Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 07:00:48 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia  (Đọc 7022 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #40 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2021, 06:19:10 am »

Trong nội địa, các đơn vị Quân khu 9 kiểm soát được các địa bàn, triệt phá các “lõm”, hỗ trợ đắc lực cho công tác vận động quần chúng, phá rã chính quyền hai mặt và phần tử hai mặt của địch, đập tan nhiều âm mưu bạo loạn của chúng trong dịp lễ Chon Chnam Thơmây (ngày 15 tháng 4); bảo vệ an toàn các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế, tạo điều kiện củng cố xây dựng chính quyền cách mạng.

Trong mùa khô, từ tháng 10 năm 1979 đến tháng 5 năm 1980, trên địa bàn do Quân khu 9 đảm nhiệm, các đơn vị ta đã loại khỏi chiến đấu 3.207 tên địch, thu 1.872 súng các loại, 30 tấn đạn, 76 máy thông tin các loại, hơn 90 tấn lương thực. Giải phóng thêm 1.182 dân. Phía ta thương vong 315 đồng chí.

Sau khi hoàn thành kế hoạch tác chiến mùa mưa, trên địa bàn do Mặt trận 479 đảm nhiệm, trong mùa khô 1979-1980, ta đẩy mạnh hoạt động truy quét địch. Đảng ủy mặt trận xác định nhiệm vụ chủ yếu là tiêu diệt và gọi hàng quân địch trong nội địa, đánh bại các cuộc tiến công của địch từ ngoài biên giới đánh vào với bất cứ quy mô nào; gấp rút xây dựng cho Bạn mạnh lên toàn diện, nhanh, vững chắc để Bạn từng bước quản lý được tình hình trật tự trị an trên địa bàn và cùng ta đánh địch.

Quân đoàn 4 được Bộ Tư lệnh Mặt trận 479 giao nhiệm vụ hỗ trợ cho Bạn trên tuyến biên giới từ Pailin đến Cô Công và trong nội địa. Trên tuyến Pailin - Cô Công, quân Pôn Pốt thường xuyên có tàn quân của các sư đoàn 1, 2, 111 và 164 hoạt động phá hoại trên các tuyến đường sắt, đường số 5 và đường số 56, Trong nội địa, tàn quân các sư đoàn 502, 344, 232 và 520 và các toán quân do Lơvây, Pôn Lóc, Sà Rươn chỉ huy thường xuyên tập kích đánh phá các cơ sở cách mạng của Bạn. Yêu cầu đặt ra đối với Quân đoàn 4 là phải kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch ở biên giới, nội địa với phát động quần chúng phá các lực lượng ngầm và các tổ chức ngầm, tổ chức hai mặt của địch. Đáp ứng yêu cầu trên, mùa khô 1979-1980, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 đề ra một số nhiệm vụ:

1. Tiếp tục đánh địch ở biên giới, đưa lực lượng ra chốt khu vực Đông Tây sông Mê Nam. Trung đoàn 686 biên phòng, Trung đoàn bộ binh 10 (Sư đoàn bộ binh 339), Trung đoàn 250 biên phòng triển khai chốt có trọng điểm từ biên giới Pailin đến giáp Cô Công. Sư đoàn bộ binh 341 phát triển trên đường số 10, đoạn Sămlốt - Tức Sóc, đánh địch củng cố địa bàn và làm lực lượng cơ động.

2. Các sư đoàn 7, 9, 339 (thiếu) phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh của Bạn tổ chức đánh địch còn ẩn náu trong nội địa và triệt phá các căn cứ hành lang của chúng ở các khu vực Amleng, Kimri, nam Lếch và Biển Hồ.

Thực hiện nhiệm vụ được giao Trung đoàn 10 (Sư đoàn 339) và các trung đoàn biên phòng 686, 250 đã mở các đợt truy quét địch ở hai bên bờ sông Mênam; Sư đoàn 341 đánh địch ẩn náu hai bên trục đường 10 Sămlốt, Tứcsóc, đập tan bộ máy chỉ huy của địch (gồm mặt trận 1; mặt trận quân khu tây Bắc và sở chỉ huy một số sư đoàn bộ binh) ở khu vực này. Tiếp đó, Trung đoàn 686 và Trung đoàn 10 (Sư đoàn 339) đưa lực lượng ra chốt giữ biên giới tuyến Mênam, Trung đoàn biên phòng 250 xây dựng cụm điểm tựa phòng thủ Pailin.

Ở nội địa, các sư đoàn 9, 7 và 339 (thiếu) tiếp tục đánh các căn cứ trọng điểm của địch ở Amleng, Kimri, Lếch, Ôran. Ta sử dụng tù hàng binh dẫn đường phá được nhiều căn cứ, cơ sở sản xuất của địch ở khu vực núi Ôran, thu hồi nhiều kho tàng quân trang, quân dụng của chúng.

Những tháng đầu năm 1980, địch tiếp tục đưa những toán quân nhỏ từ biên giới thâm nhập vào nội địa phối hợp với lực lượng ẩn náu trong các địa hình phức tạp ven sông Tônglê Sáp móc nối với bọn phản động trà trộn trong dân đẩy mạnh các hoạt động đánh phá ta ở tây - nam Mung; đông - bắc Amleng, núi Kimri, tây Krakô, các huyện 10, 14, 16 (Côngpông Chnăng), Sầmrông, đông và tây Rôviêng. Ở biên giới, tàn quân các sư đoàn 1, 111 khôi phục hoạt động ở khu vực 20 nhà, Pailin, Sămlốt; Sư đoàn 164 đẩy mạnh hoạt động ở khu vực từ điểm cao 322 đến bắc Cô Công. Từ tháng 3 năm 1980, địch đưa thêm lực lượng về hoạt động ở phía nam đường 56, bắc Pramôi. Chúng dùng hoả lực từ biên giới bắn vào các khu vực đứng chân của các đơn vị biên phòng, cài mìn, phục kích các bộ phận đi tải thương, tải gạo, cắt đường dây điện thoại, phá các trục giao thông quan trọng của ta.

Sau các đợt truy quét tàn quân địch ở các địa bàn trọng yếu, làm đường cơ động lên các điểm chốt tiền tiêu, vận chuyển hàng các loại, đảm bảo chốt giữ biên giới; đồng thời sử dụng lực lượng giúp Bạn phát động quần chúng đánh địch ẩn náu trong dân, phát hiện những phần tử phản động hoạt động trong chính quyền và lực lượng vũ trang Bạn, dập tắt âm mưu bạo loạn ở Phnôm Pênh và Côngpông Chnăng; đến cuối tháng 5 năm 1980, Quân đoàn 4 điều chỉnh đội hình giữ các khu vực trọng điểm, chuẩn bị đánh địch trong mùa mưa. Sư đoàn 341 cùng với Bạn triển khai hoạt động đánh địch bảo vệ địa bàn Mông, Tàsanh, Sămlốt, Rôviêng, Đảo Đá, Pramôi và đông tây sông Cô Công. Sư đoàn 9 đảm nhiệm khu vực Bannâk, Rômía, Pônlây, bắc huyện 16 (tỉnh Côngpông Chnăng). Sư đoàn 7 phối hợp với Bạn hoạt động ở khu vực Amleng, Kimri. Ngoài lực lượng chốt giữ địa bàn, Quân đoàn còn đưa một số lực lượng phối hợp hoạt động với Bạn và lực lượng Quân khu 7 ở đông và bắc các huyện 16; 18 (tỉnh Côngpông Chnăng); đồng thời phối hợp với một số đơn vị bộ đội địa phương các tỉnh Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre cùng Bạn đánh địch ở vùng giáp ranh, giúp các địa phương củng cố chính quyền cách mạng, phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Mười, 2021, 06:56:49 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #41 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2021, 06:20:06 am »

Bước vào mùa mưa năm 1980, Quân đoàn 4 sử dụng lực lượng chốt chặn bảo vệ địa bàn, ngăn chặn âm mưu phục kích, đột nhập đánh phá của địch đồng thời sẵn sàng cơ động lực lượng giúp Bạn tiêu diệt các đơn vị lớn của địch. Ngày 25 tháng 8 năm 1980, Quân đoàn phối hợp với Bạn và lực lượng Quân khu 7 mở đợt truy quét quân địch ở địa bàn giáp ranh giữa Côngpông Chàm và Côngpông Chnăng, giữa Prâyveng với Kanđan và các bến phà Prekđam, Niếc Lương; đồng thời đẩy mạnh công tác bảo vệ giao thông và đánh phá các lực lượng ngầm của địch. Sau đợt hoạt động này, Quân đoàn 4 sư dụng Sư đoàn 7 làm nhiệm vụ hỗ trợ Bạn bảo vệ thành phố Phnôm Pênh, sân bay Pôchentông và đoạn đường sắt từ Phnôm Pênh đến ga Lôven (dài 92 kilômét có 47 cầu). Sư đoàn 9 cùng Bạn bảo vệ đoạn đường sắt từ ga Lôven đến ga Bannâk (dài 156 kilômét có 15 cầu). Các đơn vị còn lại được phân công phối hợp cùng Bạn bảo vệ đường số 5 (dài 275 kilômét với 207 cầu lớn nhỏ).

Được giao nhiệm vụ truy quét, tiêu diệt các căn cứ địch ở tuyến biên giới, trọng điểm là Phumcu, Tơrôm Anlongveng, Sư đoàn 302 (Quân khu 7) đã sử dụng lực lượng đặc công, trinh sát luồn sâu, tiêu diệt nhiều căn cứ, kho tàng của địch ở tuyến biên giới. Vừa triển khai xây dựng các cụm điểm tựa cấp đại đội, tiểu đoàn, tiến hành rào rấp, khoá biên giới, Sư đoàn vừa tổ chức lực lượng truy quét địch trong nội địa. Hướng chủ yếu là khu vực đông đường 68 đến Anlongveng và khu vực giáp giới ba huyện Chôngcan I, Xrayxnam và tây phum Chếch).

Sau khi điều chỉnh lại lực lượng bố trí trên các địa bàn từ tháng 2 năm 1980, các đơn vị của Sư đoàn tiến hành nhiều đợt truy quét địch ngoài địa hình, tiêu diệt các căn cứ lõm; đồng thời tổ chức tiến công các cứ điểm, cụm cứ điểm của địch trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, tạo điều kiện cho các đơn vị Bạn và lực lượng vũ trang địa phương của Campuchia bố trí tuyến phòng thủ biên giới ngăn chặn địch xâm nhập vào nội địa, củng cố chính quyền cách mạng. Trong năm 1980, Sư đoàn 302 giúp Bạn xây dựng, củng cố chính quyền ở 8 huyện, 71 xã, 1.360 phum; xây dựng và huấn luyện cho Bạn được 9 đại đội 2 chức năng với số quân 1.821 người và 2.840 du kích huyện xã; trang bị cho Bạn 4.106 khẩu súng các loại; giúp Bạn xây dựng được 7 trường học, 46 trụ sở ủy ban nhân dân, 10 bệnh xá, tạo điều kiện cho Bạn giữ vững vùng giải phóng, củng cố chính quyền cách mạng.

Trong năm 1980, căn cứ vào nhiệm vụ được giao, Sư đoàn 317 (Quân khu 7) điều chỉnh địa bàn đứng chân của các đơn vị. Cùng với việc truy quét tàn quân địch, phá căn cứ kho tàng và cơ sở sản xuất của chúng, bảo đảm an toàn hai trục đường số 6 và 12, Sư đoàn tập trung củng cố 5 tiểu đoàn làm công tác quân sự địa phương tại 5 huyện và tổ chức Trung đoàn 747 (thiếu 1 tiểu đoàn) cơ động phối hợp với các lực lượng khác ở tỉnh Prâyveng hoạt động trong chiến dịch tổng hợp mùa khô năm 1980. Trong đợt 1 (từ ngày 5 đến ngày 30-1-1980), Sư đoàn tập trung lực lượng đứng chân ở các xã ven trục đường số 6 cùng các lực lượng vũ trang địa phương vận động nhân dân không nghe theo các luận điệu xuyên tạc, vu cáo của địch phá hoại ngày lễ chiến thắng (7 tháng 1), bắt nhiều tên đầu sỏ phản động.

Trong trận đánh ngày 27 tháng 2 năm 1980 ở đông nam Kôkithom, Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 747) và Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 775) hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, diệt 20 tên, bắt 2 tên, thu 17 súng các loại, làm chủ căn cứ của địch. Trong chiến dịch tổng hợp mùa khô ở khu vực Lôvia từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1980 sư đoàn đánh 96 trận, loại khỏi chiến đấu hàng trăm tên địch thu 328 súng các loại, giải phóng 233 dân.

Ngày 24 tháng 5 năm 1980, Bộ tư lệnh Quân khu 7 quyết định tách một bộ phận Sư đoàn 317 (gồm các trung đoàn 115, 770 và một số cơ quan trực thuộc) phối hợp với chuyên gia tỉnh Đồng Nai thành lập Đoàn 7701 làm nhiệm vụ giúp Bạn tại tỉnh Côngpông Thom. Lực lượng còn lại của Sư đoàn 317 hành quân lên chiến trường Báttambang, Xiêm Riệp. Tại đây, Sư đoàn được bổ sung Trung đoàn bộ binh 6 (của Sư đoàn 5), trung đoàn pháo binh và một số đơn vị trực thuộc làm nhiệm vụ dự bị cơ động cho Mặt trận 479.

Trên địa bàn do Quân khu 5 phụ trách, mùa khô 1979-1980, địch sử dụng sư đoàn 801 lập hậu cứ ở sát ngã ba biên giới Thái Lan - Campuchia - Lào, tập trung lực lượng đánh phá khu vực tây sông Mê Công, nam bắc đường 126, Chép, Thala, Khâupa, Tabok. Sư đoàn 920 hoạt động ở đông sông Mê Công, trên địa bàn một số huyện thuộc các tỉnh Mônđônkiri, Krachiê, Côngpông Thom. Các sư đoàn 612, 616 lập căn cứ hậu cần ở khu vực điểm cao 547 và phân tán lực lượng hoạt động dọc biên giới Thái Lan - Campuchia, phía tây tỉnh Prếtvihia và phía đông tỉnh Xiêm Riệp.

Sau khi bị các sư đoàn 2, 307, 315 của ta truy quét, tàn quân địch được tổ chức lại thành hai mặt trận ở đông và tây sông Mê Công. Chúng đặt mục tiêu: ở tây sông Mê Công đẩy mạnh các hoạt động du kích, tập kích bằng hoả lực, phục kích nhỏ, phát triển đánh giao thông bằng các loại mìn. Tích cực xây dựng, phát triển đội quân ngầm, đánh chiếm một số chốt của ta ở biên giới, tạo thế xen kẽ ở nội địa, chiếm đất, giành dân để tạo “khu vực giải phóng”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #42 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2021, 06:21:06 am »

Ở đông sông Mê Công, chúng đưa lực lượng vào nội địa, phát triển các cơ sở ngầm, cơ sở hai mặt để tạo thế đấu tranh chính trị. Trên cơ sở nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của địch, mùa khô 1979-1980, Bộ Tư lệnh Mặt trận 579 tổ chức lực lượng chốt giữ địa bàn và liên tục truy quét tàn quân địch nên chúng chỉ thực hiện được một số vụ tập kích, phục kích lẻ tẻ.

Trong đợt hoạt động mùa khô, từ ngày 15 tháng 10 năm 1979 đến ngày 30 tháng 5 năm 1980, trên toàn chiến trường Campuchia, ta loại khỏi vòng chiến đấu 20.255 tên địch, thu 11.296 súng các loại, bước đầu đánh bại âm mưu phục hồi, phát triển lực lượng, lấn đất, giành dân, tạo thế hai vùng, hai chính quyền của địch.

Căn cứ tình hình thực tế công tác giúp Bạn, tháng 2 năm 1980, Bộ Chính trị quyết định thành lập Tổng đoàn chuyên gia, do đồng chí Lê Đức Anh phụ trách, để trực tiếp chỉ đạo các đoàn chuyên gia cho sát với tình hình thực tế. Theo chỉ đạo của Tổng đoàn chuyên gia, ta rút các tổ chuyên gia cấp huyện, giao nhiệm vụ xây dựng huyện và cơ sở cho các tiểu đoàn địa bàn. Với tinh thần tích cực, chủ động, kết hợp chặt chẽ với chính quyền và các lực lượng vũ trang địa phương, đến tháng 8 năm 1980, trên cả bốn mặt trận, ta đã xây dựng cho mỗi tỉnh của Campuchia có từ 3 đến 5 tiểu đoàn địa bàn. Lực lượng nòng cốt của các tiểu đoàn địa bàn do bộ đội địa phương của Bạn và các đội công tác của ta phối hợp tổ chức, ban đầu theo tỷ lệ ta hai, Bạn một sau đó tăng dần lực lượng của Bạn, tuỳ tình hình từng địa phương từng địa bàn. Các đội công tác được lệnh sáp nhập vào các tiểu đoàn địa bàn, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất của các đoàn quân sự và Bộ tư lệnh các mặt trận.

Bước vào mùa mưa năm 1980, địch tập trung xây dựng các căn cứ trên biên giới phía Bắc và phía Tây. Vừa tích cực xây dựng lực lượng, tích trữ vũ khí, lương thực, địch vừa đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao phô trương thanh thế “Nhà nước Campuchia dân chủ” để hợp pháp hoá viện trợ của nước ngoài. Trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, tiếp tế khó khăn, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng Bạn liên tục tổ chức các đợt truy quét đánh địch, giữ vững địa bàn. Ta đánh thiệt hại nặng 7 sư đoàn Pôn Pốt mới khôi phục, buộc 5 sư đoàn khác phải chạy ra ngoài biên giới hoặc trốn sâu vào vùng rừng núi tây bắc. Tuyến phòng thủ biên giới phía Bắc và phía Tây (khoảng 740 kilômét) của Bạn được củng cố với các trọng điểm: Prếtvihia, Sàmrông, Nimít, Kaomêlai, Pailin, Sămlốt, tây sông Mêtúc (Cô Công), ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động thâm nhập của địch từ ngoài biên giới vào nội địa.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng Campuchia trong tình hình mới, ngày 6 tháng 6 năm 1980, Tiền phương Bộ Tổng Tham mưu ra Chỉ thị số 62/CT-TM về việc thay đổi phiên hiệu Bộ chỉ huy các tỉnh giúp Bạn. Theo đó, Bộ chỉ huy quân sự thống nhất của ta ở các tỉnh trên đất Bạn đổi tên thành Bộ chỉ huy quân sự đoàn. Các đoàn thuộc Quân khu 5 phụ trách gồm: 5501 (Ráttanakiri), 5502 (Mônđônkiri), 5503 (Stung Treng), 5504 (Prếtvihia); Quân khu 7 gồm: 7701 (Côngpông Thom), 7702 (Côngpông Chàm), 7703 (Svâyiêng), 7704 (Báttambang), 7705 (Xiêm Riệp), 7706 (Prâyveng), 7707 (Krachiê), 7708 (thành phố Phnôm Pênh); Quân khu 9 gồm: 9901 (Côngpông Spư), 9902 (Côngpông Chnăng), 9903 (Puốcxát), 9904 (Campốt), 9905 (Tàkeo), 9906 (Kanđan), 9907 (Cô Công).

Song song với các hoạt động tác chiến, để tạo dư luận trong và ngoài nước ủng hộ mạnh mẽ hơn nữa công cuộc xây dựng, hồi sinh đất nước của nhân dân Campuchia, trên cơ sở các thỏa thuận đã đạt được giữa hai Đảng, hai Nhà nước, ta và Bạn tiếp tục củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác; đồng thời đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế.

Thực hiện thỏa thuận, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh (27 và 28-1-1980) đã ra Thông cáo và Tuyên bố về vấn đề hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác ở Đông Nam Á. Các văn kiện này thể hiện bước phát triển mới của tình hữu nghị và quan hệ hợp tác giữa 3 nước. Theo tinh thần của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước, nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, ngày 18 tháng 8 năm 1980, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hội đồng nhân dân Cách mạng Campuchia ký Hiệp định về việc viện trợ không hoàn lại. Theo đó, phía Việt Nam sẽ giúp Campuchia một số lương thực, thực phẩm vật tư, thiết bị, dụng cụ, giống cây, giống con và hàng tiêu dùng để tiếp tục phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân và cho các lực lượng vũ trang Campuchia.

Bên cạnh đó, ta còn giúp Bạn khảo sát, thiết kế tu sửa, phục hồi các hạng mục công trình nhằm củng cố quốc phòng, khôi phục kinh tế và văn hóa của Campuchia; vận chuyển những vật tư, hàng hóa do các nước khác viện trợ cho Campuchia giao tại cảng Việt Nam. Đồng thời giúp Hội đồng nhân dân Cách mạng và Ủy ban cách mạng các tỉnh và thành phố của Campuchia một số xe vận tải cần thiết để tăng cường năng lực vận chuyển vật tư hàng hóa lưu thông trên đất Campuchia (phía Campuchia cung cấp xăng dầu, các chi phí khác do phía Việt Nam đảm nhiệm). Tiếp tục nhận đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật, học sinh các ngành, đồng thời cử cán bộ và công nhân kỹ thuật sang giúp theo yêu cầu của Campuchia.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #43 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2021, 06:22:06 am »

Thực hiện chủ trương “tỉnh giúp tỉnh, huyện giúp huyện” của Đảng và Nhà nước ta, các tỉnh và huyện thuộc ba quân khu phía nam đã tổ chức nhiều hoạt động cứu trợ giúp nhân dân Campuchia phục hồi sản xuất, từng bước ổn định đời sống. Sau khi giúp đỡ vận chuyển 55.825 người dân từ biên giới Campuchia - Thái Lan trở về các địa phương, tháng 8 năm 1980, Đảng ủy Quân khu 7 ra nghị quyết xác định: đưa lực lượng về huyện, xã giúp Bạn xây dựng cơ sở, bảo vệ dân; giúp Bạn xây dựng chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, giữ gìn an ninh chính trị, cứu đói, chữa bệnh, giúp đỡ nhân dân sản xuất, ổn định đời sống là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Quân khu. Trên tinh thần đó, hàng nghìn tấn gạo, hàng vạn cây, con giống, công cụ sản xuất được các đơn vị và các tỉnh trong Quân khu gửi sang giúp đỡ nhân dân các tỉnh Côngpông Chàm, Côngpông Thom, Báttambang, Xiêm Riệp. Với kinh nghiệm phong phú vào sự chỉ đạo sát sao của Quân khu, đến hết năm 1980, trên địa bàn do Quân khu phụ trách, nhân dân Bạn cơ bản đã ổn định đời sống; các ngành nghề được phục hồi, nhanh chóng đi vào sản xuất có hiệu quả.

Nhận thức sâu sắc ý nghĩa chính trị của nhiệm vụ giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn đói, dịch bệnh, nhanh chóng phục hồi sản xuất, Đảng ủy Quân khu 9 đã ra nghị quyết chuyên đề về giúp Bạn một cách cơ bản, toàn diện. Sau khi đưa 7.700 gia đình trở về quê cũ làm ăn, các lực lượng vũ trang Quân khu đã huy động lực lượng và vật liệu xây dựng nhà ở giúp 1.600 dân Campuchia ổn định nơi ăn ở. Lực lượng hậu cần Quân khu trong những tháng cuối năm 1979, đầu năm 1980 đã vận chuyển 10.000 tấn lương thực, 1.000 tấn hạt giống, gần 2.000 con giống (gồm trâu, bò, lợn), 20 máy cày, bừa, hơn 13.000 công cụ cầm tay, hàng vạn dụng cụ gia đình giúp nhân dân Campuchia khắc phục nạn đói, phục hồi sản xuất, Trong hai năm 1979-1980 Quân khu đã giúp các tỉnh kết nghĩa đào tạo 243 y sĩ, y tá, hơn 100 giáo viên, tạo điều kiện để Bạn phục hồi các cơ sở y tế, giáo dục.

Trên địa bàn 4 tỉnh Đông Bắc Campuchia, các đơn vị Quân khu 5 tập trung phương tiện vận chuyển chủ yếu bằng ô tô chia làm hai đợt gồm 290.536 người về quê cũ làm ăn. Các tiểu đoàn địa bàn kết hợp chặt chẽ với nhân dân địa phương giúp Bạn xây dựng 386 ban tự quản cứu đói cho 114. 644 người. Dân về đến đâu được bộ đội ta giúp đỡ ổn định nơi ăn chốn ở đến đó được cứu đói giúp công cụ, cây, con giống phát triển sản xuất. Được đi lại tự do, con cái được cắp sách tới trường, người dân Campuchia càng phấn khởi ra sức bảo vệ, xây dựng chính quyền cách mạng. Nhân dân làng Nhơn biết bọn tay sai Pôn Pốt về hoạt động đã bắt giao cho tổ công tác của ta. Bà con ở phum Căn Thơmây (Stung Treng) dẫn đường cho bộ đội vây đánh, phá tan âm mưu đưa 6 vạn dân đi tị nạn của địch.

Cứu đói, chữa bệnh, cấp cây, con giống giúp dân phát triển sản xuất vào thời điểm mà mọi sức lực của người dân đã cạn kiệt, khi mà kẻ thù ra sức gieo rắc tâm lý hoang mang, thù địch và tìm mọi cách chia rẽ, thủ tiêu cán bộ, chiến sĩ ta, là một nhiệm vụ vô cùng nặng nề và nguy hiểm. Vì nhiệm vụ cứu đói, chữa bệnh, giúp dân phát triển sản xuất, mang lại cuộc sống yên vui, hạnh phúc cho nhân dân, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ ta đã hy sinh ở các làng bản, phum sóc xa xôi, nhiều người mang thương tích, bệnh tật suốt đời.

Cùng với nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang cách mạng, những năm 1979-1980, công tác cứu đói, chữa bệnh, giúp nhân dân Campuchia ổn định đời sống, phục hồi sản xuất của các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã đem lại những kết quả to lớn và có ý nghĩa thiết thực trên các mặt kinh tế, văn hoá xã hội, y tế, giáo dục, phục hồi sản xuất, phát triển kinh tế, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ vùng giải phóng và xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng.

Như vậy, từ đầu năm 1979 đến cuối năm 1980, sau khi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc trên hướng Tây Nam, đáp lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Đảng và Nhà nước ta quyết định đưa Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam cùng các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia giải phóng hoàn toàn đất nước khỏi bọn diệt chủng Pôn Pốt, giành chính quyền về tay nhân dân, hồi sinh và phát triển dân tộc.

Tuy nhiên, bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xari, được sự hậu thuẫn của các thế lực đế quốc, phản động, chưa chịu từ bỏ âm mưu phục hồi chế độ độc tài chuyên chế; ra sức tập hợp, tổ chức lực lượng, tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng Campuchia. Chính vì vậy, theo đề nghị của Đảng, Nhà nước Cộng hoà nhân dân Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được Đảng, Nhà nước ta giao nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia, phối hợp với lực lượng vũ trang Bạn truy quét tàn quân Pôn Pốt, củng cố chính quyền cách mạng, bảo vệ vùng giải phóng, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, ổn định đời sống nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, hồi sinh đất nước.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #44 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2021, 06:44:25 am »

Chương II
SÁT CÁNH TRUY QUÉT TÀN QUÂN ĐỊCH,
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG,
CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
(1981-1985)

1. Giúp Bạn củng cố thế trận, phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng

Cuối năm 1980, đầu năm 1981, sau hơn một năm rút lực lượng chủ lực còn lại lên đứng chân ở biên giới giáp Thái Lan, địch tiến hành củng cố, bổ sung thêm quân số, trang bị cho các sư đoàn chủ lực. Chúng đưa một bộ phận lực lượng (khoảng 1/3 quân chủ lực) vào các địa bàn xung yếu của 7 tỉnh biên giới phía Tây nhằm xây dựng các “căn cứ lõm” trong dân, đồng thời đẩy mạnh hoạt động du kích ở 12 tỉnh nội địa.

Ở các tỉnh biên giới giáp Thái Lan, địch tập trung xây dựng căn cứ của các cơ quan Trung ương, cơ quan bộ tổng tham mưu, các bộ tư lệnh quân khu bắc, tây bắc, cơ quan chỉ huy mặt trận đông và tây, hệ thống hậu cần, kho tàng, cửa khẩu tiếp nhận viện trợ, bệnh viện, khu huấn luyện và hậu cứ các sư đoàn. Các căn cứ này đều ở sâu trong đất Thái Lan từ 2 đến 10 kilômét. Phần lớn các sư đoàn chủ lực được địch bố trí trên tuyến biên giới tiếp giáp với Thái Lan để bảo vệ các căn cứ này. Đồng thời, địch tổ chức lực lượng luồn sâu (từ 2 đến 3 tiểu đoàn) đánh phá giao thông và vùng giải phóng của bạn. Chúng phân chia địa bàn hoạt động cho các sư đoàn như sau: Sư đoàn 164, sở chỉ huy sư đoàn và 2 tiểu đoàn hoạt động ở biên giới giáp Thái Lan, còn 3 tiểu đoàn hoạt động trong nội địa tỉnh Cô Công. Các sư đoàn 502, 221, 340 (thuộc Bộ Tổng tham mưu), sở chỉ huy ở biên giới Thái Lan, có các bộ phận hoạt động ở Tàsanh, Sămlốt, Rôviêng, Phlêch (đường 36). Các sư đoàn 1, 2, 3 (quân khu tây bắc cũ), sở chỉ huy ở biên giới giáp Thái Lan, hoạt động ở nam Nimít, Takung Krao, Bavel, rừng Preychat, Svaychek, Thmapuok. Sư đoàn 775 (quân khu Bắc cũ), sở chỉ huy ở đất Thái Lan, hoạt động từ bắc Sàmrông đến Anlongveng, Xiêm Riệp. Các sư đoàn 515, 912 (quân khu Kanđan cũ) sở chỉ huy ở biên giới giáp Thái Lan, có bộ phận cấp tiểu đoàn hoạt động ở đông núi Hồng, huyện Chi Kreng và đường số 6 (Xiêm Riệp). Các sư đoàn 801 và 920 hoạt động ở khu vực ngã ba biên giới.

Ở 12 tỉnh nội địa, địch đưa một số lực lượng chủ lực luồn sâu ém sẵn ở một số tỉnh (vùng). Bước đầu chúng hình thành mặt trận 1 (gồm các tỉnh Puốcxát, Côngpông Chnăng, Côngpông Spư, Phnôm Pênh) do tên Ren, Phó Tổng tham mưu trưởng chỉ huy(1). Mục tiêu chiến lược của địch là làm chuyển biến về so sánh lực lượng ở Campuchia theo hướng có lợi cho chúng. Phá vỡ liên minh chiến lược, chiến đấu giữa Việt Nam - Campuchia, làm cho Việt Nam bị tiêu hao, bị kiệt sức, phải nản lòng, phải rút quân về nước trong khi cách mạng Campuchia còn non yếu.

Chúng đặt chỉ tiêu đến năm 1982 sẽ giành phần lớn ba tỉnh Báttambang, Xiêm Riệp, Prếtvihia và tây Stung Treng để làm căn cứ bàn đạp, tạo thế hai vùng, hai chính quyền đối lập trong nội địa Campuchia. Từ đó mở rộng hoạt động du kích trong cả nước, giành 60% ấp, xã; 50 đến 60% số dân; trên cơ sở đó đưa lực lượng tàn quân Pôn Pốt lên sáu vạn tên, được trang bị đầy đủ và có thể tác chiến ở các quy mô khác nhau; xây dựng lực lượng cho bọn phản động Xom Xen, ở bên đất Thái Lan; xây dựng lực lượng ngầm trong nội bộ cách mạng và trong các vùng cách mạng kiểm soát để làm nội ứng cho tiến công quân sự, làm cơ sở tiến hành bạo loạn khi cần thiết; chiếm lĩnh và phá rối thị trường Campuchia, làm cho nền kinh tế không khôi phục lại được, tiếp tục suy sụp(2).

Về phía ta, sau các hoạt động tác chiến mùa mưa năm 1980, bước vào mùa khô năm 1980-1981, bên cạnh những thuận lợi, các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ta cũng đứng trước những khó khăn thử thách, những nhiệm vụ mới, đòi hỏi sự chỉ đạo thống nhất, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị.

Trước tình hình đó, Đảng ủy Mặt trận 479 chủ trương phát huy thắng lợi đã giành được, tiếp tục đẩy mạnh mọi hoạt động quân sự, chính trị, ngoại giao, chủ động tiến công địch toàn diện trên chiến trường. Nắm chắc dân, củng cố chính quyền cách mạng vững chắc phát triển lực lượng vũ trang đảm bảo về số lượng và chất lượng, loại trừ phần tử hai mặt. Phát huy sức mạnh tổng hợp, liên tục tiến công địch trên cả hai mặt trận nội địa và biên giới, sẵn sàng đập tan các cuộc tiến công với mọi quy mô của địch từ ngoài vào, đồng thời phải đề phòng ngăn chặn, loại trừ và dập tắt các cuộc bạo loạn ở nội địa, bảo vệ vững chắc địa bàn. Không ngừng củng cố tình đoàn kết liên minh chiến đấu, hợp tác toàn diện, lâu dài giữa hai dân tộc, hai quân đội Việt Nam - Campuchia, đưa cách mạng Campuchia tiến nhanh, tiến vững chắc, góp phần đập tan mọi âm mưu của thế lực phản động nước ngoài can thiệp vào Campuchia.


(1) Tình hình địch từ tháng 12 năm 1980 đến tháng 4 năm 1981. Tài liệu của Tiền phương Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu KC-655.
(2) Đại tướng Lê Đức Anh: Quân đội nhân dân Việt Nam và nhiệm vụ quốc tế cao cả trên đất Bạn Campuchia, Nxb QĐND, H, 1986, tr 71.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #45 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2021, 06:45:41 am »

Thực hiện chủ trương của Đảng ủy và chỉ thị của Bộ tư lệnh Mặt trận 479, mùa khô 1980-1981, Sư đoàn 5 vừa tập trung làm công tác tuyên truyền, vận động nhân dân đập tan mọi luận điệu chiến tranh tâm lý của địch, vừa phối hợp với quân dân các địa phương tích cực truy quét địch, bảo vệ vùng giải phóng. Những tháng đầu năm 1981, Sư đoàn triển khai lực lượng hoạt động ở các huyện Xixôphôn, Thmopuốc, Phnumsrôk, Phnepria, Môngconrôrây. Cán bộ, chiến sĩ các trung đoàn 16, 688, 4, 28, 174, 689 cùng các tiểu đoàn đặc công, pháo binh, xe tăng – thiết giáp mở nhiều đợt truy quét địch ở ngoài rừng kết hợp với lực lượng bám địa bàn bóc gỡ các toán quân địch cài cắm trong dân. Điển hình là các trận ngày 17 tháng 4 năm 1981, Đại đội 13 Trung đoàn 16 phục kích diệt 11 tên; trận đêm 11 tháng 5 năm 1981, Trung đoàn 689 biên phòng tập kích cụm quân địch ở phum Ria (cao điểm 217), diệt 38 tên. Ngoài ra, các đơn vị của Sư đoàn 5 còn kết hợp với lực lượng dân quân và bộ đội địa phương của Bạn đánh phá các căn cứ lõm của địch ở đông bắc huyện Thmopuốc, gọi hàng 158 tên địch, giúp Bạn xây dựng 14 đội du kích ở hai huyện Thmopuốc và Môngconrôrây.

Là lực lượng dự bị cơ động tăng cường cho Mặt trận 479, đứng chân ở hai tỉnh Báttambang, Xiêm Riệp, Sư đoàn 317 được giao nhiệm vụ xây dựng huấn luyện thành lực lượng dự bị cơ động của mặt trận trên ba hướng là Xixôphôn, Sầmrông và Báttambang, sẵn sàng thay chân các sư đoàn phòng thủ phía trước khi có lệnh. Tiến hành tác chiến cơ động cùng với đơn vị bạn trên các hướng, đập tan các cuộc tấn công của địch với mọi qui mô từ ngoài vào, đồng thời dập tắt các cuộc bạo loạn trong nội địa bảo vệ vững chắc các khu vực then chốt và mục tiêu quan trọng trên địa bàn của Mặt trận gồm Xixôphôn, Poipét, Sầmrông, Báttambang và Xiêm Riệp. Thường xuyên theo dõi nắm địch, nghiên cứu nắm chắc tình hình, địa hình, đường cơ động trên các hướng, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu cao, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống; bảo vệ thành quả cách mạng, tham gia xây dựng, củng cố chính quyền các cấp và xây dựng lực lượng vũ trang Bạn vững mạnh về mọi mặt.

Thực hiện kế hoạch hoạt động mùa khô 1980-1981, Sư đoàn triển khai lực lượng đánh địch trên địa bàn tỉnh Xiêm Riệp và Báttambang. Từ ngày 8 tháng 12 năm 1980 đến cuối tháng 1 năm 1981, Sư đoàn 317 cùng với Sư đoàn 5 đánh vào căn cứ Tàkôngkrao Trung đoàn 775 và Trung đoàn 6 được pháo binh Mặt trận chi viện, đánh chiếm được mục tiêu, diệt và bắt nhiều tên, thu gần 2 tấn đạn các loại.

Theo yêu cầu của Mặt trận, từ ngày 15 tháng 2 đến 27 tháng 3, Sư đoàn sử dụng hai trung đoàn 775 và 747 đứng chân ở khu vực Xiêm Riệp, Bầntiâysrây; đồng thời sử dụng một lực lượng bảo vệ khu vực Ăngco cùng Đoàn quân sự 7705 truy quét địch, hỗ trợ cho Ban củng cố chính quyền, điều tra nắm dân số để chuẩn bị bầu cử. Từ ngày 27 tháng 3 đến 30 tháng 5, Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 775 về đứng chân ở huyện Chicreng và huyện Sônicum làm nhiệm vụ truy quét địch ở khu vực rừng Prâychơka, cùng với Trung đoàn 115 Đoàn quân sự 7701 hoạt động trên khu vực ranh giới ba tỉnh Xiêm Riệp, Côngpông Thom và Pếtvihia.

Triển khai thực hiện nhiệm vụ do Tiền phương Bộ Quốc phòng giao, mùa khô 1980-1981, Quân đoàn 4 phối hợp với Bạn tổ chức đợt tác chiến từ ngày 10 tháng 12 năm 1980 đến 16 tháng 3 năm 1981. Bộ tư lệnh Quân đoàn sử dụng hai sư đoàn (7 và 9) đánh địch ở nam bắc Ôrang, tây Ămleng, bắc quận 16 (Côngpông Chnăng); Sư đoàn 339 và các lực lượng tăng cường (Trung đoàn 2 Sư đoàn 330 và 1 tiểu đoàn của thành đội Phnôm Pênh) đánh địch ở nam bắc đường 56, trọng điểm là căn cứ của Sà Rươn ở bắc đường 56; Trung đoàn 686 tiến công địch ở điểm cao 492; Đoàn quân sự tỉnh Hậu Giang phối hợp với một bộ phận lực lượng vũ trang Bạn đánh địch ở Cồn Xiêm, Biển Hồ, gây cho chúng một số thiệt hại.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, các đơn vị bám địa bàn tích cực tổ chức các đợt tiến công truy quét địch. Đến đầu tháng 3 năm 1981, bộ đội ta cơ bản làm chủ các địa bàn, buộc địch phải rút các lực lượng lên sát biên giới với Thái Lan. Trong đợt hoạt động này, ngoài việc tiêu diệt lực lượng địch ở điểm cao 492, ta còn đánh trúng căn cứ 31 (đông Ô ran), diệt chỉ huy và nhiều địch ở đây.

Phát huy thắng lợi vừa giành được, bước vào đợt 2 (từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 17 tháng 7), Quân đoàn sử dụng Sư đoàn 7 (thiếu) phối hợp với Bạn và lực lượng chủ lực của Quân khu 9 diệt địch ở điểm cao 322, tây Ămleng và nam dãy Kravanh. Sư đoàn 339 và Đoàn quân sự Tiền Giang củng cố địa bàn xung quanh khu vực Puốcxát - Phlêch. Một bộ phận Sư đoàn 7, Đoàn quân sự Hậu Giang và lực lượng bạn mở chiến dịch tổng hợp diệt căn cứ của Sà Rươn (phía nam ga Bannâk).

Trong đợt 2, thực hiện mệnh lệnh của Bộ tư lệnh 719, Quân đoàn đưa Sư đoàn 9 (thiếu Trung đoàn 2 và Trung đoàn 42) từ đường 5 sang đường số 6 đánh địch, phối hợp với các đơn vị bạn truy quét quân địch trên địa bàn hai huyện giáp ranh giữa Côngpông Thom và Xiêm Riệp. Trung đoàn 141 (Sư đoàn 7) chuyển về hoạt động bảo vệ khu vực đường sắt. Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) từ nam Bannâk chuyển sang truy quyết địch ở khu vực Ôrang, Rômía. Mặc dù địch tung ra nhiều thủ đoạn mới như dùng hoả lực mạnh, sử dụng quy mô đại đội, tiểu đoàn tiến công chiếm chốt tiền tiêu của ta, tăng cường gài mìn phục kích trên các tuyến đường, nhưng do làm tốt công tác chuẩn bị, có nhiều biện pháp đối phó kịp thời và tổ chức hợp đồng chiến đấu chặt chẽ, các đơn vị tham gia truy quét đợt hai đã đạt hiệu suất chiến đấu cao.
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Mười, 2021, 06:54:05 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #46 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2021, 06:46:36 am »

Cùng thời gian này, các đơn vị thuộc Quân khu 5 vừa truy quét địch, vừa giúp Bạn xây dựng các tiểu đoàn địa bàn, đưa 41 đại đội hai chức năng xuống hoạt động ở cơ sở. Trước tình hình mới, các đơn vị xác định 5 nhiệm vụ chủ yếu là:

1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm Chỉ thị 34 của Tiền phương Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ giúp Bạn, cùng Bạn đẩy mạnh phong trào bảo đảm trật tự xã hội trong phạm vi địa bàn. Giúp Bạn bầu cử Hội đồng nhân dân xã và bầu cử Quốc hội, xây dựng nền nếp, mối quan hệ giữa ta và Bạn, nắm dân, giúp dân sản xuất, xây dựng thực lực cách mạng, củng cố chính quyền, du kích và bộ đội tỉnh, huyện của Bạn.

2. Đẩy mạnh tác chiến truy quét địch theo khu vực đã phân công và theo nhiệm vụ trên giao, sẵn sàng chấp hành mệnh lệnh cơ động đến địa bàn mới.

3. Thực hiện đầy đủ chương trình huấn luyện quy định của trên. Đẩy mạnh phong trào “toàn quân hành động theo điều lệnh”, thực hiện tốt chế độ chức trách, xây dựng tác phong, lề lối làm việc chính quy.

4. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, bảo đảm đời sống, nâng cao chất lượng bữa ăn của cán bộ, chiến sĩ; bảo đảm đầy đủ các chế độ, đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, bảo đàm sức khoẻ cho bộ đội.

5. Về công tác đảng, công tác chính trị, hoàn thành học tập Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị, học tập Hiến pháp và các nghị quyết của Trung ương Đảng, tập trung giải quyết tư tưởng, kiên định nhiệm vụ giúp Bạn lâu dài.

Thực hiện nhiệm vụ Bộ tư lệnh Quân khu 5 giao, tháng 1 năm 1981, Sư đoàn 315 cử 84 cán bộ, chiến sĩ xuống hai tỉnh Ráttanakiri và Stung Treng để cùng Bạn tuyên truyền, vận động nhân dân hưởng ứng tham gia cuộc bầu cử chính quyền các cấp. Tiếp đó trong tháng 2 năm 1981, Sư đoàn phối hợp với lực lượng vũ trang Bạn mở đợt hoạt động tổng hợp (quân sự, chính trị, binh vận), vừa đẩy mạnh truy quét địch lẩn trốn trong rừng, vừa bóc gỡ địch bu bám trong dân, bảo vệ bầu cử các cấp. Sau đợt hoạt động này, chấp hành mệnh lệnh của Mặt trận, Sư đoàn đưa toàn bộ lực lượng cơ động lên bảo vệ địa bàn đông và tây sông Mê Công. Trung đoàn 143 đứng chân ở Thala vừa truy quét tàn quân địch, vừa bảo vệ nâng cấp đường 126 từ Thala đến Chép. Trung đoàn 142 giữ khu vực ngã ba đường 19 và đường 13 đến Ôkriêng, giáp Krachiê, hoạt động đánh địch và giúp bạn ở Xiêmbọt. Trung đoàn 733 đứng chân ở Côngpông Xalâu (tây Mường Khổng thuộc đất Lào) hoạt động từ tây sông Mê Công đến Pleikhằn, đánh cắt hành lang địch ở khu vực tiếp giáp biên giới ba nước Thái Lan - Lào - Campuchia. Trung đoàn 729 đứng chân ở khu vực điểm cao 190 tập trung huấn luyện chuẩn bị diễn tập giúp Bạn xây dựng địa bàn ở khu vực Chưrốp. Ngoài việc giúp Bạn bảo vệ tốt bầu cử ở các địa phương, đơn vị của Sư đoàn 315 đã tích cực đi sâu nắm dân nắm địch, giúp các địa phương sản xuất, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Trên địa bàn 8 huyện thuộc tỉnh Xiêm Riệp, từ ngày 18 tháng 2 đến 31 tháng 5 năm 1981, các đơn vị thuộc Quân khu 7 mở chiến dịch tổng hợp truy quét làm trong sạch địa bàn. Ta diệt 122 tên, bắt 135 tên, gọi hàng 424 tên, tạo điều kiện củng cố chính quyền địa phương, giúp dân phát triển sản xuất.

Hướng Quân khu 9, những tháng đầu năm 1981 ta truy quét tàn quân địch ở đông và tây sông Mê Công tiêu diệt tàn quân sư đoàn 164, làm chủ căn cứ 336. Vừa đẩy mạnh các hoạt động truy quét địch, ta vừa giúp bạn phát động quần chúng tích cực củng cố, xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang các cấp. Cùng với phát động quần chúng đánh địch bằng mọi hình thức quân sự, chính trị, kinh tế, binh vận, địch vận, phá các tổ chức ngầm của địch, loại các phần tử hai mặt, làm trong sạch nội bộ, Sư đoàn còn giúp bạn đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, phục hồi các hoạt động văn hoá, tôn giáo bình thường của nhân dân. Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị Quân tình nguyện, các đoàn chuyên gia quân sự được giao nhiệm vụ giúp Bạn xây dựng cơ sở đã tích cực tổ chức lực lượng bám địa bàn, bám dân, phát hiện địch, không cho chúng lập căn cứ lõm trong các vùng giải phóng, ngăn chặn các hành lang vận chuyển của địch từ biên giới vào nội địa.

Ngày 9 tháng 4 năm 1981, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 98/QĐ-QP thành lập Trường bồi dưỡng chuyên gia quân sự, mang phiên hiệu Trường 481 thuộc Đoàn 478. Trường có nhiệm vụ bồi dưỡng chuyên gia ở Campuchia, tập huấn chuyên đề nghiệp vụ cho chuyên gia quân sự ở Campuchia, đào tạo phiên dịch tiếng Campuchia cho chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia. Tiếp đó, ngày 30 tháng 4 năm 1981, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 66/CT-QP giao nhiệm vụ cho các trường quân sự tiếp nhận và tổ chức huấn luyện học sinh quân sự Lào và Campuchia, trong đó có 780 học viên Campuchia được nhận vào các trường quân sự của Việt Nam. Đây là một nỗ lực lớn nhằm nâng cao chất lượng chuyên gia và giúp bạn giải quyết những khó khăn về thiếu cán bộ quân sự.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #47 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2021, 06:48:18 am »

Song song với hoạt động quân sự, thời gian này ta giúp Bạn đẩy mạnh công tác xây dựng chính quyền cơ sở, tuyên truyền vận động nhân dân tích cực tham gia các hoạt động chuẩn bị cho bầu cử Quốc hội và chính quyền các cấp của Bạn.

Ngày 1 tháng 5 năm 1981, nhân dân Campuchia nô nức đi bầu cử Quốc hội và chính quyền các cấp. Số cử tri đi bầu trong toàn quốc đạt 97,82%, có nhiều khum đạt 100%. Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội vào cuối tháng 6 năm 1981 đã bầu ra Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng, Ban Thường vụ và các cơ quan thường trực của Quốc hội; đồng thời thông qua Hiến pháp mới của Cộng hoà nhân dân Campuchia. Hiến pháp mới khẳng định nước Cộng hoà nhân dân Campuchia là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hoà bình, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước thực hiện đường lối đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc của Campuchia. Những hoạt động tôn giáo phù hợp với Hiến pháp và pháp luật đều được Nhà nước đảm bảo... Hiến pháp mối phản ánh nguyện vọng, quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân Campuchia.

Cùng với việc xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức Đảng và chính quyền, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã giúp Bạn xây dựng các tổ chức quần chúng cách mạng. Mặt trận đoàn kết xây dựng bảo vệ Tổ quốc Campuchia ngày càng được mở rộng bao gồm nhiều nhân sĩ, trí thức, đại diện các ngành, các giới yêu nước và tiến bộ, các dân tộc và các tôn giáo. Tổ chức mặt trận được thành lập ở các tỉnh, huyện cùng với các tổ chức của đoàn thanh niên, hội phụ nữ đã kêu gọi, động viên mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia sản xuất, xây dựng và bảo vệ cuộc sống mới.

Từ ngày 26 đến 29 tháng 5 năm 1981, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ IV. Đảng Cộng sản Việt Nam đã cử đoàn đại biểu do đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn đầu, đi dự Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia. Báo cáo chính trị do Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia trình bày nhấn mạnh: Lịch sử cách mạng Campuchia hơn nửa thế kỷ qua chỉ rõ, khi có sự gắn bó giữa cách mạng Campuchia với cách mạng Việt Nam thì giành được thắng lợi. Ngược lại, khi liên minh hữu nghị Campuchia - Việt Nam bị kẻ thù phá vỡ, tinh thần dân tộc hẹp hòi bị kích động thì cách mạng bị tổn thất. Campuchia là một nước trên bán đảo Đông Dương cùng với Việt Nam và Lào có chung một kẻ thù. Cách mạng Campuchia không thể giành thắng lợi nếu không gắn liền với ba dòng thác cách mạng, không đoàn kết chặt chẽ với hai nước anh em Việt Nam và Lào...

Đại hội đề ra đường lối cách mạng Campuchia với những nội dung cơ bản là: Giương cao ngọn cờ yêu nước và ngọn cờ đoàn kết quốc tế; bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ hàng đầu và rất thiêng liêng của toàn dân Campuchia; khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội để nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của nhân dân để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Sau Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia lần thứ IV, trên cơ sở các chủ trương về hợp tác Việt Nam - Campuchia đã được hai Đảng, hai Nhà nước thoả thuận, để thống nhất lãnh đạo chỉ huy, nâng cao hiệu suất chiến đấu và công tác của các lực lượng vũ trang Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ngày 18 tháng 5 năm 1981, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 36/QUTƯ về tổ chức Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Căn cứ chủ trương của Bộ Chính trị và nghị quyết của Quân ủy Trung ương, ngày 6 tháng 6 năm 1981, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 185/QĐ-QP thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (mang phiên hiệu Bộ tư lệnh 719), do Thượng tướng Lê Đức Anh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm Tư lệnh; Trung tướng Lê Hai, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Phó Tư lệnh về Chính trị. Theo quyết định, Bộ tư lệnh 719 trực thuộc Bộ Quốc phòng, đồng thời là cơ quan đại diện của Bộ Quốc phòng trên hướng Tây Nam. Bộ tư lệnh 719 có nhiệm vụ:

1. Thống nhất chỉ huy, chỉ đạo các lực lượng vũ trang của Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia về tác chiến và hoạt động giúp Bạn; kịp thời có những biện pháp có hiệu lực để nâng cao sức mạnh chiến đấu và chất lượng công tác của các đơn vị Quân tình nguyện.

2. Trực tiếp giúp Bạn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng và tổ chức phòng thủ đất nước. Có kế hoạch phối hợp chặt chẽ các lực lượng vũ trang Việt Nam ở Campuchia với lực lượng vũ trang Bạn trong nhiệm vụ tác chiến, phòng thủ và trong các hoạt động khác. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam giúp Bạn xây dựng và bảo vệ thực lực cách mạng của Bạn.

3. Nghiên cứu, đề xuất với Bộ Quốc phòng các vấn đề có ý nghĩa chiến lược trên chiến trường Campuchia và các vấn đề có liên quan giữa chiến trường Campuchia với các chiến trường khác ở khu vực Đông Dương.

4. Hợp đồng với các quân khu phía Nam trong kế hoạch đánh địch, bảo vệ biên giới hai nước.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #48 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2021, 06:51:48 am »

Tư lệnh 719 đồng thời là đại diện của Bộ Quốc phòng Việt Nam bên cạnh Bộ Quốc phòng Bạn, được ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ huy, chỉ đạo các tổ chức của Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật, các quân khu, quân chủng, binh chủng ở phía Nam trong nhiệm vụ bảo đảm chiến đấu, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang hoạt động trên chiến trường Campuchia. Bộ tư lệnh 719 được ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chỉ đạo cơ quan chuyên gia quân sự Việt Nam ở Campuchia, chỉ đạo Bộ tư lệnh các quân khu 5, 7, 9 thực hiện các công tác bảo đảm hậu cần và kỹ thuật đối với các lực lượng của quân khu hoạt động ở Campuchia và tham gia ý kiến với các bộ tư lệnh quân khu về công tác xây dựng các đơn vị này.

Về tổ chức, Bộ tư lệnh 719 gồm có tư lệnh, các phó tư lệnh (6 đồng chí) và các cơ quan tham mưu, chính trị; cơ quan đại diện của Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật, Cục Cán bộ, Cục Tài vụ; các bộ tư lệnh quân chủng, binh chủng và một số cơ quan chức năng khác. Từ đây, việc lãnh đạo, chỉ huy Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ngày càng thống nhất, chặt chẽ.

Trên cơ sở hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác (ký ngày 18-2-1979), ngày 11 tháng 6 năm 1981, tại Phnôm Pênh, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Campuchia ký Hiệp định về giúp đỡ và hợp tác quân sự giữa hai nước. Đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ Quốc phòng hai nước triển khai các hoạt động giúp đỡ lẫn nhau.

Từ ngày 15 đến 20 tháng 6 năm 1981, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dẫn đầu Đoàn đại biểu quân sự nước ta thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hoà nhân dân Campuchia và dự lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày truyền thống các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia. Trong chuyến thăm Campuchia, đồng chí Bộ trưởng đã trực tiếp làm việc với Bộ tư lệnh Quân tình nguyện, các cơ quan tiền phương của Bộ tư lệnh các quân khu 5, 7, 9, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 và có nhiều cuộc gặp gỡ, tiếp xúc thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia.

Sau chuyến thăm của đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, căn cứ tình hình thực tế chiến trường và đề nghị của Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, ngày 18 tháng 7 năm 1981, Bộ Quốc phòng ra các quyết định (từ số 230/QĐ-QP đến số 232/QĐ-QP) chuyển cơ quan Tiền phương của các bộ tư lệnh Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9 thành các bộ tư lệnh Mặt trận 579, Mặt trận 779, Mặt trận 979. Các bộ tư lệnh 579, 779, 979 có quyền hạn tương đương Bộ tư lệnh Quân đoàn, chịu sự chỉ đạo, chỉ huy của Bộ tư lệnh 719 về tác chiến và hoạt động ở Campuchia, đồng thời chịu sự chỉ đạo, chỉ huy của các bộ tư lệnh Quân khu 5, Quân khu 7. Quân khu 9 về các mặt khác.

Cụ thể, Bộ Tư lệnh 579, do đồng chí Huỳnh Hữu Anh làm Tư lệnh, chỉ huy các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của Quân khu 5 (gồm các sư đoàn bộ binh 315, 307, một số trung đoàn độc lập, đơn vị binh chủng và các đoàn quân sự của các tỉnh thuộc Quân khu) hoạt động trên địa bàn 4 tỉnh (Mônđônkiri, Rátanakiri, Stung Treng, Prếtvihia).

Bộ tư lệnh 779, do Tư lệnh Nguyễn Minh Châu chỉ huy các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của Quân khu 7 (gồm các đoàn quân sự của các tỉnh thuộc Quân khu, 4 trung đoàn của các sư đoàn 5, 302, 317(1) và một số lực lượng binh chủng tăng cường), hoạt động trên địa bàn 5 tỉnh: Côngpông Thom, Côngpông Chàm, Svâyriêng, Prâyveng, Krachiê (phía đông và đông nam Campuchia).

Bộ tư lệnh 979 Tư lệnh Nguyễn Đệ chỉ huy các đơn vị Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của Quân khu 9 (gồm các sư đoàn bộ binh 4, 8, 330, các đoàn quân sự của các tỉnh thuộc Quân khu và một số đơn vị binh chủng tăng cường), hoạt động trên địa bàn 8 tỉnh: Côngpông Spư, Côngpông Chnăng, Puốcxát, Campốt, Tàkeo, Kandan, Cô Công, Côngpông Thom (phía nam và tây nam Campuchia).

Cùng ngày 18 tháng 7, Bộ Quốc phòng ra một số quyết định giải thể các đoàn chuyên gia quân sự trực thuộc các quân khu để thành lập các phòng chuyên gia quân sự thuộc Bộ tư lệnh các quân khu, gồm: Quyết định số 229/QĐ-QP giải thể Đoàn 578, thành lập Phòng Chuyên gia quân sự trực thuộc Bộ tư lệnh 579 Quân khu 5; Quyết định số 227/QĐ-QP giải thể Đoàn 779 thành lập Phòng Chuyên gia quân sự trực thuộc Bộ tư lệnh 779 Quân khu 7; Quyết số 228/QĐ-QP giải thể Đoàn 978, thành lập Phòng Chuyên gia quân sự trực thuộc Bộ tư lệnh 979 Quân khu 9. Tiếp đó, ngày 9 tháng 10 năm 1981, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 340/QĐ-QP chuyển Bộ tư lệnh Mặt trận 479 thuộc Bộ tư lệnh Quân khu 7 về trực thuộc Bộ Quốc phòng (kể từ ngày 1-11-1981). Lực lượng nòng cốt của Bộ tư lệnh 479 là các sư đoàn 5, 302, 317 và một số đơn vị tăng cường của Quân đoàn 4(2). Quyền hạn Bộ tư lệnh 479 tương đương Bộ tư lệnh Quân đoàn. Bộ tư lệnh 479 tiếp tục làm nhiệm vụ tác chiến và hoạt động giúp Bạn trên địa bàn hai tỉnh Xiêm Riệp và Báttambang.


(1) Lực lượng chủ yếu của các sư đoàn 5. 302, 317 thời kỷ này luân phiên hoạt động dưới sự chỉ huy của Mặt trận 479.
(2) Lực lượng chủ yếu của Quân đoàn 4 thời điểm này vẫn làm nhiệm vụ cơ động của Bộ trên chiến trường Campuchia.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #49 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2021, 06:53:42 am »

Trong khi ta chấn chỉnh tổ chức, điều chỉnh lực lượng để hoàn thành thế bố trí chiến lược thích hợp với đặc điểm cụ thể của chiến trường Campuchia thì Pôn Pốt - Iêng Xari ra sức thu thập tàn quân, củng cố lực lượng chống phá cách mạng Campuchia.

Mùa khô 1981-1982, địch phục hồi được 11 sư đoàn chiến đấu, chiếm giữ một phần quan trọng biên giới 7 tỉnh phía bắc và tây bắc Campuchia. Trong nội địa, chúng đẩy mạnh hoạt động trên địa bàn 12 tỉnh. Tuy cường độ và quy mô hoạt động thấp hơn các năm trước, nhưng số vụ nghiêm trọng nhiều hơn. Tháng 12 năm 1981, ba phái (Pôn Pốt, Sêrêka, Mônika) thành lập “Chính phủ liên hiệp ba phái”, gây tác động tâm lý trong dân và tạo được một số ảnh hưởng về chính trị, ngoại giao, ở nội địa, địch chủ trương tiếp tục đưa quân chủ lực vào sâu nội địa, phân tán lực lượng, tích cực xây dựng và củng cố lực lượng ngầm, xây dựng “mặt trận” cấp phum, xã, tăng cường đánh du kích mạnh và rộng khắp (nhất là đánh giao thông, vận chuyển), đồng thời thúc đẩy việc tăng gia sản xuất tạo nguồn hậu cần tại chỗ về lương thực. Ở biên giới, chúng ra sức xây dựng các đơn vị chủ lực, tăng cường phòng thủ các căn cứ bằng mìn, vật cản, chống ta tập kích, truy quét.

Về chính trị, ngoại giao, chúng tiếp tục tăng cường chiến tranh tâm lý, đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhằm phát huy tác dụng của “chính phủ liên hiệp” trong việc tập hợp lực lượng, gây thanh thế, tranh thủ viện trợ và tăng sức ép về ngoại giao đòi Việt Nam rút quân(1).

Về phía ta, sau khi ký các hiệp định về tiếp tục cử Chuyên gia quân sự Việt Nam sang công tác tại Campuchia (20-11-1981) và hiệp định về Việt Nam viện trợ quân sự cho Campuchia (25-11-1981), để kịp thời động viên cán bộ, chiến sĩ, chuyên gia quân sự đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và Campuchia, ngày 10 tháng 2 năm 1982, Bộ Quốc phòng ra Chỉ thị số 108/CT-QP bổ sung một số điểm về chính sách, chế độ đối với quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia và Lào như bảo đảm về sinh hoạt chế độ khen thưởng, chế độ khuyến khích những người phục vụ kéo dài (kể từ năm thứ tư trở đi), chế độ đối với thương binh, bệnh binh, liệt sĩ; chính sách đối với gia đình quân nhân, chính sách đối với chuyên gia quân sự, phiên dịch.

Triển khai nhiệm vụ tác chiến năm 1981-1982 đã được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao, trên cơ sở phân tích tình hình chiến trường, Bộ tư lệnh 719 chủ trương tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận lớn quân địch đã lọt vào nội địa, xoá bỏ trình trạng xen kẽ địch - ta ở biên giới; không để địch mở rộng hoạt động; giúp Bạn từng bước nâng cao khả năng chỉ đạo, chỉ huy, vận động quần chúng, xây dựng lực lượng đánh địch rộng khắp.

Thực hiện chủ trương của Bộ tư lệnh Quân tình nguyện, bước vào mùa khô 1981-1982, Quân đoàn 4 điều chỉnh lực lượng, phân chia địa bàn hoạt động thành hai mặt trận: Mặt trận 1 gồm các đơn vị bộ đội địa phương Campuchia và một phần lực lượng của Quân đoàn 4 đóng trên ba tỉnh Kanđan, Côngpông Chnăng,

Puốcxát, với nhiệm vụ chủ yếu là vận động quần chúng, vạch mặt bọn địch trà trộn trong dân, tiêu diệt các toán quân địch hoạt động trong nội địa. Mặt trận 2 gồm lực lượng chủ yếu của Quân đoàn 4 kết hợp với một số đơn vị chủ lực của Quân đội cách mạng Campuchia có nhiệm vụ đánh phá các căn cứ, chặn hành lang tiếp tế của địch từ biên giới vào nội địa.

Trong đợt 1 của chiến dịch mùa khô, Quân đoàn 4 sử dụng Sư đoàn 7 (thiếu), Sư đoàn 339, bộ đội công binh, vận tải của Quân đoàn cùng các lực lượng phối thuộc gồm Trung đoàn 250 (Sư đoàn 339), Sư đoàn 196 (thiếu), Binh đoàn 2 của Bạn và một tiểu đoàn của Thành đội Phnôm Pênh tổ chức các đợt hoạt động tập trung từ nam đường 10 đến nam đường 56 theo tuyến chiến đấu nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng của Sà Rươn, sư đoàn 111 và các sư đoàn thuộc mặt trận 1 quân Pôn Pốt. Sư đoàn 9 (thiếu) hoạt động ở khu vực Stưng - Chikleng, núi Hồng, dưới sự chỉ huy của Mặt trận 479; đồng thời từng bước chuyển toàn bộ đội hình về đứng chân ở khu vực mới, sẵn sàng cơ động theo đường số 6 về hướng Xixôphôn khi có lệnh.

Mở đầu đợt 1 chiến dịch mùa khô 1981-1982, ngày 1 tháng 11 năm 1981, ta sử dụng Sư đoàn 7 (thiếu), Trung đoàn 8 (Sư đoàn 339) và một số đơn vị của Sư đoàn 196 (Bạn) tiến công căn cứ của Sà Rươn. Trên hướng phối hợp, Sư đoàn 339 và các lực lượng của Binh đoàn 2 (Bạn) tiến công các căn cứ lõm của sư đoàn 111 ở ven đường 56, Rôviêng, Samátđông. Sư đoàn 9 phối hợp với Đoàn 9903 đánh các căn cứ do tên Thi và Lơvây chỉ huy.


(1) Báo cáo tình hình địch quý IV năm 1981 của Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu (tiền phương) ngày 2 tháng 1 năm 1982. KC655, lưu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM