng tạo" cái mũ "Điện Biên". Anh em phân công đi xin tre về làm cốt mũ, vải kaki màu rêu để bọc, còn "ngôi sao đỏ năm cánh", nền vàng nhờ người có hoa tay vẽ trên các tông rồi tô màu, mảnh lưới bọc mũ thì đan bằng dây nhợ hoặc dùng những đoạn lưới đánh cá cũ, còn lá ngụy trang thì làm bằng các mẩu vải vụn màu lá cây qua tay chị em kết lại. Vậy là cái mũ "Điện Biên" nhanh chóng được hoàn thành từ tiểu đội này đến tiểu đội kia. Rồi một sáng toàn đơn vị tập hợp chào cờ, mọi cán bộ, chiến sĩ đều đội mũ "Điện Biên" hãnh diện, ngẩng cao đầu hát vang "... giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân trở về giữa mùa hoa nở miền Tây Bắc tưng bừng vui...


Những đơn vị khác từ xa vừa đến, trông thấy mũ "Điện Biên" hiên ngang quá lập tức bàn cách làm theo và thật nhanh cho kịp thời gian. Một cán bộ cầm cái mũ "mẫu" xem kỹ phía ngoài, phía trong, vạch mép vải bọc quanh vành nón, gật gù nói: "Cử người ra chợ, mua tất cả nón... cối, vải mầu cứt ngựa và lưới ngụy trang". Anh em hò reo náo nhiệt "Quá hay!". "Thần sầu!". Nhưng mà, còn ngôi sao? Tiếng một người dõng dạc: Ngôi sao thì mỗi người tự lo. Lấy bìa các tông vẽ hình sao rồi cắt ra, lấy kim ghim vào mũ.... Thế là đơn vị gom tiền, xin phép cấp trên nhờ chị em phụ nữ ra các chợ Cà Mau, Tắc Vân hễ thấy nón cối là "vét" hết. Các chị chở về đủ kiểu nón cối, hầu hết mang nhãn hiệu "Le coq" (con gà) khá nhẹ, chất liệu bằng "mốp" loại bình dân thường dùng. Thế rồi, mọi cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị đều có mũ "Điện Biên". Mà không chỉ bộ đội, khối dân chính tập kết cũng bảo nhau làm mũ "Điện Biên". Những chiếc nón cối lập tức được "lợp" vải màu rêu, bọc thêm lớp lưới đính những mẩu vải nhỏ lá mạ phất phơ, trở thành mũ "Điện Biên" chính cống.


Đoàn tàu há mồm của đối phương xình xịch cập bến dọc sát bờ kênh, mở bửng tiếp đất. Trên bãi tập trung, các đơn vị tập kết, hàng ngũ chỉnh tề, mọi người đều đội mũ "Điện Biên" tưng bừng khí thế chiến thắng. Từng đơn vị lần lượt xuống tàu. Loa phóng thanh phát nhạc hành khúc... Bửng tàu rít lên chát chúa đóng sập lại, người trên bờ không còn thấy người dưới tàu. Nhưng những cái mũ "Điện Biên" đồng loạt nhô lên khỏi thân tàu náo nức vẫy chào. Người trên bờ ra tiễn, giơ cao hai ngón tay hẹn ngày gặp lại. Máy tàu rú lên ầm ầm không át được tiếng vỗ tay và tiếng hát "Giải phóng Điện Biên, bộ đội ta tiến quân trở về...".


Âm thanh, cảnh tượng ấy, trong những ngày này chuẩn bị 50 năm kỷ niệm chiến thắng lịch sử "Điện Biên" càng làm bùng lên niềm tự hào, tình cảm của thế hệ kháng chiến chống Pháp, của lớp lớp đoàn quân "vì nhân dân quên mình".

M.T
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #26 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2022, 08:25:46 am »

"BÉ BÚP BÊ" CÙNG TÔI VÀO CHIẾN DỊCH


VŨ HẬU


Chúng tôi, những cán bộ và chiến sĩ của Tiểu đoàn 215, Trung đoàn 98, Đại đoàn 316 đang đóng quân và luyện tập trên đất Hòa Bình thì được lệnh hành quân lên Tây Bắc.

Ngày 24 tháng 11 năm 1953, chúng tôi xuất phát. Lần này tiến quân vào Tây Bắc để tiếp tục giải phóng hoàn toàn miền Tây Bắc. Tiểu đoàn 215 của chúng tôi có nhiệm vụ vượt lên chiếm lĩnh trận địa trên núi Pu San, nơi có con đường từ Lai Châu về Điện Biên Phủ để chặn địch từ Lai Châu tháo chạy về Điện Biên Phủ và chặn địch từ Điện Biên Phủ ra ứng cứu cho đồng bọn.


Lúc này địch từ Lai Châu rút về đến Mường Pồn bị một đơn vị của Trung đoàn 174, Đại đoàn 316 chúng tôi chặn đánh và tiêu diệt. Tiểu đoàn 215 của chúng tôi được giao nhiệm vụ truy kích địch để bắt tù binh. Mọi tiếng súng trên chiến trường đều im bặt. Núi rừng nơi đây lại tĩnh mịch, thầm lặng như cuộc sống vốn có của nó.


Tôi và đồng chí Dưỡng (chiến sĩ thông tin của đại đội), xuống đường quan sát trận địa. Đồ đạc của địch vứt nhiều vô kể. Kỷ luật chiến trường về chiến lợi phẩm không cho phép chúng tôi động đến. Bỗng tôi thấy trong đám quần áo và tư trang của quân ngụy vứt đầy có một con búp bê "Bé" cao khoảng 25 cm nằm ngay cạnh đường. "Bé búp bê" trông yêu quá!". Tôi nói với Dưỡng: "Dưỡng ơi! Tôi nhặt con "Bé búp bê" này nhé!" Dưỡng đồng ý. Tôi bế "Bé búp bê" lên và lấy chiếc bao đựng gạo cỡ lớn bỏ "Bé búp bê" vào và địu Bé sau lưng.


Trên đường hành quân truy quét địch, tôi vẫn địu "Bé búp bê" trên lưng. Có lúc tôi thầm nghĩ: "Chờ ngày chiến thắng trở về sẽ tặng "Bé búp bê" cho người tôi yêu!" Lúc này tôi mới 25 tuổi tham gia quân đội từ lúc 16 tuổi, chưa có gia đình riêng, song cũng có lúc tôi đã đơn phương thầm yêu trộm nhớ một người...


Cuộc chiến đấu diễn ra liên tục. Tiểu đoàn 215 của chúng tôi truy kích địch về phía bản Xi Pa Phin, nơi đây có một đồn trú của quân Pháp.

Cách đồn trú của địch khoảng 500 mét, bộ đội dừng lại. Trinh sát báo cáo: "Địch đã tháo chạy hết, đồng bào trong bản cũng đã chạy hết - vườn không nhà trống!".

Anh Hoàng Niệm, nay là thiếu tướng nguyên Tư lệnh trưởng Thông tin (đã nghỉ hưu), lúc đó là Chính trị viên Tiểu đoàn 215 gọi tôi đến và ra lệnh: "Hậu ơi (lúc này tôi là chính trị viên đại đội 36, đại đội trợ chiến của tiểu đoàn), cậu đưa một liên lạc viên cùng đi, vào trong bản xem dân tình ra sao và vận động đồng bào đem trả những thứ đã lấy trên đồn địch, đặc biệt là lương thực, thực phẩm và vũ khí. Bộ đội hành quân đuổi địch đang cần vũ khí và lương ăn".


Tôi tuân lệnh chính trị viên, đưa Dưỡng cùng đi vào bản. Nơi đây địch vừa tháo chạy, đồng bào đang hoang mang bởi địch thường xuyên tuyên truyền, xuyên tạc nói xấu Việt Minh: bộ đội Việt Minh đi đến đâu là gây tai họa cho đồng bào đến đấy...


Bản vắng teo lạnh lẽo, im lìm. Dưỡng vẫn đeo súng trường trên vai, tôi vẫn để súng lục trong bao, hai chúng tôi vào từng nhà, từng bếp, không thấy một bóng người, một chút thức ăn cũng không.

Chúng tôi đang thất vọng vì không thấy một bóng người nào thì đột nhiên có một chị phụ nữ bế một cháu gái nhỏ chừng 4-5 tháng xuất hiện. Tôi mừng quá!

Chị phụ nữ nhìn chúng tôi một cách ngỡ ngàng.

Tôi nhoẻn miệng cười, vỗ tay đùa với cháu bé và hỏi chị phụ nữ: "Người trong bản đi đâu cả rồi?". Chị trả lời "Đàn ông chết hết cả rồi". Tôi biết là chị nói dối. Tiếp tục đùa vui với cháu bé, xoè tay đón cháu, cháu không theo, nhưng không tỏ ra sợ sệt. Mẹ cháu nét mặt cũng có vẻ thân thiện hơn. Nếu làm thân được với cháu bé thì sẽ tranh thủ được tình cảm của mẹ cháu và từ đó có thể kéo được dân bản về nhà. Tôi chợt nghĩ đến "Bé búp bê". Trẻ em đứa nào mà chẳng thích búp bê! Tôi thầm xin phép người mà mình thầm yêu, mở bao gạo lấy "Bé búp bê" ra đưa cho cháu bé. Cháu toét miệng cười với lấy "Bé búp bê". Mẹ bé cũng cười vui vẻ với chúng tôi. Tôi nói: "Chị đi gọi thanh niên và bà con về đi". Chị mỉm cười và bế cháu bé đi.


Khoảng 15-20 phút sau có vài chàng thanh niên về. Hình như họ đã rình xem chúng tôi tiếp xúc với mẹ con chị phụ nữ, nên gặp chúng tôi, họ tỏ ra vui vẻ.

Tôi bảo họ đi mời các người già về. Họ quay đi và khoảng 20 phút sau đưa vài cụ ông về. Chúng tôi trò chuyện, hỏi thăm các cụ và trình bày với các cụ về nhiệm vụ bộ đội ta và yêu cầu của bộ đội đối với dân bản. Qua chuyện trò với chúng tôi, các cụ mỗi lúc một vui vẻ hơn. Sau đó các cụ đã gọi một số thanh niên đem từ rừng về trả cho ta 300 ki-lô-gam gạo trắng, 25 hộp thịt, 60 bao thuốc lá và một con bò khá to. Đêm đó, cả tiểu đoàn ngủ lại bản Xi Pa Phin rồi hôm sau lại hành quân về Điện Biên tiếp tục bao vây địch.


Kỷ niệm 50 năm ngày chiến thắng Điện Biên, hồi tưởng lại mọi việc, tôi nhớ nhất là "Bé búp bê" và cháu gái được tôi tặng búp bê. Nếu còn thì cháu gái cũng đã 50 tuổi.

Nhớ đến "Bé búp bê" tôi xin có lời cáo lỗi với người mà tôi thầm yêu, vì đã không thực hiện được ước mơ địu "Bé búp bê" về để tặng nàng và xin nàng hãy tự hào vì "Bé búp bê" không đến được tay nàng, nhưng đã giúp tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #27 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2022, 08:26:39 am »

CHIA LỬA VỚI ĐIỆN BIÊN


HOÀNG MINH MẪN


Đầu năm 1953, khi chúng tôi vừa hành quân về vị trí tập kết để chuẩn bị dự chiến dịch An Khê thì tôi nhận được lệnh của đồng chí Nguyễn Chánh, Bí thư Quân khu ủy. Lệnh ngắn, gọn: "Giao đơn vị cho Ban chỉ huy Trung đoàn, lên quân khu nhận nhiệm vụ mđi". Nhận lệnh điều động lần này tôi linh cảm rằng mình sắp được nhận một nhiệm vụ quan trọng, nhiều khó khăn gian khổ.


Tôi hăm hở lên căn cứ của Bộ Tư lệnh Quân khu. Vừa tới nơi tôi gặp được ngay đồng chí Nguyễn Chánh và nhận nhiệm vụ: Trở lại chiến trường cực Nam Trung Bộ chỉ huy Trung đoàn 812 đánh chiếm căn cứ Lê Hồng Phong, mở rộng vùng giải phóng, tiến tới mở rộng căn cứ phía tây tình Bình Thuận. Lúc tiễn tôi lên đường, đồng chí Bí thư Quân khu ủy nắm chặt tay tôi, cười nói: "Đồng chí đi mạnh khỏe. Mong tin thắng lợi của 812. Mười Tỷ (tên gọi thân mật của tôi) về chiến trường cực Nam Trung Bộ thì khác nào hổ về rừng. Đúng không?".


Tôi biết đây là một cuộc chạy đua chiến lược giữa ta và địch. Âm mưu của địch là muốn chiếm vùng tự do Liên khu 5, một vùng giàu sức người, sức của mà chúng có thể vơ vét được để phục vụ cho cuộc chiến. Đồng thời để cắt đứt nguồn hậu cần to lớn của cuộc chiến tranh nhân dân của ta ở Liên khu 5.


Lần này nhất thiết chúng tôi phải đánh chiếm bằng được căn cứ Lê Hồng Phong của địch bấy nay vẫn khống chế một vùng rộng lớn ở phía tây Bình Thuận và kiểm soát các trục lộ giao thông quan trọng như quốc lộ 1A, đường sắt, đường 20...


Quân khu đã bổ sung quân số, trang bị vũ khí cho các đơn vị vũ trang địa phương để bảo vệ được địa bàn, tác chiến thu hút địch, dàn mỏng lực lượng của chúng, phối thuộc với Trung đoàn 812 mở những trận đánh lớn, mở rộng và xây dựng chiến khu.


Về phía trung đoàn, chúng tôi được Quân khu và Bộ tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng cường sức mạnh toàn diện, có thể đánh lớn, tiêu diệt gọn được các chi khu, nhổ được các đồn lớn, đánh các trận vận động chống càn lớn và đánh vận động phục kích thắng lợi...


Sau nhiều tháng chuẩn bị, cuối năm 1953, chúng tôi được lệnh vào chiến dịch cùng với các chiến trường khắp cả nước.

Chúng tôi quyết định chọn chi khu mũi Né đánh trận mở màn. Bị bất ngờ, địch hoảng loạn trước hỏa lực áp đảo và sức tiến công vũ bão của quân ta. Toàn bộ địch đồn trú bị tiêu diệt và bắt sống; toàn bộ vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch vào tay quân ta. Cửa ngõ phía đông của căn cứ Lê Hồng Phong được mở toang ra hướng biển.


Thừa thắng và không để cho địch kịp trở tay, chúng tôi tiến công luôn căn cứ Lương Sơn do một tiểu đoàn Âu Phi tăng cường chốt giữ để kiểm soát ga xe lửa và khống chế hướng bắc căn cứ Lê Hồng Phong. Uy danh của quân ta trong trận mũi Né cộng với sức tấn công dũng mãnh ở đây đã làm bọn lính Âu Phi rối loạn, vừa chống trả, vừa tháo chạy. Những tên cố thủ chống cự đều bị tiêu diệt, Lương Sơn nhanh chóng lọt vào tay quân ta.


Mũi Né rồi Lương Sơn thất thủ quá nhanh, bộ chỉ huy quân địch còn đang lúng túng tìm cách đối phó thì chúng tôi lại tiến công mãnh liệt vào chi khu Hoà Đa trên quốc lộ 1A ở hướng đông bắc căn cứ Lê Hồng Phong. Thêm một chi khu nữa của địch rơi vào tay chúng tôi.


Ba thất bại nặng nề liên tiếp đã làm cho ý chí của quan quân địch bắt đầu suy sụp. Thế kìm kẹp của chúng bấy nay đối với nhân dân quanh vùng bị phá vỡ từng mảng. Phong trào cách mạng của quần chúng dần lên cao. Nhân dân bung ra làm ăn, sản xuất, móc nối lại với cách mạng, giúp đỡ lực lượng vũ trang về mọi mặt. Chúng tôi vừa vận động quần chúng xây dựng cơ sở, vừa khẩn trương củng cố đơn vị, chuẩn bị mọi mặt để bước vào đợt 2 chiến dịch.


Mở màn đợt 2, cùng lúc chúng tôi tiến công hai chi khu Hoài Đức và Tánh Linh. Đây là hai chi khu bấy nay vẫn khống chế khu vực đồng bằng phì nhiêu và quốc lộ 20. Hoài Đức rồi Tánh Linh nhanh chóng bị xoá sổ. Thừa thắng, chúng tôi bốc hết các đồn bốt địch trên đường từ Gia Huynh đi Suối Kiết, sông Ray, sông Dinh, Mương Mán, Bàu Đa và tiến công tiêu diệt hoàn toàn chi khu Ma Lâm.


Tháng 5 năm 1954 chúng tôi đang trên thế tiến công như chẻ tre thì bỗng có lệnh ngừng bắn và thu quân, nhiều cán bộ, chiến sĩ thắc mắc đòi được tiếp tục truy kích địch. Nhưng chúng tôi, những cán bộ trực tiếp chỉ huy chiến dịch biết rõ: Giờ lịch sử đã điểm, ở chiến trường chính Điện Biên Phủ địch đã bị đánh bại hoàn toàn. Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương đã được ký kết. Toàn đơn vị chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng và Bộ Tư lệnh Quân khu bắt tay vào việc thi hành Hiệp định.


Chiến dịch đánh chiếm căn cứ Lê Hồng Phong là một trong những kỷ niệm đẹp trong cuộc đời chiến đấu của tôi. Những kinh nghiệm rút ra từ đây rất bổ ích đối với tôi trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác liệt sau này.

(Ghi theo lời kể của đồng chí Lê Thành Cộng)
H.M.M
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #28 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2022, 08:27:20 am »

MỘT CHUYẾN ÁP GIẢI TÙ BINH ĐỘC ĐÁO


ĐỖ TIẾN


Trung tuần tháng 5 năm 1954, được giao nhiệm vụ phụ trách 10 chiến sĩ áp giải 200 tên tù binh Pháp từ Điện Biên Phủ về vùng tự do Liên khu 4, tôi không khỏi băn khoăn lo lắng. Không phải lo quãng đường từ Điện Biên về Thọ Xuân (Thanh Hóa) dài dằng dặc mà lo nhất là khoản không biết tiếng Pháp. 10 chiến sĩ đi cùng tôi cũng chỉ biết mỗi một câu: "Hô-lê-manh" vừa quát vừa giương lê bắt sống địch. Ngoài 200 tên tù binh Pháp tôi còn được giao thêm 35 con trâu làm nhiệm vụ vận tải và là nguồn hậu cần dọc đường.  Dong trâu thì tôi đã quen (tôi chăn trâu từ nhỏ) nhưng dong... 200 tên lính Pháp quen ngồi ô tô, máy bay hơn đi bộ thì quả là gay go. Nhưng nhiệm vụ là nhiệm vụ. Toàn tổ chúng tôi lên phương án, tổ nào đi trước, tổ nào đi sau, cách thức ăn ngủ trên đường... Dẫu đã bàn chi tiết, nhưng vẫn nảy sinh vô số vấn đề.


Ngày chúng tôi lên đường cái nắng mùa hè bắt đầu thiêu đốt. Núi rừng Tây Bắc ban ngày ầm ầm bom đạn bây giờ râm ran tiếng ve. Đoàn tù binh Pháp tròn mắt ngạc nhiên khi thấy đàn trâu nghênh sừng tham gia cuộc hành trình. Lúc được biết đây là đàn trâu dành cho chúng vừa để ngả thịt vừa để chở những tên bị ốm thì chúng vỗ tay bôm bốp, xi lá xi lồ ngậu xị. Ngày thứ nhất hành quân tôi giao cho bọn tù binh cứ 6 tên dắt một con trâu. Chưa bao giờ trên nẻo đường kháng chiến của ta diễn ra quang cảnh kỳ lạ đến vậy: Giữa dòng tù binh lô nhô mũ rộng vành, mũ nồi, quần túi "bắt gà", những chú trâu Việt Nam đủng đỉnh gõ móng cùng tiến bước. Các cô dân công gặp chúng tôi trên đường cười ré.

- Các anh bộ đội ơi, cho Tây đi cày đây à?

- Eo ơi, Tây mà cày thì khoẻ phải biết nhá!

Có cô réo tướng:

- Cho nhà em một cặp nào. Anh của em đi bộ đội, em đi dân công, ruộng không có ai cày bừa kia kìa!

Mới già nửa ngày đường chúng tôi đã phải xử lý nhiều chuyện. Có tên tù binh chỉ xuống chân nhăn nhó đòi... cưỡi trâu. Có tên ôm bụng, vỗ mông bành bạch ra hiệu xin rẽ ngang vào rừng để giải quyết... vấn đề. Sang ngày thứ hai, thứ ba, những tên lính viễn chinh trút hết vẻ hùng hổ, ngổ ngáo một thời, tên thì giả vờ ốm, tên thì cứ ngồi lỳ trên lưng trâu không chịu nhường đồng bọn. Thậm chí chúng đòi thịt trâu, nhưng khi chúng tôi đồng ý, định dắt trâu đem thịt thì chúng lại lắc đầu, xua xua tay và chỉ sang con trâu của... tốp khác. Một hôm, chúng tôi bị mưa ngang đường. Cơn mưa rừng mùa hạ trắng trời, trắng đất. Biết không có chỗ tránh mưa tôi ra hiệu tiếp tục đi. Anh em ta tập trung áo mưa che cho những tên tù binh ốm nằm trên lưng trâu. Thấy hình ảnh ấy, đoàn tù binh có tên bật khóc, đặt tay lên ngực, cúi gập người "Mẹc xì, mẹc xì" (cám ơn) liên tục.


Cứ thế ròng rã hơn một tháng trời chúng tôi áp giải đoàn tù binh Pháp về tới Thọ Xuân, Thanh Hóa đủ 200 tên, không một tên nào rớt lại dọc đường. Riêng đàn trâu chỉ thiếu 3, còn lại 32 con. Lẽ ra số trâu này không cần phải mang về nhiều đến thế, nhưng do những tên tù binh Pháp thích ăn thịt trâu song lại lo không có cái cưỡi nên trâu mới còn nhiều như vậy.


Nghe tôi tình bày đồng chí trưởng trạm cười vang.

Đ.T
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #29 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2022, 08:28:14 am »

NGƯỜI THẦY GIÁO CHIẾN SĨ


THANH PHONG


Cuối năm 1953, sau khi kết thúc khoá huấn luyện tại Trung đoàn 55, đóng quân ở Thọ Xuân và Nông Cống, tình Thanh Hóa, những chiến sĩ "tân binh" chúng tôi, nhận lệnh hành quân cấp tốc đi bổ sung cho các quân, binh chủng tại mặt trận Điện Biên Phủ.


Toàn trung đoàn ăn cái tết đầu tiên trong một khu rừng già, cách mặt trận khoảng 10 ki-lô-mét đường chim bay rồi tiếp tục hành quân đến vị trí tập kết bổ sung cho đơn vị mới: Đại đội 503, Tiểu đoàn 115, Trung đoàn 165, Sư đoàn Quân chiến thắng (Sư đoàn 312). Ở đây, tình cờ tôi được gặp anh Vũ Tất Thắng giáo viên của trường phổ thông cấp 2, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.


Anh có dáng vóc to cao, mập mạp, nước da bánh mật, khuôn mặt chữ điền, vầng trán rộng, giọng nói trầm, mỗi khi cười để lộ hai hàm răng trắng muốt. Qua một vài lần tâm sự, tôi hiểu và nhờ anh dạy cho một vài từ tiếng Pháp để khi cần thiết kêu gọi binh lính địch đầu hàng. Là một thầy giáo thông thạo tiếng Pháp nên anh vui lòng đáp ứng nguyện vong của tôi. Anh khuyên tôi, nếu sau này có điều kiện nên tiếp tục học tiếng Pháp và tiếng Anh, đó là thứ tiếng thông dụng trên thế giới.


Sau những cuộc tâm tình như thế, chúng tôi lại phải chia tay. Anh ở Tiểu đội 3 Trung đội 4, còn tôi ở Tiểu đội 1 Trung đội 1, phân tán theo những hào giao thông chằng chịt với các hầm ngầm cho tổ ba người, nên rất khó gặp được nhau.


Chiều ngày 14 tháng 3, đơn vị tôi nhận lệnh xuất kích phối hợp cùng các binh chủng, đánh vào đồi Độc Lập. Sau cứ điểm Độc Lập hơn 300 mét, nhận lệnh của tiểu đoàn trưởng Lã Thái Hoà "cho bộ đội vọt tiến". Chúng tôi vượt qua cánh đồng toàn ruộng bậc thang, gập ghềnh, chiếm lĩnh đột phá khẩu (do tổ bộc phá Nguyễn Văn Chành, Đại đội 501 đã mở), đánh thẳng vào hầm thứ nhất, ở vị trí tiền tiêu của địch.


Tôi và anh Vị (y tá đại đội) vào căn hầm này, qua ánh đèn pin thấy trong căn hầm có một chiếc giường gấp (giường bạt kiểu dã chiến), trên đầu giường có một khẩu súng trường MAS, dưới chân giường là một thùng nước trong vắt, bằng vải bạt, khi di chuyển có thể ép lại, như một chiếc cặp đựng sách vở. Chúng tôi vừa đến nơi thì tiểu đội trưởng Lâm dẫn tới một bọn lính Âu Phi và giao nhiệm vụ cho tôi canh giữ. Cùng lúc đó tổ cáng thương đưa vào một thương binh. Thật bất ngờ, người thương binh này chính là thầy giáo Vũ Tất Thắng. Anh Thắng bị thương rất nặng, cả hai đùi bị mảnh đại bác băm nát. Chúng tôi đỡ anh lên chiếc giường vải, rồi băng bó vết thương cho anh.


Lúc này, trong hầm tù binh đông nhốn nháo mất trật tự. Một số tên cởi đồng hồ đeo tay và móc tiền ra "nộp" cho chúng tôi. Tôi giải thích cho bọn chúng về kỷ luật của Quân đội nhân dân Việt Nam, không ai được nhận chiến lợi phẩm của địch, nhưng vì trình độ Pháp văn bị hạn chế, nên rất lúng túng. Thấy vậy, anh Thắng đã nói hộ tôi bằng tiếng Pháp rất suôn sẻ. Bọn tù binh tỏ vẻ rất ngạc nhiên, thi nhau đáp lại bằng tiếng Việt: "Vâng! Vâng!".


Thắng gọi tên tôi, đòi tôi đưa nước cho anh uống. Tôi lấy chiếc ca múc trong thùng nước dưới chân giường, đưa cho anh và yêu cầu anh không được uống, chỉ nhấp giọng cho đỡ khát. Anh Thắng cũng đồng ý chấp nhận đề nghị của tôi.


Tôi quay sang hỏi nhỏ anh Vị, vết thương của anh Thắng có nặng lắm không? Anh Vị đáp: "Cả 2 đùi anh Thắng đều bị nát hết thịt, tiện thành một hình tròn". Máu chảy nhiều, anh Thắng đòi uống nước. Tôi chỉ cho anh nhấp giọng, vì máu ở vết thương của anh chảy nhiều nên chỉ cầm máu tạm thời, chờ tới khi đưa được anh về phía sau.


Tôi hồi hộp lo cho tính mạng của anh. Bỗng căn hầm rung chuyển. Một quả đạn đại bác của địch từ Mường Thanh giội trúng nắp hầm, khoét thành một lỗ hổng làm cho căn hầm từ tối om trở thành sáng rõ mặt người. Bọn tù binh hoang mang, sợ sệt, mất trật tự. Anh Thắng lại cố gắng dùng tiếng Pháp trấn an bọn chúng.


Mặc dù vết thương quá nặng, nhưng anh không hề rên la, hoặc tỏ ra bi quan dao động. Tôi càng thêm kính phục anh, thầm ước mong tính mạng anh được vẹn toàn.

Song điều mong ước đó đã không thành hiện thực. Thắng đã trút hơi thở cuối cùng sau khi quân ta quét sạch cứ điểm Độc Lập. Trước lúc ra đi, anh hô vang:

- Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!

- Hồ Chủ tịch muôn năm!

Tấm gương dũng cảm của anh đã tiếp thêm sức mạnh cho các đồng chí, đồng đội góp phần vào thắng lợi to lớn của chiến dịch Điện Biên Phủ.

Từ đó đến nay, đã qua 50 năm, lớp chiến sĩ chúng tôi thời bấy giờ, cũng đã lần lượt theo nhau về cõi vĩnh hằng. Những người còn lại thì xuân xanh đã trên dưới "thất tuần". Nhưng hàng năm cứ gần đến ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954) trong ký ức mỗi người lại sáng lên những kỷ niệm về tình bạn, tình đồng chí đã từng sống, chết có nhau, chiến đấu bên nhau trong chiến dịch lịch sử có một không hai này.


Riêng tôi, cứ mỗi lần mở trang nhật ký chiến trường, có bút tích của anh Vũ Tất Thắng, căn dặn tôi trước khi vào trận chiến đấu, tôi càng bùi ngùi xúc động, nhớ về anh, một người chiến sĩ kiên cường, bất khuất, một thầy giáo đã dạy cho tôi rất nhiều điều bổ ích, để lại trong tôi những kỷ niệm khó quên.

T.P
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM