Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:42:44 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 4  (Đọc 4641 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #110 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2021, 01:18:38 pm »

6. Công tác chính trị trong công tác tổ chức quân đội

Công tác đảng - công tác chính trị là một bộ phận quan trọng nhất trong các hoạt động của Đảng nhằm lãnh đạo lực lượng vũ trang hoàn thành các nhiệm vụ. Nhiệm vụ của công tác chính trị là chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về mặt chính trị, làm cho lực lượng vũ trang nhân dân luôn quán triệt đường lối chính trị, đường lổỉ quân sự; quán triệt nhiệm vụ quân sự và nhiệm vụ chính trị của Đảng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phát huy cao độ sức mạnh của con người, của yếu tố chính trị, tinh thần; làm cho lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng tổ chức và có đầy đủ năng lực hành động, phát huy đầy đủ sức mạnh vũ khí, của cơ sở vật chất kỹ thuật để đánh thắng mọi kẻ thù, hoàn thành mọi nhiệm vụ.


Quán triệt quan điểm của V.I. Lênin: một trong những quy luật quan trọng nhất của việc xây dựng quân đội Xôviết là nâng cao vai trò và ý nghĩa công tác Đảng - công tác chính trị, ngay từ khi quân đội còn ở thời kỳ phôi thai, Đảng ta đã hết sức coi trọng công tác chính trị, coi nó là linh hồn, là mạch sống, là nguồn sức mạnh của quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Trong công việc xây dựng và phát triển quân đội, phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố công tác chính trị. Công tác chính trị trong lực lượng vũ trang những năm này có nội dung hêt sức phong phú: Xây dựng con người, xây dựng tổ chức, giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng xây dựng tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng những mối quan hệ nội bộ, bồi dưỡng các nhân tố chính trị, sức mạnh tổ chức của các lượng vũ trang.


Đảng từng bước xác định nhiệm vụ, nội dung cụ thể của công tác chính trị, phương châm, nguyên tắc và biện pháp, phương thức tiến hành; khẳng định việc phải dựa vào đông đảo quần chúng để tiến hành công tác chính trị, phát động toàn quân, động viên cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên làm công tác chính trị. Đảng nắm vững vai trò, vị trí của công tác chính trị và xác định: công tác chính trị trong lực lượng vũ trang ở cấp nào cũng vậy, đều tập trung vào mục tiêu cơ bản là làm cho cán bộ, chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, luôn có "kỷ luật nghiêm như sắt, tinh thần vững như đồng", sẵn sàng hy sinh, xả thân vì lý tưởng, mục tiêu chiến đấu.


Công tác chính trị trong lực lượng vũ trang nhân dân có nội dung phong phú. Đó là nội dung xây dựng con ngươi, xây dựng tổ chức, tức là bồi dưỡng, giáo dục về mặt chính trị, tư tưởng xây dựng tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ và xây dựng những mối quan hệ cách mạng kiểu mới, nhằm phát huy cao độ sức mạnh chính trị tinh thần và sức mạnh tổ chức của các lực lượng vũ trang nhân dân.


Xuất phát từ quan điểm coi chính trị, tư tưởng là nhân tố căn bản, trước tiên quyết định sức chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, trong quá trình lãnh đạo, Đảng hết sức coi trọng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, đặt nó ở vị trí hàng đầu của công tác chính trị. Vấn đề giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng trong lực lượng vũ trang nhân dân được thực hiện chủ yếu là quán triệt tình hình, nhiệm vụ, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong các giai đoạn phát triển của cách mạng. Đó cũng là quá trình giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với thực tiễn đấu tranh cách mạng của Việt Nam, nâng cao giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc, nâng cao tinh thần yêu nước, giác ngộ cộng sản chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, xây dựng tư tưởng vô sản. Trên cơ sở đó không ngừng nâng cao tinh thần tự lập tự cường, ý chí quyết chiến, quyết thắng của lực lượng vũ trang nhân dân.


Vì thế, trong quá trình xây dựng quân đội, Đảng luôn coi trọng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng bộ đội trong mọi tình huống khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Tháng 8-1951, Tổng Quân ủy triệu tập Hội nghị Tuyên huấn toàn quân lần thứ nhất, xác định trọng tâm giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ là: nhận rõ thù, bạn và ta, nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp và dân tộc, xây dựng tư tưởng kháng chiến và lâu dài gian khổ và một lòng tin tưởng nhất định thắng lợi, rèn luyện tư tưởng tự lực tự cường. Vượt mọi khó khăn, nâng cao ý chí tranh đấu bền bỉ. Hội nghị Trung ương lần thứ ba tháng 4-1952 một lần nữa đã chỉ rõ: Phải giáo dục chính trị, giáo dục tư tưởng cho cán bộ và đội viên, làm cho họ có lập trường rõ rệt, chắc chắn, tức là lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Bằng những đợt sinh hoạt chính trị, Đảng đã giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân hiểu rõ mục tiêu chiến đấu; phân rõ bạn, thù để hiểu rõ bản chất và nhiệm vụ quân đội nhân dân; nâng cao lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần quốc tế, củng cố đoàn kết, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.


Đảng ra sức xây dựng và không ngừng củng cố hệ thống các cơ quan thực hiện công tác chính trị, bao gồm các chính ủy (hay chính trị viên) và cơ quan chính trị các cấp. Chính ủy, chính trị viên cũng như cán bộ chỉ huy quân sự các cấp đều là thủ trưởng của đơn vị. Họ cùng với thủ trưởng quân sự chịu trách nhiệm chung trước Đảng ủy và cơ quan lãnh đạo cấp trên về mọi mặt công tác của đơn vị, đồng thời là người phụ trách chỉ đạo và tiến hành công tác chính trị của đơn vị. Cơ quan chính trị các cấp là cơ quan lãnh đạo của Đảng để tiến hành công tác chính trị, tư tưởng trong đơn vị. Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng ta luôn giữ vững chế độ thủ trưởng (có giai đoạn chỉ thực hiện chế độ một thủ trưởng), và luôn kiện toàn cơ quan chính trị để thông qua đó mà phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng, giáo dục và vận động đông đảo cán bộ, chiến sĩ tự giác và triệt để chấp hành các nhiệm vụ do Đảng đề ra.


Năm 1946, Đảng đặt ra chế độ chính trị viên và đội trưởng phụ trách ở các cấp. Hệ thống cơ quan công tác chính trị được xây dựng: ở cấp khu có ủy viên chính trị, ở các đơn vị từ trung đoàn đến trung đội có chính trị viên; ở cấp bộ có cục chính trị, các khu có phòng chính trị; trung đoàn, tiểu đoàn có tiểu ban chính trị; ở đại đội có ban công tác chính trị... Đến tháng 3-1947, Hội nghị Các chính trị ủy viên khu và chính trị viên trung đoàn đã xác định thống nhất nhiệm vụ của công tác chính trị. Tiếp đó, tháng 3-1948, Hội nghị Chính trị viên toàn quốc lần thứ hai được triệu tập. Hội nghị đi sâu một bước xác định rõ tổ chức, đồng thời, xây dựng nền nếp công tác chính trị trong lực lượng vũ trang.


Nhằm phát huy hiệu lực của cơ quan công tác đảng - công tác chính trị, Đảng ta chăm lo bồi dưỡng đội ngũ chính trị viên và cán bộ chính trị ở các cấp cả về phẩm chất và năng lực. Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng ngày 19-10-1946, quyết định: "Mở trường huấn luyện chính trị viên", "chỉnh đốn các cán bộ chính trị viên bằng cách đưa ngươi có năng lực vào". Tổng Quân ủy mở nhiều lớp ngắn ngày để đào tạo, bồi dưỡng chính trị viên, chính trị viên cao cấp.


Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ thị cho cán bộ chính trị trong lực lượng vũ trang: "Đối với bộ đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.392). "Tư cách của chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt thì bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ thì bộ đội ấy không tốt... Chính trị viên phải kiểu mẫu trong mọi việc"1 (Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.50). Thực hiện lời dạy của Người, đội ngũ cán bộ chính trị ra sức rèn luyện, học tập, xây dựng nền truyền thống chính ủy, chính trị các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Thông qua hoạt động sắc bén của công tác đảng, công tác chính trị, sự lãnh đạo của Đảng ngày càng chặt chẽ, góp phần to lớn nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn làm tròn mọi nhiệm vụ.


Bên cạnh đó, Đảng cũng rất chú trọng tiến hành các công tác khác như: Công tác tổ chức và xây dựng đảng, công tác cán bộ, công tác bảo vệ, công tác chính sách, công tác dân vận, công tác địch vận, v.v.. Đó là những nội dung quan trọng không thể thiếu trong công tác chính trị.


Từ những quan điểm trên đây, có thể thấy, tính chất cơ bản của công tầc chính trị là tính chất lãnh đạo, tính chất chiến đấu và tính chất quần chúng. Trong quá trình xây dựng, Đảng luôn nắm vững tính chất cơ bản đó để bảo đảm cho công tác chính trị phát huy được hết vai trò và tác dụng to lớn đối với việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #111 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2021, 01:21:11 pm »

7. Vấn đề tổ chức cán bộ trong quân đội

Lực lượng vũ trang Việt Nam được hình thành trên cơ sở phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi của nhân dân Việt Nam. Con người trong lực lượng vũ trang là những người giác ngộ chính trị, thấm nhuần lý tưởng của Đảng, trung kiên nhất, hăng hái, luôn trung thành với lợi ích của nhân dân. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, lực lượng vũ trang nhân dân là một tập thể những con người có đạo đức, có tinh thần cách mạng triệt để, được phát triển toàn diện về trình độ kỹ thuật, chiến thuật, có kỷ luật tự giác nghiêm minh, sử dụng được mọi thứ vũ khí trang bị có trong tay để đánh thắng quân thù.


Trong xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng ta khẳng định: phải coi trọng xây dựng con người, đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ, tướng lĩnh tài giỏi, xem đó là nhân tố quan trọng quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của các lực lượng vũ trang nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh khẳng định: "cán bộ là cái gốc của mọi công việc"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.269), là người trực tiếp tổ chức, quán triệt đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, làm nòng cốt trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang.


Trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định "công nông là gốc" và là chủ lực quân của cách mạng Việt Nam. Vì thế, trong quá trình xây dựng quân đội, Đảng luôn chú trọng lựa chọn những người xuất thân từ công, nông và trí thức cách mạng, đào tạo họ trở thành những cán bộ ưu tú, những tướng lĩnh tài ba để xây dựng lực lượng vũ trang. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những phẩm chất cần có của quân nhân cách mạng: "trí, nhân, dũng, nghĩa, liêm", đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang đã ra sức rèn luyện nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, tận trung với nước, tận hiếu với dân, hết lòng thương yêu chiến sĩ, có tài thao lược, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.


Trong khi luôn coi trọng yếu tố trang bị, vũ khí, Đảng ta cũng đặc biệt nhấn mạnh nhân tố con người, xem đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân. Xuất phát từ tư tưởng coi trọng nhân tố con người, tin tưởng vào khả năng của quần chúng cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu luận điểm người trước, súng sau, "tinh thần của con người phải truyền qua súng"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.466). Quán triệt quan điểm trong quá trình lãnh đạo và kháng chiến, Đảng thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng chính trị quần chúng hùng hậu gắn liền với tổ chức xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Muốn có đội vũ trang mạnh, trước hết phải có đội quân tuyên truyền mạnh, đội quân chính trị phải vững vàng... Muốn đánh thắng Pháp - Nhật thì ai vác súng, ai là người tự giác tự nguyện đứng dậy làm cách mạng? Đó là quảng đại quần chúng, cho nên ta phải tuyên truyền vận động quần chúng.


Sự vững mạnh về chính trị là cơ sở quan trọng để xây dựng vững mạnh các mặt khác của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Vì vậy, vấn đề coi trọng giáo dục bản chất giai cấp công nhân, quan điểm, đường lối của Đảng, mục tiêu chiến đấu cho lực lượng vũ trang ba thứ quân... là cần thiết. Như thế, Quân đội nhân dân Việt Nam cần dựa trên cơ sở đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, độc lập, tự chủ của Đảng để tổ chức, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "bao giờ cũng phải làm theo hai khẩu hiệu mà nó là cái mục đích của anh em: Trung với nước, hiếu với dân"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.239).


Từ nhận thức, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém, trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, Đảng ta đặc biệt chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chính trị về phẩm chất và năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Trong thư gửi Hội nghị Chính trị viên toàn quân lần thứ hai tháng 3-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Tư cách của chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội... Đối với bộ đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.392).


Để xây dựng quân đội luôn vững mạnh về mặt chính trị, đòi hỏi phải tiến hành xây dựng đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó, công tác cần chú trọng là: thường xuyên tăng cường sự lậnh đạo của Đảng, coi trọng giáo dục bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, giáo dục mục tiêu chiến đấu, tinh thần đoàn kết gắn bó và thương yêu giúp đỡ lẫn nhau lúc thường cũng như lúc ra trận. Tại Hội nghị kiểm thảo chiến dịch đường số 18 tháng 5-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: Cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng thì không làm gì được. Bởi vậy, Đảng chủ trương phải thường xuyên yêu thương đội viên, từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên.


Trong mọi giai đoạn cách mạng, cần đẩy mạnh xây dựng và rèn luyện một đội ngũ cán bộ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, có khả năng đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nhiệm vụ quân sự của Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng. Trong lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, cán bộ là người đem quan điểm, tư tưởng, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng giáo dục cho chiến sĩ, chỉ huy lãnh đạo chiến sĩ đánh giặc và thực hiện mọi công tác. Cán bộ lại thường là đảng viên, là người ở trong cấp ủy, là người nắm công việc quan trọng, nắm công việc kỹ thuật quan trọng, đó là bộ phận nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân. Do vậy, trong quá trình xây dựng quân đội, Đảng đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ. Một nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng lực lượng vũ trang về mặt chính trị là, Đảng luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ đó phải là những người tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, với Tổ quốc; có phẩm chất và tài năng để làm tròn nhiệm vụ. Họ là lực lượng thực sự đáng tin cậy của Đảng, là một lực lượng vũ trang thực sự của nhân dân.


Việc xây dựng đội ngũ cán bộ xuất phát từ đường lối chính trị và nhiệm vụ tổ chức của Đảng trong từng thời kỳ nhất định. Bởi Đảng cho rằng, có đường lối chính trị và nhiệm vụ tổ chức đúng thì mới có phương hướng và nội dung đúng để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh.


Qua quá trình đấu tranh và trưởng thành, Đảng ta đã xây dựng và rèn luyện được một đội ngũ cán bộ quân sự có số lượng đông, có chất lượng cao. Đây là những người tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, có năng lực, có kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, đấu tranh vũ trang. Đó trước hết là vì Đảng đã có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng và trên cơ sở đó đường lối công tác cán bộ đúng. Đường lối công tác cán bộ của lực lượng vũ trang nhân dân phải quán triệt đầy đủ đường lối chung của Đảng trong công tác cán bộ. Nó thể hiện ở đường lối giai cấp, tiêu chuẩn và chính sách cán bộ do Đảng đề ra.


Đường lối giai cấp của Đảng là đường lối cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Đường lối giai cấp trong công tác cán bộ là đường lối thể hiện tinh thần của giai cấp công nhân, nhằm xây dựng một đôi ngũ cán bộ đảm bảo thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Qua đó, công tác xây dựng đảng luôn được bảo đảm. Đảng là lực lượng tiên phong lãnh đạo của dân tộc, xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản vững mạnh, phấn đấu cho sự nghiệp toàn thắng của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Thực hiện đường lối đó, trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng luôn chú trọng lựa chọn, đào tạo những người ưu tú xuất thân từ những thành phần cơ bản trong xã hội từ các tầng lớp nhân dân lao động.


Những quan điểm tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực xây dựng và phát huy nhân tố con người là một bảo đảm cho sự phát triển vững chắc, liên tục của sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Lực lượng vũ trang được Đảng giáo dục, rèn luyện đã có ý thức giác ngộ chính trị, giác ngộ giai cấp, đào tạo nên những quân nhân tiêu biểu của Việt Nam - là những cán bộ, chiến sĩ có tinh thần chiến đấu cao, có ý thức kỷ luật tự giác và nghiêm minh. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa con người, trang bị vũ khí và cách sử dụng, thấy rõ mối quan hệ của nhân tố đó để đề ra phương hướng xây dựng thích hợp, phát huy sức mạnh to lớn của lực lượng vũ trang nhằm đánh thắng địch.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #112 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2021, 01:22:12 pm »

8. Những bước phát triển về chất của bộ đội chủ lực, từng bước hoàn thiện cơ cấu của lực lượng quân đội chính quy trong hai cuộc kháng chiến

Với quan điểm "muốn đánh giặc, phải có quân đội", trong Chỉ thị Thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân (22-12-1944), Lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ rõ: "muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của Đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.507). Chủ trương đó tiếp tục được phát triển hoàn thiện trong cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược, từ Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đến Vệ quốc đoàn, Quân đội quốc gia Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam, đều được xây dựng trên nền tảng lực lượng vũ trang địa phương, coi bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ và lực lượng hậu bị trực tiếp của quân chủ lực.


Từ cuối năm 1945, các lực lượng vũ trang địa phương phát triển khá nhanh, song các đơn vị tập trung (bộ đội chủ lực) trực thuộc Trung ương còn ít, mới chỉ có vài chi đội Giải phóng quân. Vì vậy, bên cạnh việc xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc, nòng cốt là tự vệ chiến đấu ở các địa phương, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm chỉ đạo tổ chức, xây dựng và phát triển bộ đội chủ lực. Trên cơ sở những đơn vị du kích và tự vệ chiến đấu phát triển rộng khắp, Đảng đã chỉ đạo tuyển chọn những chiến sĩ có giác ngộ tốt, có tinh thần hăng hái chiến đấu và sức khỏe tốt bổ sung cho các đơn vị quân chủ lực. Đến cuối năm 1945, tổng số bộ đội chủ lực trên cả nước có khoảng 50.000 người, được tổ chức thành 40 chi đội thuộc các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ. Các chi đội Vệ quốc đoàn (trước đó là Giải phóng quân) đã được các địa phương quan tâm xây dựng, phát triển nhanh về số lượng và quy mô tổ chức. Ngày 22-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 71/SL đổi tên Vệ quốc đoàn thành Quân đội quốc gia của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. sắc lệnh cùng với bản quy tắc kèm theo quy định về tổ chức biên chế thống nhất từ tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, liên đoàn, tập đoàn của bộ binh và các đơn vị chuyên môn, hỏa lực trợ chiến. Trên cơ sở phương hướng đó, các chi đội Vệ quốc đoàn ở Bắc Bộ và Trung Bộ được biên chế thống nhất theo từng đơn vị cấp trung đoàn và tiểu đoàn độc lập. Riêng ở Nam Bộ, do chưa có điều kiện cải tổ thành trung đoàn nên lúc này, lực lượng quân đội vẫn tổ chức theo hình thức chi đội. Trên cơ sở các trung đoàn, Đại đoàn 1 và Đại đoàn 2 (ở Bắc Bộ), các Đại đoàn 23, Đại đoàn 27 và Đại đoàn 31 (ở Nam Trung Bộ) ra đời. Tuy nhiên, việc tổ chức các đại đoàn chủ lực trong giai đoạn này còn nặng về hình thức, mới chỉ có ý nghĩa là thâu gộp lực lượng. Trình độ, năng lực của cán bộ và cơ quan chỉ huy còn thấp, điều kiện, khả năng cung cấp hậu cần, vũ khí trang bị kỹ thuật, địa bàn hoạt động... không đáp ứng được những đòi hỏi của các đơn vị bộ đội chủ lực với quy mô tổ chức cấp đại đoàn. Sớm nhận thức sự chưa phù hợp đó, tháng 11-1946, Đảng quyết định giải thể các ban chỉ huy đại đoàn ở Bắc Bộ và Nam Trung Bộ.


Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng vũ trang quần chúng phát triển nhanh về số lượng, nhưng về tổ chức còn đơn giản, còn nặng về hình thức. Lực lượng vũ trang tuy số lượng đông nhưng chưa mạnh. Sự phối hợp hoạt động giữa bộ đội chủ lực với lực lượng dân quân du kích, tự vệ thiếu nhịp nhàng và còn nhiều hạn chế. Quy luật của chiến tranh giải phóng trong điều kiện lịch sử cụ thể lúc bấy giờ là phải bắt đầu từ du kích chiến, để rồi từ đó từng bước phát triển lên vận động chiến, kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Nhưng điều này lúc đầu chúng ta chưa thực sự nhận thức rõ. Tuy vậy, sau một thời gian ngắn, Đảng đã kịp thời rút ra kinh nghiệm và từng bước khắc phục những hạn chế, thiếu sót nhằm hoàn chỉnh về cơ cấu tổ chức, nâng cao sức mạnh của lực lượng vũ trang ba thứ quân nói chung và lực lượng bộ đội chủ lực nói riêng, góp phần đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp trong quá trình phát triển của cuộc kháng chiến.


Trong kháng chiến chống Pháp, để kháng chiến lâu dài, Đảng, Chính phủ Việt Nam gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ, đồng thời khẩn trương xây dựng bộ đội chủ lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: "Để đánh thắng thực dân Pháp,... ta phải có một quân đội nhân dân thật mạnh và luôn luôn tiến bộ"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.12). Từ chỗ trước đây là tổ chức vũ trang quần chúng do Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc xây dựng, đến tháng 3-1947, lực lượng dân quân du kích, tự vệ được thống nhất về tổ chức, trở thành một bộ phận của lực lượng vũ trang, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của các cấp xã đội, huyện đội, tỉnh đội. Đối với bộ đội chủ lực, đã có những chuẩn bị cần thiết cho việc xây dựng các binh đoàn cơ động nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến trong giai đoạn từ du kích chiến tiến dần lên vận động chiến và tác chiến chính quy, hiệp đồng binh chủng.


Tháng 3-1948, Bộ Tổng chỉ huy ra chỉ thị cho các khu và liên khu khẩn trương kiện toàn tổ chức bộ đội chủ lực, thống nhất chương trình huấn luyện, kết hợp vừa tác chiến vừa xây dựng. Chỉ thị chỉ rõ: Mỗi khu, Liên khu xây dựng một trung đoàn chủ lực gồm ba tiểu đoàn, có một tiểu đoàn mạnh làm nhiệm vụ chủ công; mỗi tiểu đoàn có ba đại đội bộ binh và một đại đội trợ chiến. Các trung đoàn chủ lực của Khu, Liên khu hoạt động trên phạm vi địa bàn từ một đến ba tỉnh. Thực hiện chỉ thị trên, trong năm 1949, Bộ Tổng Tham mưu đã tích cực kiện toàn các trung đoàn chủ lực trực thuộc Bộ, tăng cường quân số và vũ khí trang bị để nâng cao quy mô tổ chức nhằm đẩy mạnh chiến tranh chính quy, đáp ứng yêu cầu tác chiến tập trung ngày càng lớn trong kháng chiến. Từ tổ chức quân chủ lực bộ binh đơn thuần, cơ cấu giản đơn, ta đã tiến lên một bước là xây dựng các tổ chức các binh đoàn (đại đoàn, sư đoàn) lục quân, các binh chủng pháo binh mặt đất, phòng không, công binh, thông tin, vận tải phù hợp với tổ chức quân sự hiện đại để tác chiến với quân đội viễn chinh của thực dân Pháp trong kháng chiến. Tiếp đó là xây dựng hệ thống chỉ huy, lãnh đạo, huấn luyện đào tạo, giáo dục, bảo đảm hậu cần - kỹ thuật đáp ứng với yêu cầu mới. Với loại hình tổ chức này, ta đã xây dựng được những tập đoàn lực lượng lớn đáp ứng yêu cầu tiến hành các chiến dịch, các hoạt động chiến lược có ý nghĩa quyết định cục diện chiến tranh, làm chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ ba (2-1950) của Đảng chỉ rõ: Bộ đội chủ lực sẽ xây dựng những trung đoàn mạnh, rồi tiến tới đại đoàn, binh đoàn, bộ đội chủ lực... tiến hành vận động chiến, với quy mô ngày càng lớn rộng... Nhiệm vụ xây dựng chủ lực là một nhiệm vụ nặng nề và gấp rút.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #113 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2021, 01:27:18 pm »

Với chủ trương đúng đắn của Đảng, nhiều đại đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời, các binh chủng chiến đấu, binh chủng bảo đảm cũng lần lượt được thành lập và nhanh chóng phát triển. Ngày 28-8-1949, tại Thị trấn Đồn Đu (Thái Nguyên), Đại đoàn Quân Tiên Phong được thành lập gồm: Trung đoàn 88, Trung đoàn 102, Trung đoàn 36, Tiểu đoàn bộ binh 11 và một số đơn vị binh chủng trực thuộc khác. Đây là đại đoàn chủ lực (sau đổi là sư đoàn) cơ động đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp đó, 5 đại đoàn bộ binh lần lượt được thành lập: Đại đoàn 304 - Đại đoàn Vinh Quang (10-3-1950), Đại đoàn 312 - Đại đoàn Chiến Thắng (27-12-1950), Đại đoàn 320 - Đại đoàn Đồng Bằng (16-1-1951), Đại đoàn 316 (1-5-1951), Đại đoàn 325 - Đại đoàn Bình Trị Thiên (5-12-1952). Về binh chủng, thành lập Đại đoàn Công Pháp 351 (27-3-1951) - đại đoàn binh chủng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Vũ khí trang bị của các đại đoàn phần lớn do thu được của địch, số còn lại do Việt Nam sản xuất và một phần do Trung Quốc giúp đỡ.


Gắn liền với quan tâm tổ chức xây dựng và phát triển các đại đoàn, binh đoàn chủ lực mạnh đế đáp ứng chiến tranh chính quy, Đảng thường xuyên coi trọng huấn luyện, giáo dục "rèn cán, chỉnh quân". Ngày 10-11-1947, Bộ Tổng chỉ huy ra huấn luyện mở cuộc vận động "rèn luyện quân đội và lập chiến công" nhằm rèn luyện bộ đội ta về mọi mặt, nâng cao tinh thần chiến đấu, phục vụ trực tiếp cho mục đích giành thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947. Thường xuyên duy trì xây dựng, rèn luyện bộ đội bảo đảm nâng cao trình độ chiến thuật, kỹ thuật, nhất là về bản lĩnh chiến đấu và năng lực tổ chức chỉ huy cho cán bộ các cấp và cơ quan.


Thực tiễn phát triển của cuộc kháng chiến đòi hỏi phải tăng cường sức mạnh chiến đấu và chất lượng toàn diện của quân chủ lực, tạo ra sức đột kích trong các chiến dịch; đồng thời, trước tình hình tư tưởng và nhận thức của cán bộ, đảng viên đối với nhiệm vụ còn nhiều hạn chế, đầu năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở đợt chỉnh huấn trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và các đơn vị toàn quân. Tổng Quân ủy xác định: Nhiệm vụ trung tâm của việc xây dựng quân đội trong năm 1953 là thực hiện vấn đề chỉnh quân về chính trị, trong đó trọng điểm là về tư tưởng, chủ yếu là ở đội ngũ cán bộ. ở các đại đoàn chủ lực, lớp chỉnh quân về chính trị lấy đơn vị đại đội, do chi bộ trực tiếp lãnh đạo. Sau khi các đơn vị cơ bản đã kết thúc nhiệm vụ chỉnh quân về chính trị, đầu tháng 9-1953, bộ đội ta bước vào đợt chỉnh huấn về quân sự. Bộ Tổng Tư lệnh nêu rõ: Phải trau dồi cho giỏi chiến thuật và kỹ thuật. Nếu đã có bước tiến bộ về chính trị - tư tưởng, thì phải tiến bộ về chiến thuật và kỹ thuật nữa mới thực sự nâng cao sức chiến đấu của quân đội lên một bước mới...


Trước những diễn biến của cuộc kháng chiến ngày càng có lợi cho Việt Nam, cuối năm 1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, thông qua kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954 và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Bộ Tổng tham mưu xây dựng biên chế mới theo hướng gọn nhẹ, tăng cường hỏa lực và sức đột kích, đồng thời bổ sung quân số, vũ khí trang bị đầy đủ theo biên chế mới nhằm đáp ứng sự chuyển biến của tình hình.


Quán triệt chỉ thị trên, các đại đoàn chủ lực tập trung thực hiện nhiệm vụ chỉnh huấn quân sự theo kế hoạch do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo, trong đó chú trọng một số nội dung về cách đánh mới phù hợp với tình hình địch, với tổ chức biên chế và vũ khí trang bị mới của quân đội ta. Vấn đề tổ chức biên chế cũng được chú trọng chấn chỉnh theo hướng gọn nhẹ, tăng cường hỏa lực và sức đột kích. Quân số và vũ khí trang bị đã được bổ sung kịp thời theo yêu cầu tổ chức biên chế mới. Nhờ vậy, đến cuối năm 1953, sức mạnh chiến đấu của các đại đoàn đã được nâng lên một bước quan trọng. Quy mô tác chiến được mở rộng, hình thức tác chiến phong phú: vận động chiến, chiến dịch phản công, tiến công trận địa với quy mô và lực lượng lớn. Công tác huấn luyện được tiến hành cả trong quá trình chuẩn bị chiến dịch. Sau 55 ngày đêm chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ, các đại đoàn chủ lực 308, 312, 316, 351... cùng các lực lượng trên địa bàn chiến dịch đã tiêu diệt và bắt hàng toàn bộ quân địch. Đến chiến dịch này, nghệ thuật quân sự Việt Nam có bước phát triển lớn, đã tổ chức được một chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân đội Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Hầu hết các đại đoàn chủ lực của Bộ (5-7) được huy động tham gia chiến dịch đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần quyết định kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược. Điều đó khẳng định tư tưởng đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ trương tập trung xây dựng, phát triển quân chủ lực thực hiện vai trò đẫn đầu trong phát huy sức mạnh của ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân kháng chiến.


Bước sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vũ trang ba thứ quân đã lớn mạnh, trưởng thành làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trên các chiến trường từ Bắc vào Nam. Tuy nhiên, trước đối tượng tác chiến lần này là quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và quân đồng minh được trang bị vũ khí hiện đại hơn, được huấn luyện theo yêu cầu chiến tranh hiện đại, công cuộc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân lại đặt ra những yêu cầu mới cao hơn.


Trong suốt cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra phương châm, chỉ đạo sát sao sự nghiệp xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân trên cơ sở xây dựng phát triển lực lượng chính trị, phát huy sức mạnh đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến miền Nam, từng bước hoàn chỉnh cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân với quy mô, số lượng thích hợp, sức chiến đấu cao.


Ngày 6-7-1956, bức điện về tình hình nhiệm vụ và công tác miền Nam (được trích từ Nghị quyết Bộ Chính trị họp ngày 8, 9 và 12-6-1956) nhấn mạnh: ở miền Nam vấn đề quan trọng là phải tranh thủ xây dựng lực lượng cách mạng... Vì tuy "hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.225). Vì thế, phải "củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.228).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #114 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2021, 01:27:58 pm »

Tháng 3-1957, bàn về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 (khóa II) thông qua kế hoạch quân sự 5 năm (1955-1960), xây dựng quân đội nhân dân tiến lên chính quy, hiện đại làm trụ cột vững chắc .bảo vệ miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chủ trương chuẩn bị thực lực của cách mạng, đặt việc tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân ở miền Bắc thành một trong những nhiệm vụ chủ yếu của quân và dân Việt Nam. Nói chuyện với cán bộ cao cấp và trung cấp quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ Quân đội nhân dân Việt Nam nhất định phải tiến từng bước lên chính quy, hiện đại gồm nhiều quân chủng, binh chủng, với quy mô tổ chức và số lượng hợp lý, chất lượng ngày càng cao.


Trước yêu cầu xây dựng và phát triển thực lực của cách mạng miền Nam, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (tháng 1-1959) của Đảng đã xác định: "Nếu ta tổ chức lực lượng chính trị cho tốt, khi cần vũ trang sẽ không khó". Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 15 cùng các nghị quyết Trung ương khác, việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam được đẩy mạnh. Từ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng và trong cuộc Đồng khởi, các lực lượng vũ trang giải phóng đã ra đời, phát triển nhanh chóng với ba hình thức tổ chức: các đội tự vệ, du kích xã; các đội vũ trang tỉnh, huyện; các đơn vị bộ đội tập trung của khu, trong đó bộ đội chủ lực được tổ chức phổ biến với quy mô cấp trung đoàn, đến những năm 1965-1966 là quy mô cấp sư đoàn. 


Đầu tháng 8-1964, trước tình hình đế quốc Mỹ chuẩn bị dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc, Bộ Chính trị họp hội nghị bất thường, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho các lực lượng vũ trang nhân dân: "Chuẩn bị chuyển sang thời chiến".


Miền Bắc tiến hành xây dựng hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa trong 10 năm đã tạo ra những thuận lợi rất cơ bản để xây dựng, phát triển về cơ cấu, nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Từ phương thức tổ chức lực lượng vũ trang đã được xác định trong những năm 1954-1964, Quân đội nhân dân Việt Nam đã có bước trưởng thành mới: từ đơn thuần bộ binh, tổ chức không thống nhất, thành một quân đội nhân dân chính quy và tương đối hiện đại, gồm các quân chủng lục quân, phòng không - không quân và hải quân. Bộ đội chủ lực được tổ chức thành các binh đoàn bộ binh mạnh, biên chế nhiều thành phần binh chủng, quy mô tổ chức phố biến là sư đoàn và trung đoàn bộ binh độc lập. Bộ đội địa phương tổ chức cấp tiểu đoàn bộ binh ở tỉnh. Dân quân du kích tổ chức ở các hợp tác xã nông nghiệp, tự vệ được thành lập ở tất cả các xí nghiệp, công - nông trường, cơ quan nhà nước.


Trước tình hình đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra cả nước, ngày 25-3-1965, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 11 (khóa III), Đảng đã quyết định mở rộng Quân đội nhân dân Việt Nam theo kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang thời chiến. Những năm này, Đảng vẫn thường xuyên quan tâm chỉ đạo việc xây dựng lực lượng vủ trang nhân dân và việc đến thăm các đơn vị bộ đội phòng không - không quân, pháo binh, công binh, đặc công, thông tin, vận tải... Đây là những binh chủng kỹ thuật hiện đại đang trưởng thành trong các lực lượng vũ trang nhân dân.


Quán triệt các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân có những bước phát triển mạnh mẽ, vững chắc. Đó là việc ra đời các quân chủng, binh chủng mới như Quân chủng Phòng không - Không quân đã có bước trưởng thành vượt bậc, hình thành lực lượng phòng không chủ lực (gồm các binh chủng pháo phòng không, tên lửa phòng không, không quân chiến đấu và rađa cảnh giới) và lực lượng phòng không bộ đội địa phương. Đặc biệt là các binh đoàn chủ lực của lục quân có sự phát triển mạnh về tổ chức với quy mô từ cấp sư đoàn phát triển thành quân đoàn binh chủng hợp thành vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh. Việc thành lập các quân đoàn 1, 2, 3, 4 cả ở hậu phương và tiền tuyến, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về quy mô tổ chức lực lượng của Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, lực lượng vũ trang ba thứ quân nói chung. Cho đến thời điểm đó, lực lượng vũ trang ta có các quân đoàn binh chủng hợp thành làm nòng cốt, trang bị khá mạnh, sức đột kích lớn, sức cơ động cao. Đó là một nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho lực lượng vũ trang ta mở các chiến dịch tiến công quy mô lớn, đánh tiêu diệt lớn quân địch, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Trên nền chung của cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân hoàn chỉnh theo tiến trình phát triển chung của cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử. Đây là hình thức tổ chức thích hợp với yêu cầu và phương pháp cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Với cách tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân theo tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng, quân, dân Việt Nam đã kết hợp xây dựng quân đội cách mạng với lực lượng vũ trang nhân dân phù hợp với quy luật tổ chức và sử dụng lực lượng vũ trang ba thứ quân, phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của nó, góp phần vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #115 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2021, 01:29:48 pm »

9. Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, trong đó dân quân tự vệ là khâu rất cơ bản trong toàn bộ hoạt động quân sự

Truyền thống "cả nước chung sức" chiến đấu chống giặc ngoại xâm, "trăm họ là binh" từ các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh đã thể hiện đặc tính dân tộc trong quá trình dựng và giữ nước. Bởi vậy, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc từ lâu trong lịch sử Việt Nam đã là khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.


Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống và kinh nghiệm quý báu của dân tộc, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đề ra chủ trương về lực lượng vũ trang quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn quan tâm xây dựng, lực lượng đó ngày càng phát triển, góp phần quyết định đánh thắng những kẻ thù xâm lược hung bạo nhất của thời đại.


Trong quá trình lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang (1945-1975), Đảng luôn xác định dân quân là một lực lượng chiến lược và là hậu bị quân của quân đội chính quy. Nhiệm vụ cơ bản của dân quân tự vệ là làm nòng cốt phát động phong trào toàn dân đánh giặc, bảo vệ Đảng và chính quyền, bảo vệ cơ sở kinh tế và quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị ở địa phương, là nguồn bố sung cho bộ đội thường trực; phối hợp với bộ đội trong tác chiến, làm xung kích trong sản xuất và bảo vệ sản xuất.


Đảng chăm lo phát triển dân quân tự vệ ở khắp các thôn xã, khu phố, cơ quan, xí nghiệp, nhất là ở những vùng xung yếu như ven biển, trong và ven đô thị, các đầu môì giao thông và xung quanh các căn cứ quan trọng của địch. Tổ chức dân quân tự vệ tuy rộng rãi, nhưng vẫn có bộ phận trung kiên nòng cốt để đảm nhận những nhiệm vụ trọng yếu. Biên chế dân quân tự vệ rất linh hoạt, gọn nhẹ, không ảnh hưởng đến việc chỉ huy, quản lý, huấn luyện.


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng đã kết hợp nhuần nhuyễn học thuyết quân sự Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với truyền thống quân sự của dân tộc, tinh hoa quân sự Đông - Tây để hình thành nên cơ sở tư tưởng của đường lối quân sự của Đảng. Đường lối đó phản ánh những vấn đề có tính quy luật trong chiến tranh cách mạng ở một nước thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc.


Ngay khi mới ra đời, trong cương lĩnh cách mạng của mình, Đảng đã khẳng định quan điểm cách mạng bạo lực, chỉ ra con đường đấu tranh vũ trang để giành chính quyền và vạch rõ đường lối tổ chức lực lượng để thực hiện các mục tiêu cách mạng. Trong Chính cương vắn tắt của Đảng (2-1930) cũng nêu rõ: "Vũ trang cho công nông", "lập quân đội công nông" và "tổ chức đội tự vệ công nông". Như vậy, ngay từ ngày đầu mới thành lập, Đảng đã đề ra việc vũ trang cho quần chúng và xây dựng quân đội cách mạng đồng thời với việc nêu lên phương hướng giai cấp của việc tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng. Đảng chỉ rõ: "Không có một sản nghiệp nào, một làng nào có cơ sở của Đảng, của Đoàn, của các hội quần chúng cách mạng mà không có tổ chức Đội Tự vệ"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.96), "Luôn luôn phải giữ tính chất cách mạng của Đội Tự vệ"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.95).


Chính vì vậy, từ những năm 1930-1931, Đảng đã chỉ đạo việc xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng (lực lượng dân quân tự vệ). Trước yêu cầu bảo vệ quần chúng trong các cuộc đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị, trong phong trào Xôviết Nghệ Tĩnh đã xuất hiện các đội Tự vệ đỏ. Các đội Tự vệ đỏ được tổ chức bao gồm những quần chúng ưu tú, trưởng thành trong các cuộc đấu tranh, nhằm thực hiện mục đích: ủng hộ quần chúng hằng ngày, ủng hộ quần chúng trong các cuộc đấu tranh, ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sĩ cách mạng của công - nông; quân sự huấn luyện cho lao động cách mạng; chống quân thù giai cấp tấn công và làm cho vận động cách mạng phát triển thắng lợi.


Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc). Đại hội đã có riêng một Nghị quyết về đội tự vệ, khẳng định: "Tự vệ càng mạnh thì tức là có điều kiện thuận tiện để sau này tổ chức du kích chiến tranh, võ trang bạo động"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.92). Đại hội chủ trương thành lập "Đội tự vệ công nông thường trực"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.94), coi đó là tổ chức có tính chất bán quân sự để cùng quần chúng "chuẩn bị những điều kiện cần thiết sau này"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.96).


Vào những năm chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, hàng loạt đội tự vệ cứu quốc được thành lập ở những nơi có các hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, ở miền núi, trung du, đồng bằng, cũng như ở nông thôn và thành thị. Từ trong lực lượng tự vệ cứu quốc đó, có một quá trình thành lập ra các đội tự vệ chiến đấu (hoặc còn gọi là tiểu tổ du kích) làm hạt nhân; các đội này được tổ chức chặt chẽ hơn, trang bị đầy đủ hơn và luyện tập nhiều hơn. Ngoài cái "vốn" quân sự tập trung đầu tiên là đội du kích (sau đổi tên thành Cứu quốc quân) được duy trì và phát triển sau cuộc khời nghĩa Bắc Sơn, tại những nơi có phong trào Việt Minh và lực lượng tự vệ phát triển mạnh, nhất là hai trung tâm cách mạng Cao Bằng và Bắc Sơn - Vũ Nhai (sau lan rộng hầu khắp các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) đã hình thành và phát triển các đội du kích thoát ly. Đó là lực lượng vũ trang tập trung làm nòng cốt cho phong trào du kích, cho việc xây dựng và bảo vệ các khu căn cứ tại các tỉnh, các huyện.


Trong điều kiện phong trào cách mạng cả nước nói chung và khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng nói riêng đang trên đà phát triển mạnh, trên cơ sở các lực lượng tự vệ, du kích các địa phương Cao - Bắc - Lạng đã trưởng thành đế từ đó, có một lực lượng chủ lực làm nòng cốt thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng ỏ khu căn cứ và chuẩn bị cho việc phát động chiến tranh du kích sắp tối, đồng thời giúp đỡ cho các lực lượng vũ trang địa phương trưởng thành nhanh chóng.


Sau khi Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng gồm ba thứ quân đã bước đầu hình thành: đội quân chủ lực của khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng (và sau này là của cả nước), các đội du kích tập trung của các huyện, các tỉnh và lực lượng tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu ở khắp các làng xã.


Từ khi tiến hành cách mạng, Việt Nam bước sang thời kỳ trực tiếp vận động giải phóng dân tộc, gấp rút chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Để tăng cường hơn nữa khối đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cứu nước khẩn cấp, cùng với việc mở rộng hơn nữa các thành phần tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, Đảng cũng đã mở rộng các thành phần tham gia vào lực lượng vũ trang cách mạng. Lực lượng vũ trang cách mạng được xây dựng trên cơ sở phát triển lực lượng chính trị quần chúng, nên thành phần của nó cũng phản ánh thành phần cấu thành của lực lượng chính trị quần chúng đó. Với Chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh (tháng 5-1944), hàng ngũ lực lượng vũ trang quần chúng càng được mở rộng để đáp ứng nhu cầu gấp rút chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa toàn dân. Đó là: "Trong tình thế trực tiếp cách mạng, phải tuyển thêm người hăng hái, kiên quyết trong dân chúng; có chăn trong các tổ chức cứu quốc của Việt Minh hay không, cho nhập bọn với những đội viên tự vệ hăng hái và tiểu tổ du kích... trong tình thế quyết liệt, tất cả các chiến sĩ Việt Minh và hơn nữa một phần đông dân chúng phải gia nhập đội quân cứu quốc, vác võ khí ra trận"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.493).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #116 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2021, 01:31:25 pm »

Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi và cuộc đấu tranh giành chính quyền cách mạng chính là sự khảo nghiệm đúng đắn, sáng tạo phương thức tổ chức lực lượng và trong cách mạng đi từ vũ trang quần chúng cách mạng tiến lên xây dựng quân đội nhân dân, kết hợp vũ trang quần chúng cách mạng với xây dựng quân đội nhân dân. Hình thức tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng bao gồm cả quân chủ lực và quân địa phương, cả bộ đội tập trung và dân quân tự vệ rộng rãi của Đảng.


Dân quân du kích, tự vệ từ chỗ là tổ chức vũ trang quần chúng do Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể Cứu quốc xây dựng, chỉ đạo. Đến tháng 3-1947, các lực lượng đó được thống nhất về tổ chức, trở thành một bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Dân quân du kích, tự vệ đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của các cấp xã đội, huyện đội, tỉnh đội bộ dân quân. Đây là bước phát triển mới về cơ cấu tổ chức lãnh đạo, chỉ huy của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Dân quân du kích, tự vệ là lực lượng rộng rãi của nhân dân, gắn bó với làng chiến đấu và sản xuất, gắn liền với cơ quan xí nghiệp, cùng bộ đội tiến hành chiến tranh du kích ở địa phương, cùng lực lượng vũ trang quần chúng tiến hành cuộc nổi dậy giành chính quyền ở cơ sở. Tổ chức dân quân du kích tự vệ, phổ biến là tiểu đội, trung đội, đại đội, vừa sản xuất, vừa chiến đấu ngay tại địa phương, hay tại đơn vị mình công tác bằng mọi thứ vũ khí, từ thô sơ đến tương đối hiện đại, với hình thức tác chiến rất phong phú, linh hoạt và sáng tạo.


Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng với bộ đội địa phương, dân quân du kích đã phát huy tác dụng quan trọng trong xây dựng, giữ vững và mở rộng các khu du kích và các căn cứ du kích, bảo vệ vùng tự do, phối hợp với bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực đánh bại các cuộc càn quét, lấn chiếm của địch.... Nhờ sự tham gia của lực lượng này, lực lượng vũ trang cách mạng đã đẩy mạnh chiến tranh nhân dân địa phương, tạo thuận lợi cho bộ đội chủ lực mở những chiến dịch lớn để tiêu diệt những bộ phận sinh lực quan trọng của địch.


Để củng cố, mở rộng lực lượng dân quân tự vệ, tháng 2-1947, Bộ Quốc phòng ra thông tư quy định tổ chức mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi vào dân quân, đề ra nhiệm vụ cho dân quân tự vệ và các đội du kích. Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ hai (tháng 4-1947) quyết định: mỗi làng, mỗi địa phương phải phái ngay cán bộ cứu quốc có năng lực ra đảm đang việc lãnh đạo dân quân; vệ quốc quân đóng ở nơi nào có trách nhiệm huấn luyện quân sự cho dân quân. Trung ương Đảng còn chủ trương hóa một phần bộ đội thành dân quân và xúc tiến việc võ trang dân quân"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.183-184). Dân quân tự vệ đông đảo tạo thành lực lượng tại chỗ mạnh, thúc đẩy chiến tranh nhân dân ở từng cơ sở phát triển, góp phần tiêu hao, tiêu diệt địch ở khắp nơi, giam chân và phân tán lực lượng địch, tạo thuận lợi cho bộ đội địa phương và chủ lực cơ động tác chiến.


Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong hàng ngũ các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu trên cả nước, các đội du kích ở các chiến khu, căn cứ vũ trang và các đơn vị giải phóng quân ở khu giải phóng Việt Bắc, có đại diện đủ mọi giai cấp, tầng lớp, từ công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, cho đến cả những cá nhân yêu nước, có tham gia Việt Minh hoặc không, thuộc đủ mọi thành phần dân tộc, từ các chiến sĩ người Kinh đến các chiến sĩ người Tày, người Nùng, người Mán, người Mưòng, người Dao... Tùy theo điều kiện địa lý, kinh tế và dân cư cụ thể, có nơi thì tổ chức ra đơn vị vũ trang gồm những người thuộc các tầng lớp hoặc các thành phần dân tộc khác nhau; có nơi thì tổ chức ra đơn vị vũ trang chỉ gồm những người thuộc riêng một tầng lớp, một đơn vị kinh tế, một địa vực (như đội tự vệ công nhân một nhà máy, đội tự vệ nông dân một làng xã, đội tự vệ thanh niên một đường phố, đội tự vệ của đồng bào dân tộc một tổng, một xã nào đấy).


Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi cho thấy sự kết hợp giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, giữa chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích là ưu thế nổi bật của chiến tranh nhân dân để động viên toàn dân đánh giặc, phát huy được sức mạnh của chiến tranh chính nghĩa. Trên cơ sở động viên toàn dân, lần đầu tiên Đảng đã tiến hành thắng lợi một cuộc chiến tranh nhân dân lâu dài chống chiến tranh xâm lược, xây dựng thành công một lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân ngày càng mạnh, phát huy sức mạnh của một nước nhỏ để đánh thắng một đế quốc to có quân đội nhà nghề, số lượng đông, trang bị vũ khí hiện đại.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với một đế quốc xâm lược đầu sỏ, có tiềm lực lớn về kinh tế và quân sự, có lực lượng vật chất và kỹ thuật hùng mạnh, có nhiều vũ khí và phương tiện hiện đại. Trong điều kiện đó, vai trò của lực lượng dân quân tự vệ hết sức quan trọng và vô cùng cần thiết.


Trong khi miền Bắc có điều kiện hòa bình để xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì ở miền Nam, chiến tranh vẫn chưa chấm dứt. Đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường trấn áp phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, từ đấu tranh vũ trang thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhân dân Việt Nam chuyến sang đấu tranh chính trị, yêu cầu địch thi hành Hiệp định Giơnevơ, chống địch đàn áp, khủng bố". Đứng trước hành động phát xít của địch, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam ngày càng đòi hỏi bức thiết phải có lực lượng vũ trang tự vệ.


Xuất phát từ tình hình cụ thể của cách mạng miền Nam, tháng 6-1956, Bộ Chính trị chỉ rõ: "Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải đấu tranh vũ trang"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.225, 228); nhưng "như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.225, 228). Đến những năm 1956-1958, ở nhiều địa phương miền Nam lần lượt xuất hiện các đơn vị vũ trang tự vệ của quần chúng cách mạng. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị nhắc nhở phải "củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ làm chỗ dựa"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.225, 228).


Phương châm xây dựng lực lượng vũ trang được Đảng xác định là phải từ việc "xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang"4 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.17, tr.225, 228), và nhấn mạnh vấn đề hết sức quan trọng hiện nay là phải tranh thủ xây dựng lực lượng cách mạng, tiến tới thành lập Mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, từ phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, từ lực lượng chính trị phát triển mạnh mẽ mà xây dựng và tổ chức lực lượng vũ trang, nhằm hỗ trợ cho đấu tranh chính trị.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #117 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2021, 01:33:01 pm »

Khi xác định phương châm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, Đảng ta đã nắm vững quy luật phổ biến về sự ra đời của lực lượng vũ trang cách mạng trong các cuộc chiến tranh giải phóng. Đó là sự phát triển từ không đến có, từ phong trào chính trị rộng rãi của quần chúng mà hình thành, tuần tự từ nhỏ đến lớn, từ thấp lên cao. Đồng thời, Đảng còn biết tận dụng những điều kiện thuận lợi mới để thúc đẩy quy luật đó vận động nhanh chóng bằng những bước phát triển nhảy vọt. Đồng bào ở miền Nam vốn có truyền thống chống giặc ngoại xâm rất kiên cường, được rèn luyện và có kinh nghiệm đấu tranh vũ trang của Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp. Bên cạnh đó, miền Bắc đã được giải phóng đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Điều kiện đó cho phép thúc đẩy nhanh chóng quá trình xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam.


Những năm 1956-1958, từ trong phong trào đấu tranh chính trị phát triển, các đội tự vệ vũ trang đã được thành lập ở Nam Bộ, khu 5 và cuối năm 1957, xuất hiện đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ. Đặc biệt là từ sau khi có Nghị quyết trung ương lần thứ 15 (1-1959), Đảng xác định rõ con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là con đường bạo lực, thì phong trào đấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ đã phát triển mạnh mẽ. Lực lượng chính trị lớn mạnh nhanh chóng, các đội vũ trang được tổ chức ở hầu hết các địa phương. Từ các đội tự vệ nhỏ bé đã hình thành các đội vũ trang tập trung ở xã, huyện, tỉnh và toàn miền. Lực lượng vũ trang đã hỗ trợ đắc lực cho lực lượng chính trị trong các cuộc đấu tranh trực diện với địch giành thắng lợi. Phong trào cách mạng miền Nam bùng lên với khí thế sôi nổi, mạnh mẽ, rộng khắp, có sự kết hợp chặt chẽ của lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, tiến hành nổi dậy giành quyền làm chủ ở một số địa phương, sau đó phát triển thành cuộc Đồng khởi rộng lớn trên quy mô toàn miền vào đầu năm 1960. Trên cơ sở thắng lợi to lớn của phong trào Đồng khởi, ngày 15-2-1961, các đơn vị vũ trang ở miền Nam thống nhất lại thành Quân giải phóng miền Nam.


Để đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc đấu tranh vũ trang, Đảng đề ra nhiệm vụ "phải khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang làm cho lực lượng vũ trang của ta lớn mạnh nhanh chóng... vừa bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt, vừa sẵn sàng đón những thời cơ thuận lợi có thể xảy ra"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.24, tr.846). Với phương châm đó, lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã trưởng thành nhanh chóng. Các đơn vị quân giải phóng ở các địa phương, các đơn vị chủ lực của Khu và Miền được thành lập. Lực lượng dân quân du kích phát triển rộng khắp.


Cuộc cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa đã phát triển thành chiến tranh cách mạng - chiến tranh giải phóng. Về phương châm và hình thức đấu tranh, Đảng chủ trương phải "đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.158); "đấu tranh vũ trang trước đây cốt để tự vệ nay cần nâng lên nhiệm vụ tấn công và tiêu diệt sinh lực địch"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.22, tr.163).


Các thời kỳ tiếp theo hoạt động chiến tranh du kích ở miền Nam liên tục phát triển. Lực lượng dân quân tự vệ thực hiện nhiệm vụ chiến lược tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy, tham gia diệt và bức rút nhiều đồn bốt, phá vỡ nhiều khu dồn dân, các ấp chiến lược, góp phần tạo sức mạnh tổng hợp đánh bại các chiến lược "chiến tranh đặc biệt" và "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ hay trong suốt quá trình Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam những năm này, lực lượng dân quân du kích góp phần hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền và bảo vệ chính quyền ở cơ sở, tạo điều kiện cho các binh đoàn chủ lực cơ động nhanh và liên tục tiến công địch. Dân quân, du kích chuyển hướng theo sự chỉ đạo mới, nỗ lực xây dựng lực lượng, hướng vào nhiệm vụ "làm đòn xeo" cho tấn công, khởi nghĩa và bảo vệ chính quyền cách mạng; kết hợp với các đòn tiến công của các binh đoàn chủ lực, gắn với sự phát triển của lực lượng chính trị, dân quân du kíeh đã phối hợp với bộ đội địa phương thực hiện thắng lợi nhiệm vụ "ấp giải phóng ấp, xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh".


Lực lượng dân quân tự vệ ở miền Bắc những năm này cũng đã có sự phát triển mạnh. Vũ khí trang bị được tăng cường với số lượng lớn, từ loại thông thường đến tương đối hiện đại. Cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng dân quân tự vệ chẳng những có giác ngộ chính trị, mà còn có kiến thức khoa học - kỹ thuật để sử dụng tốt và thành thạo các loại vũ khí và phương tiện tương đối hiện đại và hiện đại. Lực lượng dân quân tự vệ đã tổ chức các đơn vị bắn máy bay bằng súng bộ binh và cả pháo cao xạ các cỡ. Có những đơn vị pháo binh trang bị cả máy đo đạc phục vụ bắn; có những đơn vị công binh sử dụng tốt các phương tiện rà phá bom, mìn thông thường và tối tân, sử dụng các xe máy làm đường và sửa chữa cầu đường. Ở các xí nghiệp, công trường, nông trường, cơ quan, trường học, đường phố, hợp tác xã đều có tổ chức đơn vị dân quân và tự vệ. Quy mô và hình thức tổ chức của lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng thích hợp với từng cơ sở sản xuất và công tác. Có trung đội, đại đội, tiểu đoàn dân quân hoặc tự vệ phân ra lực lượng cơ động và lực lượng phòng thủ, có đủ các thành phần: bộ binh, trực chiến bắn máy bay, trực chiến bắn tàu chiến, công binh, thông tin - quan sát. Đây là bước phát triển cao về tổ chức của lực lượng vũ trang quần chúng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.


Sự phát triển mạnh mẽ về số lượng, với hình thức và quy mô tổ chức linh hoạt, đa dạng làm cho khả năng chiến đấu của dân quân tự vệ được tăng cường, có thể đánh địch rộng rãi ở khắp nơi, đánh địch kịp thời nhất, giải quyết những hậu quả do địch gây ra nhanh nhất, sử dụng được mọi loại vũ khí từ thô sơ đến tương đối hiện đại và vận dụng được nhiều cách đánh sáng tạo. Trong những năm chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, các đơn vị dân quân và tự vệ gái, trai, già, trẻ đều lập thành tích, bắn rơi nhiều máy bay phản lực hiện đại, bắn cháy nhiều tàu chiến địch. Lực lượng dân quân tự vệ đã bắn rơi 424 máy bay, bắn cháy 164 tàu chiến địch, đồng thời còn rà phá được hàng vạn quả bom mìn đế giải tỏa giao thông.


Lực lượng dân quân tự vệ hoạt động chiến đấu gắn bó chặt chẽ với cơ sở sản xuất; những cán bộ, chiến sĩ dân quân và tự vệ làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu vẫn được cơ sở sản xuất và công tác của mình chăm lo đời sống và bảo đảm cung cấp chu đáo. Chế độ xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế tập thể và quốc doanh, hợp tác xã, công, nông trường, xí nghiệp đã cho phép huy động một lực lượng đông hàng chục vạn dân quân tự vệ tham gia vào các hoạt động quốc phòng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #118 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2021, 01:33:57 pm »

Trong chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, do có quân đội thường trực chính quy và hiện đại và lực lượng vũ trang quần chúng đông đảo, nên phương thức tác chiến chính quy, tác chiến du kích đã được kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu và phát triển ngày càng cao. Sự phát triển về mặt tổ chức của lực lượng vũ trang nhân dân làm cho sức mạnh và khả năng chiến. đấu của lực lượng vũ trang không ngừng tăng cường. Thành công của việc tổ chức lực lượng vũ trang trong chiến tranh nhân dân bảo vệ miền Bắc đánh dấu bước phát triển mới của Đảng trong việc vũ trang quần chúng cách mạng và xây dựng quân đội nhân dân, trong một cuộc chiến tranh hiện đại bảo vệ Tổ quốc.


Cùng với việc mở rộng nhanh chóng quân đội nhân dân, lực lượng dân quân tự vệ cũng phát triển mạnh mẽ về số lượng. Mặc dù hằng năm, số lượng động viên từ dân quân tự vệ bổ sung cho quân đội rất lớn, nhưng lực lượng dân quân tự vệ vẫn tăng lên không ngừng, gồm hàng triệu người được tổ chức, trang bị và huấn luyện ở khắp nông thôn và thành thị. Số lượng dân quân tự vệ từ chỗ chiếm 8% dân số vào cuối năm 1964 đã tăng lên 10%, rồi 11% vào năm 1975. Lực lượng vũ trang quần chúng phát triển hùng mạnh. Sự giác ngộ về lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp của công nhân, nông dân tập thể, trí thức mới xã hội chủ nghĩa... đã tạo nền móng vững chắc cho việc vũ trang toàn dân một cách rộng rãi nhất để bảo vệ Tổ quốc. Vai trò của các tổ chức dân quân tự vệ không những được phát huy trong chiến đấu trực tiếp bảo vệ sản xuất, mà còn góp phần quan trọng trên các mặt công tác chiến lược khác như bảo đảm giao thông, tiến hành phòng không nhân dân, giữ gìn trật tự trị an và là lực lượng xung kích trong sản xuất.


Để đánh thắng những kẻ thù xâm lược to lớn, vì độc lập, tự do của dân tộc, Đảng ta đã lãnh đạo và tổ chức toàn dân tiến hành cuộc chiến tranh cứu nước với tinh thần anh dũng tuyệt vời. Đi đôi với việc tổ chức lực lượng chính trị của quần chúng và trên cơ sở đó, Đảng đã giải quyết thành công lực lượng vũ trang nhân dân.


Lực lượng vũ trang nhân dân là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của đấu tranh cách mạng Việt Nam. Sự hình thành và lớn mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân nằm trong quá trình phát triển chung của khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ: khi chưa có chính quyền phải chuẩn bị và thực hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền; Tổng khởi nghĩa giành chính quyền vừa thành công lại phải đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp mới kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì đã phải bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, suốt 21 năm mới giành được toàn thắng; đất nước được độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì lại phải tiến hành liên tục hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía tây - nam và biên giới phía bắc.


Từ thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), có thể rút ra những vấn đề cơ bản sau: Đảng đã luôn nắm vững tư tưởng cách mạng bạo lực, xác định cách mạng bạo lực là con đường duy nhất đưa dân tộc Việt Nam đến thắng lợi.


Đồng thời, Đảng đã vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng bạo lực vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, coi bạo lực cách mạng luôn là sự kết hợp của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, khi thì dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chính, có lực lượng vũ trang làm chỗ dựa để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền, khi thì kết hợp cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng để tiến hành chiến tranh cứu nước. Trong đó, lực lượng vũ trang phải phát huy vai trò nòng cốt hỗ trợ toàn dân đánh giặc trong chiến tranh cách mạng và đấu tranh vũ trang cách mạng.


Từ việc nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực và nhận thức đúng đắn về bạo lực cách mạng ở Việt Nam, Đảng đặc biệt coi trọng vai trò của lực lượng vũ trang, hết sức chăm lo xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân trong từng bước đi của cách mạng và chiến tranh cách mạng. Cũng chính từ quan điểm bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng, Đảng đã nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang nhân dân, coi lực lượng chính trị của quần chúng là nền tảng để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang. Từ nhân dân cách mạng mà sản sinh ra lực lượng vũ trang nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu. Chỉ có tích cực xây dựng và củng cố cơ sở chính trị của quần chúng, gắn chặt việc xây dựng lực lượng vũ trang với phong trào cách mạng của quần chúng thì mới xây dựng được lực lượng vũ trang nhân dân lớn mạnh. Đó là một thành công lớn và cũng là bài học kinh nghiệm trong công cuộc xây dựng lực lượng vũ trang trong những năm này.


Do bản chất giai cấp của mình, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, trước bất cứ thử thách nào, cũng đều trung thành với sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Đó là vì Đảng hết sức coi trọng việc lấy đường lối nhiệm vụ cách mạng và đường lối quân sự của Đảng làm phương hướng xây dựng, làm mục tiêu phấn đấu của lực lượng vũ trang. Việc đề ra đường lối, nhiệm vụ cách mạng đúng đắn có tính quyết định trong việc lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang. Đường lối cách mạng của Đảng là: giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đường lối quân sự của Đảng là: khởi nghĩa và chiến tranh nhân dân để giành và giữ vững chính quyền cách mạng.


Căn cứ vào đường lối, nhiệm vụ cách mạng và đường lối, nhiệm vụ quân sự đó, Đảng đã đề ra nhiệm vụ chính trị và quân sự cho lực lượng vũ trang qua từng giai đoạn. Do nhiệm vụ cách mạng chung và nhiệm vụ chính trị của lực lượng vũ trang được đề ra chính xác và cụ thể, nên đã nâng cao được trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của toàn thể lực lượng vũ trang, tạo nên một khí thế cách mạng sôi nổi, một quyết tâm cách mạng vững chắc, một ý chí quyết chiến, quyết thắng cao. Do nhiệm vụ quân sự của Đảng và nhiệm vụ chiến đấu của lực lượng vũ trang phù hợp với từng bước chuyến lớn của cách mạng và chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã nhận rõ nhiệm vụ chiến đấu của mình trên từng chiến trường, trong từng tình huống chiến lược lớn, nhất là ở những bước ngoặt quyết định của cách mạng và chiến tranh, để ra sức phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó. Như vậy, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam thực sự là công cụ vững chắc để thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Đây là một bài học kinh nghiệm trong công cuộc xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng.


Từ quan điểm vũ trang toàn dân và vận dụng quy luật tổ chức quân sự của cách mạng vô sản vào hoàn cảnh thực tế của đất nước, Đảng đã đề ra đường lối kết hợp vũ trang quần chúng cách mạng với xây dựng quân đội nhân dân, tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân.


Qua quá trình xây dựng và chiến đấu trong các điều kiện đấu tranh khác nhau, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã có những hình thức tổ chức cụ thế với trình độ phát triển ngày càng cao. Nhưng nhìn chung, trong ba thứ quận đã hình thành hai thành phần cơ bản kết hợp với nhau. Đó là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương kết hợp với dân quân du kích. Vũ trang toàn dân là phải vũ trang cho quần chúng rộng rãi, nhưng lại phải xây dựng quân đội nhân dân làm nòng cốt cho các thứ quân. Đó là lực lượng có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm, được huấn luyện tốt, trang bị vũ khí kỹ thuật ngày càng hiện đại, chỉ huy và lãnh đạo tập trung thống nhất, có khả năng đánh tiêu diệt, có trình độ sẵn sàng chiến đấu cao. Lực lượng vũ trang quần chúng cũng có những ưu thế của mình. Đó là lực lượng vũ trang kết hợp chặt chẽ với đông đảo nhân dân, trực tiếp phát huy được sức mạnh to lớn của quần chúng, sử dụng được nhiều thứ vũ khí, kể cả vũ khí thô sơ, vận dụng được nhiều cách đánh ở mọi nơi, trong mọi lúc. Công tác kết hợp xây dựng quân đội nhân dân với vũ trang quần chúng cách mạng là kết hợp xây dựng lực lượng nòng cốt với lực lượng rộng rãi, lực lượng cơ động với lực lượng tại chỗ để đánh bại những đội quân xâm lược đông, trang bị hiện đại, có sức cơ động cao, có hỏa lực mạnh.


Nếu như kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng là hình thức cơ bản của bạo lực cách mạng ở Việt Nam, thì kết hợp quân đội cách mạng với lực lượng vũ trang quần chúng, kết hợp các thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ... lại là phương thức tổ chức quân sự thích hợp để gắn chặt lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị, gắn đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, cũng như gắn khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng. Công tác xây dựng cân đối các thứ quân của Đảng chính là sự kết hợp chặt chẽ lý luận khoa học quân sự Mác - Lênin với truyền thống đấu tranh quân sự của dân tộc, áp dụng vào thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mới của thời đại.


Những chặng đường phát triển và chiến thắng oanh liệt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, đã chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng, sức mạnh của hình thức tổ chức quân sự kiểu mới của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức đứng lên chiến đấu để giải phóng và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #119 vào lúc: 15 Tháng Mười, 2021, 01:35:36 pm »

10. Kết hợp quân đội cách mạng với lực lượng vũ trang quần chúng, xây dựng cân đối và hoàn chỉnh ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân là quy luật về tổ chức và sử dụng lực lượng vũ trang nhân dân

Để phát huy sức mạnh của toàn dân, của cả dân tộc, của cả nước trong khởi nghĩa vũ trang, trong chiến tranh nhân dân, cũng như trong nền quốc phòng toàn dân, trong chiến tranh giải phóng cũng như trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam - một dân tộc phải thường xuyên đương đầu với các thế lực xâm lược lớn và hung bạo của thời đại và đã chiến thắng, Đảng đã xác định những nguyên tắc đúng đắn để xây dựng lực lượng vũ trang một cách toàn diện, vữrìg chắc, luôn đề cao nguyên tắc xây dựng về mặt chính trị, đồng thời hết sức coi trọng những nguyên tắc xây dựng về quân sự để không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, thực hiện càng đánh càng thắng, càng đánh càng mạnh.


Để không ngừng tăng cường bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, Đảng đặt vấn đề và yêu cầu phải luôn nắm vững và thực hiện nghiêm chỉnh những nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, điều này đã trở thành một truyền thống tốt đẹp. Việc xác lập vững chắc và không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội được thực hiện nghiêm túc. Đó là nguyên tắc cơ bản nhất để giữ vững và phát huy sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đảng xác định: luôn luôn coi trọng và làm tốt công tác xây dựng đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, luôn luôn nâng cao hiệu lực của công tác đảng - công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang. Bên cạnh đó, Đảng củng chú trọng nhiệm vụ nâng cao giác ngộ chính tri, tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản chân chính, tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân đội. Từ đó, Đảng coi trọng việc quán triệt đương lối, quan điểm quân sự của Đảng, khoa học và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân; tích cực đấu tranh chống những ảnh hưởng của tư tưởng quân sự phi vô sản; tích cực xây dựng và rèn luyện một đội ngũ cán bộ theo đúng đường lối giai cấp công nhân của Đảng, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, có năng lực lãnh đạo và chỉ huy, có năng lực tổ chức thực tiễn ngày càng cao.


Đảng cũng đề ra nhiệm vụ mở rộng dân chủ, ra sức tăng cường kỷ luật tự giác, nghiêm minh của quân đội cách mạng; xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa quân đội với Đảng, với chính quyền và với nhân dân, tăng cường mối quan hệ đoàn kết nhất trí trong nội bộ quân đội, nêu cao truyền thống quân với dân một ý chí, toàn quân một ý chí, xây dựng môì quan hệ giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với quân đội và nhân dân hai nước láng giềng anh em Lào và Campuchia; đồng thời, ra sức học tập những kinh nghiệm tiên tiến của quân đội các nước anh em.


Thực hiện tốt những nguyên tắc xây dựng về chính trị trên đây là bảo đảm căn bản nhất để Quân đội nhân dân Việt Nam mãi mãi giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân, làm cho lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam không ngừng trưởng thành và chiến thắng.


Đi đôi với việc xác định những nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang về mặt chính trị, Đảng ta đã giải quyết thành công những vấn đề về tổ chức biên chế, trang bị vũ khí, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, huấn luyện chiến đấu, ban hành các chế độ, điều lệnh để đưa Quân đội nhân dân Việt Nam từng bước tiến lên chính quy, hiện đại, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.


Nắm vững quan điểm giai cấp và quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng đã giải quyết thành công một loạt vấn đề củầ việc xây dựng quân đội về mặt quân sự và tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu. Trước hết, vấn đề tổ chức biên chế phải đáp ứng nhu cầu của thực tế chiến đấu, phù hợp nhiệm vụ chiến lược và phương châm tác chiến trong từng giai đoạn của cách mạng và chiến tranh. Tổ chức biên chế phải thích hợp với khả năng trang bị cung cấp, phải dựa trên cơ sở nền kinh tế nước nhà, phải phù hợp điều kiện cụ thể và đặc điểm chiến trường Việt Nam. Có như thế mới bảo đảm có đơn vị mạnh, cơ quan mạnh, binh chủng mạnh, tổ chức chỉ huy và lãnh đạo mạnh, tạo thành một sức mạnh đồng bộ thể hiện chất lượng chiến đấu ngày càng cao của lực lượng vũ trang Việt Nam.


Đảng chú trọng lãnh đạo đẩy mạnh chính quy hóa và hiện đại hóa quân đội. Đảng cho rằng việc xây dựng quân đội cách mạng chính quy là nhằm phục vụ những mục tiêu chính trị cao cả của cách mạng; mọi chế độ, điều lệnh phải phản ánh bản chất cách mạng tốt đẹp của quân đội kiểu mới, dựa trên sự giác ngộ chính trị, ý thức kỷ luật tự giác, tinh thần chủ động của cán bộ, chiến sĩ. Việc ban hành các chế độ, điều lệnh, điều lệ đã có tác dụng lớn đối với công cuộc xây dựng quân đội. Các chế độ như chế độ nghĩa vụ quân sự, chế độ phục vụ sĩ quan và hạ sĩ quan (nay là Luật sĩ quan), các điều lệnh và điều lệ công tác đã góp phần tích cực tăng cường sự tập trung thống nhất, đẩy mạnh chính quy hóa, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Đảng coi hiện đại hóa quân đội là một yêu cầu phát triển có tính quy luật của việc trực tiếp nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, đặc biệt là trong hoàn cảnh nhân dân Việt Nam đang tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bên cạnh đó là nhiệm vụ tăng cường và đổi mới trang bị, đẩy mạnh hiện đại hóa, bảo đảm cho quân đội có trang bị kỹ thuật ngày càng cao để đủ sức đánh thắng bất cứ kẻ thù xâm lược nào. Đảng đặt vấn đề xây dựng quân đội hiện đại thích hợp với điều kiện cụ thể và đáp ứng tốt nhất yêu cầu quốc phòng của Việt Nam. Trên cơ sở kết hợp chặt chẽ yêu cầu quốc phòng với yêu cầu kinh tế, Đảng đã rất chú trọng việc xây dựng hậu phương nhà nước với hậu phương quân đội, đồng thời, từng bước xây dựng hệ thống công nghiệp quốc phòng và hệ thống giao thông thích hợp với yêu cầu chiến đấu của quân đội, điều kiện thực tế của đất nước, sát hợp khả năng, trình độ chỉ huy và quản lý của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Đảng rất coi trọng việc lãnh đạo và định hướng cho công tác huấn luyện quân sự - một trong những vấn đề có tầm quan trọng quyết định đối với việc nâng cao chất lượng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội, từ đó có những định hướng đúng đắn cho công tác huấn luyện quân sự, làm cho huấn luyện phù hợp với nhiệm vụ quân sự, với đường lối quân sự và yêu cầu của nghệ thuật quân sự, với tình hình thực tế của địch và ta trong từng thời kỳ. Đảng chủ trương lấy sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong tình trạng kém hẳn địch về tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất - kỹ thuật, phát huy ưu thế của chế độ xã hội chủ nghĩa đế đánh thắng quân đội xâm lược của những nước đế quốc, thế lực phản động không những đông hơn về số lượng mà còn được trang bị bằng vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại hơn. Đó là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa chính trị, tư tưởng và tổ chức; giữa số lượng và chất lượng; giữa con người và vũ khí, chính trị và kỹ thuật, khoa học quân sự và phương tiện chiến tranh; biện pháp tổ chức và cách đánh. Đồng thời, luôn đề cao và phát huy hiệu lực của công tác đảng - công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang nhân dân. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện quân đội. Chỉ có thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng thì quân đội mới đi đúng định hướng chính trị, làm tròn nhiệm vụ cách mạng trong mọi tình huống. Sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang biểu hiện tập trung trên các mặt: phải quán triệt đường lối, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, làm cho quân đội giữ vững bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân, thực sự là công cụ bạo lực sắc bén của chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo đó biểu hiện về mặt tư tưởng là giáo dục lập trường giai cấp công nhân, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho mọi hành động xây dựng và chiến đấu. Sự lãnh đạo đó còn biểu hiện về mặt tổ chức là: phải thấu suốt đường lối của giai cấp công nhân trong công tác xây dựng đảng cũng như trong công tác cán bộ của quân đội. Có như vậy mới làm cho quân đội ta luôn là quân đội của nhân dân, do nhân dân sinh ra và nuôi dưỡng, vì nhân dân mà chiến đấu, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ cách mạng của mình trong mọi hoàn cảnh.


Để thực hiện và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam hết sức coi trọng công tác xây dựng đảng cả về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, coi trọng và nâng cao hiệu lực của công tác đảng - công tác chính trị, phải giữ vững chế độ lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng trong quân đội. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, có tổ chức vững chắc của Đảng làm hạt nhân lãnh đạo quân đội thì Đảng mới có thể lãnh đạo, giám sát việc thực hiện đường lối, nhiệm vụ, chủ trương, chính sách của mình. Để phát huy sức mạnh và hiệu lực lãnh đạo của Đảng, quân đội cũng cần phải nâng cao trình độ, nắm vững đường lối chính trị, đường lối quân sự, năng lực tổ chức thực tiễn của các tổ chức đảng, của cán bộ và đảng viên trong quân đội, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy và hiện đại nhằm hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị và quân sự mà Đảng giao cho.


Trên đây là những nội dung về tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng. Những nội dung đó được kiểm nghiệm, bổ sung từ thực tiễn lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng trong suốt 30 năm chiến tranh (1945-1975). Đây là những thành công về công tác lãnh đạo, thể hiện sự sáng tạo của Đảng trong việc vận dụng học thuyết cách mạng về chiến tranh và nguyên lý tổ chức quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, một nước đất không rộng, người không đông, thường xuyên phải đương đầu với những thế lực xâm lược to lớn. Nắm vững những quan điểm, tư tưởng vấn đề trên đây trong bất cứ hoàn cảnh nào để vận dụng vào công cuộc xây dựng, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày càng hùng mạnh là một trong những bảo đảm mang ý nghĩa quyết định nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM