Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:31:01 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia  (Đọc 7020 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #10 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 07:13:13 am »

Trong quá trình giúp Bạn, Đoàn chuyên gia 478 thực hiện theo nhiệm vụ, những vấn đề quan trọng, khó khăn và phức tạp phải xin chỉ thị cấp trên. Trước khi gợi ý hoặc trình bày với Bạn những ý kiến về chủ trương, kế hoạch, biện pháp chính phải chuẩn bị chu đáo và bàn bạc tập thế thống nhất trong nội bộ chuyên gia Việt Nam. Trường họp khẩn trương cần có ý kiến giúp xử lý nhanh chóng thì người phụ trách Đoàn hoặc tổ chuyên gia có thể bàn với Bạn, nhưng sau đó phải báo cáo với cấp trên và tập thể cơ quan lãnh đạo. Từng thời gian hoặc sau khi thực hiện các nhiệm vụ quan trọng phải cùng Bạn kiểm điểm rút kinh nghiệm công tác, thực hiện phê bình và yêu cầu Bạn góp ý kiến đối với chuyên gia, đồng thời thống nhất đánh giá tình hình, chương trình, kế hoạch làm việc để hai bên cùng chủ động thực hiện các nhiệm vụ của mình. Trong quan hệ với Bạn phải giữ đúng nguyên tắc, tránh sự hiểu lầm, nghi kỵ lẫn nhau. Giữ bí mật quốc gia của ta và cách mạng Campuchia.

Sau khi được thành lập, Ban phụ trách công tác Z đã nhanh chóng cử cán bộ về các địa phương có nhân dân Campuchia lánh sang tị nạn để nắm tình hình, tuyển chọn cốt cán, bước đầu xây dựng lực lượng giúp Bạn. Trên cơ sở được chuyên gia ta giúp, ngày 12 tháng 5 năm 1978, tại Đoàn 977 (Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh), lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mang tên “Lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia” được thành lập, do đồng chí Hun Xen làm Chỉ huy trưởng. Đây là đơn vị tiền thân đầu tiên của Quân đội cách mạng Campuchia (gồm 125 cán bộ, chiến sĩ), đánh dấu sự phát triển mới của lực lượng cách mạng Campuchia.

Cùng với việc hình thành Đoàn 478 giúp cách mạng Campuchia, các quân khu 5, 7, 9 cũng được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ giúp Bạn xây dựng lực lượng. Xác định Quân khu 7 là một địa bàn trọng điểm trong công tác xây dựng lực lượng giúp Bạn, ngày 22 tháng 5 năm 1978, Quân ủy Trung ương cử đồng chí Trần Văn Quang, Trưởng ban 10 vào trực tiếp truyền đạt chủ trương giúp Bạn của Quân ủy Trung ương cho Quân khu. Quân ủy xác định: Nhiệm vụ giúp Bạn của Quân khu 7 là xây dựng lực lượng vũ trang cho Bạn, yêu cầu nhanh nhưng phải bảo đảm thật chắc về mặt chính trị và bảo đảm được bí mật. Đặc biệt là phải xây dựng lực lượng này đúng với bản chất chính trị của một lực lượng vũ trang cách mạng chân chính, một quân đội kiểu mới theo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó phải đạt được ba yêu cầu.

1. Làm cho lực lượng vũ trang Bạn nhận thức đúng kẻ thù trong và ngoài nước.

2. Phải có quyết tâm cách mạng, dũng cảm chiến đấu và đoàn kết thống nhất nội bộ, hoà hợp dân tộc trong nội bộ Campuchia, giữa lực lượng trong nước và đang ở ngoài nước.

3. Phải có tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, đặc biệt phải giữ vững tình đoàn kết keo sơn ba nước Đông Dương như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, Quân khu 7 triển khai nhiều hoạt động giúp cách mạng Campuchia. Trong hai ngày 8 và 9 tháng 6 năm 1978, trên địa bàn Quân khu 7, ta đã giúp Bạn thành lập 6 đội vũ trang cách mạng cứu nước Campuchia (mỗi đội từ 12 đến 15 người). Các đội vũ trang này đã phối hợp với lực lượng cách mạng trong nội địa Campuchia tuyên truyền giác ngộ cho nhân dân Campuchia về đường lối, chủ trương của cách mạng, về tội ác diệt chủng của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, vận động thanh niên tham gia lực lượng vũ trang cách mạng chống lại chế độ Pôn Pốt. Ngoài ra, Quân khu còn tổ chức lực lượng trinh sát thọc sâu, bắt liên lạc với các nhóm ly khai ở Mi Mốt và Vùng 21.

Cùng với hoạt động trên, để hỗ trợ lực lượng nổi dậy chống lại chế độ Pôn Pốt, tạo điều kiện cho cách mạng Campuchia phát triển, Quân khu 7 mở chiến dịch phản công đường 7 (từ ngày 10 tháng 6 đến ngày 30 tháng 7 năm 1978), đánh chiếm một số mục tiêu từ Sông Chiêu đến Phum Đa, mở rộng bàn đạp, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia xây dựng các căn cứ cách mạng.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia, ngày 16 tháng 6 năm 1978, Bộ Chính trị ra Quyết định số 20/BCT thành lập Ban công tác Z Trung ương (Ban B.68), do đồng chí Nguyễn Xuân Hoàng, Phó viện trưởng Viện Khoa học quân sự Việt Nam, làm Trưởng ban. Các đồng chí Trần Văn Phác, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Doãn Tuế, Tổng tham mưu phó; Đan Thành, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; Nguyễn Hữu Tài, Vụ trưởng Ban Đối ngoại Trung ương làm Phó ban. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban B.68 là:

1. Theo dõi, nghiên cứu tình hình Z (Campuchia) về mọi mặt, báo cáo và đề xuất với Bộ Chính trị quyết định đường lối, chủ trương, chính sách giúp đỡ cách mạng Campuchia.

2. Triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương giúp xây dựng các lực lượng vũ trang Campuchia và đề xuất với trên về phương hướng, kế hoạch công tác giúp đỡ các lực lượng Campuchia hoạt động.

3. Giúp Bạn đào tạo cán bộ, thành lập các ban vận động cách mạng ở từng địa phương, từng địa bàn, tiến tới thống nhất dưới sự chỉ đạo của Ban vận động cách mạng chung, đồng thời nghiên cứu đề xuất ý kiến giúp Bạn xây dựng các tổ chức quần chúng, các tổ chức Đảng khi có điều kiện.

4. Thực hiện chi viện vật chất cho Campuchia theo chủ trương của Trung ương. Trước mắt bảo đảm việc quản lý, nuôi dưỡng, huấn luyện, trang bị và giúp Bạn hoạt động.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, Ban B.68 được tổ chức một bộ máy gồm: Văn phòng, Vụ Nghiên cứu tổng hợp, Vụ Tổ chức cán bộ; các tiểu ban: Tham mưu, Chính trị, Hậu cần và khung cán bộ huấn luyện quân sự, chính trị cho Bạn. Thời gian đầu, bộ máy cơ quan Ban B.68 chủ yếu dựa vào bộ máy cơ quan Ban phụ trách công tác Z của Quân ủy Trung ương. Ít lâu sau, Văn phòng Ban B.68 được tách riêng thực hiện theo nhiệm vụ được giao.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #11 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2021, 06:18:56 am »

Trước yêu cầu phát triển của lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia, ngày 16 tháng 6 năm 1978, tại suối Râm, Quân khu 7 khai giảng lớp huấn luyện quân sự giúp Bạn. Lực lượng tham gia huấn luyện gồm 2 tiểu đoàn bộ binh, 3 đại đội đặc công, 1 đại đội trinh sát, 1 đại đội thông tin, 1 đại đội hoả lực, 2 đại đội công binh và vận tải. Thời gian huấn luyện 35 ngày.

Trên địa bàn Quân khu 5 và Quân khu 9, ta cũng tổ chức đón, bảo vệ và nuôi dưỡng được hàng vạn dân Campuchia chạy sang lánh nạn. Ở hầu hết các tỉnh có đường biên giới tiếp giáp với Campuchia, ta đều tổ chức bộ phận tiếp nhận nhân dân Campuchia từ biên giới. Các bộ phận này ngoài việc chuẩn bị sẵn cơm, nước, thuốc chữa bệnh để cứu đói, cứu chữa bệnh tật được ngay, còn hướng dẫn bà con vào các điểm tạm cư. Tại các nơi này, nhân dân Campuchia được bố trí nơi ăn ở và sản xuất, đảm bảo cuộc sống bình thường.

Để trực tiếp giúp Bạn về huấn luyện, xây dựng lực lượng vũ trang, theo chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, tháng 6 năm 1978, Bộ tư lệnh Quân khu 5 quyết định thành lập Đoàn 578 (tương đương cấp sư đoàn). Đoàn 578 có ba cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần) và 5 đại đội trực thuộc (vệ binh, thông tin, trinh sát, quân y, vận tải). Ban chỉ huy Đoàn gồm có Trung tá Trần Tiến Cung, Đoàn trưởng; Thượng tá Trần Ngọc Quế, Chính ủy; Trung tá Đinh Trí, Đoàn phó và Trung tá Vũ Khắc Thịnh, Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị. Được sự giúp đỡ của lực lượng vũ trang Quân khu 5, mà trực tiếp là Đoàn 578, đến tháng 7 năm 1978, Bạn đã thành lập được 1 tiểu đoàn gồm 5 đại đội và 17 đội công tác (tổng số 600 người)(1).

Tháng 7 năm 1978, Bộ Tổng Tham mưu quyết định thành lập Đoàn 778 (tương đương cấp sư đoàn), đặt dưới sự chỉ huy, chỉ đạo trực tiếp của Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 7, với nhiệm vụ huấn luyện, tổ chức, xây dựng lực lượng giúp Bạn. Cũng trong thời gian này, Trường Hạ sĩ quan Quân khu 7 khai giảng lớp đào tạo hạ sĩ quan đầu tiên cho Bạn gồm 202 hạ sĩ quan, chiến sĩ. Trong thời gian 30 ngày, các học viên học các bài cơ bản về kỹ thuật, chiến thuật bộ binh; sử dụng các loại vũ khí có trong biên chế và công tác quản lý, chỉ huy tiểu đội, trung đội. Một số đồng chí ở cơ quan Tiền phương Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, đã từng hoạt động ở Campuchia trong thời kỳ chống Mỹ như Nguyễn Hiệu, Phan Đình Túc... cùng một số cán bộ chính trị của Quân khu 7, cán bộ quân sự địa phương và lãnh đạo của Bạn tập trung các cán bộ người Khơme, lựa chọn những thanh niên khỏe mạnh trong số dân tạm lánh sang Việt Nam có giác ngộ chính trị, căm ghét chế độ diệt chủng Pôn Pốt, có tinh thần yêu nước để huấn luyện đào tạo cán bộ.

Nhằm tăng cường công tác chỉ đạo, chỉ huy đối với cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, ngày 19 tháng 7 năm 1978, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 69/QĐ-QUTW tổ chức Tiền phương Bộ Quốc phòng. Tiền phương Bộ Quốc phòng có chức năng chỉ huy thống nhất mọi hoạt động tác chiến của các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng ở phía Nam thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Trung tướng Lê Đức Anh được chỉ định làm Chỉ huy trưởng. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền và Thiếu tướng Hoàng Cầm làm Chỉ huy phó. Bộ phận tiền phương của Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Xây dựng kinh tế căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, có trách nhiệm phục vụ bộ phận Tiền phương Bộ Quốc phòng hoàn thành các nhiệm vụ theo quy định của Bộ.

Để hỗ trợ lực lượng yêu nước Campuchia, các lực lượng vũ trang ta trên biên giới Tây Nam tích cực hoạt động, buộc địch phải đối phó ở phía trước. Từ ngày 15 tháng 5 đến 30 tháng 9 năm 1978, hai quân đoàn 3 và 4, hai sư đoàn của Quân khu 7, hai sư đoàn của Quân khu 5 mở đợt tiến công lớn trên hướng đường 1, đường 7, vùng giáp ranh tỉnh Tây Ninh, đường 19... loại khỏi vòng chiến đấu 6 sư đoàn địch, làm suy yếu nghiêm trọng khối chủ lực, buộc địch phải đối phó, tạo điều kiện cho các lực lượng yêu nước Campuchia hoạt động. Đồng thời theo yêu cầu của Bạn, ta điều động các đội trinh sát luồn sâu vào trong lòng địch, hỗ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng.

Tháng 9 năm 1978, lực lượng trinh sát luồn sâu của Bộ (do đồng chí Nguyễn Bá Ngọc, cán bộ Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu làm Đội trưởng) và của Quân khu 7 bắt liên lạc được với lực lượng ly khai Vùng 20 của ông Chia Xim, các đội công tác của Quân đoàn 3 bắt liên lạc được với lực lượng của ông Hêng Xomrin (nguyên ủy viên Khu ủy Miền Đông, Sư đoàn trưởng kiêm Chính ủy Sư đoàn 4) lãnh đạo. Lực lượng này có hơn 400 quân và hàng vạn dân đi theo xin sang lánh nạn ở Việt Nam, trong đó có nhiều người tình nguyện được tham gia lực lượng vũ trang cách mạng để trở về giải phóng đất nước khỏi hoạ diệt chủng Pôn Pốt khi có thời cơ.


(1) Tiểu đoàn này ban đầu do đồng chí Sôi Keo làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Bu Thoong làm Chính trị viên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #12 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2021, 06:21:00 am »

Nhằm nâng cao hiệu quả công tác giúp Bạn, tháng 10 năm 1978, Đoàn chuyên gia 478 ban hành quy định tạm thời về nhiệm vụ, phương châm, chế độ công tác giúp lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia. Về nhiệm vụ, quán triệt đường lối, chủ trương, quan điểm đoàn kết quốc tế của Đảng ta đối với cách mạng Campuchia, chuyên gia quân sự phải đi sâu nghiên cứu tình hình cách mạng Campuchia, cùng các cơ quan có liên quan đề xuất với cấp trên những chủ trương, kế hoạch nhằm giúp Bạn xây dựng lực lượng và đưa lực lượng vào hoạt động, thực hiện sự phối hợp chiến đấu và công tác giữa lực lượng vũ trang ta và Bạn. Trên cơ sở tình hình thực tiễn của Bạn kết hợp với kinh nghiệm của quân đội ta mà góp ý với Bạn về chủ trương, kế hoạch xây dựng lực lượng và hoạt động của các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, xây dựng căn cứ địa, xây dựng cơ sở hậu phương. Chuyên gia ở cấp nào phải giúp Bạn ở cấp đó thực hiện tốt chức trách và hoàn thành nhiệm vụ; qua đó không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt của Bạn, tìm hiểu được tình hình đội ngũ cán bộ để có kế hoạch giúp đỡ phù hợp. Giữ mối liên hệ mật thiết giữa quân đội ta và lực lượng vũ trang Bạn, nhằm góp phần xây dựng, củng cố và không ngừng phát triển mối đoàn kết liên minh chiến đấu giữa cách mạng và quân đội hai nước.

Ngày 3 tháng 11 năm 1978, được sự giúp đỡ của nhân dân, lực lượng nổi dậy chống lại chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari tiến công căn cứ Sêrêca của quân Pôn Pốt ở phía Tây Bắc Đầm Be (Côngpông Chàm). Sau 1 giờ chiến đấu, lực lượng nổi dậy làm chủ căn cứ, tiêu diệt hơn 100 tên, thu 1 kho vũ khí, đạn dược và đồ dùng quân sự. Phong trào nổi dậy chống lại chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari lan rộng khắp cả nước, không chỉ lớn về quy mô mà còn có bước chuyển mới về tổ chức và phương thức đấu tranh. Đã có sự phối hợp giữa các lực lượng, giữa thành thị với nông thôn; đã biết kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, giữa nổi dậy của quần chúng với binh biến của binh lính.

Tháng 11 năm 1978, tại Quân khu Đông, lực lượng nổi dậy hoạt động mạnh ở các huyện Camchơrích, Tơnang Khơmun (Côngpông Chàm). Tại Quân khu Đông Bắc, hàng trăm nhân dân vùng Siêngpạng (Stung Treng) và vùng Bôkeo (Ráttanakiri) nổi dậy chống lại việc bắt thanh niên đi lính cho Pôn Pốt. Nhiều truyền đơn kêu gọi nhân dân khu Đông và Đông Bắc cùng đồng bào cả nước đoàn kết đấu tranh đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, phản đối việc chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari gây chiến tranh biên giới với Việt Nam, đòi xây dựng nước Campuchia hoà bình, độc lập, tự do, hạnh phúc.

Cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 1978, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Campuchia phát triển ngày càng mạnh mẽ và giành nhiều thắng lợi. Đầu tháng 12 năm 1978, lực lượng vũ trang cách mạng tỉnh Mônđônkiri đánh chiếm 1 căn cứ địch, diệt hơn 100 tên, thu nhiều súng đạn và lương thực. Tiếp đó, nhân dân hai huyện Sơlông và Crôchơmia (Côngpông Chàm) nổi dậy giành quyền làm chủ ở một số xã. Ở Quân khu 203 và Quân khu Đông Bắc nổ ra nhiều vụ binh biến của binh lính.

Trong khi đó, được các quân khu 5, 7, 9 giúp đỡ, lực lượng vũ trang Bạn cũng có sự phát triển. Đến tháng 12 năm 1978, bộ đội ta đã giúp Bạn xây dựng được 22 tiểu đoàn bộ binh và 69 đội công tác. Đây là những nhân tố vô cùng quan trọng tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia từng bước tự đảm đương nhiệm vụ chuẩn bị phối hợp với Quân tình nguyện Việt Nam, đánh đổ chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng để xây dựng lại đất nước.

Để tập hợp, tổ chức và lãnh đạo nhân dân Campuchia đứng lên cứu đất nước thoát khỏi hoạ diệt chủng Pôn Pốt ta đã giúp Bạn thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Quân khu 7 được giao chuẩn bị địa điểm, đường sá và công tác bảo vệ; Tổng cục Hậu cần lo việc ăn uống và đưa đón nhân dân Campuchia từ một số trại tị nạn về địa điểm mít tinh an toàn. Ngày 2 tháng 12 năm 1978, tại vùng giải phóng Snun (tỉnh Krachiê), Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã ra mắt nhân dân Campuchia(1). Mặt trận công bố Cương lĩnh 11 điểm nhằm thực hiện quyết tâm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng thi hành nhiệm vụ cách mạng trước mắt của nhân dân Campuchia là nổi dậy đánh đổ tập đoàn phản động gia đình trị Pôn Pốt. Iêng Xari, xóa bỏ chế độ diệt chủng tàn ác đẫm máu của chúng, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân, phát huy truyền thống Ăngco, làm cho Campuchia thật sự là một nước hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, không liên kết. Mặt trận cũng khẳng định tăng cường tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, xây dựng lại đất nước Campuchia hòa bình, phồn vinh.

Cùng với việc hình thành các lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia, sự ra đời của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và sự giúp đỡ của Việt Nam đã góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Campuchia vươn lên một tầm cao mới. Ngay sau khi thành lập, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã đề nghị Việt Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia, “không phải chỉ cứu giúp mấy vạn người tị nạn mà phải cứu giúp cả một dân tộc”(2). Theo yêu cầu của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và nhân dân Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã kề vai sát cánh cùng lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt, giải phóng đất nước khỏi họa diệt chủng, giành chính quyền về tay nhân dân.


(1) Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia gồm 14 người, do ông Hêng Xomrin (nguyên Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ khu Đông, Chính ủy kiêm Sư đoàn trưởng) làm Chủ tịch, Chea Sim (nguyên Ủy viên Viện đại biểu nhân dân) làm Phó Chủ tịch và các ủy viên: Rô Samay, Matly, Bun Mi, Mea Somnang, Neou Samon, Hun Xen, Mean Saman, nhà sư Long Sim, nữ bác sĩ Thạch Kanh Nha, Hem Samin, giáo sư Chan Vên, nhà báo Prach Sun.
(2) Ban liên lạc cựu chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia, Kỷ yếu 8 năm hoạt động của Ban liên lạc cựu chuyên gia Việt Nam giúp Campuchia (1998-2006), Nxb GTVT, H, 2007, tr. 397.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #13 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2021, 06:22:44 am »

2. Cùng các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia giải phóng đất nước thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt, giành chính quyền về tay nhân dân.

Đến tháng 12 năm 1978, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của quân dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn. Ta chẳng những đập tan các cuộc tấn công của địch, giữ vững địa bàn, mà còn giúp Bạn phát triển nhiều lực lượng, mở rộng địa bàn và các căn cứ trong nội địa Campuchia. Quân Pôn Pốt tiếp tục lâm vào thế bị động phải đối phó cả ở ngoài biên giới và ở trong nội địa. Nội bộ địch ngày càng mâu thuẫn sâu sắc, các cuộc thanh trừng ở các quân khu, sư đoàn tin cậy của Pôn Pốt ở Phnôm Pênh liên tiếp xảy ra. Phong trào yêu nước trong nhân dân Campuchia phát triển mạnh mẽ, các cuộc nổi dậy của quần chúng ở nhiều nơi đang chuyển thành cao trào dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Nhìn chung so sánh lực lượng và thế trận trên chiến trường phát triển thuận lợi cho cách mạng hai nước Việt Nam Campuchia.

Trước bước phát triển mới của phong trào cách mạng Campuchia và so sánh lực lượng trên toàn tuyến biên giới hoàn toàn có lợi cho ta, trong hai ngày 6 và 7 tháng 12 năm 1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm mở cuộc tổng tiến công tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên tuyến biên giới Tây Nam; đồng thời theo yêu cầu của Bạn, sẵn sàng phương án hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia nổi dậy đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, giành chính quyền về tay nhân dân. Ta xác định quyết tâm: sử dụng sức mạnh bất ngờ, thần tốc, mãnh liệt, đập tan cuộc tiến công xâm lược lớn của địch ở biên giới Tây Nam; tiếp đó giúp lực lượng cách mạng Campuchia, bao vây tiêu diệt khối chủ lực, nhanh chóng thọc sâu tiêu diệt cơ quan đầu não của địch ở Phnôm Pênh, chiếm cảng Côngpông Xom và các sân bay lớn, ngăn chặn sự can thiệp từ bên ngoài bằng đường biển, đường không; thực hiện đánh nhanh, giải quyết nhanh.

Theo chủ trương đó, ta dự kiến tổ chức ba chiến dịch kế tiếp nhau:

Chiến dịch 1: Tạo điều kiện chuẩn bị thế và lực cho các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia có thời gian để phát triển ảnh hưởng của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ra toàn đất nước; đồng thời cũng là thời gian lực lượng của Bạn thử thách, rèn luyện, trưởng thành trong thực tiễn đấu tranh cách mạng.

Chiến dịch 2: Tiêu diệt, làm tan rã các sư đoàn chủ lực tuyến 1 của Pôn Pốt trên đường số 1, đường số 7, tạo thế đánh vào đầu não địch ở Phnôm Pênh.

Chiến dịch 3: Tập trung đánh vào đầu não địch ở Phnôm Pênh và các mục tiêu còn lại.

Để giúp Bạn hiệu quả trên lĩnh vực quân sự đòi hỏi cần có một đoàn chuyên gia chuyên trách về mặt quân sự. Trước tình hình đó, ngày 12 tháng 12 năm 1978, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 129/QĐ-QU chính thức thành lập Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Campuchia (mang phiên hiệu Đoàn 478) thuộc Ban B.68. Lãnh đạo, chỉ huy Đoàn 478 gồm các đồng chí: Nguyễn Thuận (Trưởng đoàn), Lê Chiêu (Chính ủy), Hà Hữu Thừa, Lê Hiền Hữu, Nguyễn Hiệu, Nguyễn Duy Hiền, Nguyễn Văn Viễn, Lê Đức Trứ. Đồng thời, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 130/QĐ-QU thành lập Đảng bộ Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (gọi tắt là Đảng bộ 478), đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Quân ủy Trung ương. Ban chấp hành Đảng bộ Doãn 478 có nhiệm vụ:

“1. Nghiên cứu, đề xuất với Quân ủy Trung ương những chủ trương về việc giúp Bạn xây dựng và chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ. Đồng thời lãnh đạo chuyên gia quân sự Việt Nam tiến hành giúp lực lượng vũ trang Bạn xây dựng và chiến đấu.

2. Lãnh đạo, chuyên gia Việt Nam chấp hành đúng đường lối quốc tế của Đảng, các nguyên tắc, chế độ quy định trong mối quan hệ; tôn trọng độc lập chủ quyền và mọi phong tục tập quán của Bạn; tăng cường đoàn kết hữu nghị, hợp tác trên tinh thần bình đẳng, bảo đảm cả trước mắt và lâu dài.

3. Hướng dẫn kiểm tra, đôn đốc các quân khu 5, 7, 9 trong việc thực hiện các chủ trương giúp Bạn của Quân ủy Trung ương đã xác định. Thường xuyên quan hệ chặt chẽ với Ban B.68 của Trung ương để báo cáo và xin hướng dẫn những vấn đề có liên quan và phối hợp với chuyên gia các ngành khác để tiến hành công tác giúp Bạn đạt kết quả tốt.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2021, 06:28:29 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #14 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2021, 06:24:50 am »

Về quyền hạn, Đảng ủy Đoàn 478 được giải quyết công việc về Đảng tương đương với Đảng ủy các binh chủng”(1). Đồng chí Lê Chiêu (Chính ủy) được cử giữ chức Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Thuận (Đoàn trưởng), Hà Hữu Thừa (Trưởng ban Quân sự), Nguyễn Duy Hiền (Trưởng ban Chính trị), Lê Đức Trứ (Trưởng ban Hậu cần) là Đảng ủy viên. Cùng với việc thành lập Đoàn chuyên gia quân sự 478, các quân khu 5, 7, 9 cũng thành lập một phòng chuyên về công tác giúp Bạn.

Trong khi Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ta bàn kế hoạch tổng phản công, tiến công giải phóng Campuchia và thành lập Đoàn chuyên gia quân sự 478, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đề nghị Việt Nam giúp Bạn đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xan, giành chính quyền về tay nhân dân. Theo đề nghị chính đáng của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia và căn cứ kế hoạch tác chiến chiến lược đã được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương thông qua, ngày 17 tháng 12 năm 1978, Tiền phương Bộ Quốc phòng (thành lập ngày 19-7-1978)(2), hạ quyết tâm chiến đấu và giao nhiệm vụ cho các đơn vị thực hiện kế hoạch tiến công giải phóng Campuchia: Quân khu 5 và Quân khu 7 đảm nhiệm tiến công giải phóng các tỉnh miền Đông Campuchia. Các quân đoàn chủ lực 2, 3, 4 tập trung tiêu diệt các sư đoàn chủ lực địch, hướng chủ yếu là Quân đoàn 4. Tiến công giải phóng Phnôm Pênh bằng ba cánh quân do hai quân đoàn 3, 4 và Quân khu 9 đảm nhiệm.

Lực lượng tham gia cuộc tổng tiến công có 18 sư đoàn bộ binh thuộc 3 quân đoàn (2, 3, 4), 3 quân khu (5, 7, 9); các đơn vị binh chủng và một số đơn vị thuộc các quân chủng phòng không, không quân, hải quân; 600 xe tăng, xe bọc thép, 587 khẩu pháo các loại, 7.000 ô tô vận tải, 137 máy bay, 160 tàu thuyền chiến đấu. Tổng số quân tham gia khoảng 25 vạn.

Chiến dịch phản công và tiến công lớn lần này do Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp chỉ huy, gồm các đồng chí Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Lê Ngọc Hiền. Cơ quan tiền phương Cục Tác chiến do đồng chí Cục trưởng Lê Hữu Đức cùng các đồng chí Phan Hàm, Lê Duy Mật (Cục phó) phụ trách.

Về phía địch, đến tháng 12 năm 1978, quân Pôn Pốt có 23 sư đoàn, một số đơn vị hải quân, không quân và trung đoàn binh chủng với tổng số quân khoảng 170.000 (quân chủ lực 120.000; quân địa phương 50.000). Trang bị 250 khẩu pháo, 275 xe tăng, xe bọc thép, 79 máy bay, 170 tàu tuần tiễu, phóng lôi và phục vụ. Địch bố trí ở biên giới 19 sư đoàn, trong đó Quân khu Đông (203) và Vùng 505 (Krachiê) có 12 sư đoàn.

Ngày 23 tháng 12 năm 1978, địch huy động 10 trong số 19 sư đoàn đang bố trí ở biên giới mở cuộc tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta, trong đó, chúng dùng 3 sư đoàn đánh vào Bến Sỏi nhằm chiếm Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh vào khu vực Bảy Núi (An Giang), 3 sư đoàn đánh vào khu vực Hà Tiên (Kiên Giang).

Tận dụng thời cơ về mặt pháp lý do việc tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari cho quân tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta, đồng thời để bảo vệ hậu phương chiến dịch bị địch uy hiếp, trên cơ sở kế hoạch tác chiến đã được chuẩn bị, Tiền phương Bộ Quốc phòng ra lệnh cho các lực lượng chiến đấu trên tuyến biên giỏi Tây Nam đồng loạt mở cuộc phản công tiêu diệt quân địch, thực hiện quyết tâm chiến lược đã được Bộ Chính trị thông qua sớm hơn dự định.

Ngay sau khi địch đánh vào Bến Sỏi, ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn 4 sử dụng 2 sư đoàn (341 và 2), một trung đoàn thuộc Sư đoàn 7, 2 trung đoàn địa phương (Quân khu 7) và một số đơn vị pháo binh, xe tăng, thiết giáp thực hành phản công địch trên hai hướng, hình thành thế bao vây chặt 3 sư đoàn địch ở Bến Sỏi. Ngày hôm sau, địch cho một trung đoàn bộ binh và 15 xe tăng ra phản kích, bị ta chặn đánh quyết liệt phải co lại. Đến ngày 28 tháng 12, ta mở đợt tấn công quyết định, diệt và bắt toàn bộ quân địch xâm lấn khu vực tây bắc Bến Sỏi.

Từ ngày 23 đến 30 tháng 12 năm 1978, trong khi Quân đoàn 4 tập trung tiêu diệt địch ở bắc Bến Sỏi, trên hướng Quân khu 7, ta sử dụng hai sư đoàn (5 và 303) tiến công dọc theo đường 10 và đường 13, đánh chiếm thị xã Krachiê, diệt và bắt hơn 1.000 tên, giải phóng 25.000 dân.


(1) Quyết định số 129/QĐ-TW của Thường vụ Quân ủy Trung ương, ngày 12 tháng 12 năm 1978. Tài liệu lưu Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Quân ủy Trung ương, hồ sơ 1036.
(2) Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị bảo vệ biên giới Tảỵ Nam, Tiền phương Bộ Quốc phòng tiếp tục chỉ huy Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoạt động tại Campuchia cho đến khi thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia (Bộ Tư lệnh 719) ngày 6 tháng 6 năm 1981.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #15 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2021, 06:27:01 am »

Quân khu 5 sử dụng các trung đoàn 143, 726 (Gia Lai - Kon Tum), 94 (Sư đoàn 307), 812 (Sư đoàn 309), 250, 142 (Đắk Lắk) giải phóng bắc và nam sông Xan, Xămtùng; các điểm cao 302, 328, 308, 336, 222 và Phi nay, chọc thủng tuyến phòng ngự vòng ngoài của địch, tạo thành gọng kìm từ hướng sông Xan, uy hiếp Bôkhăm, bắc đường 19, điểm cao 230 và Bôkeo. Đến ngày 30 tháng 12 năm 1978, ta tiêu diệt các mục tiêu đã định, phá vỡ tuyến phòng ngự cơ bản của địch, giải phóng một số tỉnh miền Đông Campuchia.

Trên hướng Quân khu 9, quân ta phản kích địch ở nhiều nơi. Sư đoàn 339 tổ chức nhiều trận đánh ở khu vực Gò Rượi, Gò Viết Thuộc, Gò Châu Giang, Đứt Gò Suông, đuổi địch về bên kia biên giới. Sư đoàn 4, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 8) và Trung đoàn 2 (Sư đoàn 330) phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tập trung đánh địch, khôi phục toàn bộ khu vực Rộc Xây. Sư đoàn 8 (thiếu Trung đoàn 2) mở cuộc phản công khôi phục lại khu vực bắc Hà Tiên.

Sau khi hành quân vào vị trí tập kết ở khu vực xã Tri Tôn, huyện Bảy Núi (tỉnh Kiên Giang), Quân đoàn 2 (thiếu Sư đoàn 306) được tăng cường Sư đoàn 8 (Quân khu 9), được Tiền phương Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ phối hợp với Quân khu 9 và hiệp đồng với không quân, hải quân chiến đấu trên dải biên giới từ Châu Đốc ra tới biển và tổ chức chiến dịch tiến công trên hướng Tây Nam. Đối tượng tác chiến trước mắt của Quân đoàn là Quân khu Đông Nam của địch (lực lượng có 4 sư đoàn bộ binh (210, 230, 250, 270) và sư đoàn lính thủy đánh bộ 164. Tổng số quân khoảng 35.000 tên với 5 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn xe tăng và hơn 100 tàu, xuồng chiến đấu). Ngày 31 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang Quân khu 9 nổ súng đánh địch ở khu vực kênh Vĩnh Tế, thu hồi phần đất cuối cùng của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm trái phép.

Trong 9 ngày đêm (từ ngày 23 đến ngày 31 tháng 12 năm 1978), bằng các đòn phản công, tiến công quyết liệt kế tiếp nhau, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh đuổi quân Pôn Pốt, thu hồi toàn bộ vùng chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, xây dựng lại đất nước.

Ngay sau khi quân và dân ta bắt đầu mở cuộc phản công, ngày 23 tháng 12 năm 1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã nhận định: “Sinh lực địch nhất định sẽ bị quân và dân Việt Nam tiêu diệt hoặc kìm chân tại chỗ. Đây là thời cơ tốt nhất để các lực lượng vũ trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia cùng với nhân dân và binh sĩ khỏi nghĩa trên toàn quốc và đánh vào đầu não của bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xari, đập tan chế độ độc tài phát xít khát máu của chúng”(1). Tiếp đó, ngày 26 tháng 12 năm 1978, Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia phát động toàn dân tận dụng thời cơ và sự giúp đỡ của bộ đội Việt Nam, tập trung lực lượng đứng lên đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, giành chính quyền về tay nhân dân.

Đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước và nhân dân Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam phối hợp với các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia tiến công quân địch trên tất cả các hướng. Sau đòn tiến công giải phóng một số tỉnh miền Đông Campuchia của các đơn vị thuộc Quân khu 5 và Quân khu 7, sáng ngày 31 tháng 12 năm 1978, Quân đoàn 3 mở chiến dịch A88 tiến công giải phóng vùng Đông sông Mê Công, phía Bắc thủ đô Phnôm Pênh và các tỉnh Côngpông Thom, Xiêm Riệp, Báttambang, Puốcxát. Lực lượng tham gia chiến dịch trên hướng Quân đoàn 3 có 4 sư đoàn bộ binh: 10, 320, 31 và 302 (Quân khu 7 tăng cường); các lữ đoàn 273, 234, 40, 7 và Trung đoàn thông tin 29. Lực lượng cách mạng Campuchia phối hợp tác chiến với Quân đoàn 3 có 3 tiểu đoàn bộ binh và 6 đội công tác vũ trang

Vào 6 giờ ngày 31 tháng 12 năm 1978, chiến dịch tiến công đánh chiếm vùng Đông sông Mê Công của Quân đoàn 3 bắt đầu. Từ hướng Tây Bắc, Sư đoàn 320 đánh vào Đầm Be và Sê Rêkâk, mở đường cho lực lượng thọc sâu đánh chiếm hai vị trí Suông và Chúp, chặn địch rút chạy về thị xã Côngpông Chàm. Sư đoàn 10 đánh tan các ổ đề kháng của địch ở làng 28, điểm cao 125 và 113. Sư đoàn 31 đánh chiếm Phsaâm, Ămpuk và phát triển về phía Krek, Sư đoàn 302 tiến công Phlong, Tànốt, Tàâm phát triển chiếm đường 24, giải phóng vùng Đông sông Mê Công. Ngày 3 tháng 1 năm 1979, Quân đoàn 3 sử dụng Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 và hai đại đội thiết giáp tiến công đánh chiếm thị xã Prâyveng.


(1) Tuyên bố của Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Báo Nhân dân số 8930 ngày 8 tháng 1 năm 1979.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #16 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2021, 06:13:37 am »

Ở hướng Quân khu 9 và Quân đoàn 2, sáng 31 tháng 12 năm 1978, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công. Sau 30 phút chiến đấu, bộ đội ta đánh tan 2 trung đoàn địch, làm chủ khu vực kênh Vĩnh Tế. Ngày 1 tháng 1 năm 1979, không quân ta ném bom sở chỉ huy tiền phương Quân khu Đông Nam, các sở chỉ huy sư đoàn 250, 210 và các cụm quân địch tập trung ở Tapông, Kirivông, phum Sêkê. Cũng trong thời gian này, Trung đoàn công binh 219 nhanh chóng hoàn thành việc bắc cầu cho quân ta vượt qua kênh Vĩnh Tế, tiến công đánh chiếm các mục tiêu được giao.

Đêm 1 tháng 1 năm 1979, Trung đoàn bộ binh 2 đưa lực lượng bao vây Bà Cò, nơi có 1 tiểu đoàn địch đóng giữ. Quân ta chia thành nhiều mũi, kết hợp giữa tiến công chính diện và vu hồi; địch không chống cự nổi phải bỏ chạy về hướng Bà Ca. Phát huy thắng lợi, Trung đoàn 2 đánh chiếm luôn Bà Ca. Trong thời gian này, Trung đoàn 1 được tăng cường Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 3 tiến công các vị trí của trung đoàn 12 (sư đoàn 210 Pôn Pốt) tại khu vực Ba Súc. Sau 20 phút chiến đấu, bộ đội ta làm chủ các mục tiêu. Trong đêm 2 rạng ngày 3 tháng 1, Trung đoàn 3 cùng lực lượng xe tăng, thiết giáp đánh chiếm khu vực bắc cầu Cây Mít, sau đó phát triển lên Bà Ca, Ba Súc, truy kích tiêu diệt quân địch và làm chủ khu vực núi Đất, núi Ăng Chao. Phát hiện sở chỉ huy sư đoàn bộ binh 210 địch, Trung đoàn 3 nhanh chóng sử dụng 1 tiểu đoàn và 10 xe M113 cùng 3 xe PT85 của quân khu tăng cường tiến công sở chỉ huy địch, đến 14 giờ 30 ngày 3 tháng 1 năm 1979, các đơn vị của Trung đoàn 3 chiếm được sở chỉ huy sư đoàn 210 của địch ở Prochrey.

Ngày 2 tháng 1 năm 1979, được sự yểm trợ đắc lực của hoả lực pháo binh, lực lượng xe tăng và bộ binh Quân đoàn 2 đột phá tiêu diệt địch ở phum Tunliếp, Tôliốp, Đông Nam Santâng, các điểm cao 384, 451, 328; phát triển xuống phum Sêkê, diệt 2 trung đoàn (15 và 16) của địch, sau đó thọc sâu vào Kirivông, diệt sở chỉ huy sư đoàn 250 và trung đoàn 17 địch. Phối hợp chặt chẽ với các đòn tiến công của Quân đoàn 2; các sư đoàn 4, 330, 339 của Quân khu 9 và các đơn vị tăng cường đánh chiếm Giồng Bà Ca, Puốcxát, phum Đông, sở chỉ huy sư đoàn 210 địch ở Prochrey, núi Tham Dung, núi Xôm, ngã ba Tà Lập, sau đó phát triển tấn công về Tàkeo. Ngày 3 tháng 1 năm 1979, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đánh chiếm xong các mục tiêu trong chiến dịch 1. Sau đợt tác chiến này, theo mệnh lệnh của Tiền phương Bộ Quốc phòng, Quân đoàn 2 sử dụng Sư đoàn 304 (được tăng cường xe tăng, pháo binh) làm lực lượng dự bị cho Bộ chỉ huy liên quân sẵn sàng tiến công giải phóng thủ đô Phnôm Pênh. Các lực lượng còn lại của Quân đoàn tiến công giải phóng Côngpông Trạch, Campốt và hiệp đồng với Hải quân giải phóng cảng Côngpông Xom.

Hướng Quân đoàn 4, căn cứ vào quyết tâm của Bộ và qua nắm tình hình địch, trong hai ngày 30 và 31 tháng 12 năm 1978, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân đoàn họp tại sở chỉ huy ở Bosmôn nam ngã tư Nhà Thương (dự họp có Trung tướng, Tư lệnh Mặt trận Tây Nam Lê Trọng Tấn) giao nhiệm vụ cho các đơn vị: Sư đoàn 7 đánh chiếm Đônso, phát triển chiếm Preynhây và Côngpông Tràbéc. Sư đoàn 2 đánh chiếm Changtroi, phát triển sang phía tây chiếm Ăngcosa. Sư đoàn 341 chiếm bờ đập tây - bắc Châk, phát triển chiếm Xoàiriêng, Tàthiết. Sư đoàn 9 chiếm Prasốt, Tácưng và cầu Xoàiriêng. Trung đoàn Long An và Trung đoàn 3 (Quân khu 9) đánh lên Tàkoeng, Tàthiết và đường số 1. Hai trung đoàn (thiếu) Tây Ninh đánh địch xung quanh Côngpông Trạch, nếu có thời cơ sẽ chiếm Côngpông Trạch.

Cuộc họp cũng dự kiến khả năng nếu thắng lợi của ta trên hướng Quân khu 7 đảm nhiệm (tỉnh Krachiê) và đường số 13, Bên Sỏi làm địch tan rã sớm hơn thì quân đoàn sẽ cho Sư đoàn 341 và Sư đoàn 9 cùng nổ súng vào ngày N (1-1-1979), không chờ đến ngày N + 1 như kế hoạch trước.

Ngày 1 tháng 1 năm 1979, Quân đoàn 4, với các lực lượng được trên tăng cường(1) nổ súng đánh địch trên trục đường 1 và vùng ven hai bên bờ sông Mê Công. Các trung đoàn 209, 14 (Sư đoàn 7), 38, 1 (Sư đoàn 2) từ các bàn đạp phía tây đường số 24 tiến công ra đường số 10 - Đônso. Do không thực hiện được luồn sâu chia cắt, các sư đoàn đều phải đột phá chính diện nên thương vong cao (2 sư đoàn bị thương 294 người, hy sinh 49 người). Trong khi đó, Sư đoàn 341 mở nhiều đợt xung phong cũng không chiếm được bờ đập tây bắc Châk, bị thương hơn 100 người, ở các hướng khác, quân ta tiến công đều gặp địch chống cự quyết liệt. Để khắc phục khó khăn, Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định chuyển Sư đoàn 341 sang làm nhiệm vụ dự bị. Các sư đoàn 2, 7, 9 và Trung đoàn Long An tạm dừng tiến công để chuẩn bị thêm.


(1) Trong chiến dịch giúp Bạn giải phóng Phnôm Pênh, Quân đoàn 4 được Bộ Tổng Tham mưu tăng cường 5 trung đoàn bộ đội địa phương của hai quân khu (7, 9) 1 trung đoàn hải quân (Quân khu 9) và 1 trung đoàn công binh của Bộ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #17 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2021, 06:15:43 am »

Giữa lúc các đơn vị tạm dừng để củng cố đội hình chuẩn bị cho đợt tấn công mới thì đêm 2 tháng 1 năm 1979, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 nhận được tin cấp trên thông báo: đến ngày 2 tháng 1 năm 1979, ba cụm quân chủ lực địch (mỗi cụm 5 sư đoàn) án ngữ các trục đường số 1, 2, 7 về Phnôm Pônh bị ta tiêu diệt một bộ phận và tan rã ta đã giải phóng toàn bộ vùng đồng bằng sông Mê Công. Để giữ phần đất còn lại, bộ tham mưu quân Pôn Pốt đã cho rút quân ở đường số 1 và đường số 10 về phòng ngự ở Sacách, Prêyveng, Niếc Lương. Ngay sau khi nhận được thông báo của trên, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định: Sư đoàn 341 chuyển từ hướng đường số 10 sang đánh thọc sâu theo đường 244, Sacách - Niếc Lương; các đơn vị còn lại tiếp tục tấn công theo kế hoạch đã định.

Sáng ngày 3 tháng 1 năm 1979, không quân ta đánh phá phía bắc phà Niếc Lương và oanh tạc đội hình rút lui của địch ở khu vực cách Xoàiriêng 12 kilômét. Tận dụng kết quả oanh kích của không quân, các mũi tiến công của Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 nhanh chóng đánh chiếm đường số 10 (đoạn Chân Trai), phát triển chiến đấu ra Preynhây. Chiều ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 9 chiếm được bắc ngã ba Tàhô (nằm trên trục đường số 1, phía tây Prasốt). Trên hướng Sư đoàn 341 do đường xấu và xe thiết giáp đến chậm, nên trưa ngày 3, các đơn vị mới cơ động triển khai lực lượng chiến đấu.

Trên hướng biển, Bộ tư lệnh Hải quân thành lập xong sở chỉ huy tiền phương ở đảo Phú Quốc để chỉ huy các lực lượng hải quân ta tham gia tác chiến. Hai biên đội tàu chiến đấu được lệnh vào vị trí tập kết ở khu vực đảo Nam Du và An Thới. Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126 đang ém quân ở đảo Phú Quốc, sẵn sàng đợi lệnh chiến đấu. Các lực lượng hải quân trên vùng biển phía Nam cũng được lệnh sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng chi viện cho các lực lượng chiến đấu trên biển khi cần. Quán triệt chỉ thị của Bộ Chính trị về giải phóng Phnôm Pênh trước ngày 8 tháng 1 (trước khi Hội đồng bảo an Liên hợp quốc bàn về vấn đề Campuchia), sau khi xem xét diễn biến chiến đấu trên toàn chiến trường, Tiền phương Bộ Quốc phòng nhận thấy hướng Quân đoàn 4 đang gặp khó khăn, nên đã quyết định bổ sung nhiệm vụ và chuyển hướng tiến công của Quân khu 9 đang phát triển thuận lợi thành hướng tiến công chủ yếu.

Trưa ngày 5 tháng 1 năm 1979, các đồng chí Lê Đức Thọ, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, thay mặt Quân ủy Trung ương và Tiền phương Bộ Quốc phòng, đến Chi Lăng (sở chỉ huy Quân khu 9) trực tiếp giao nhiệm vụ bổ sung cho Quân khu 9. Theo nhiệm vụ mới, Quân khu 9 sẽ đánh chiếm sân bay Pôchentông, Bộ tư lệnh thiết giáp, Đài phát thanh, khu nhà ở và phủ thủ tướng. Quân đoàn 4 chuyển thành lực lượng phối hợp, có nhiệm vụ “đưa một bộ phận đi trước hỗ trợ Bạn đánh chiếm cầu Mônivông và Bộ Tổng tham mưu địch, nếu có điều kiện thì đánh chiếm Hoàng Cung”(1).

Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 5 tháng 1 năm 1979, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định sử dụng Sư đoàn 7 cơ động đánh địch theo trục đường số 1 đến Niếc Lương (trong đó tổ chức 1 trung đoàn vượt sông để tiến công trong hành tiến vào thủ đô Phnôm Pênh). Sư đoàn 341 cơ động triển khai đội hình chiến đấu ở khu vực phía bắc đường số 1, sẵn sàng đưa 1 trung đoàn vượt phà Niếc Lương vào Phnôm Pênh. Sư đoàn 9 sử dụng 1 trung đoàn bao vây núi Sacách, bảo vệ hai bên sườn cho Sư đoàn 7, lực lượng còn lại truy kích địch ở phía nam đường số 1 đến sát sông Mê Công. Sư đoàn 2 tiếp tục tiến công địch, giữ hành lang nam đường 10, nam bắc đường số 1 (đoạn đông và tây Côngpông Tràbéc). Chiều ngày 6, Sư đoàn 7 tiến quân đến sát bờ sông khu vực bến phà Niếc Lương, Sư đoàn 9 chiếm được khu vực nam đường số 1 - Preynhây, Sư đoàn 3 cơ động đến khu vực Sacách (tây nam Ăngcosa), Sư đoàn 2 chiếm lĩnh được khu vực phía bắc đường số 1, tây bắc Xoàiriêng.

Cũng trong thời gian này, Tiền phương Bộ tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ cho các đơn vị bí mật đánh chiếm bãi đổ bộ tại chân núi Tà Lơn, phong toả đường 3 và đường 4, tiến đánh cảng Côngpông Xom, tiêu diệt lực lượng hải quân địch, ngăn chặn không cho tàu chúng từ quân cảng Rêam, Côngpông Xom chạy ra biển, bảo vệ sườn trái đội hình đổ bộ của Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126. Đối tượng tác chiến của Hải quân ta là các tàu thuyền chiến đấu của địch hoạt động trên vùng biển Campuchia (bờ biển dài khoảng 400 kilômét, trong đó có 44 đảo), đặc biệt là sư đoàn 164 hải quân và trung đoàn 17 biên phòng của Pôn Pốt đang chốt giữ khu vực cảng Côngpông Xom và tỉnh Cô Công. Phối hợp chiến đấu với lực lượng của hải quân có lực lượng bộ binh của Quân đoàn 2.

6 giờ ngày 6 tháng 1 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng ra lệnh tổng công kích vào thủ đô Phnôm Pênh từ ba hướng: Quân đoàn 4 sử dụng Sư đoàn 7 (lực lượng chủ yếu) và Sư đoàn 341 (dự bị) cùng lực lượng binh chủng tăng cường (đặc công, xe tăng, pháo binh) vượt sông Mê Công tiến theo trục đường số 1 và đường sông Mê Công, đánh vào Phnôm Pênh. Sau khi ra khỏi khu vực đường lầy, đánh tan các cụm phòng ngự địch, Quân đoàn 4 phát triển tiến công nhanh, Bộ giao lại nhiệm vụ tiến công hướng chủ yếu cho Quân đoàn 4; đồng thời tập trung không quân chi viện đắc lực cho các mũi tiến công của Quân đoàn tiến vào thủ đô Phnôm Pênh.


(1) Lịch sử Quân đoàn 4, tập II, Nxb QĐND, H, 1994, tr. 94.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #18 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2021, 06:16:56 am »

Sư đoàn không quân 372 sử dụng 142 lượt máy bay đánh phá sở chỉ huy các sư đoàn 260, 271, 703, các trận địa pháo, các tàu xuồng địch trên sông Mê Công, tiêu diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh của chúng, tạo điều kiện cho bộ binh phát triển chiến đấu. Sau khi hoàn thành đánh mở rộng bàn đạp phía đông Niếc Lương, chiều ngày 6 tháng 1, lực lượng đi đầu của Sư đoàn 7 (Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 14) đã chiếm lĩnh phía tây bến phà Niếc Lương, làm công tác chuẩn bị vượt sông. Đêm 6 tháng 1, với tinh thần khẩn trương nhất, Trung đoàn Hải quân 926 đã triển khai xong các phương tiện vượt sông trên hướng chủ yếu của Quân đoàn 4. Sáng ngày 7 tháng 1, Sư đoàn 7 phối hợp với Binh đoàn 1 Campuchia vượt sông Mê Công (qua khu vực bến phà Niếc Lương); với lực lượng áp đảo, quân ta nhanh chóng đánh tan sư đoàn 260 địch. 10 giờ, bộ đội ta đánh chiếm cầu Mônivông, địch chống cự yếu ớt rồi bỏ chạy về phía tây. 11 giờ, các đơn vị của Sư đoàn 7 và Binh đoàn 1 Campuchia tiến vào thành phố Phnôm Pênh, chiếm các cơ quan Trung ương, khu sứ quán và Đài phát thanh.

Trên hướng Quân đoàn 3, sáng ngày 6 tháng 1, Quân đoàn tập trung hoả lực chi viện Sư đoàn 320 vượt sông đánh chiếm thị xã Côngpông Chàm. Địch huy động không quân, pháo binh đánh phá ngăn chặn ta rất quyết liệt. Dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Vũ Cối, các đội xung kích của Trung đoàn 64 dùng xuồng máy dũng cảm vượt sông dưới làn đạn địch, đánh chiếm bờ sông phía tây. 8 giờ 30 phút ngày 6 tháng 1, các đơn vị thuộc Sư đoàn 320 mở các đợt xung phong mãnh liệt, đánh chiếm thị xã Côngpông Chàm, đập tan tuyến phòng ngự vững chắc của 2.000 quân địch do Xon Xen, Bộ trưởng Quốc phòng chỉ huy, mở thông cánh cửa quan trọng vào thủ đô Phnôm Pênh.

Sáng ngày 7 tháng 1, được pháo binh chi viện đắc lực, Trung đoàn 28 (Sư đoàn 10) do Trung đoàn trưởng Vũ Khắc Đua chỉ huy cùng lực lượng xe tăng, thiết giáp, cao xạ tăng cường tiến công trong hành tiến theo trục đường số 7, đánh tan lực lượng địch ngăn chặn ở núi Phuchê, vượt sông Tông Lê Sáp đánh chiếm kho xăng phía bắc Phnôm Pênh, đánh chiếm khu vực nhà máy xay, nhà máy hoa quả, nhà máy cơ khí, kho súng, kho đạn và phát triển sang phía đông đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu quân Pôn Pốt, bắt liên lạc với các đơn vị của Quân đoàn 4 ở trung tâm thành phố.

Trên hướng Quân khu 9, sáng ngày 6 tháng 1, Sư đoàn 330 tiến công Thnôtbâk, Tani, bị địch ngăn chặn quyết liệt, đến 15 giờ chiều mới vượt qua ngã tư Thnốtbâk 2 kilômét. Trung đoàn 10 Sư đoàn 339 tiến công theo đường Anchao - Tani bị địch chặn lại ở Tani. Trên đường số 2, Sư đoàn 4 được tăng cường xe tăng, thiết giáp tiến công Tàkeo bị địch ngăn chặn cách ngã tư Thnôtbâk 6 kilômét. Trước tình hình đó, chiều ngày 6 tháng 1, Bộ tư lệnh Quân khu 9 lệnh cho Sư đoàn 330 tăng cường lực lượng đánh chiếm đoạn đường từ ngã tư Thnốtbâk đến Tani, mở đường cho các đơn vị thọc sâu theo đường 3. Ngay chiều ngày 6, Sư đoàn 330 đã sử dụng Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 3) và 10 xe thiết giáp từ phía nam đánh thẳng lên núi Sangcông, phối hợp với Trung đoàn 2 ngay trong đêm phát triển đánh chiếm các mục tiêu ở Tani. Quân ta đột phá liên tục, đánh tan 4 tuyến phòng ngự của địch, mở đường cho đội hình thọc sâu tiến vào thủ đô Phnôm Pênh.

Sau khi Sư đoàn 330 chiếm được Tani, lực lượng tiền vệ của Quân khu 9 nhanh chóng đánh chiếm cầu Kal Tuốt bảo đảm cho Sư đoàn 330 tiếp tục thọc sâu. Được không quân chi viện hoả lực, 11 giờ ngày 7 tháng 1, Sư đoàn 330 đánh chiếm sân bay Pôchentông, ta thu 30 máy bay các loại giao cho Bạn làm cơ sở để thành lập trung đoàn không quân đầu tiên của Quân đội cách mạng Campuchia. Ngay sau đó, các đơn vị của Quân khu 9 phát triển tiến công vào Bộ tư lệnh thiết giáp và Bộ Tổng tham mưu địch. 17 giờ ngày 7 tháng 1, quân ta cùng lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia hoàn toàn làm chủ thành phố Phnôm Pênh.

Trên hướng biển, 19 giờ ngày 6 tháng 1, lực lượng đổ bộ của Lữ đoàn hải quân 126 áp sát chân núi Tàlơn, địch phát hiện và dùng pháo bắn mạnh vào khu vực đổ bộ của ta. Nhưng chỉ ít phút sau, các trận địa pháo địch đã bị bộ đội đặc công (gồm 87 cán bộ, chiến sĩ đổ bộ trong các đêm 4 và 5 tháng 1) tiến công tiêu diệt; các trận địa pháo tầm xa của ta đặt ở Phú Quốc, Hòn Đốc cũng kịp thời nổ súng chi viện chế áp các trận địa pháo địch ở các đảo Hòn Nước, Phú Dự, An Tây, Tre Mắm, Kiến Vàng, bắn phá ngăn chặn quân địch ở ngã ba Môke không cho chúng tiến ra Tà Lơn.

Trong lúc các lực lượng đổ bộ đánh chiếm khu vực Tà Lơn thì hai tàu 203 và 215 thuộc Biên đội 2 cảnh giới ở sườn trái bãi đổ bộ phát hiện 2 tàu địch từ khu vực đảo Phú Dự và Hòn Nước tiến về khu vực tàu đổ bộ của ta. Hai tàu ta lập tức nổ súng đánh chặn, bắn chìm 1 tàu địch, chiếc còn lại bỏ chạy. 1 giờ 30 phút ngày 7, 5 tàu địch từ khu vực cảng Rêam tiến ra biển hòng tiến công vào các tàu đổ bộ của ta. Các tàu HQ-05, HQ-07 được sự phối hợp của tàu 613 nổ súng mãnh liệt, bắn chìm 1 tàu, buộc các tàu còn lại phải tháo chạy, ở hướng Biên đội 1, các tàu HQ-01, HQ-03, HQ-197 và HQ-205, sau khi hoàn thành nhiệm vụ nghi binh ở hướng Côngpông Xom được lệnh cơ động sang phía quân cảng Rêam (cách khoảng 16 kilômét) dùng pháo tầm xa bắn chi viện bộ binh phát triển tiến công, ở khu vực biển Kép, các tàu ta quần nhau với 4 tàu địch, ta bắn chìm 1 tàu, bắn bị thương 1 tàu khác. Phía ta, tàu 215 trúng đạn địch, một số cán bộ, chiến sĩ anh dũng hy sinh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #19 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2021, 06:19:31 am »

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đổ bộ và đánh chiếm các mục tiêu xung quanh Tàlơn, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tổ chức lực lượng đột kích gồm 12 xe tăng, xe bọc thép và một phần lực lượng của Tiểu đoàn 864 đánh chiếm ngã ba Kôki, sau đó toàn bộ lực lượng đổ bộ phối hợp với bộ binh Quân đoàn 2 hình thành hai cánh phát triển tiến công địch về phía cảng Côngpông Xom và cảng Rêam.

Sau khi giải phóng Phnôm Pênh, ngày 8 tháng 1 năm 1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập, do ông Hêng Xomrin làm Chủ tịch. Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia ra tuyên bố xoá bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của bọn Pôn Pốt - Iêng Xari, thành lập chế độ Cộng hoà nhân dân Campuchia; đồng thời yêu cầu các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia tiếp tục giải phóng các tỉnh còn lại. Ngày 8 tháng 1, Sư đoàn 2 giải phóng thị xã Prâyveng, Sư đoàn 4 giải phóng thị xã Tàkeo. Ngày 9 tháng 1, Trung đoàn 24 Sư đoàn 10 Quân đoàn 3 giải phóng thị xã Côngpông Thom. Ngày 10 tháng 1, lực lượng hải quân Vùng 5 và Trung đoàn 66 Sư đoàn 304 (Quân đoàn 2) giải phóng cảng Côngpông Xom, Trung đoàn 9 và Tiểu đoàn 8 Hải quân đánh bộ giải phóng cảng quân sự Rêam. Ngày 11 tháng 1, Sư đoàn 339 (Quân khu 9) giải phóng thị xã Côngpông Chnăng.

Ngày 12 tháng 1 năm 1979, nước Cộng hoà nhân dân Campuchia được thành lập. Trong các ngày từ 12 đến 16 tháng 1 năm 1979, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia tiếp tục phát triển tiến công, giải phóng thị trấn Sisôphôn (Báttambang), thị trấn Sơlông, thị xã Báttambang, thị xã Puốcxát Otđômiênchay.

Ngày 16 tháng 1 năm 1979, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gửi điện khen ngợi toàn thể cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Mặt trận phía Tây Nam Tổ quốc “đã chiến đấu anh dũng, làm nên một thắng lợi lịch sử rất vẻ vang. Bằng một trận thần tốc... đã đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh của tập đoàn Pôn Pốt xâm lược biên giới Tây Nam Tổ quốc ta, phối hợp nhịp nhàng với cuộc tiến công và nổi dậy của nhân dân Campuchia anh em, đánh đổ chế độ diệt chủng tàn bạo bị mọi người lên án. Đây là thắng lợi chung của hai dân tộc Việt Nam và Campuchia. Thắng lợi to lớn này góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới”(1).

Ngày 17 tháng 1 năm 1979, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 và Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304), được không quân chi viện, tiến công giải phóng thị xã Cô Công. Đây là thị xã cuối cùng của Campuchia được giải phóng(2).

Ngày 25 tháng 1 năm 1979, nhân dân Campuchia tổ chức lễ mừng chiến thắng giải phóng đất nước khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari.

Chiến thắng ngày 7 tháng 1 năm 1979 của cách mạng Campuchia có ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại. Từ đây, nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuy nhiên, như Quân ủy Trung ương ta đã nhận định: “Do phát triển tiến công giành thắng lợi nhanh, lực lượng địch bị tan rã lớn, chưa bị tiêu diệt gọn (tàn quân còn nhiều, một số nơi chúng còn tổ chức chỉ huy và phương tiện thông tin liên lạc, còn khống chế dân, tích trữ lương thực, đạn dược để phát động chiến tranh du kích). Lực lượng cách mạng Campuchia chưa phát triển kịp theo yêu cầu, hậu quả của chế độ nô dịch tàn bạo của bọn Pôn Pốt - Iêng Xari còn rất nặng nề... nên còn nhiều việc phải giải quyết...”(3).

Tình hình đó đặt ra cho Quân tình nguyện, chuyên gia quân sự Việt Nam và các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia những nhiệm vụ đầy khó khăn, gian khổ, đòi hỏi phải có bản lĩnh kiên cường, quyết tâm cao và nhiều giải pháp thiết thực, hiệu quả mới bảo vệ được thành quả cách mạng và xây dựng lại đất nước.


(1) Điện số 10/CV-TW ngày 16 tháng 1 năm 1979 của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Tài liệu lưu tại Cục Nghiên cứu Bộ Tổng Tham mưu.
(2) Theo kế hoạch có 3 chiến dịch, nhưng diễn biến chỉ có một chiến dịch đánh liên tục. Kết quả đến ngày 17 tháng 1 năm 1979, bộ đội ta loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 6 vạn tên (từ 8 đến 10 sư đoàn quân Pôn Pốt) chủ yếu là tan rã.
(3) Báo cáo tình hình công tác quân sự của Quân ủy Trung ương (số 45-QUTƯ ngày 8 -2-1979). Hồ sơ 1085 - Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, tr. 9.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM