Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:29:20 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Miền sóng vỗ - Phó đô đốc Mai Xuân Vĩnh  (Đọc 4063 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 02 Tháng Chín, 2021, 09:09:33 am »

Tên sách: Miền sóng vỗ
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2011
Số hóa: macbupda




CÙNG BẠN ĐỌC!

Sinh trưởng ở một vùng quê giàu truyền thống yêu nước và đấu tranh chống ngoại xâm, lớp thanh niên chúng tôi ngày ấy được đắm mình trong hào khí Cần Vương hừng hực kháng Pháp của ông cha thuở trước. Nợ nước, thù nhà đã khiến tôi “xếp bút nghiên” lên đường và trở thành chiến sĩ của Trung đoàn 18, về sau là Trung đoàn 101 - Trần Cao Vân, thuộc Đại đoàn 325 danh tiếng.

Được trui rèn qua những trận đánh khốc liệt, những chiến dịch hết sức cam go trên chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, chiến trường Lào và vùng đông bắc Campuchia đầy gian khổ, tôi từng bước, trưởng thành và có thêm kinh nghiệm trận mạc. Hơn 40 năm liên tục gắn bó với biển, đảo, có thể nói Hải quân chính là máu thịt và là cuộc đời tôi với tất cả tình yêu thương, gắn bó tâm huyết.

Trải qua rèn luyện và thử thách, tôi lần lượt được cấp trên tin cậy giao đảm trách nhiều cương vị công tác khác nhau. Từ đơn vị chiến đấu cơ sở đến cơ quan tác chiến và lần lượt Phó tham mưu trưởng, Phó tư lệnh Tham mưu trưởng, đến Tư lệnh Quân chủng Hải quân, tôi được chứng kiến nhiều sự kiện với đầy ắp những kỷ niệm. Đọng lại trong tôi vẫn là ân tình sâu nặng đối với Đảng, với cách mạng, với quân đội và với nhân dân.

Suốt nửa thế kỷ làm lính Cụ Hồ, trở về với đời thường sau nhiều trăn trở, tôi quyết định ghi lại đôi điều suy ngẫm của mình về những tháng năm cầm súng đánh giặc. Trước hết là để con cháu trong gia đình tự hào về truyền thống của cha ông và quan trọng hơn là thấu hiểu được giá trị của độc lập, tự do. Qua cuốn sách nhỏ này, tôi muốn chia sẻ cùng các thế hệ kế tiếp về một khát vọng cháy bỏng là xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam hùng mạnh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thân yêu của Tổ quốc ta.

Cảm ơn Đại tá Nhà văn Nguyễn Minh Ngọc, người đã nhiệt tình dành thời gian giúp tôi thể hiện ý tưởng, hoàn thiện và nâng cao chất lượng bản thảo. Xin cảm ơn các đồng chí, đồng đội và bầu bạn xa gần cùng người thân trong gia đình đã động viên, khích lệ tôi thực hiện cuốn hồi ký “Miền sóng vỗ” này.

Độ lùi về thời gian cho phép ta nhìn rõ hơn và đánh giá khách quan hơn về các sự kiện xảy ra trong quá khứ. Tuy nhiên, trí nhớ của con người có giới hạn vì vậy chắc khó tránh khỏi khiếm khuyết. Rất mong đồng chí, đồng đội và bạn đọc lượng thứ.

Phó Đô đốc MAI XUÂN VĨNH
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2021, 09:10:35 am »

Chương một

QUÊ HƯƠNG VÀ TUỔI THƠ

Quê tôi ở làng Thọ Linh Thượng, tổng Thuận Thị, phủ Quảng Trạch, nay là thôn Thọ Linh, xã Quảng Sơn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Tôi được sinh vào ngày 15 tháng 4 năm 1930, nhằm ngày 17 tháng 3 năm Canh Ngọ. Vậy nhưng khi tôi bắt đầu cắp sách đi học, không hiểu ai đã ghi ngày sinh là 15 tháng 4 năm 1931, chắc là có sự nhầm lẫn, bởi bác tôi, bà Mai Thị Nha khẳng định tôi sinh năm Canh Ngọ.

Cha tôi tên là Mai Xuân Húc (1901-1977) con trai trưởng của ông Mai Xuân Đóa (1871-1946) và bà Phan Thị Phờn (1880-1944). Mẹ tôi, bà Trần Thị Chạt (1904-1947) là con gái út của ông Trần Đình Phấn (1863-1947) và bà Phạm Thị Oanh (1864-1927). Ông bà ngoại tôi đều là người cùng quê. Mẹ tôi bảy lần sinh con (có hai lần sinh đôi) nhưng chỉ nuôi lớn được năm người: anh Mai Xuân Thia (1923-1980) và tôi, Mai Xuân Vĩnh rồi đến các em gái Mai Thị Liên (1935), Mai Thị Mẫn (1940), Mai Thị Me (1944), Mai Thị Quy (1946-1947). Còn các em khác mất khi chưa đầy tháng.

Mẹ kế tôi là bà Trần Thị Nhỏ (1913-1983) là con gái thứ hai của ông Trần Ngọc Tía và bà Đinh Thị Nga, người cùng quê. Bà sinh được ba người em là: Mai Xuân Quế (1950), Mai Thị Hoa (1953-1964), Mai Thị Thơm (1956).

Thủy tổ dòng họ Mai ở làng Thọ Linh của tôi là cụ Mai Phúc Khánh, quê gốc ở xã Trung Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam (xã Kiến Hưng, thị xã Hà Đông, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội), ông là người thông minh, hiểu biết rộng, tính tình cương trực, có chí lớn. Dưới thời vua Lê Thái Tông (1460-1497) ông được triều đình giao cầm đầu một đạo quân vào Nam đánh dẹp quân phiến loạn Chămpa ở Ô Châu (nam Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế ngày nay).

Vâng mệnh triều đình, ông lo rèn tập quân binh, tích cực chuẩn bị quân lương và khí giới, thực hiện cuộc trường chinh hàng nghìn dặm, vượt qua nhiều vùng miền bây giờ còn chưa kịp khai phá. Với công trạng đánh dẹp quân giặc, vỗ về yên dân, ông Mai Phúc Khánh được vua phong tước “Tham Nghị Trác Lộc Nam”. Sau khi giành thắng lợi, triều đình cho ông lui quân về Bắc. Khi hành quân ra đến tây nam huyện Quảng Trạch, Quảng Bình ngày nay, thấy vùng đất dưới chân núi Ngùi bên dòng sông Rào Nan (một nhánh của sông Gianh) phong cảnh sơn thủy hữu tình, địa thổ phì nhiêu chưa có ai khai phá, ông bèn vận động thân binh tùy thuộc (được triều đình cho phép) ở lại đây khai phá thành ruộng vườn, định cư lập nghiệp lâu dài.

Ông Mai Phúc Khánh đề xuất, phương án định hướng “Kiến dĩ Ngùi sơn phát tích” (xuất phát từ núi Ngùi sẽ làm nên sự tích), vạch kế cho dân làm ăn. Vào khoảng năm 1473, sau một thời gian khai phá, sản xuất có kết quả, nơi ăn chốn ở ổn định, ông đề xuất và được người dân đồng tình lập ấp, đặt tên làng là Kim Linh. Như vậy, họ Mai là một trong những dòng họ có công đầu khai sơn phá thạch lập nghiệp ở vùng đất này.

Đến đời vua Minh Mạng năm thứ tư (1823) thấy tên làng mang chữ Kim là phạm húy Đức Thủy tổ Cao hoàng nhà Nguyễn (Nguyễn Kim) nên buộc làng Kim Linh phải đổi tên thành Thọ Linh (tên làng Kim Linh, Thọ Linh tồn tại đến nay trên 530 năm).

Ông thủy tổ Mai Phúc Khánh sinh và mất vào khoảng năm 1440-1504. Mộ ông hiện được an táng tại nghĩa trang dòng họ Mai ở Hà Sơn, Thọ Linh, xã Quảng Sơn, Quảng Trạch, Quảng Bình.

Hơn 400 năm sau khi ông Mai Phúc Khánh qua đời, vua Khải Định (1916-1925) xét thấy công lao của ông ngay từ buổi đầu khai khẩn, đặt nền móng lập làng xã, tạo cuộc sống cho dân bền vững và phát triển nên đã truy phong cho ông tước “Đại lang Dực bảo Trung hưng, Trung đẳng Linh phù Tôn thần”.

Tôi thuộc hàng hậu duệ đời thứ 15 của dòng họ Mai và là chắt nội của ông Mai Lượng (1838-1890) tục gọi Lãnh Mai (đời thứ 12). Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo có truyền thống hiếu học, mặc dù sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, nhưng ông Mai Lượng được người anh ruột là Mai Thức nuôi dạy và cho ăn học. Là người có tư chất thông minh, lại giàu ý chí và nghị lực, nên từ thuở thiếu thời, ông đã được nhiều người yêu mến.

Cùng với việc dùi mài kinh sử, ông Mai Lượng thường xuyên luyện tập võ nghệ cùng trai tráng trong làng. Trong khoa thi Hội võ năm Ất Sửu (1865), dưới triều vua Tự Đức, ông đỗ Cử nhân võ và được triều đình sung vào quân ngũ, được phong chức Hiệp quản. Ông Mai Lượng được bổ dụng chỉ huy một đơn vị trấn giữ ở Đèo Ngang. Tại đây, ngoài việc quân cơ, ông còn vỗ về dân chúng, chăm lo giúp dân khai hoang, đào kênh dẫn nước vào ruộng. Người dân trong vùng rất cảm phục và ghi nhớ công ơn của ông Lãnh Mai.

Sau đó, ông Mai Lượng được cử vào Đồng Hới để chỉ huy quân triều đình tại Quảng Bình. Khi phái chủ hòa hèn nhát trong triều đình Huế ký hiệp ước đầu hàng giặc Pháp (Hiệp ước Patenotre, 6-6-1884), với tinh thần yêu nước và ý thức độc lập dân tộc, ông vô cùng căm phẫn hành động xâm lược của thực dân Pháp và thái độ đầu hàng bán nước của triều đình. Với bản tính cương trực, ông chán ngấy trước thời cuộc nên đã từ quan về quê ở ẩn, kiên quyết bất hợp tác với những kẻ cam tâm bán nước cho ngoại bang.

Sau “sự biến kinh thành Huế”, ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Tân Sở, Quảng Trị, xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân dân đứng lên chống thực dân Pháp, cứu nước. Khi xa giá vua Hàm Nghi ra đến Quảng Bình, sẵn nung nấu lòng căm thù giặc, ông Mai Lượng đã đến yết kiến Sơn Triều (triều đình vua Hàm Nghi). Vốn là một võ quan của triều đình Huế, ông được vua Hàm Nghi phong chức Lãnh binh, sát cánh với những người khác phò tá nhà vua chống giặc. Từ đó, nhân dân trong vùng thường gọi tên ông là Lãnh Mai.

Nhận lãnh sứ mệnh của Sơn Triều giao phó, ông trở về quê nhà chiêu mộ dân binh và nghĩa dũng, tập hợp lực lượng kháng chiến tại địa bàn thuộc hữu ngạn sông Gianh. Căn cứ của nghĩa quân Mai Lượng trải dài từ Cao Mại, thượng nguồn sông Rào Nan (nay thuộc xã Cao Quảng, huyện Tuyên Hóa) đến vùng Troóc (vùng núi phía tây huyện Bố Trạch, nay thuộc xã Phúc Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình).

Nghĩa quân Mai Lượng có đến hàng ngàn người, được tổ chức thành đội ngũ chặt chẽ, phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Phạm Tuân, Lê Trực, ông Tham La Hà,... tạo thành một phong trào kháng chiến rộng lớn trên đất Quảng Bình. Địa bàn hoạt động và kiểm soát của nghĩa quân trải rộng vùng giáp ranh ba huyện: Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa của tỉnh Quảng Bình. Nghĩa quân Mai Lượng thường sử dụng lối đánh du kích, phục kích, khi xung trận thì rất dũng mãnh và mưu trí. Dưới sự chỉ huy của Lãnh Mai, nghĩa quân đánh thắng nhiều trận, gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất và khiến chúng khiếp sợ.

Tại căn cứ, ông vừa luyện quân, vừa rèn đúc vũ khí kết hợp tăng gia sản xuất lương thực để chiến đấu lâu dài. Đến nay, ở vùng núi Cây Chanh - Cao Mại vẫn còn lưu lại dấu tích đồn trại, dấu tích lò rèn đúc vũ khí và những cây chè, cây mít đại thụ.

Sau khi vua Hàm Nghi bị giặc bắt (1-11-1888), mặc dù “lãnh tụ tinh thần” không còn nữa, trong thế bị địch dồn ép, bao vây cô lập, gặp muôn vàn khó khăn, nhưng nghĩa quân Mai Lượng vẫn không nản chí, vẫn tiếp tục chiến đấu đến cùng.

Giữa lúc nghĩa quân đang dồn sức chống lại sự tấn công của địch thì ngày 12 tháng 5 năm 1890 (tức 24-3 năm Canh Dần) Lãnh Mai mất vì bệnh sốt rét ác tính tại căn cứ Cao Mại, lúc vừa tròn 53 tuổi. Thi hài ông được nghĩa quân mai táng rất kín trong rừng để tránh sự trả thù của giặc. Sau này hài cốt của ông được gia đình và bà con đưa về an táng tại quê nhà.

Tuy Lãnh binh Mai Lượng qua đời cùng với việc nghĩa quân tan rã, nhưng ý chí kiên cường chống giặc cứu nước và lòng yêu nước thương nòi của ông đã để lại trong lịch sử dân tộc một tình cảm, một nét son sâu đậm. Nhiều tác phẩm thơ ca, hò vè, cùng một số công trình nghiên cứu lịch sử đã chủ tâm ghi lại cuộc đời chiến đấu bi hùng của ông.

Lăng mộ ông Mai Lượng tại khu vực Sủm Mặc (Hà Sơn) nằm bên hữu ngạn sông Rào Nan, đã được Nhà nước tôn tạo. Riêng nhà bia tưởng niệm Lãnh binh Mai Lượng được đặt trên nền nhà xưa, nơi ông được sinh ra và lớn lên tại làng Thọ Linh, xã Quảng Sơn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Do có nhiều công lao đối với đất nước, mộ ông Mai Lượng được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận “Di tích Lịch sử - Văn hóa” cấp quốc gia ngày 24 tháng 1 năm 1998.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2021, 09:11:21 am »

*
*   *

Xã Quảng Sơn quê tôi là vùng bán sơn địa, tựa lưng vào dãy Trường Sơn, phong cảnh sơn thủy hữu tình, non xanh, nước biếc. Quả thật, tổ tiên, ông cha ngày xưa chọn nơi đây để khai phá sản xuất, lập làng định cư lâu dài là có một tầm nhìn sâu rộng, để lại phúc đức cho con cháu mãi mãi về sau phát triển.

Dòng sông Rào Nan trong xanh giàu tôm cá, thuận tiện cho giao thông đường thủy và cho tưới tiêu phục vụ sản xuất cả vùng phía nam huyện Quảng Trạch, đồng thời làm dịu bớt cái nắng hè oi bức. Ôm lấy xóm làng là những cánh đồng rộng, quanh năm lúa mượt mà xanh tốt. Ven bờ Rào Nan là những rặng tre kéo dài gần chục cây số như bức trường thành chắn gió, chống xói lở bờ sông. Đây là một nguồn lợi đáng kể. Rừng quê tôi giàu lâm thổ sản, từng là nguồn sống của người dân ngay từ buổi đầu khai thiên lập địa. Rừng điều hòa khí hậu, duy trì nguồn nước sinh sống và sản xuất. Vùng rừng phía nam huyện Quảng Trạch vừa là chỗ dựa, là nơi che chắn cho nghĩa binh chiến đấu chống thực dân Pháp, thời cần Vương (1885-1890), cũng như trong cuộc kháng chống Pháp (1947-1954) và chống đế quốc Mỹ xâm lược (1964- 1975) sau này, góp phần giải phóng quê hương và thống nhất đất nước.

Cách nay gần một thế kỷ, thời kỳ khó khăn nhưng nơi đây đã có trường học công, có chợ, cảnh trên bến dưới thuyền tấp nập. Người dân quê tôi sống bằng nghề làm ruộng và khai thác lâm sản: mây, tre, nứa, lá. Mặc dù được thiên nhiên ưu đãi nhưng dưới thời phong kiến, đế quốc và những năm chiến tranh, bà con vẫn sống trong cảnh lam lũ, gieo neo. Cho đến tận bây giờ, cuộc sống đã có phần khởi sắc nhưng vùng quê này vẫn chưa thoát nghèo. Dù ở trong hoàn cảnh nào, họ vẫn sẵn sàng hy sinh đánh giặc, giữ nước và cần cù lao động xây dựng quê hương.

Dẫu còn nghèo nhưng trải qua các thời kỳ, nhất là từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, mảnh đất địa linh nhân kiệt này đã sản sinh ra nhiều người con trung hiếu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của dân, của nước giao cho.

Tôi là kẻ hậu sinh nhưng cùng với anh chị em cùng trang lứa chịu ảnh hưởng của truyền thống cha ông và thừa hưởng thành quả của quê hương. Lên bảy tuổi, tôi được học ở trường làng, trường tiểu học Thọ Linh mang tên “École Primaire Complémentaire de Thọ Linh”. Đây là một trong ba trường được mở ở huyện Quảng Trạch lúc bấy giờ, lần lượt từ thấp lên cao, từ một đến hai lớp lúc đầu cho đến khi hoàn chỉnh sáu lớp (1921-1927). Nhờ có trường học ở gần nhà, nên phần đông thiếu niên trong làng và các địa phương lân cận may mắn thoát được cảnh mù chữ, nhiều người biết đọc, biết viết.

Thuở đi học trường làng, học lực của tôi không đến nỗi nào nhưng do tính hiếu động và tinh nghịch nên tôi thường bị thầy quở phạt về “hạnh kiểm”. Một lần giữa giờ ra chơi, tôi cùng đám bạn học chia phe đánh giặc giả, công kênh nhau trên “ngựa chiến” hò hét “tấn công” làm náo loạn cả sân trường. Chỉ là trò chơi ham thích của trẻ hiếu động nhưng thầy Để - một ông thầy có “đức” hay dạy học trò bằng roi vọt lại không nghĩ vậy. Cho rằng các trò gây lộn và đánh nhau nên ông bèn gọi cả đám nghịch ngợm vào lớp và dùng cây roi mây dài hai thước quất chúng tôi túi bụi. Vệt roi mây bầm tím hằn trên lưng, mông tôi và lũ bạn đến gần nửa tháng sau vẫn chưa hết.

Lần khác vào ngày chủ nhật, tôi thơ thẩn chơi bên ngoài hàng rào của nhà trường. Ngó thấy mấy đứa con thầy Hoài hiệu trưởng đang chơi trong sân trường, thích quá tôi xin vào cùng chơi nhưng bọn này cự tuyệt không cho. Bực mình, tôi cố leo qua hàng rào và nói với chúng:

- Trường của làng, chứ trường chi của đứa nào. Bọn mi chơi được, tao cũng chơi được.

Mấy đứa con ông thầy Hoài cậy thế xúm lại xô tôi ra, tôi liền vung nắm đấm tự vệ. Bọn này bỏ chạy, vừa chạy vừa khóc về mách lại với thầy Hoài. Hôm sau thầy đến mách lại với ông nội tôi, thế là tôi bị mắng đe một lần nữa.

Năm lớp 3, trong giờ học toán, ông thầy Điềm giải mẫu một bài toán đố. Thầy vừa giải xong, tôi liền đứng dậy xin thầy cho lên bảng trình bày một cách giải khác ngắn gọn hơn. Thầy công nhận nhưng vẻ mặt thầy không vui. Đến giờ ra chơi, anh Trần Đình Điếng ghé tai nói nhỏ với tôi:

- Răng mi to gan rứa! Chẳng khác chi mi dám cãi lại thầy. Không sợ thầy quở ạ?

Nghe anh Điếng nói vậy, tôi cũng sợ, nhưng lỡ dại rồi biết làm sao? Chỉ biết rằng về sau thầy luôn nhìn tôi không mấy cảm tình.

Tôi rất mê các môn thể thao như đá bóng và bơi lội. Năm 13 tuổi, tôi được các anh lớn cho sung vào đội bóng làng Thọ Linh để thi đấu với đội bóng của các làng lân cận. Mê bóng đến nỗi buổi chiều đang chăn bò ngoài đồng nhưng hễ nghe tiếng trái bóng bình bịch là bằng mọi cách tôi dắt bò về chuồng để chạy ra sân vận động “đá hôi” vài lần khi quả bóng lăn ra ngoài đường biên. Tôi biết bơi và bơi giỏi là do hằng ngày chăn trâu ở bãi cỏ ven sông, khi trời nắng hễ cứ nóng lưng lại chạy xuống sông ngâm và bơi lội. Đây cũng là một cái thú của tuổi trẻ. Quê tôi có nhiều rừng và sông, suối nên phần nào tôi sớm hiểu biết về thiên nhiên và thích giải trí bằng đi câu cá và đi săn thú rừng như: nai, hoẵng...

Khi học trường làng, tôi ở với ông bà nội. Ông tôi tên là Mai Xuân Đóa (1871-1946), mới 14 tuổi đã theo cha là Lãnh Mai đánh giặc. Sau khi cha mất, ông bị giặc Pháp bắt giam. Ông tôi là người tư chất thông minh; thông hiểu về nho, y, lý, số, nhưng đồng thời cũng giỏi nghề nông, ngư (ngày nông, đêm ngư).

Nhờ vậy mà khi tuổi chưa trưởng thành, nhà cửa bị giặc tàn phá, ông đã cùng mẹ tự lực ngày đêm tích cực cần cù, sáng tạo lao động sản xuất xây dựng lại cơ nghiệp gia đình, làm đốc công xây dựng trường học, đình làng, nhà thờ họ. Ông cũng đóng góp nhiều công lao trong xây dựng họ hàng, làng xã, nhất là có uy tín với dân trong vùng về nghề bốc thuốc đông y. Với bản tính hiếu học, ông thường xuyên quan tâm đến việc học hành của con cháu, khuyên bảo con cháu làm theo điều hay lẽ phải. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông tôi làm Hội trưởng hội phụ lão của xã.

Ông nội tôi có hai bà vợ. Bà cả tên là Phan Thị Phờn sinh được chín người con, bốn gái, năm trai. Bà hai Trần Thị Khởi sinh được một gái, bốn trai. Các bác, các cô, các chú tôi đều tham gia cách mạng và làm ăn lương thiện.

Vào thời tôi đang học tiểu học, ông tôi có hai quyển sách “Hàm Nghi”“Phan Đình Phùng” thuộc loại sách cấm lưu hành thời bấy giờ, vì viết về lịch sử chống Pháp của phong trào Cần Vương mà hai vị đó là lãnh tụ. Ông nội tôi “chôn” hai quyển sách đó trong bồ lúa để trên trần nhà. Nhưng khi rỗi rãi nhà vắng vẻ không có ai, ông thường bảo tôi lấy sách đọc cho ông nghe. Mỗi lần hết đọc, tôi lại đem sách giấu vào chỗ cũ. Lúc bây giờ tôi đọc nhưng chưa hiểu gì và cũng không biết vì sao ông nội lại thích nghe đọc những quyển sách này. Tuy vậy mỗi lần đọc xong lại thấy căm tức quân giặc cướp nước, nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ đó. Sau này lớn lên ngẫm nghĩ lại tôi mới biết ông nội thích nghe đọc những quyển sách đó vì khi mới 14 tuổi ông đã theo cha đánh đuổi giặc Pháp cướp nước.

Một lần nghe đọc xong, ông nội liền ôm tôi vào lòng và nói:

- Khi nghĩa binh Cần Vương tan rã, các bác đem chôn súng tại một địa điểm ở Khe Cái, trong đó có cả khẩu thần công, con cháu ai muốn biết chỗ đó, ông sẽ dẫn đường.

Bấy giờ tôi còn nhỏ dại nên nghe xong rồi cũng cho qua. Sau này nhớ lại, nghĩ lại mới tiếc hùi hụi, nhưng chẳng biết lối nào mà lần, vì ông tôi đã mất.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2021, 09:13:02 am »

*
*   *

Học xong bậc tiểu học, tôi về ở với cha mẹ, làm ruộng. Mùa thu năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công. Lúc này khắp nơi bừng bừng khí thế, nở rộ các phong trào diệt giặc đói, diệt giặc dốt và nhất là phong trào thanh niên, tự vệ luyện tập quân sự để sẵn sàng chống giặc ngoại xâm.

Thấy các anh thanh niên trong đội tự vệ xã ngày ngày tập luyện quân sự ở sân vận động rất khí thế, tôi nài nỉ xin được làm một chân liên lạc của đội nhưng các anh nhất quyết không cho với một lý do đơn giản là chưa đủ tuổi. Bấy giờ tôi đang ở độ tuổi trăng tròn. Mặc dù vậy, nhưng lúc nào đội tự vệ tập luyện tôi cũng tìm cách lân la đến gần.

Tuy chưa được chấp nhận vào đội tự vệ nhưng tôi và một số anh cùng trang lứa như Mai Xuân Tao, Trần Đình Thi có chút ít chữ nghĩa được xã phân công dạy bình dân học vụ, giúp bà con trong làng diệt giặc dốt; xóa nạn mù chữ. Một công việc không kém phần say mê, thu hút nhiệt tình của tuổi trẻ.

Cách mạng Tháng Tám thành công chưa được bao lâu, người dân vừa mới được hưởng bầu không khí tự do và độc lập thì thực dân Pháp lại rắp tâm cướp nước ta một lần nữa.

Ngày 27 tháng 3 năm 1947, giặc Pháp đổ bộ vào Quảng Bình từ cửa biển Nhật Lệ và cửa biển sông Gianh; chúng đánh chiếm thị xã Đồng Hới nhưng bị quân và dân ta chống trả quyết liệt. Dựa vào tiềm lực quân sự, ngày 28 tháng 3, giặc Pháp chiếm thị xã Đồng Hới và tiếp đó đóng đồn ở Thanh Khê. Ngày 15 tháng 4 năm 1947, chúng tấn công Ba Đồn.

Để chống địch, các cơ quan lãnh đạo của huyện, xã di chuyển vào vùng rừng núi lập chiến khu. Người dân quê tôi thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”, tản cư vào rừng, để lại vườn không, nhà trống và rào làng chiến đấu. Ngày 18 tháng 4 năm 1947, giặc Pháp mở cuộc càn vào xã tôi. Chúng thẳng tay giết người, cướp của, đốt nhà và phá hoại mùa màng, chặn đường sinh sống để hòng buộc dân làng phải khuất phục. Tuy nhiên, lòng dân trẻ già trai gái vẫn luôn hướng về cách mạng, về Bác Hồ, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng. Sau cuộc càn, giặc Pháp đóng đồn Minh Lệ ngay xã Minh Trạch của chúng tôi.

Quê nhà nằm trong vùng địch tạm chiếm. Do bị giặc Pháp khủng bố ác liệt, nên mùa màng thất bát chẳng thu hoạch được bao nhiêu. Người dân tản cư sống lâu ngày trong rừng bị cạn dần lương thực, trong khi bệnh tật có dịp phát sinh. Nạn sốt rét, suy dinh dưỡng, dịch chấy rận, ghẻ lở, sâu quảng hoành hành mà thuốc thang không có gì, đã cướp đi nhiều sinh mạng của người dân trong đó có mẹ và em gái tôi. Sau một cơn sốt rét ác tính, mẹ tôi bị cấm khẩu chẳng nói được một lời nào với chồng con. Nhìn mẹ thoi thóp thở, mà cả nhà, cả bà con đành chịu bó tay vì giữa chốn rừng xanh, lại nằm trong vòng vây của giặc, tìm đâu ra thầy và thuốc?

Ngày 2 tháng 6 năm 1947 tức là ngày 14 tháng 4 năm Đinh Hợi, mẹ tôi trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 43 giữa rừng sâu. Không hòm, không vải, mai táng giữa rừng xanh với mấy thanh tre buộc lại. Sau đó, em gái tôi là Mai Thị Quy chưa đầy hai tuổi cũng bị sốt rét. Mẹ mất, thiếu dinh dưỡng trầm trọng, thuốc thang không có nên em cũng đi theo mẹ trong năm này.

Mẹ mất, rồi em mất. Tôi thương mẹ, thương em chết quá éo le trong sự bao vây của giặc. Mỗi khi nhớ mẹ, nhớ em, lòng tôi lại đau cắt. Tôi ôm mấy đứa em còn lại mà không cầm được nước mắt.

Nhớ lại trước đây mỗi khi đọc hai cuốn sách “Phan Đình Phùng”“Hàm Nghi” chống Pháp thời phong trào Cần Vương trong tôi đã có ý thức ghét Tây cướp nước và bọn Việt gian bán nước nhưng đến bây giờ trước cảnh quê hương bị tàn phá, chết chóc, nhà tan cửa nát, ruộng vườn xác xơ do giặc Pháp cướp nước gây nên, lòng tôi càng căm thù giặc cao độ.

Bấy giờ, phong trào du kích giết giặc trừ gian ngày càng phát triển mạnh và lên cao. Tuy chưa được vào du kích nhưng tôi vẫn tự kiếm được một lưỡi lê, lúc nào cũng mang bên mình với ý nghĩ: nếu gặp giặc Pháp và bọn Việt gian thì sẽ lao vào đâm chết chúng. Nhưng rồi nhà cửa và lúa khoai bị giặc cướp bóc tàn phá, cảnh nghèo đói ập đến, tôi cũng bị bệnh sốt rét hoành hành. Ngày nào tôi cũng bị lên cơn sốt, hàng tháng trời người gầy rộc, da vàng, đầu tóc rụng hết, mà không có lấy một viên thuốc. Thương con quá, cha tôi liều mua cái chân giò lợn đem luộc lên cho tôi ăn. Thấy thế, mấy bà bác, bà cô tỏ ý ngăn lại:

- Cháu nó đau yếu thế mà cậu cho ăn giò lợn luộc thì nguy to.

Cha tôi thở dài, gạt đi:

- Biết nó có sống được không mà kiêng cữ, thấy nó đói và thèm thì cho nó ăn kẻo tội.

Quả nhiên sau khi ăn hết cái giò lợn, như thuốc thần, cơn sốt dần suy giảm, sức khỏe của tôi phục hồi khá nhanh, như người ta thường nói “lấy độc trừ độc”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2021, 09:13:28 am »

Khi sức khỏe của tôi đã bình phục, thì gánh nặng gia đình lại đè nặng lên vai cha tôi. Bây giờ, ba em gái tôi, một em 12 tuổi, một em bảy tuổi và em nhỏ nhất mới ba tuổi. Cha tôi lâm vào cảnh gà trống nuôi con, kinh tế gia đình rất khó khăn, ở trong vùng địch tạm chiếm thường xuyên bị càn quét khủng bố, cuộc sống rất bấp bênh. Thấy vậy, nên cuối năm 1947, cha tôi cho tôi thoát ly lên vùng Tuyên Hóa, chiến khu của tỉnh Quảng Bình để mong xin vào bộ đội Vệ quốc đoàn, hay làm bất cứ việc gì đó để sinh sống. Tại đây, tôi gặp người chú ruột là Mai Xuân Chữ và người anh ruột Mai Xuân Thia đang là cán bộ của Ty thông tin Quảng Bình.

Việc làm không có, nhưng xin vào bộ đội đâu có dễ vì ngày đó quân đội ta chưa phát triển nhiều. Chú Chữ an ủi tôi: “Lên được chiến khu, chú sắm cho cháu một cái bị, một cái gậy mà đi ăn mày còn hơn luẩn quẩn ở vùng địch tạm chiếm”. Thế rồi gặp dịp chú tôi thuyên chuyển công tác ra Sở thông tin Liên khu 4 ở Thanh Hóa, tôi liền đi theo chú để mong được học nghề và tìm kiếm việc làm. Tại Thanh Hóa, tôi cũng gặp một người chú ruột nữa là Mai Xuân Chương đang làm cán bộ lâm nghiệp ở huyện Cẩm Thủy. Tuy vậy, cả một thời gian ở xứ Thanh, tôi vẫn phải sống lay lắt bởi không kiếm được việc làm.

Thất vọng, đầu năm 1949, tôi một mình cuốc bộ từ Thanh Hóa về lại Quảng Bình, qua dốc Lâm Lang, Cao Mại về phường Chay. Nơi đây được tạm mệnh danh là “Chiến khu của xã”. Tôi gặp lại mấy anh em bà con và người làng học trường trung học Phan Bội Châu đang nghỉ hè ở đây cùng lứa tuổi, như Trần Đình Dỏng, Trần Đình Dâu, Phan Văn Toản, Trần Đình Các. Mấy anh em đó liền rủ tôi vào học trường trung học Phan Bội Châu. Tuy trong bụng rất muốn nhưng tôi lại phân vân vì không biết lấy tiền đâu mà học, hơn nữa, anh em đã học xong lớp đệ nhất, một mình tôi học lớp đệ nhất cũng buồn và lạc lõng. Thấy vậy, mấy anh em xúm lại tìm cách thuyết phục tôi đi học, chịu khổ ăn cơm với muối và nước mắm, có gì san sẻ với nhau. Còn học thì không lo, cứ xin vào thẳng đệ nhị, anh em sẽ phụ đạo giúp đỡ thêm để tôi theo kịp chương trình.

Được lời như cởi tấm lòng. Thế là tôi trở thành học sinh trường Phan Bội Châu ở Đạm Thủy, Tuyên Hóa. Mấy tháng đầu, anh Mai Xuân Thia - anh ruột tôi công tác ở Ty thông tin Quảng Bình giúp bằng cách xin cho tôi ở nhờ nhà anh chị Nậy ở thôn Huyện Nựu và thương lượng với nhà bếp của cơ quan nhượng lại mỗi tháng 10 cân gạo và một chai nước mắm, muối. Mua ở chợ một cái nồi đất, ngày hai bữa tự nấu lấy ăn. Gạo thì phần lớn là gạo hẩm để lâu ngày trong kho nên mốc và mọt, đem vo thì nổi lên mặt nước, nấu không nở. Ăn cơm với nước mắm pha muối, không rau, không thịt cá, vừa xáp, vừa mặn chát trong miệng. Thế nhưng có được cái ăn như vậy để đi học là tôi cảm thấy sung sướng rồi.

Cuối năm 1949, anh Thia tôi chuyển công tác ra Việt Bắc. Không còn chỗ dựa, tôi đành về Đạm Thủy ở chung với mấy anh em cùng quê đang học ở trường Phan Bội Châu. Cùng với cảnh một cái nồi đất treo ở góc bếp, ngày hai bữa, ăn với nước mắm pha muối còn thòm thèm, đi học vui đáo để. Ngày ngày miệt mài, nhờ anh em giúp đỡ, vừa ôn chương trình đệ nhất, vừa học chương trình đệ nhị, thế mà tôi cũng theo kịp. Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ như in cảnh học sinh thời chiến, nhớ và cám ơn nhà trường.

Mãi mãi biết ơn thầy Ngân, thầy Khuyên, thầy Bàng, thầy Xứng, thầy Sơn... những người thầy đã dìu dắt và dạy dỗ mình. Xin cám ơn bạn bè cùng quê đã đồng cảm và chia sẻ, giúp tôi vượt qua thời điểm khó khăn để học hành. Cám ơn gia đình anh chị Nậy ở huyện Nựu, anh chị Mến ở Đạm Thủy - Tuyên Hóa với mái nhà tranh rất nhỏ nhưng đã sẵn lòng cho mấy anh em chúng tôi ở nhờ để đi học. Đây chính là tài sản vô giá, suốt đời không bao giờ tôi quên.

Cũng năm đó, trường trung học Phan Bội Châu ở Đạm Thủy, Tuyên Hóa bị máy bay giặc Pháp ném bom gây nhiều thiệt hại về nhà cửa. May sao lúc đó không phải giờ học tập trung của học sinh nên không gây thiệt hại nhiều về người. Vụ ném bom của giặc Pháp vào trường học càng làm dâng trào lòng căm thù của nhân dân, của học sinh đối với kẻ thù xâm lược càng nung nấu thôi thúc tinh thần tự nguyện của học sinh ra chiến trường giết giặc, cứu nước.

Tôi may mắn được sinh ra trong một gia đình có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Từ ông Mai Lượng - cụ tổ tôi đến ông nội tôi chống Pháp thời Cần Vương và sau này thời chống Pháp, chống Mỹ xâm lược các chú tôi, anh tôi, em tôi đều là cán bộ kháng chiến quyết chống giặc giữ nước. Ảnh hưởng truyền thống đó cũng thôi thúc tôi vào bộ đội để đánh giặc Pháp đang xâm lược đất nước mình.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2021, 09:15:17 am »



Cụ Mai Lượng thường gọi là Lãnh Mai (1838-1890), lãnh tụ nghĩa quân Cần Vương kháng Pháp cuối thế kỷ XIX (1885-1890)
ở khu vực hữu ngạn sông Gianh, Quảng Bình. Phó đô đốc Mai Xuân Vĩnh là chắt nội của cụ Mai Lượng




Mộ cụ Mai Lượng ở xã Quảng Sơn, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình, được Bộ Văn hóa Thông tin cấp bằng công nhận
di tích LỊCH SỬ - VĂN HÓA,  ngày 4.2.1998




Đại gia đình của Phó đô đốc Mai Xuân Vĩnh, gồm bố mẹ và các bác, các chú (1964)



Cùng vợ và các con gái, con trai tại quê hương Quảng Bình (1984)
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2021, 09:16:54 am »

Chương hai

CHẶNG ĐẦU THỜI QUÂN NGŨ

Những ngày còn đi học mỗi lần bắt gặp bộ đội hành quân trên đường với với mũ lưới ngụy trang, ba lô, ruột tượng gạo, súng vác vai trông rất oai vệ, bao giờ tôi cũng dừng lại đứng nhìn các anh một cách trìu mến. Lòng luôn ao ước đến một ngày nào đó mình sẽ trở thành anh bộ đội đánh giặc.

Năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta có bước phát triển mới. Chủ trương của ta trong giai đoạn này là tích cực cầm cự nhằm phá tan âm mưu của địch, khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị về mọi mặt để tiến tới tổng phản công giành thắng lợi. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến. Tất cả cho tổng phản công” thôi thúc mọi người. Ngồi học ở lớp, nghe thầy giảng bài mà tâm trí tôi cứ lởn vởn háo hức nghĩ đến việc tuyển mộ tân binh. Bài hát “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu. Xếp bút nghiên coi thường công danh như phù vân...” đã thuộc lòng tự bao giờ càng thôi thúc chúng tôi ra tiền tuyến. Càng thôi thúc hơn khi ngôi trường Phan Bội Châu của chúng tôi đang học bị máy bay giặc Pháp ném bom, bắn phá.

Thế rồi ngày mong đợi đã đến. Cán bộ quân lực Trung đoàn 18 đến tuyển tân binh tại trường trung học Phan Bội Châu. Anh em chúng tôi trúng tuyển với đơn tình nguyện có vạch chéo màu vàng. Niềm vui sướng không thể nào tả xiết, đó là ngày 1 tháng 5 năm 1950. Số tân binh vừa trúng tuyển vào đúng một trung đội, trong đó có hai nữ.

Mấy anh em làng Thọ Linh chúng tôi vào bộ đội nhưng gia đình đều không biết vì ở xa, liên lạc chỉ bằng chạy bộ, hơn nữa phải giữ bí mật để hành quân qua vùng địch tạm chiếm. Từ nơi tập trung, chúng tôi hành quân qua Thọ Linh, chỉ cách nhà mình khoảng 500m mà tôi không được phép qua nhà vì giữ bí mật tuyệt đối. Tuyệt nhiên không một ai thắc mắc hay đòi hỏi gì, bởi lòng đang tràn ngập niềm hạnh phúc.

Qua mấy ngày hành quân, chúng tôi về đến căn cứ của Trung đoàn 18 đang đồn trú ở huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh, Quảng Bình. Sau ba tháng kết thúc huấn luyện tân binh, số anh em cùng làng Thọ Linh được phân về các đơn vị khác nhau của Phân khu Bình Trị Thiên, riêng tôi được cử vào học Trường hạ sĩ quan của trung đoàn. Thời gian huấn luyện tân binh và học ở Trường hạ sĩ quan, chúng tôi ở lán lẫn trong vườn nhà dân ở Đại Phúc, huyện Quảng Ninh để giữ bí mật, nhưng kỷ luật thì rất nghiêm ngặt.

Mặc cho cái nắng và gió Lào như thiêu như đốt, “đặc sản” của miền Trung làm khô rạc cả người, chúng tôi vẫn ngày hai buổi miệt mài lăn lê bò toài, tập xung phong, tập tấn công cao điểm... Trong khi đó, quân trang vẫn chưa được phát, chỉ với hai bộ quần áo mang theo từ lúc nhập ngũ đến nay vải đã sờn rách, nhiều chỗ hở da. Đến bữa cơm, anh em lấy gáo dừa làm bát, dùng mo cau đựng cơm canh. Cơm gạo hẩm, ăn không no. Đem đến nằm ngủ chung trên sạp, rệp bò lổm ngổm, chúng đốt vào da thịt nhoay nháy, khiến rất ngứa ngáy và khổ sở. Có lần máy bay địch ném bom, bắn phá lán doanh trại bị sập, bị cháy, vậy nhưng không một ai kêu khổ, không người nào thoái chí. Trên thao trường, phong trào thi đua luyện rèn vẫn luôn diễn ra sôi nổi. Trong giờ nghỉ, hoạt động văn nghệ, thể thao vẫn được đơn vị duy trì đều đặn, tạo nôn không khí hăng say, làm cho cán binh quên đi nỗi cực nhọc và thiếu thốn. Chặng đầu trong quản ngũ, chí nguyện vào bộ đội giết giặc vẫn còn tươi rói.

Trong quá trình phấn đấu, rèn luyện, một vinh dự lớn đã đến với tôi. Ngày 2 tháng 9 năm 1950, tôi được đứng vào hàng ngũ của Đảng cộng sản Đông Dương mà người giới thiệu là các đồng chí Võ Minh Thiên và Mai Ấu. Không thể nào diễn tả hết được niềm hạnh phúc, nỗi sung sướng và hãnh diện có lúc như thấy mình đang lâng lâng, tôi nghĩ đến người thân trong gia đình và thầm tự hào con đường mình đã chọn. Đến tháng 11 năm 1950, trong kỳ thi tốt nghiệp kết thúc khóa đào tạo hạ sĩ quan, tôi đứng thứ nhì toàn trường, được phong quân hàm trung sĩ. Ra trường, tôi về làm tiểu đội trưởng tiểu đội 2, trung đội 1 đại đội 88, tiểu đoàn 436, Trung đoàn 18.

Thời gian này, trung đoàn cơ động luyện tập ở khu vực miền tây của hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Mang theo kiến thức bài bản đã được học, về đơn vị mới tôi bắt tay ngay vào luyện tập chuẩn bị cho chiến đấu. Cường độ huấn luyện cũng không kém gì ở Trường hạ sĩ quan. Nghĩa là chúng tôi cũng tập vận động chiến, đánh công kiên, độn thổ đánh phục kích giao thông..., đủ cả.

Năm đó quanh vùng bị lụt lớn mất mùa, dân đói kém nên bộ đội lâm vào tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng. Chỉ có được một ít gạo khi nấu anh nuôi phải ghế thêm khoai sắn. Đến bữa ăn với nước ruốc (mắm tôm) do đó muốn no bộ đội phải ăn độn thêm rau má, rau tàu bay...

Do thực phẩm tự túc nên đơn vị phải phân tán bếp ăn theo tiểu đội. Tiểu đội của tôi hằng ngày đi tập về, buổi trưa tôi phân công hai người đi đào rau má, hai người vào nhà dân mượn hai cái nhủi mang ra ngoài ruộng sâu nhủi dam (cua đồng) gọi là có chút thực phẩm cho anh em. Ngày ấy, cả trung đoàn phái vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, không chỉ thiếu thốn vũ khí đạn dược, lương thực, thuốc men, chăn màn, quần áo... mà cái thiếu lớn nhất là cơm không đủ no. Vì thiếu dinh dưỡng nên cơ thể dễ phát sinh bệnh tật, nhiều người bị sốt rét. Lắm anh bị ghẻ lở đầy mình, sáng ngủ dậy quần áo dính bết vào da phải nhẹ nhàng gỡ như lấy tấm bánh đa chưa khô ra khỏi phên phơi.

Tôi nhớ có lần đến bữa, lương thực dành cho cả trung đội chỉ còn lại độc một củ sắn to, vậy thì ai ăn, ai nhịn? Tình thế khiến anh nuôi nảy ra “sáng kiến” lấy củ sắn chà nạo thành bột rồi đem bỏ vào chảo quấy với rau tàu bay thái nhỏ, đun lên thành một thứ sền sệt không ra cháo, cũng chẳng ra canh. Vậy mà mỗi người múc một bát xì xụp ăn ngon lành.

Bị sốt rét, ghẻ lở... hành hạ nhưng trong tiểu đội không một ai xin nghỉ tập hoặc xin miễn phân công tác. Anh em vẫn tập luyện bình thường, ngoài giờ vẫn tranh thủ đi đào rau má hoặc nhủi dam. Người nào được phân công vào vùng địch tạm chiếm đi gánh lúa gạo vẫn sẵn sàng, không chút nề hà. Trong tiểu đội có những đồng chí như Thuỳnh và Kiên, ghẻ lở đầy mình người gầy và xanh xao, sức khỏe sút kém, chúng tôi thấy thương quá. Mọi người đề xuất để Thuỳnh và Kiên nghỉ, miễn tham gia công tác, hoặc đi bệnh viện nhưng các đồng chí ấy nhất quyết không chịu. Nghe nói chuẩn bị đi chiến đấu, anh em ai nấy đều rất hồ hởi, chỉ mong có lệnh là sẵn sàng đi ngay. Có điều là nếu để các đồng chí ấy nghỉ thì quân số còn lại chưa đầy một nửa.

Chúng tôi cơ động luyện tập, đóng quân trong nhà dân ở các làng từ Đồng Tư, Xuân Dục đến Vạn Xuân, Xuân Hòa, Phú Hòa, Châu Lê Xá, Thái Xá, Sa Lung lên đến Bang, Rợn... giáp ranh vùng địch tạm chiếm. Nói là vùng tự do nhưng nằm trong tầm ném bom của máy bay địch cất cánh từ sân bay Đồng Hới đồng thời cũng ở trong tầm pháo địch. Vì vậy, đơn vị luôn phải bí mật cơ động, không ở lâu một chỗ.

Bị chiến tranh tàn phá khốc liệt, lại thêm mất mùa đói kém, nhưng đồng bào ở đâu cũng thương yêu đùm bọc và hết lòng giúp đỡ bộ đội từ tinh thần cho đến vật chất. Những tiếng xưng hô “mẹ, con” rất gần gũi, nghe ấm áp và thân thương. Đây chính là nguồn cổ vũ động viên to lớn đối với anh em chúng tôi, những người lính Cụ Hồ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2021, 09:17:30 am »

*
* *

Cuối năm 1950, đầu năm 1951, Tiểu đoàn 436 của chúng tôi được lệnh hành quân đi chiến dịch. Đêm đi, ngày nghỉ. Qua vùng đất đỏ Quảng Trị, gặp thời tiết mùa đông, mưa phùn gió bấc. Mặt đất não nề, vừa dẻo quánh lại vừa trơn trượt, đế dép cao su đất bám dày dễ đến năm phân. Không thể đi được, ai nấy đánh rửa sạch dép đeo bên lưng và đi chân đất. Trong điều kiện như vậy thành thử tốc độ hành quân không thể nhanh được. Phải hơn một tuần lễ, tiểu đoàn mới đèn được Kế Môn, Đại Lược, xã Phong Thạnh, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Đến đây chúng tôi mới được nghe phổ biến là Tiểu đoàn 436 được tách khỏi đội hình Trung đoàn 18 để sáp nhập vào Trung đoàn 101 (còn gọi là Trung đoàn Trần Cao Vân). Bấy giờ mọi người mới té ngửa ra vì quá bất ngờ. Những điều khúc mắc giữ kín trong quá trình hành quân đến giờ mới có dịp bộc lộ. Răng cớ sao hành quân chiến đấu mà đi lâu thế? Sao có lúc đơn vị đi vòng trở lại? Lúc bấy giờ anh em mới hiểu là kế nghi binh, giữ bí mật hướng hành quân của đơn vị.

Tiểu đoàn 436 gồm có ba đại đội khinh binh: 40, 56, 88 và đại đội 5 trợ chiến cùng tiểu đoàn bộ với quân số đầy đủ biên chế và được trang bị tương đối mạnh. Anh em trong tiểu đoàn gồm hầu hết những người quê ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, mới chân ướt chân ráo vào Thừa Thiên. Tuy quần áo nâu sờn rách, không màn cũng không chăn, phần lớn chân đất đầu trần, lại có người vẫn còn đang sốt rét, ghẻ lở, nhưng tinh thần chiến đấu và kỹ chiến thuật chiến đấu thì không chê vào đâu được. Vì vậy, Tiểu đoàn 436 được đánh giá là một đơn vị mạnh. Đến địa điểm mới, cán bộ, chiến sĩ nhanh chóng hòa nhập gần gũi với dân, được bà con yêu thương đùm bọc.

Có một điều thú vị là không hẹn trước mà khi về nhận công tác ở Tiểu đoàn 436, tình cờ tôi gặp được anh Đinh Xuân Tiến là con của bà bác tôi, Mai Xuân Đề là con chú ruột tôi cùng một số anh em người ho người làng Thọ Linh như Mai Dâu, Trần Ngọc Thia, Đinh Xuân Đệ, Đinh Xuân Yến... Các anh em ấy đều vào bộ đội trước tôi. Hôm tập hợp để ra mắt Trung đoàn 101, mặc dù trời chiều tối nhưng Tiểu đoàn trưởng Dương Bá Nuôi vẫn ra lệnh cho đơn vị phải ngụy trang kỹ bằng lá cây. Anh em ai cũng hiểu được ý của tiểu đoàn trưởng là dùng lá cây để che bớt quần áo sờn rách.

Cuộc tập hợp để giới thiệu Tiểu đoàn 436 sáp nhập vào Trung đoàn 101 diễn ra trong thời chiến, không trống giong cờ mở nhưng rất ấm cúng. Từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công, cái tên Chi đội Giải phóng quân Trần Cao Vân đã làm nức lòng người, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên. Giờ đây, chúng tôi được đứng trong đội hình Trung đoàn 101 - Trần Cao Vân, quả là “cầu được ước thấy”. Những tràng vỗ tay dài và những tiếng hoan hô vang trời, khiến chúng tôi ai nấy đều rất phấn chấn.

Sau khi ổn định biên chế tổ chức, đơn vị gấp rút bắt tay vào công tác huấn luyện chiến đấu. Chúng tôi tập đánh công kiên, đánh vận động, đánh phục kích giao thông... chuẩn bị cho mùa chiến dịch sắp tới.

Đầu năm 1951, Tiểu đoàn 436 được tham gia chiến đấu. Sức khỏe anh em trong tiểu đội 2 của tôi đã tương đối bình phục. Đội hình trung đội 1 do đồng chí Nguyễn Tư làm trung đội trưởng, đồng chí Lưu Xuân Cậy là trung đội phó. Đại đội 88 do đồng chí Phan Quế làm đại đội trưởng, đồng chí Vũ Khắc Lới là chính trị viên. Ban chỉ huy tiểu đoàn do đồng chí Dương Bá Nuôi làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lê Văn Dương là Chính trị viên. Trận đầu tiên, đơn vị đánh diệt vị trí An Gia (12-2-1951) gần thị trấn Sịa thuộc huyện Quảng Điền, trận này ta dứt điểm không gọn. Phải chờ đến ngày 13 tháng 3 năm 1951, tổ chức đánh lần hai, đơn vị mới diệt gọn.

Gần một tháng vừa rút kinh nghiệm, vừa tiến hành huấn luyện công kiên, đến ngày 9 tháng 3 năm 1951, Tiểu đoàn 436 được lệnh đánh diệt đồn Phổ Lại. Sau khi trận đánh thắng lợi, chúng tôi mới được biết cụ thể hơn về so sánh lực lượng. Ban đầu quân địch ở đây chỉ có khoảng một trung đội. Đến xẩm tối ngày 9 tháng 3, khi quân ta vận động đến gần đồn thì trinh sát phát hiện địch đã tăng cường thêm ba trung đội. Tình huống bất ngờ xảy ra ngoài dự kiến, vậy câu hỏi đặt ra là đánh hay hoãn? Sau khi hội ý chỉ huy, Tiểu đoàn trưởng Dương Bá Nuôi báo cáo xin ý kiến cấp trên. Đồng chí Hà Văn Lâu - Chỉ huy trưởng Mặt trận Bình Trị Thiên phân tích:

- Đây là thời cơ tốt vì công sự chiến đấu của địch chỉ đủ cho một trung đội, nay chúng bố trí đến bốn trung đội, nếu ta nổ súng, phần lớn bọn lính nằm ngoài công sự sẽ bị rối loạn ngay từ đầu. Chúng sẽ giẫm đạp lên nhau, bắn phải nhau mà chết...

Cho đến tận bây giờ, suy ngẫm lại, chúng tôi vô cùng kính nể nhãn quan tư duy chiến thuật của đồng chí Hà Văn Lâu ngày ấy. Ông không chỉ là bậc đàn anh mà còn là người chỉ huy mẫu mực và là bậc thầy đáng kính. Đúng như cấp trên đã nhận định Tiểu đoàn 436 đã diệt gọn đồn Phổ Lại trong một thời gian ngắn. Ta thu rất nhiều vũ khí, đạn dược. Chiến thắng An Gia, Phổ Lại nằm trong kế hoạch của Trung đoàn 101, đập tan phòng tuyến Phú Ốc - Sịa của địch chia cắt huyện Phong Điền.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2021, 09:18:14 am »

Ngay sau trận thắng Phổ Lại, tiểu đoàn chúng tôi chuyển về trú quân ở Kế Môn, Vĩnh Xương, Thạnh Hương xã Phong Thạnh, huyện Phong Điền để nghỉ ngơi, rút kinh nghiệm và chuẩn bị cho đợt hoạt động sắp đến. Phong Thạnh là một trong những xã nằm trên dải đất hẹp, bị kẹp giữa phá Tam Giang và các động cát chạy dài từ cửa Thuận An đến tiếp giáp địa phận tỉnh Quảng Trị. Lúc bấy giờ, địa bàn này được coi là vùng căn cứ tương đối an toàn.

Chưa kịp nghỉ ngơi, hai ngày sau chúng tôi đã phải chống trận càn của giặc Pháp vào dải đất này hòng triệt đường tiếp tế của bộ đội ta. Một thói quen của sẵn sàng chiến đấu là dù trú quân ở đâu, lâu hay mau, việc đầu tiên từng đơn vị phải làm ngay lúc mới đặt chân đến là đào hầm hố để phòng tránh máy bay, đồng thời xem xét và quan sát địa hình, thống nhất kế hoạch triển khai chiến đấu chống địch tập kích bất ngờ. Nhờ vậy mà khi có địch, chúng tôi triển khai chiến đấu được ngay theo lệnh của trên.

Sáng ngày 11 tháng 3 năm 1951, đơn vị được báo động triển khai chống địch càn ở khu vực đồi cát Thanh Hương Rú. Thời gian yên tĩnh chờ đợi, chưa phát hiện thấy địch mà chỉ nghe tiếng súng nổ ran ở phía nam, có thể là khu vực các làng Kế Môn, Đại Lộc gì đó. Vào khoảng 6, 7 giờ sáng, một cánh quân Pháp từ phía biển tấn công vào các nổng cát sau lưng vùng Vĩnh Xương và Thanh Hương nơi Tiểu đoàn 319 đang chặn đánh địch. Tiểu đoàn 436 chúng tôi được lệnh di chuyển triển khai thọc vào sườn phải của địch. Trận đấu diễn ra quyết liệt, từ sáng đến chiều. Bọn địch dạt ra mé biển vòng lại hòng đột kích vào sườn trái tiểu đoàn chúng tôi. Đội hình Tiểu đoàn 436 chặn đánh rát, buộc địch lùi ra ven biển đi về hướng Quảng Trị. Buổi chiều, một cánh quân lớn thuộc Binh đoàn Buttin từ hướng Quảng Trị vào hợp sức đánh nhau với ta ở Thanh Hương - Phong Thạnh. Quân địch bị tổn thất nhiều, tối đến chúng co cụm tại khu vực nhà thờ Tháp Một - Thanh Hương và lấy nơi này làm công sự cố thủ.

Trong ngày, Trung đoàn 101 đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch. Ta bắt được rất nhiều tù binh, lính Âu-Phi. Tối đến, Tiểu đoàn 436 được lệnh lui ra tổ chức, củng cố lại lực lượng để sáng mai tiếp tục tấn công địch. Tiểu đội tôi có ba đồng chí bị thương số anh em còn lại vẫn sung sức nhất là tinh thần ai nấy rất phấn chấn trước chiến thắng vừa rồi. Trận đánh đạt được kết quả tốt như vậy, có một nguyên nhân góp phần quan trọng là sau chiến thắng Phổ Lại, đơn vị được bổ sung thêm nhiều súng đạn.

Trong quá trình chiến đấu, có một tình tiết rất thú vị là mỗi lần quân ta phản xung phong khẩu đại liên 6,7 ly của đồng chí Tốn ở đại đội trợ chiến bắn yểm trợ rất chuẩn xác, xen giữa đội hình ta và xuyên thẳng vào đội hình địch. Làn đạn đại liên đã ghìm chân địch, làm cho chúng không thể tiến lên được. Ai cũng thầm khen xạ thủ Tốn, ngay đến bọn tù binh cũng phải thán phục.

Việc bọn địch rút vào trốn qua đêm tại nhà thờ Tháp Một - Thanh Hương, là thời cơ cho Trung đoàn 101 lập công. Sáng ngày 12 tháng 3 năm 1951, khi bọn địch vừa ra khỏi nhà thờ, với sự phối hợp của bộ đội địa phương và dân quân Phong Điền, được sự giúp đỡ của nhân dân, các đơn vị của trung đoàn tấn công vào khu vực co cụm của chúng. Mặc dù có pháo binh yểm trợ nhưng địch không chống cự nổi, đội hình bị vỡ, chạy tán loạn. Nhưng chạy tới đâu cũng gặp quân ta bố trí sẵn chặn lại, bọn chúng chỉ còn cách là giơ tay xin hàng.

Đến khoảng 8-9 giờ sáng thì trận đánh kết thúc. Trận chống càn Thanh Hương là trận thắng lớn nhất và là trận đánh tập trung cấp trung đoàn đầu tiên của Trung đoàn 101 do đồng chí Lê Tự Đồng làm Trung đoàn trưởng kiêm Chính ủy và đồng chí Lê Văn Tri - Trung đoàn phó, chỉ huy ở chiến trường Bình Trị Thiên thời đó. Binh đoàn Buttin của Pháp bị xóa sổ, một số ít sống sót chạy về Quảng Trị lại bị tóm gọn. Trận này ta diệt và bắt trên một nghìn tên địch!

Sau đó chúng tôi được trên thông báo là ngày 11 tháng 3 năm 1951, Binh đoàn Sockel từ Huế ra để phối hợp với Binh đoàn Buttin cũng bị Trung đoàn 95 chặn đánh ở Ưu Điềm, chúng phải rút lui về Huế.

Với chiến công vang dội này, về sau ngày 11 tháng 3 hằng năm được chọn làm ngày truyền thống của Đại đoàn 325 (nay là Sư đoàn 325) anh hùng.

Một nguyên nhân lớn của thắng lợi là Trung đoàn 101 được sự phối hợp chặt chẽ của bộ đội địa phương, dân quân du kích và sự giúp đỡ tận tình của chính quyền, đoàn thể, nhân dân địa phương trong công tác tiếp tế hậu cần, vận chuyển thương binh, áp giải tù binh về phía sau. Cán bộ, chiến sĩ chúng tôi rất cảm động vì mải chiến đấu từ sáng đến trưa chưa kịp nấu cơm vừa mệt, vừa đói nhưng bà con đà tự động mang cơm đến tiếp tế. Được nhân dân động viên, cố vũ bộ đội càng hăng hái chiến đấu. Đồng bào thì cứ tấm tắc khen:

- Bộ đội này không biết từ đâu đến, rất nghèo nhưng đánh giặc tài giỏi quá!
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 02 Tháng Chín, 2021, 09:18:54 am »

Được tham gia những trận chiến đấu ở đầu đời của mình trong hàng ngũ quân đội cách mạng, tôi tự hào với bước đầu được thử thách, có được một chút kinh nghiệm trận mạc. Hơn bao giờ hết, tôi càng thấy kẻ thù tàn bạo và thấu hiểu được nỗi khó khăn gian khổ của đồng bào ta... Tất cả những nhân tố đó vừa tạo cho chúng tôi tinh thần phấn khởi, vừa hun đúc thêm chí căm thù và quyết tâm đánh giặc.

Đời chiến sĩ trong chiến tranh vẫn luôn luôn cuốn hút chúng tôi tập trung cao độ vào công tác chiến đấu. Thế là sau chiến thắng Thanh Hương, đơn vị chúng tôi lại tiếp tục hành quân, di chuyển vị trí mới, tiến hành bổ sung quân số vũ khí, học tập chính trị, huấn luyện quân sự, chuẩn bị cho kế hoạch chiến đấu sắp tới.

Đang say sưa học tập, huấn luyện thì đột nhiên tôi được đại đội điều động làm nhân viên hành chính chuyên lo công văn giấy tờ và công tác tổ chức biên chế của đại đội. Một thoáng buồn vì không được cùng chiến đấu với anh em trong tiểu đội, nhưng rồi tôi cũng xác định được để làm tốt nhiệm vụ trên giao.

Ngày 26 tháng 6 năm 1951, Trung đoàn 101 tham gia trận chống càn Thanh Lam Bồ khi đang làm nhiệm vụ bảo vệ mùa ở huyện Phú Vang Thừa Thiên. Trận này trung đoàn tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn lính Âu-Phi của địch.

Sau trận thắng Thanh Lam Bồ, tôi được đại đội phân công trở lại làm tiểu đội trưởng tiểu đội 2, chuyên trách huấn luyện đánh cướp xe tăng địch. Chúng tôi làm mô hình đúng kích thước giống như xe tăng thật bằng gỗ, tre; có tháp pháo, nòng pháo... để tập, do một hàng binh người Đức tên Kock huấn luyện. Hơn một tháng tập luyện, chúng tôi đã thành thạo các động tác nhảy lên xe tăng, bám theo xe tăng, với mục đích sử dụng vũ khí đánh diệt địch trong xe, còn việc lái cướp xe tăng là do mấy hàng binh người Đức đảm nhiệm. Anh em trong tiểu đội cứ việc tập luyện, còn đánh cướp xe tăng ở đâu thì chưa được biết, vì không ai nói.

Đến hôm thực hiện kế hoạch đánh vào thành phố Huế, chúng tôi mới được giao nhiệm vụ cụ thể. Nhưng thật tiếc là khi đã vào tới đàn Nam Giao rồi, chúng tôi lại được lệnh rút lui không đánh nữa vì tình hình thay đổi. Anh em trong đơn vị ai nấy đều tiếc hùi hụi.

Đầu năm 1952, sau trận đánh phục kích giao thông ở Văn Xá, huyện Hương Trà thắng lợi, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ làm chiến sĩ chính trị của đại đội. Công việc rất mới mẻ như tham gia công tác giáo dục chính trị, theo dõi đôn đốc hoạt động của hội đồng binh sĩ thực hiện dân chủ về chính trị quân sự, kinh tế; công tác thương binh, liệt sĩ; công tác dân vận... Mặc dù chưa qua trường lớp nhưng được sự hướng dẫn bồi dưỡng của cấp trên, dần dà tôi cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ, tham gia các trận chiến đấu ở Sơn Tùng (13-3-1952), Dương Hòa (21-6-1952), cũng như trong hoạt động thường ngày của đại đội.

Sau trận Dương Hòa, tôi được phân công thay đồng chí Nguyễn Bá Liêm đảm nhiệm chức quản trị trưởng đại đội. Công tác của quản trị trưởng là công tác của đại đội bộ, bao gồm công tác hành chính quản lý, quân lương, quân trang, quân y, quân khí, tiểu đổi chiến sĩ liên lạc...

Có thể nói từ đầu năm 1951, đến quá nửa năm 1952, Trung đoàn 101 lớn mạnh không ngừng, đánh đâu thắng đó, nhổ được nhiều đồn bốt giặc cùng như tiêu diệt nhiều binh đoàn địch trong chống càn, bảo vệ dân. Trên chiến trường Bình Trị Thiên lúc bấy giờ, kẻ địch luôn khiếp sợ uy danh của Trung đoàn 101 và thực tế, chúng luôn tìm cách để né tránh.

Kế hoạch của Trung đoàn là đánh tiêu diệt địch, lấy vũ khí địch để trang bị cho Tiểu đoàn 328 được thực hiện vượt mức yêu cầu. (Tiểu đoàn 328 thành lập sau, chưa đủ vũ khí). Sau kỳ chỉnh huấn học tập tài liệu “Quân đội nhân dân Việt Nam”, tinh thần chiến đấu của bộ đội càng lên cao, đơn vị nào cũng hăng hái với khí thế thi đua giết giặc lập công.

Từ tiểu đội đến đại đội của các tiểu đoàn đều xin làm nhiệm vụ chủ công trong chiến đấu, được đánh vào nơi khó khăn nhất, nơi mạnh nhất của địch.

Chiến trường chủ yếu của Trung đoàn 101 là ở tỉnh Thừa Thiên và huyện Hải Lăng của tính Quảng Trị. Vùng đất này vốn đã nghèo lại bị địch tàn phá khốc liệt nên đời sống đồng bào gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Thóc gạo, khoai sắn không đủ ăn, nhà cửa rách nát, có nơi nhà bị giặc đốt hết lần này đến lần khác, bà con phải dựng tạm lều lợp cỏ năn để ở. Những năm ấy gặp lụt lớn mất mùa, gạo lúa dự trữ chôn giấu dưới đất bị ngập nước, hầu hết bị hư hỏng. Tình hình kinh tế địa phương như vậy, chiến trường xa, sự chi viện của Trung ương cũng gặp khó khăn. Hệ lụy tất yếu là đời sống của bộ đội cũng muôn phần gieo neo. Thường thì các đơn vị không có đủ gạo, khoai, sắn, để bộ đội ăn. Lúa gạo bị ngâm nước lụt, nấu lên bị nát thối, đến bữa ăn anh em phải xới banh cơm ra cho mùi thối bay bớt đi mới nuốt được. Cơm gạo như vậy mà mỗi người chỉ được xới một lượt, chứ đâu có được ăn no. Tôi còn nhớ trước khi đi đánh vị trí An Gia, chỉ huy thông báo là Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định khao cho mỗi người một lon gạo, cả hàng quân vỗ tay hoan hô không ngớt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM