Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 12:01:15 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia  (Đọc 7136 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 06:46:48 am »

Tên sách: Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978-1989)
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2010
Số hóa: macbupda

* Chỉ đạo nội dung:
   - Thiếu tướng, TS. PHẠM VĂN THẠCH
   - Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN MẠNH HÀ
   - Đại tá, PGS, TS. HỒ KHANG
* Chủ biên:
   Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP
* Biên soạn:
   - Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP
   - Đại tá VŨ TRỌNG HOAN
   - Trung tá, ThS. TRƯƠNG MAI HƯƠNG


Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 06:47:40 am »

Lời nói đầu

Trong những năm 1978-1989, đáp lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam được giao nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, xây dựng lại đất nước. Tiếp đó, theo thỏa thuận giữa hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Campuchia, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam lại sát cánh cùng quân và dân Campuchia đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng hòng khôi phục chế độ diệt chủng; củng cố, xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng các đoàn thể quần chúng rộng khắp, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân không ngừng lớn mạnh, đủ sức vươn lên đảm đương nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.

Được nhân dân Campuchia yêu quý, đùm bọc, giúp đỡ tận tình và các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đoàn kết, liên minh chiến đấu, Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế vô sản cao cả, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng Campuchia. Đó là thắng lợi hết sức lo lớn của tình đoàn kết chiến đấu giữa Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia; đồng thời cũng là thắng lợi chung của cách mạng ba nước Việt Nam, Campuchỉa và Lào.

Nghiên cứu lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Campuchia (1978-1989) là việc hết sức cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Campuchia là một bộ phận của lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, lịch sử cách mạng Việt Nam; đồng thời là một bộ phận của lịch sử quan hệ, đoàn kết chiến đấu giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội hai nước Việt Nam - Campuchia.

Với ý nghĩa đó, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức biên soạn cuốn “Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978-1989)” nhằm khẳng định sự giúp đỡ to lớn với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, vô tư của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam đối với cách mạng Campuchia; đồng thời góp phần phát triển tình đoàn kết hữu nghị giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia.

Nội dung cuốn sách trình bày hoạt động của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, trong đó tập trung làm rõ quá trình giúp cách mạng và nhân dân Campuchia (1978), đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giành chính quyền về tay nhân dân (1979), truy quét tàn quân địch, xây dựng lực lượng chính trị, củng cố và phát triển lực lượng vũ trang, đến khi thực hiện thắng lợi ba mục tiêu chiến lược do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia đề ra, rút hết Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam về nước (1989).

Tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng trong nghiên cứu, biên soạn, song chắc chắn cuốn sách khó tránh khỏi khiếm khuyết. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam rất mong Bạn đọc đóng góp, phê bình để khi có điều kiện tái bản cuốn sách đạt chất lượng tốt hơn.

Nhân dịp cuốn “Lịch sử Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Campuchia (1978-1989)” xuất bản, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam chân thành cảm ơn các cơ quan, đơn vị và Nhà xuất bản Quân đội nhân dân đã giúp đỡ tận tình để cuốn sách được ra mắt Bạn đọc.


VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Chín, 2021, 07:11:41 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 06:48:36 am »

MỞ ĐẦU

Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng nằm trên bán đảo Đông Dương. Campuchia có diện tích 181.035 kilômét vuông; phía Tây và Tây Bắc giáp Vương quốc Thái Lan, phía Bắc giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, phía Nam tiếp giáp vịnh Thái Lan với bờ biển dài hơn 400 kilômét, phía Đông giáp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với đường biên giới chung dài khoảng gần 1.000 kilômét.

Campuchia là quốc gia có điều kiện khí hậu, đất đai rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nhất là các loại cây lương thực, cây ăn quả và cây công nghiệp; đồng thời có nhiều lâm sản quý, mỏ kim loại và các loại đá quý; nguồn nước ngọt và cá Biến Hồ khá dồi dào, góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước.

Campuchia là một quốc gia đa dân tộc với khoảng 13,5 triệu người (2005); bao gồm người Khơme, người Hoa, người Việt... Campuchia có hai tôn giáo lớn; Bà la môn và đạo Phật, với công trình kiến trúc Ăngco Thom và Ăngco Vát có nhiều chùa tháp, đền đài. Dân tộc Campuchia có nhiều tài năng sáng tạo không chỉ trong lao động sản xuất mà cả trong nghệ thuật kiến trúc.

Nhân dân Campuchia có nhiều nét tương đồng với nhân dân Việt Nam, đều cần cù lao động, yêu hoà bình và tự do, quá trình xây dựng đất nước đã xây đắp nên một nền văn hoá, nghệ thuật đẩy sức sống. Từ lâu giữa hai nước Việt Nam và Campuchia đã có quan hệ kinh tế, nhưng do đường giao thông đi lại khó khăn và là hai nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế còn nặng về tự cung tự cấp, nên giao lưu hàng hoá còn hạn chế. Từ giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đặt ách thống trị lên ba nước Đông Dương, bắt đầu khai thác thuộc địa để vơ vét tài nguyên, một số đường giao thông qua biên giới hai nước Việt Nam - Campuchia bắt đầu được xây dựng để vận chuyển, khai thác tài nguyên ở các nước trên bán đảo Đông Dương. Mặc dù có điều kiện tự nhiên để phát triển kinh tế và có nhiều lâm, thổ sản quý, các khoáng sản cần thiết cho công nghiệp, nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến, nền kinh tế của hai nước Việt Nam - Campuchia còn nghèo nàn, lạc hậu; đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.

Cùng chung một kẻ thù, cùng nguyện vọng đấu tranh giải phóng đất nước, nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia dễ đồng cảm và liên kết với nhau một cách tự nhiên để chống thực dân Pháp xâm lược. Trong những năm 1863-1888, các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long (Việt Nam) đã có sự liên kết nhất định với nhân dân ở phía Đông Campuchia. Nhiều đội nghĩa quân của hai nước hoạt động dọc biên giới Việt Nam - Campuchia như Trương Quyền... (Việt Nam), A Cha Xoa, Pô Kum Bô... (Campuchia) được nhân dân hai nước giúp đỡ đã gây cho thực dân Pháp một số thiệt hại. Tuy nhiên, những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Campuchia cuối thế kỷ XIX và các phong trào yêu nước của nhân dân hai nước đầu thế kỷ XX còn mang tính cục bộ, chưa kết thành phong trào rộng lớn, đặc biệt là thiếu một đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp với thời đại, nên chưa phát động được mọi tầng lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Trong lúc cách mạng Việt Nam, Campuchia và Lào đang lúng túng, bế tắc về đường lối, thì tháng 10 năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một thời kỳ mới trong phong trào cách mạng thế giới, thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ. Là người Việt Nam đầu tiên đến với Cách mạng Tháng Mười Nga, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá vào Đông Dương.

Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930, được sự ủy nhiệm của quốc tế cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (gồm Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ, Đông Dương Cộng sản liên đoàn ở Trung Kỳ) thành một Đảng Cộng sản duy nhất mang tên là Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 10 năm 1930 đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương). Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia ngày nay), đáp ứng nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân các nước Việt Nam, Campuchia, Lào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất (10-1930) phân tích: Ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào đều là thuộc địa của thực dân Pháp, ba dân tộc tuy khác nhau nhưng cùng chung một ách thống trị của thực dân, có quan hệ mật thiết với nhau về chính trị, kinh tế, địa lý; do đó, cần phải liên kết chặt chẽ với nhau, đoàn kết và thống nhất hoạt động chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngay sau khi thành lập, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương giao cho tổ chức Cộng sản các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ trách nhiệm giúp đỡ xây dựng cơ sở cách mạng, xây dựng chi bộ Đảng ở Campuchia và Lào. Đối với Campuchia, từ năm 1930 và những năm tiếp theo, Việt Nam đã giúp những người cách mạng Campuchia xây dựng các cơ sở quần chúng cách mạng, các chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên lần lượt được xây dựng ở Phnôm Pênh, Côngpông Chàm, Kanđan, Báttambang... Từ đây, bắt đầu hình thành liên minh chiến đấu giữa cách mạng ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào trên tinh thần quốc tế vô sản.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, cao trào cách mạng 1930-1931 ở Việt Nam, đỉnh cao là Xô-viết – Nghệ Tĩnh, đã gây tiếng vang lớn đối với Campuchia và Lào, khích lệ tinh thần đấu tranh chống ách thống trị của thực dân Pháp. Rút kinh nghiệm từ Xô-viết - Nghệ Tĩnh, những năm 1930-1933 và 1936-1939, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương hướng trọng tâm hoạt động sang xây dựng cơ sở quần chúng, nhất là cơ sở trong Việt kiều, phát triển chi bộ Đảng cả ở Campuchia và Lào. Nhờ vậy, đường dây liên lạc giữa Việt Nam, Campuchia và Lào duy trì thường xuyên, thông suốt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 06:51:25 am »

Từ cuối năm 1944, đầu năm 1945, cục diện Chiến tranh thế giới lần thứ hai chuyển biến rất mau lẹ với thắng lợi dồn dập của Liên Xô và phe Đồng minh. Trước tình hình quân Đồng minh sớm muộn sẽ vào, phát xít Nhật tiến hành đảo chính, hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ở Campuchia, sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật hất cẳng Pháp, đưa Sơn Ngọc Thành lên làm Bộ trưởng ngoại giao rồi làm Thủ tướng chính phủ thân Nhật. Vua Xihanúc chỉ biết xin Nhật hoàng sớm ban bố sắc dụ thừa nhận nền độc lập cho Campuchia như họ đã hứa sau ngày đảo chính. Trong khi đó, cơ sở tổ chức Đảng ở Campuchia đã bị khủng bố từ năm 1938, cuộc vận động yêu nước của Acha Hemchiêu cũng bị dẹp tan; vì vậy, khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh nhưng ở Campuchia không có một cuộc nổi dậy giành chính quyền như ở Việt Nam và Lào. Chính quyền Campuchia vẫn nằm trong tay vua Xihanúc và Thủ tướng Sơn Ngọc Thành.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp dựa vào quân Anh nổ súng tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một lần nữa. Tiếp đó, tháng 10 năm 1945, thực dân Pháp đưa quân từ Sài Gòn lên chiếm đóng vùng Đông Bắc Campuchia, hòng tạo bàn đạp đánh chiếm vùng Hạ Lào và phối hợp với cánh quân trên đường số 14 đánh chiếm Tây Nguyên.

Trước tình hình thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược ra các nước Đông Dương, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, trong đó chủ trương thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào, thành lập Bộ tư lệnh Lào - Miên (10-1946). Thực hiện chủ trương đó, Việt Nam đã giúp Campuchia phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp. Đầu năm 1946, một số nhân sĩ Campuchia tạm lánh sang Thái Lan, được sự giúp đỡ của lực lượng kháng chiến Việt kiều đã thành lập “Ủy ban dân tộc giải phóng Khơme”. Tuy nhiên, do thành phần trong ủy ban có những phần tử phức tạp, gây chia rẽ, đến năm 1949, ủy ban này tan rã. Một bộ phận tiên tiến trong “Ủy ban dân tộc giải phóng Khơme” đã kịp thời tách ra khỏi ủy ban này và tổ chức các cơ sở cách mạng trong nhân dân, xây dựng các khu căn cứ ở vùng Pailin, Báttambang. Một bộ phận khác tổ chức các nhóm vũ trang hoạt động trong các phum, sóc ở tỉnh Báttambang, miền Đông và miền Nam Campuchia. Từ năm 1947 trở đi, những người yêu nước Campuchia liên hệ mật thiết với lực lượng kháng chiến ở Nam Bộ (Việt Nam), thành lập các khu kháng chiến ở các vùng Đông Nam (1947), Đông Bắc, Tây Nam (1948). Từ những căn cứ kháng chiến này, sự đoàn kết chống thực dân Pháp giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia ngày càng được tăng cường và phát triển.

Thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về tăng cường phối hợp, đẩy mạnh kháng chiến, các khu 7, 8, 9 và Liên khu 5 điều động các đội vũ trang tuyên truyền và cán bộ lần lượt sang hoạt động, gây cơ sở ở nhiều vùng căn cứ của Campuchia. Tháng 9 năm 1948, Khu 8 phái một đơn vị thuộc Trung đoàn 115 sang vùng Đông Nam Campuchia tổ chức đường liên lạc nối liền vùng giải phóng các tỉnh Prâyveng, Kandan với vùng giải phóng hai tỉnh Tàkeo và Svâyriêng ở vùng Đông Bắc. Tháng 10 năm 1948, Khu 7 cử một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 305 sáp nhập với đơn vị Ítxarắc (tỉnh Svâyriêng) và một đại đội thuộc Trung đoàn 311 thành một đơn vị hỗn hợp Khơme - Việt Nam, mang tên Bộ đội Sivôtha, với khoảng 600 cán bộ, chiến sĩ. Bộ đội Sivôtha đã đánh một số trận ở Ba Thu, Ba Vệt, Sóc Dầm; kiểm soát đường số 1 từ Sài Gòn đi Phnôm Pênh. Cuối năm 1948, đội vũ trang tuyên truyền đầu tiên của Liên khu 5 sang giúp Bạn ở Đông Bắc tỉnh Krachiê. Ở vùng Tây Nam Campuchia, Khu 9 cũng lần lượt cử một số đơn vị sang phối hợp với Bạn xây dựng thành những đơn vị hỗn hợp Miên - Việt như hai đơn vị 302, 305 hoạt động ở tỉnh Campốt, đơn vị 632 ở tỉnh Tàkeo. Năm 1949, Khu 9 điều Trung đoàn 131 sang khu căn cứ vùng Tây Nam, giúp cách mạng Campuchia.

Để đẩy mạnh việc giúp đỡ cách mạng Campuchia, tháng 3 năm 1950, Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập Ban cán sự toàn Miên (Campuchia). Tiếp đó, Liên khu 5 đưa đội vũ trang tuyên truyền thứ hai sang giúp Bạn ở đông bắc tỉnh Stung Treng. Sau một thời gian, đội được Đặc ủy Việt kiểu tổ chức và chỉ đạo hoạt động ở Đông Bắc Côngpông Thom. Cuối năm 1950, Liên khu 5 đưa đội vũ trang tuyên truyền thứ ba sang tăng cường hoạt động ở vùng Đông Bắc Stung Treng. Nhờ vậy, phong trào kháng chiến của Campuchia từng bước phát triển, cơ sở mở rộng xuống các vùng đồng bằng đông dân, đường số 13, số 19. Sau đó, ta còn đưa một số đội vũ trang tuyên truyền sang hoạt động giúp Bạn kháng chiến.

Tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ II ra nghị quyết về các vấn đề quan trọng của cách mạng ba nước Đông Dương, trong đó nêu rõ: “Nhiệm vụ của cách mạng ba dân tộc nói chung vẫn là chống đế quốc nhưng cũng có nhiều điểm cụ thể khác nhau”(1). Đại hội xác định sẽ thành lập ở mỗi nước một chính đảng cách mạng riêng, phù hợp với hoàn cảnh từng nước để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở các nước Việt Nam, Campuchia và Lào được đẩy mạnh. Tháng 3 năm 1951, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Khơme yêu nước (Ítxarắc), Mặt trận Lào tự do họp, quyết định thành lập “Khối liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào” dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tương trợ, giúp đỡ nhau kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn.

Để đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, ngày 19 tháng 6 năm 1951, các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia được thống nhất với tên gọi Quân đội giải phóng Ítxarắc. Tiếp đó, ngày 28 tháng 6 năm 1951, Việt Nam giúp Bạn thành lập Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia (lúc đầu mang tên là Đảng Nhân dân Khơme)(2).


(1) Trường Chinh, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb Sự thật. H, 1975, tr.156.
(2) Đại hội lần thứ IV Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, diễn ra lừ ngày 26 đen ngày 29 tháng 5 năm 1981, đã quyết định lấy ngày 28 tháng 6 là ngày thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 06:53:47 am »

Theo yêu cầu của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, từ năm 1951, Việt Nam giúp Campuchia tổ chức Mặt trận Ítxarắc, từng bước xây dựng, mở rộng cơ sở ở nhiều nơi, xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập Chính phủ kháng chiến lâm thời. Trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp (1951-1954), Việt Nam đưa quân tình nguyện sang giúp Bạn kháng chiến. Quân đội giải phóng Ítxarắc đã kề vai sát cánh cùng với Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Đầu năm 1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Campuchia và Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta chủ trương đẩy mạnh tác chiến ở vùng Đông Bắc Campuchia để phối hợp với các chiến trường, nhất là chiến trường Tây Bắc Việt Nam và chiến trường Thượng Lào. Những ngày đầu tháng 4 năm 1954, Trung đoàn 101 (Đại đoàn bộ binh 325) cùng với đại đội 200 Quân tình nguyện Việt Nam ở Hạ Lào tiến xuống phối hợp với các lực lượng vũ trang ở vùng Đông Bắc Campuchia, mở cuộc tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên, giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn và một số thị xã (gồm 1/2 diện tích và 1/6 số dân cả nước Campuchia), góp phần đánh bại chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.

Thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Campuchia góp phần vào thắng lợi chung của nhân dân các nước Đông Dương. Đặc biệt, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam đã đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, thừa nhận nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào. Quân viễn chinh Pháp phải rút toàn bộ ra khỏi Đông Dương, chấm dứt chế độ thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ.

Sau Hiệp định Giơnevơ, hòa bình được lập lại trên đất nước Campuchia. Chính phủ Vương quốc Campuchia do Nôrôđôm Xihanúc làm Thủ tướng (từ năm 1960 là Quốc trưởng) tuyên bố đi theo con đường hòa bình, độc lập, trung lập. Sự lựa chọn này tạo thuận lợi cho việc duy trì và bảo vệ nền hòa bình trên bán đảo Đông Dương. Song, việc Campuchia đi theo con đường hòa bình, độc lập, trung lập đã khiến đế quốc Mỹ phải thực hiện âm mưu khác với Việt Nam và Lào: từ dùng sức ép chính trị, thông qua viện trợ kinh tế, quân sự đến dùng bạo lực lật đổ, can thiệp quân sự.

Ngày 18 tháng 3 năm 1970, đế quốc Mỹ đã hậu thuẫn Lon Non - Xirích Matắc, thành viên trong Chính phủ Vương quốc Campuchia, tiến hành đảo chính lật đổ Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc, thành lập chính phủ mới do Cheng Heng làm Quốc trưởng, Lon Non làm Thủ tướng. Ngày hôm sau, Chính phủ Mỹ tuyên bố công nhận Chính phủ Lon Non.

Cuộc đảo chính đã làm tăng mâu thuẫn cao độ giữa toàn thể nhân dân Campuchia với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai phản động. Chỉ 5 ngày sau khi nổ ra đảo chính, Chính phủ đoàn kết dân tộc Campuchia, Mặt trận thống nhất dân tộc và Quân đội giải phóng dân tộc Campuchia được thành lập. Ngày 29 tháng 3 năm 1970, tiếng súng chống Mỹ và tay sai bùng nổ ở tỉnh Tàkeo, mở đầu cuộc đấu tranh mới của nhân dân Campuchia.

Trước tình hình đế quốc Mỹ lật đổ Chính phủ Xihanúc, ngày 4 tháng 4 năm 1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi điện số 99 cho Trung ương Cục miền Nam, yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy. các chiến trường: “Nghiên cứu tổ chức, bố trí lại lực lượng cho thích hợp với tình hình mới, bảo đảm đẩy mạnh tiến công ở miền Nam, giúp cách mạng Campuchia có hiệu lực, vừa mạnh, vừa vững chắc, chủ động và lâu dài”(1).

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo, chỉ huy của Trung ương Cục, Quân ủy Miền và theo yêu cầu của Bạn, một số đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến công địch, giải phóng nhiều vùng nông thôn thuộc các tỉnh Krachiê, Tàkeo, Campốt.

Ngày 30 tháng 4 năm 1970, đế quốc Mỹ huy động 10 vạn quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn tiến công xâm lược Campuchia, đưa Campuchia vào quỹ đạo của Mỹ; đồng thời bao vây, uy hiếp cách mạng miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị ta quyết định cử một bộ phận Quân tình nguyện Việt Nam sang phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia chiến đấu chống Mỹ. Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và theo yêu cầu của Bạn, Cuối tháng 4 năm 1970, 4 sư đoàn bộ binh (1, 5, 7, 9), 2 trung đoàn bộ binh (24, 25), Trung đoàn pháo binh 211, tiểu đoàn đặc công Quân giải phóng miền Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở chiến dịch phản công ở vùng biên giới Việt Nam - Campuchia và các tỉnh Đông Bắc Campuchia nhằm đánh bại âm mưu và hành động của đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương. Sau hơn hai tháng chiến đấu (29-4 đến 30-6-1970), bộ đội ta và Bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu gồm 2 vạn tên, trong đó có hàng ngàn tên Mỹ(2); giải phóng 5 tỉnh vùng Đông Bắc Campuchia với hơn 4 triệu dân. Thắng lợi của chiến dịch phản công Đông Bắc Campuchia làm thất bại chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” của Học thuyết Níchxơn, buộc phần lớn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn phải rút khỏi Campuchia, tạo điều kiện xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh kháng chiến ở Campuchia.


(1) Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Điện số 99 gửi Trung ương Cục miền Nam (ngày 4-4-1970), lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
(2) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 11, Nxb CTQG, H, 2005, tr. 279. Theo tài liệu của Quân đội Sài Gòn, chiến dịch nảy có 7.450 tên ngụy, 2.765 tên Mỹ bị diệt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 06:59:33 am »

Trong năm 1970, ta và Bạn còn phối hợp chiến đấu đánh bại cuộc hành quân Chenla 1 (từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1970). Đặc biệt là, trong năm 1971, ta và Bạn mở 2 chiến dịch gồm: Chiến dịch phản công Đông Bắc Campuchia và chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Chenla 2. Trong chiến dịch phản công Đông Bắc Campuchia (từ ngày 4-2 đến ngày 31-5-1971), các đơn vị ta gồm 3 sư đoàn bộ binh (5, 7, 9); 2 trung đoàn pháo binh (75, 96Z), 1 trung đoàn đặc công, 3 đại đội bộ binh và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 1-71” của Mỹ - quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2 vạn tên(1), phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng, bảo vệ an toàn khu căn cứ hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam.

Trong chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Chenla 2 (27-10 đến 4-12-1971), các đơn vị ta gồm Sư đoàn bộ binh 9, bốn trung đoàn bộ binh độc lập (205, 207, 201, 203), Tiểu đoàn 32, Tiểu đoàn pháo binh 22 và lực lượng cách mạng Campuchia có hai tiểu đoàn cùng một số đại đội bộ đội địa phương tỉnh, du kích các phum đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên, thu nhiều vũ khí, đánh bại cuộc hành quân Chenla 2, tạo ra thế so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng Campuchia.

Những thắng lợi to lớn của lực lượng vũ trang ta và Bạn trên chiến trường Campuchia trong năm 1971 đã tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng Campuchia. Từ cuối năm 1971, thế và lực của cách mạng Campuchia phát triển vượt bậc, buộc quân đội Lon Non phải co về phòng ngự trong các thành phố, thị xã. Các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, được sự chi viện của Quân tình nguyện Việt Nam, tiếp tục tiến công quân đối phương trên khắp các mặt trận, bao vây Thủ đô Phnôm Pênh và các thành phố, thị xã, khống chế đường giao thông, đẩy quân ngụy Lon Non lâm vào tình thế bị cô lập.

Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ thúc ép quân Lon Non mở các cuộc hành quân lấn đất, chiếm dân, hòng mở rộng địa bàn chiếm đóng. Điển hình là tháng 2 năm 1972, chúng tập trung 15 tiểu đoàn quân ngụy Campuchia cùng 22 tiểu đoàn địa phương quân và Binh đoàn 9 mở cuộc hành quân mang mật danh Ăngco Chey đánh ra khu vực Ba Rài - Ăngco Vát. Theo yêu cầu của lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, tháng 7 năm 1972, Quân ủy Trung ương giao cho Bộ tư lệnh Miền thống nhất với Bạn mở chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Ăngco Chey. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 5 tiểu đoàn bộ binh thuộc Đoàn 203, Tiểu đoàn đặc công 28, Đoàn 1 pháo binh Miền; lực lượng vũ trang Campuchia có 5 tiểu đoàn bộ binh thuộc Đoàn 304, 1 đại đội trợ chiến, 6 đại đội độc lập. Sau 20 ngày phối hợp tiến công (từ ngày 8 đến 28-8-1972), lực lượng vũ trang ta và Bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu 487 tên, bắt 17 tên, phá hủy một số vũ khí trang bị, đánh bại cuộc hành quân Ăngco Chey, góp phần giữ vững vùng giải phóng Campuchia; đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long (từ ngày 10-6 đến 10-9-1972) thắng lợi.

Sang năm 1973, với việc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (27-1) về Việt Nam và ký Hiệp định Viêng Chăn (21-2) về Lào đã tạo ra bước ngoặt quan trọng trong so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng trên bán đảo Đông Dương. Phát huy thế thuận lợi, quân và dân Campuchia, được sự hỗ trợ tích cực và phối hợp chặt chẽ của Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục tiến công địch trên các mặt trận, giành thắng lợi lớn. Đến cuối năm 1973, vùng giải phóng Campuchia được mở rộng, chiếm 90% diện tích cả nước với 5 triệu dân. Với sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam, trong năm 1974, lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia lần lượt bẻ gãy các cuộc hành quân Menben Rum Chây, Đen-ta 28, Rôlut Xiêm Riệp của địch, sau đó bao vây thủ đô Phnôm Pênh.

Những tháng đầu năm 1975, thắng lợi liên tiếp của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 ở miền Nam đã tác động mạnh mẽ đến cách mạng Campuchia. Đứng trước thời cơ thuận lợi, từ ngày 14 đến 16 tháng 4 năm 1975, quân giải phóng Campuchia liên tục tiến công đánh chiếm nhiều vị trí trọng yếu của địch. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, quân giải phóng Campuchia tiến công làm chủ hoàn toàn Phnôm Pênh. Đến đây, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Campuchia kết thúc thắng lợi. Đây cũng là thắng lợi chung của tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân các nước Việt Nam, Campuchia và Lào.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã tạo thuận lợi cho nhân dân các nước Việt Nam, Campuchia và Lào xây dựng và phát triển đất nước. Bước sang thời kỳ cách mạng mới, Đảng ta tiếp tục chủ trương: Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và sự giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, làm cho ba nước vốn đã gắn bó với nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”(2).


(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, 60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, H, 2004, tr. 306, 316.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, H, 1977, tr. 178-179.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 07:00:04 am »

Thế nhưng, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Campuchia vừa giành thắng lợi, cũng là lúc cuộc cách mạng Campuchia bị phản bội. Tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari lợi dụng thành quả cách mạng Campuchia để thiết lập “Nhà nước Campuchia dân chủ”, thi hành đường lối đối nội, đối ngoại phản động. Về đối nội, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari dựng lên mô hình “Chủ nghĩa cộng sản độc đáo kiểu Campuchia”, xóa bỏ thành thị, chợ, tiền tệ, tôn giáo, trường học, văn hóa dân tộc; dồn dân thành thị về nông thôn, cưỡng bức lao động khổ sai trong các “công xã”; dùng nhiều thủ đoạn man rợ thủ tiêu tất cả những người chống đối. Về đối ngoại, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari kích động thù hằn dân tộc chống Việt Nam. Thực hiện âm mưu đó, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xan khước từ mọi nỗ lực ngoại giao hòa bình của Đảng và Nhà nước ta, ráo riết xây dựng lực lượng quân sự, chuẩn bị chiến tranh, đưa một lực lượng lớn quân đội áp sát biên giới Tây Nam Việt Nam, gây ra các vụ xung đột, lấn chiếm, làm cho tình hình biên giới Việt Nam - Campuchia ngày càng căng thẳng.

Ngay sau ngày quân và dân ta giải phóng miền Nam (30-4-1975), Pôn Pốt đã đưa quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc (3-5-1975), Thổ Chu (10-5-1975). Từ cuối năm 1975, đầu 1976, quân Pôn Pốt liên tiếp xâm phạm biên giới Việt Nam có hệ thống và quy mô ngày càng lớn. Tháng 3 năm 1977, Pôn Pốt cho quân lấn sâu vào nhiều nơi thuộc lãnh thổ Việt Nam trên tuyến biên giới dài gần 100 kilômét, từ Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang) đến Tịnh Biên (tỉnh An Giang). Lính Pôn Pốt gài chông, mìn, lựu đạn, bắt trâu bò, cướp dụng cụ sản xuất và tàn sát nhân dân ta. Đặc biệt nghiêm trọng là đêm 30 tháng 4 năm 1977, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari huy động lực lượng cỡ 2 trung đoàn và 2 tiểu đoàn bộ binh cùng lực lượng địa phương hai tỉnh Tàkeo, Kandan bất ngờ mở cuộc tiến công vào hầu hết các đồn công an nhân dân vũ trang Việt Nam dọc biên giới, từ Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương thuộc tỉnh An Giang, gây nhiều tội ác đối với nhân dân ta. Từ đây, số vụ gây chiến tranh xâm lược của quân đội Pôn Pốt trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta ngày càng tăng, từ 174 vụ năm 1975 và 254 vụ năm 1976, tăng lên 1.150 vụ năm 1977 và đến tháng 10 năm 1978 lên tới 4.820 vụ. Chúng đốt cháy hàng vạn ngôi nhà, hàng nghìn trâu, bò bị giết, hàng vạn héc ta ruộng bị bỏ hoang, đặc biệt là giết hại hàng vạn dân thường, trong đó phần lớn là cụ già, phụ nữ và trẻ em.

Hành động của quân Pôn Pốt không còn mang tính chất là những vụ xung đột quân sự vi phạm biên giới quy mô nhỏ, lẻ, mà đã phát triển thành một cuộc chiến tranh xâm lược. Cuối tháng 12 năm 1978, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tập trung 19 sư đoàn áp sát biên giới Campuchia - Việt Nam. Ngày 23 tháng 12 năm 1978, chúng huy động 10 trong số 19 sư đoàn đang bố trí ở biên giới mở cuộc tiến công toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương ra lệnh cho các đơn vị bộ đội ta tổng phản công, tiến công trên toàn tuyến biên giới, quyết tâm tiêu diệt quân địch, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam; đồng thời sẵn sàng các phương án hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia nổi dậy, đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, giành chính quyền về tay nhân dân.

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, quân và dân ta đã kiên quyết đánh trả, đẩy quân Pôn Pốt ra khỏi biên giới, hoàn thành thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam. Tiếp đó, theo yêu cầu của nhân dân và Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam đã cùng với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia tiến hành tổng tiến công, giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh (7-1-1979) và toàn bộ đất nước Campuchia (17-1-1979), cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, xây dựng và hồi sinh đất nước.

Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng, sớm có quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong lịch sử và mối quan hệ đó đã trở thành một truyền thống, một quy luật tồn tại và phát triển của hai nước. Từ nửa cuối thế kỷ XIX, hai dân tộc cùng sát cánh chống kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược. Đặc biệt, truyền thống đó được biểu hiện rõ nét qua những lần Việt Nam kịp thời đáp lời kêu gọi của cách mạng Campuchia, sẵn sàng đưa Quân tình nguyện sang giúp Bạn: lần đầu tiên sang phối hợp chiến đấu với Bạn chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954); lần thứ hai đưa Quân tình nguyện sang giúp Bạn trong kháng chiến chống Mỹ (1970-1975); lần thứ ba sang giúp cách mạng và nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ Pôn Pốt, giải phóng đất nước, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, xây dựng lại đất nước, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 07:04:20 am »

Chương I

QUÂN TÌNH NGUYỆN VÀ CHUYÊN GIA QUÂN SỰ VIỆT NAM
GIÚP CÁCH MẠNG CAMPUCHIA GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC
KHỎI CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
(1978-1980)

1. Quá trình hình thành các lực lượng vũ trang cách mạng và Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia chống chế độ diệt chủng Pôn Pốt.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ (17-4-1975), nhân dân Campuchia hy vọng sẽ được sống độc lập, hoà bình và hoà hợp dân tộc để xây dựng đất nước. Nhưng cách mạng Campuchia đã bị lực lượng Khơme đỏ, do tập đoàn Pôn Pốt(1) - Iêng Xari đứng đầu phản bội. Đây là giai đoạn lịch sử đặc biệt: Dân tộc Campuchia đứng trước thảm họa diệt chủng; đồng thời cũng hết sức khó khăn, phức tạp đối với các lực lượng yêu nước chân chính, nhất là lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia.

Sau khi thành lập Nhà nước Campuchia dân chủ, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đề ra mục tiêu phải xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, trong đó tập trung mọi nỗ lực, tự lực cánh sinh cao độ, thực hiện một cuộc cách mạng triệt để, từ 15 - 20 năm có nền công nghiệp hiện đại phục vụ trở lại nông nghiệp. Thực hiện mục tiêu đó, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari tổ chức lại đất nước, khai thác “thế mạnh nông nghiệp” của Campuchia và đề ra khẩu hiệu: “có lúa có tất cả”, “có lúa là có sắt thép”, “lúa là vàng, là nhà máy”. Để tập trung cho phát triển nông nghiệp, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari cho rằng những gì không phải là nông nghiệp, không có ích cho “phát triển kinh tế nông nghiệp”, trong đó có thành thị đều phải xoá bỏ triệt để. Thực hiện chủ trương đó, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã dồn dân thành phố về các vùng nông thôn, biến những người “không có ích cho nông nghiệp” thành những nông dân lao động trong các công xã. Cuộc dồn dân lần thứ nhất (diễn ra trong tháng 4 năm 1975) đã đẩy hơn 2 triệu dân Phnôm Pênh, hơn 200,000 dân ở Báttambang và hàng chục vạn dân ở các thị xã, thị trấn khác (khoảng gần nửa số dân của cả Campuchia) về các vùng nông thôn. Tháng 5 năm 1975, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari thực hiện tiếp đợt dồn dân thứ hai, xáo trộn dân trong toàn quốc, chuyển dân từ các tỉnh phía Nam và phía Đông về phía Tây Bắc nhằm tập trung nhân lực khai thác vùng này, loại trừ khả năng chống đối trong nhân dân.

Tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari thi hành nhiều chính sách rất thâm hiểm như: xoá bỏ thành thị, đóng cửa hàng loạt xí nghiệp, công xưởng, các trung tâm văn hoá, khoa học kỹ thuật ở thành phố. Thủ tiêu mọi hoạt động dịch vụ, đuổi hàng triệu người dân thành thị về các vùng nông thôn, rừng núi, buộc phải đi làm các công việc nặng nhọc trên đồng ruộng, trong rừng rú. Dồn dân ở nông thôn vào các “công xã”, cưỡng bức làm ăn chung theo kiểu trại lính, tước đoạt ruộng đất và mọi tư liệu sản xuất của nông dân, biến họ thành những xã viên công xã bị kìm kẹp, áp bức dưới chế độ “Ăngca”(2). Xoá bỏ tiền tệ, xoá bỏ lưu thông hàng hoá, cấm mua bán, đổi chác. Phá bỏ trường học, chùa chiền, nhà thờ, cấm các hoạt động tôn giáo.

Những chính sách tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari thực hiện đã gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với nhân dân Campuchia trên tất cả các lĩnh vực sản xuất đình đốn, 5.857 trường học, 796 bệnh viện, phòng thí nghiệm bị phá bỏ; 1.968 ngôi chùa, 108 đền thờ bị đập phá... Tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã gây ra sự xáo trộn lớn trong đời sống văn hoá, xã hội, làm đảo lộn các giá trị văn hoá truyền thống. Theo số liệu công bố tại kỳ họp lần thứ 5 Quốc hội khoá I nước Cộng hoà nhân dân Campuchia: Trong 3 năm 8 tháng 20 ngày cầm quyền, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã tàn sát 3.314.768 người; đưa đi mất tích gần 570.000 người, làm cho 141.848 người bị tàn phế, hơn 200.000 trẻ em bị mồ côi. Tội ác diệt chủng do tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari gây ra là “tai họa khủng khiếp, là tội ác diệt chủng chưa từng có trong lịch sử loài người”(3).

Đối với quân đội, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari dùng mọi thủ đoạn thanh trừng nội bộ. Nhiều cán bộ, chiến sĩ yêu nước, nhất là những người có quan hệ với Việt Nam bị cách chức, thanh trừng và sát hại, thay vào đó là những phần tử hẹp hòi, quân phiệt. Tháng 6 năm 1976, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari thanh trừng cán bộ quân sự (cán bộ chủ trì) trong Bộ chỉ huy miền Đông, bắt đưa đi thủ tiêu nhiều cán bộ từ cấp đại đội đến cấp sư đoàn, ở Sư đoàn 3, 60% cán bộ chủ chốt bị loại trừ. Tiếp đó, chúng tổ chức thanh trừng cán bộ Vùng 24 (Quân khu 203), chúng bắt 90% cán bộ từ cấp xã đến cấp vùng và 10 cán bộ từ cấp tiểu đoàn đến cấp sư đoàn của Sư đoàn 4 để thanh trừng. Tháng 7 năm 1977, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari mở cuộc thanh trừng cán bộ cao cấp trong quân đội Campuchia không theo chúng.

Những chính sách tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari thực hiện mang tính chất diệt chủng, đưa dân tộc Campuchia đứng trước thảm họa diệt vong, đồng thời cũng buộc những đảng viên, chiến sĩ cách mạng chân chính và những người yêu nước Campuchia phải vùng lên đấu tranh để cứu dân tộc, cứu nước cứu mình. Không cam chịu dưới chế độ thống trị tàn bạo của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, nhân dân Campuchia đã vùng lên đấu tranh với những hình thức và phương pháp khác nhau, từ các vụ chống đối lẻ tẻ ở một số khu, vùng, đơn vị quân đội, từng bước lan rộng ra nhiều nơi trong cả nước.


(1) Theo một số tài liệu nước ngoài thì Pôn Pốt sinh năm 1925 (cũng có tài liệu nói là 1928) tên thật là Xa Lôt Xa, xuất thân từ một gia đình quan lại có họ với vua. Năm 1947, Xa Lôt Xa học tại Pháp và gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1953 về nước, với danh nghĩa đảng viên Đảng Cộng sản Pháp xin gia nhập Đảng Nhân dân cách mạng Cao Miên (1954). Bằng nhiều thủ đoạn, Pôn Pốt từng bước nắm quyền lãnh đạo Đảng, đưa Đảng đi theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sau khi giành được chính quyền từ tay Lon Non, Pôn Pốt làm Thủ tướng. Bằng việc thi hành chính sách đuổi dân ra khỏi thành phố, biến họ thành những người nô lệ sông trong các “công xã” và buộc phải lao động kiệt sức trên đồng ruộng, biến binh lính thành những người chỉ biết phục tùng lệnh của “Ăngca”, Pôn Pốt và tập đoàn lãnh đạo do y đứng đầu đã gây ra họa diệt chủng ở Campuchia, gây chiến tranh biên giới chống Việt Nam, coi Việt Nam là kẻ thù số 1... Khi Phnôm Pênh được giải phóng (1-1979) Pôn Pốt chạy ra nước ngoài, tiếp tục chỉ đạo lực lượng Khơme đỏ chống lại chính quyền hợp pháp của nhân dân Campuchia.
(2) Theo tiếng Campuchia “Ăngca” là tổ chức thể hiện sự thần bí, quyền uy tối thượng bất khả xâm phạm. Thuật ngữ “Ăngca” xuất hiện lần đầu trên đài phát thanh của Pôn Pốt vào ngày 19 tháng 3 năm 1971. Sau ngày 17 tháng 4 năm 1975, thuật ngữ “Ăngca” xuất hiện trong hiến pháp của Campuchia dân chủ.
(3) Trường Chinh: Vấn đề Campuchia, Nxb Sự thật, H, 1979, tr. 11.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 07:07:55 am »

Từ năm 1975, trên địa bàn các tỉnh Đông Bắc Campuchia đã có các nhóm ly khai hoạt động chống lại chế độ Pôn Pốt. Nhân dân huyện Tà Veng (55A), huyện Vươn Sai (tỉnh Ráttanakiri), dưới sự lãnh đạo của đồng chí Bu Thoong và đồng chí Bun Mi, đã nổi lên chống lại chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari. Các đồng chí Bu Thoong, Bun Mi cùng đồng chí Thoong Bay (Huyện ủy viên huyện 52T), đồng chí Sươn Huyện ủy viên (huyện 55B), đồng chí Khăm Phun (Bí thư xã Vươn Sai) đứng ra vận động, tập hợp hơn 4.000 người, lựa chọn xây dựng được 5 trung đội vũ trang làm nòng cốt xây dựng căn cứ U-pứng, sát biên giới Việt Nam. Đồng chí Soi Keo được giao phụ trách 5 trung đội vũ trang công tác, cùng đồng chí Thoong Bay phụ trách các tổ chức quần chúng nhân dân đánh địch, bảo vệ căn cứ. Trước sự phát triển của phong trào ly khai ở các tỉnh Đông Bắc, Pôn Pốt - Iêng Xari đã huy động quân đội đàn áp. Để bảo toàn lực lượng, tháng 8 năm 1975, đồng chí Bun Mi triệu tập một cuộc họp bàn việc tổ chức cho nhiều cán bộ ly khai lánh sang hai nước Việt Nam và Lào. Đoàn sang Lào có 2.500 người, do các đồng chí Khum, Tương, Sươn phụ trách. Đoàn sang Việt Nam có 1.943 người của hai làng Kcho Buôn và Kcho Dươi, do hai đồng chí Bu Thoong và Thoong Bay phụ trách. Lực lượng còn lại do đồng chí Bun Mi chỉ huy, lập căn cứ ở Tàgiạc chống lại quân Pôn Pốt.

Sau khi sang Việt Nam (tháng 9 năm 1975), lực lượng ly khai của các tỉnh Đông Bắc Campuchia chuyển về Gia Bốc (tỉnh Gia Lai - Kon Tum). Được sự giúp đỡ của nhân dân tỉnh Gia Lai - Kon Tum, họ đã dần dần có cuộc sống ổn định, nhiều người trong số họ tích cực tham gia các đội vũ trang cách mạng, sẵn sàng trở về giải phóng quê hương.

Cùng với phong trào nổi dậy ở các tỉnh Đông Bắc, ở nhiều nơi khác, dưới sự lãnh đạo của những người yêu nước cách mạng, binh lính và quần chúng nhân dân Campuchia cũng liên tiếp đứng lên đấu tranh chống lại chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari và thu được một số kết quả. Tại thị xã Krachiê, ngày 24 tháng 3 năm 1976, lực lượng nổi dậy đã chiếm toàn bộ các cơ quan vùng đặc biệt Krachiê; kiểm soát toàn bộ đường sông, đường biển đến Krachiê. Một số cán bộ chính quyền của Pôn Pốt bỏ chạy, buộc Pôn Pốt phải điều lực lượng của Quân khu Tây Nam lên giải tỏa, lập lại chính quyền. Trong hai năm 1976-1977, phong trào nổi dậy không chỉ lan rộng ra nhiều địa bàn, thu hút các lực lượng tham gia, trong đó có nhiều cán bộ cao cấp: từ huyện đến vung, khu và cả Trung ương; có người là Bộ trưởng, Thứ trưởng, Bí thư Chủ tịch... Trong quân đội có cán bộ từ cấp sư đoàn xuống tới trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội đã bí mật tổ chức lực lượng đánh lại bọn Pôn Pốt. Tháng 4 năm 1976, Chakrey, Tư lệnh Sư đoàn 170 lên kế hoạch lật đổ chính quyền ở Phnôm Pênh. Nhiều cán bộ chỉ huy trung, cao cấp trong quân đội, cán bộ phụ trách các cơ quan trực thuộc Trung ương, một số cán bộ tỉnh ủy và đơn vị chủ lực cùng tham gia kế hoạch này bị mật vụ của Pôn Pốt phát hiện sát hại.

Sang năm 1978, khi tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đẩy mạnh chiến tranh xâm lược toàn tuyến biên giới Tây Nam Việt Nam, phong trào nổi dậy càng lan rộng trong cả nước Campuchia. Từ ngày 28 tháng 3 đến ngày 15 tháng 4 năm 1978 đã liên tiếp xảy ra các vụ nổi dậy của quần chúng và lực lượng vũ trang chống lại tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari. Điển hình là trận phục kích ngày 28 tháng 3, đánh vào đoàn xe của Sư đoàn 260 trên đường 14 (Srô Khơtum), diệt 10 tên lính Pôn Pốt, trong đó có tên tiểu đoàn trưởng; trận tập kích ngày 13 tháng 4 vào sở chỉ huy Sư đoàn 260, diệt 6 sĩ quan; trận đốt cháy kho lúa ngày 15 tháng 4 của Trung đoàn 93 (sư đoàn 920 Pôn Pốt).

Trước sự chống đối ngày càng tăng, ngày 19 tháng 4 năm 1978, tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari ra lệnh cho quân đội vây bắt lực lượng chống đối ở 4 huyện vùng 43 (Côngpông Thom). Quân Pôn Pốt đã bắt và sát hại nhiều người thân của những người chống đối để “ngăn chặn móc nối và tiếp tế”, không cho lan tràn sang các vùng khác. Những cuộc đàn áp dã man của quân Pôn Pốt đã gây nên sự bất bình, nghi kỵ lẫn nhau ngay trong hàng ngũ của chúng, dẫn đến nhiều nhóm ly khai ở các vùng 20, 21 ra đời. Các cuộc đấu tranh chống tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari ngày càng lan rộng, với quy mô lớn và được tổ chức chặt chẽ hơn.

Tháng 6 năm 1978, nhiều cuộc nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần chúng có sự chỉ huy thống nhất diễn ra trong một thời gian dài ở Quân khu Trung tâm, Quân khu Đông Bắc, Quân khu 203 và Vùng đặc biệt Krachiê. Chính quyền Pôn Pốt tập trung lực lượng quân đội (kể cả những đơn vị thuộc các sư đoàn đang tác chiến ở biên giới) về đàn áp phong trào đấu tranh của binh lính và nhân dân. Chúng tiến hành những đợt lùng quét, thanh trừng lớn trong nội bộ, nhất là trong lực lượng vũ trang đang đóng quân ở các địa bàn biên giới vì lo sợ các lực lượng này chạy sang phía Việt Nam. Bè lũ Pôn Pốt nêu khẩu hiệu “Tiêu diệt tất cả mầm mống của lực lượng chống đối để ổn định nội bộ, dù phải diệt thêm 1 triệu người Campuchia cũng kiên quyết làm”, “giết nhầm 1 kẻ vô tội còn hơn để sót 1 kẻ chống đối”(1). Chúng nhận xét: “Dân ở Quân khu Đông là dân thân Việt Nam nên phải giết, chỉ để lại những ai thực sự trung thành với chế độ”(2)... Do các cuộc thanh trừng tràn lan, nhiều đơn vị quân đội Pôn Pốt bị xáo trộn, mâu thuẫn nội bộ ngày càng gay gắt, tinh thần binh lính hoang mang, sa sút, nhiều người đào ngũ, hoặc trốn vào rừng tìm đến các căn cứ của lực lượng cách mạng Campuchia. Nhằm ly gián lực lượng chống đối, không cho họ liên kết với nhau và móc nối với Việt Nam, bè lũ Pôn Pốt còn dùng chính sách xáo trộn dân vùng này sang vùng khác, dồn dân vào sâu trong nội địa; mặt khác chúng cũng sử dụng các thủ đoạn lừa bịp mị dân như tuyên bố chấm dứt việc phân loại xã viên, hoan nghênh những ai từ nước ngoài trở về...


(1), (2) Tình hình Campuchia, tư liệu lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 82, ĐVBQ 2316, tr. 134.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2021, 07:11:17 am »

Trong khi các lực lượng trong nước nổi dậy chống chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari, một bộ phận khác gồm lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia đã nhanh chóng chuyển sang nhiều vùng biên giới Tây Nam Việt Nam để tránh khỏi tổn thất do các cuộc đàn áp của quân Pôn Pốt gây ra. Ngay khi các cuộc đấu tranh của nhân dân Campuchia bùng nổ, ta đã tận tình giúp đỡ nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia. Ban đầu, hơn 10 vạn người Campuchia(1), trong đó có nhiều cán bộ, đảng viên, lần lượt trốn sang Việt Nam, ta thuyết phục một số trỏ về. Nhưng khi họ vừa về qua khỏi biên giới liền bị quân Pôn Pốt giết hết. Trước tình hình đó, ta chuyển bộ phận còn lại vào sâu trong nội địa ta; lựa chọn trong số họ những người có trình độ để bồi dưỡng, huấn luyện trở thành cốt cán cho cách mạng Campuchia. Đối với lực lượng nổi dậy còn trụ lại ở trong nước, ta tìm cách móc nối, giúp đỡ họ và từng bước phối hợp đấu tranh chống Pôn Pốt.

Từ năm 1977, trước tình hình người Campuchia bị tập đoàn cầm quyền Pôn Pốt - Iêng Xari truy bức phải bỏ quê hương sang Việt Nam lánh nạn ngày càng nhiều, theo yêu cầu của lực lượng cách mạng Campuchia, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng Việt Nam giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân khu 7 thành lập một đơn vị (tương đương cấp tiểu đoàn) làm nhiệm vụ giúp đỡ những người Campuchia chạy lánh nạn sang Việt Nam.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 7 tháng 9 năm 1977, Tư lệnh Quân khu 7 ra Quyết định số 113/QĐ-77, thành lập khung tiếp nhận cán bộ, chiến sĩ Campuchia, lấy phiên hiệu là Đoàn 977(2). Đoàn 977 trực thuộc Cục Chính trị Quân khu; có nhiệm vụ tiếp đón, giúp đỡ Bạn về nơi ăn ở. Ban đầu, lực lượng Bạn chỉ có hơn 50 người, sau phát triển lên hàng trăm. Qua tuyển chọn, huấn luyện, lực lượng Bạn từng bước tổ chức thành các khung trung đội, đại đội.

Trong những tháng cuối năm 1977, đầu năm 1978, cùng với việc tiếp tục thanh trừng nội bộ, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã mở nhiều cuộc tiến công sang biên giới Việt Nam. Tiền phương Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ thị cho Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và lực lượng vũ trang Quân khu 7 kiên quyết phản công và tiến công, đẩy địch về bên kia biên giới. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các đơn vị trinh sát của ta bắt liên lạc được với một số tổ chức cách mạng của Campuchia. Thông qua tổ chức này, ta giúp đỡ nhiều người dân Campuchia bị tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari xua đuổi đang lẩn trốn trong rừng, đưa họ về các khu tạm cư, tổ chức cứu đói, cứu chữa bệnh tật, giúp dân ổn định cuộc sống.

Trước nguy cơ cả dân tộc Campuchia bị diệt chủng do chế độ Pôn Pốt - Iêng Xari tiến hành hàng loạt cuộc thanh trừng nội bộ diễn ra ngày càng tàn bạo, những người cách mạng chân chính Campuchia tha thiết đề nghị Việt Nam giúp nhân dân Campuchia đánh đổ tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari. Với quan điểm “Cách mạng Campuchia phải là sự nghiệp của chính nhân dân Campuchia, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari chỉ có thể bị đánh đổ bởi lực lượng chính trị và quân sự của nhân dân Campuchia”, Đảng ta chủ trương giúp Bạn và tổ chức công tác chuyên gia giúp Bạn xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang để phối hợp chiến đấu. Ngày 21 tháng 4 năm 1978, Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 34/QĐ-QU thành lập Ban phụ trách công tác Z (Campuchia), lấy bí danh là Ban 10, do đồng chí Trần Văn Quang, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng tham mưu trưởng làm Trưởng ban; các đồng chí Trần Văn Phác, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Đan Thành, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần làm Ủy viên. Ban 10 có nhiệm vụ:

1. Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Thường vụ Quân ủy Trung ương về công tác đối với cách mạng Campuchia, tiến hành tổ chức, quản lý, giáo dục những anh em Campuchia có điều kiện về chính trị, sức khoẻ trở thành lực lượng vũ trang cách mạng và những người có ích cho sự nghiệp cách mạng Campuchia và cho tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

2. Nghiên cứu đề xuất với Quân ủy Trung ương phương hướng, kế hoạch công tác giúp đỡ lực lượng Campuchia thực hiện nhiệm vụ.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, Ban 10 được phép tổ chức một cơ quan giúp việc (với danh nghĩa là một đoàn, mang phiên hiệu Đoàn 478), gồm các cán bộ cao cấp, trung cấp phụ trách công tác huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị và bảo đảm hậu cần. Quân ủy Trung ương yêu cầu Đoàn chuyên gia 478 phải thực hiện nghiêm chỉnh phương châm tôn trọng độc lập chủ quyền của Bạn, đoàn kết hữu nghị, chống tư tưởng nước lớn, chống thái độ tự cao, thiếu khiêm tốn, thiếu tin tưởng ở Bạn. Phải để cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của Bạn. Trong từng giai đoạn, tùy tình hình cụ thể mà có cách giúp Bạn thích hợp về chủ trương, kế hoạch, đồng thời cùng Bạn tổ chức thực hiện tốt công việc sau khi bàn bạc nhất trí. Trong quá trình công tác giúp Bạn, chuyên gia phải phát huy tính tích cực, chủ động, nhưng cũng phải hết sức kiên trì, không gò ép, áp đặt ý kiến của mình cho Bạn; chống bao biện, làm thay. Phải xuất phát từ đặc điểm của cách mạng Campuchia mà vận dụng kinh nghiệm của Việt Nam, chống giáo điều, rập khuôn, máy móc. Phải nhạy bén, linh hoạt và chủ động giúp Bạn, hết sức cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn của địch tìm cách phá hoại và chia rẽ cách mạng hai nước. Nắm vững nội dung và yêu cầu giúp Bạn trong từng thời kỳ, trong từng vấn đề, từng mặt công tác, trong đó tập trung giúp Bạn về đào tạo đội ngũ cán bộ.


(1) Tình hình Campuchia, tư liệu lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, phông 82, ĐVBQ 2316, tr. 132.
(2) Cán bộ Đoàn 977 chủ yếu từ Đoàn 500 của Quân khu 7 vừa giải thể chuyển sang.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM