Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:32:30 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 4  (Đọc 4644 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #100 vào lúc: 11 Tháng Mười, 2021, 08:03:30 am »

2. Mối quan hệ giữa bạo lực cách mạng và chiến tranh nhân dân

Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cuộc chiến chống Mỹ, cứu nước ở hai miền Nam - Bắc, Đảng chỉ rõ: Cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam gồm cả thủ đoạn đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị. Lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân bao gồm lực lượng vũ trang (ba thứ quân) và lực lượng chính trị. Quy luật chiến tranh nhân dân ở Việt Nam là quy luật chiến tranh toàn dân, là quy luật nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy.... Đó là quá trình đấu tranh chính trị và quân sự, quân sự và chính trị, khởi nghĩa của quần chúng và chiến tranh cách mạng, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, giành thắng lợi từng bước, đi đến giành thắng lợi hoàn toàn.


Trong cách mạng miền Nam, Việt Nam xây dựng được một lực lượng chính trị hùng hậu, với những đội quân đấu tranh chính trị được tổ chức chặt chẽ, phát huy mạnh mẽ tác dụng xung kích trong đấu tranh chính trị. ở miền Bắc, trên cơ sở tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, lực lượng của toàn dân tham gia chiến tranh đã được huy động một cách triệt để, trở thành một lực lượng to lớn hơn bất cứ thời kỳ lịch sử nào trước đây, với sự nhất trí cao độ vệ tinh thần chính trị và khả năng mới về vật chất - kỹ thuật.


Có thể nói, đến thời chống đế quốc Mỹ, lực lượng vũ trang Việt Nam phát triển khá mạnh. Dân quân tự vệ và bộ đội địa phương ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, được trang bị tốt. Bộ đội chủ lực là một đội quân thiện chiến gồm nhiều binh chủng hợp thành với trình độ trang bị kỹ thuật khá hiện đại và những kinh nghiệm chiến đấu phong phú. Bên cạnh lục quân lớn mạnh, chúng ta đã xây dựng được một lực lượng phòng không - không quân chính quy hiện đại và từng bước phát triển lực lượng hải quân.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng chú trọng xây dựng căn cứ địa và cơ sở chính trị, trên khắp ba vùng chiến lược, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng làm hậu phương tại chỗ ở miền Nam; ra sức xây dựng và phát huy vai trò to lớn của miền Bắc làm hậu phương chung của cả nước; miền Bắc vừa chiến đấu, vừa sản xuất, bảo đảm giao thông vận tải, chi viện toàn diện cho chiến trường miền Nam, cho cách mạng hai nước bạn Lào, Campuchia, làm tròn nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.


Để đánh bại một kẻ địch đông, có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn, quân và dân miền Nam đã phát triển nhiều cách đánh sáng tạo. Đó là sự kết hợp tác chiến du kích rộng khắp với tác chiến tập trung, kết hợp đánh nhỏ và đánh lớn, kết hợp cách đánh bằng lực lượng tinh nhuệ lấy ít đánh nhiều với cách đánh tập trung lực lượng một cách hợp lý, kết hợp tiêu diệt địch với giành quyền làm chủ của nhân dân. Trong việc tiêu diệt lực lượng địch, Đảng chủ trương tiêu diệt cả sinh lực, phương tiện chiến tranh và cơ sở hậu cần của chúng. Với cách đánh sáng tạo như vậy, quân và dân Việt Nam đã phát huy được chỗ mạnh và cách đánh sở trường của đối phương, buộc đối phương phải bị động đối phó. Cuối cùng quân địch đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu và liên tiếp bị thất bại trên các chiến trường.


Nhìn lại 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, có thể nói, thắng lợi của nhân dân Việt Nam là thắng lợi của sức mạnh tổng hợp to lớn của toàn dân tộc, là thắng lợi của tư tưởng về bạo lực cách mạng của Đảng được vận dụng trong thực tiễn chiến tranh trên hai miền Nam - Bắc. “Khái quát chung lại, có thể nói bạo lực cách mạng phải dựa vào hai lực lượng: lực lượng quân sự và lực lượng chính trị, và bao gồm, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và sự kết hợp giữa hai hình thức ấy”1 (Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.51); “chỉ được coi là bạo lực những hành động cách mạng của quần chúng ngoài pháp luật Nhà nước của giai cấp thống trị nhằm mục đích trực tiếp đánh đổ chính quyền của bọn thống trị, giành chính quyền về tay nhân dân”2 (Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.52). Vận dụng quan điểm đó về bạo lực và bạo lực cách mạng, trong suốt 30 năm chiến đấu, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra và tổ chức thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #101 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2021, 06:52:16 am »

II- XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN BA THỨ QUÂN

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ra đời và lớn lên trong cuộc đấu tranh cách mạng của toàn dân, trên cơ sở lực lượng chính trị quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo. Lực lượng đó thực sự là lực lượng vũ trang của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, luôn xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, của giai cấp công nhân, của Nhà nước cách mạng. Xuất thân từ những đội tự vệ của quần chúng tiến dần lên các tổ chức vũ trang thoát ly, từ những tiểu tổ du kích trở thành những lực lượng vũ trang hùng hậu bao gồm dân quân tự vệ, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực với những đơn vị tập trung ngày càng lớn mạnh; từ chỗ chỉ có các đơn vị bộ binh trang bị kém, qua quá trình phát triển, lực lượng vũ trang Việt Nam đã thành những lực lượng vũ trang có nhiều binh chủng và quân chủng, trang bị ngày càng hiện đại, cùng toàn dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, đánh bại quân đội xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một trong những nguyên nhân của thành công đó là bởi lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã được xây dựng theo một đường lối đúng đắn và bằng những giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước.


1. Tư tưởng vũ trang toàn dân

Kế thừa và phát huy truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vũ trang quần chúng và xây dựng quân đội thường trực kiểu mới của giai cấp vô sản, trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, Đảng chủ trương động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, đề ra hình thức tổ chức lực lượng vũ trang thích hợp. Đó là hình thức tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Hình thức đó thế hiện đường lối vũ trang quần chúng cách mạng đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân của Đảng.


Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã đề ra chủ trương "vũ trang cho công - nông", đã nêu lên sự cần thiết phải "tổ chức đội tự vệ công nông để chống lại khủng bố trong lúc tranh đấu"...1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.3, tr.103), và chủ trương sau khi giành được chính quyền, thì thành lập "quân đội công, nông". Trong Nghị quyết về đội tự vệ, được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất, Đảng nhấn mạnh: "Nếu không huấn luyện quần chúng về đường quân sự;


Nếu không sớm liệu dự bị võ trang quần chúng thì cách mạng không thành công được"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.93). Đại hội một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của đội tự vệ công - nông, chỉ rõ: "Tự vệ đội càng mạnh thì tức là có điều kiện thuận tiện để sau này tổ chức du kích chiến tranh, võ trang bạo động"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.92). Đồng thời, Đảng chủ trương thành lập "đội tự vệ công nông thường trực", coi đó là "một tổ chức có tính chất bán quân sự"4 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.95) để cùng quần chúng "chuẩn bị những điều kiện cần thiết sau này, sẽ hóa thành những bộ phận tiên tiến, chỉ huy trong các du kích đội trong cuộc võ trang bạo động cướp chính quyền, trong Hồng quân của Nhà nước xôviết công nông".


Trong thời kỳ trực tiếp chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền (1940 - 1945), qua kinh nghiệm thực tiễn của các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ, Đảng đã nhận thức sâu sắc quy luật của khời nghĩa vũ trang ở Việt Nam, đó là: ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, khởi nghĩa vũ trang phải bắt đầu từ khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích ở nông thôn. Trong hoàn cảnh lịch sử trong nước và quốc tế lúc bấy giờ, có thể tiến lên tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị khi có thời cơ thuận lợi. Vận dụng quy luật đó, đi đôi với chủ trương mở rộng và củng cố các đội tự vệ chiến đấu ở khắp nông thôn và thành thị, Đảng đã chủ trương thành lập "các đội du kích chính thức" ở những nơi có điều kiện để cùng toàn dân đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, phát động khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ, tiến tới tổng khởi nghĩa khi điều kiện chín muồi. Chính vì vậy, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy của Đảng (1940) đã quyết định thành lập Đội du kích Bắc Sơn, tiền thân của các đơn vị Cứu quốc quân. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám (1941), Đảng chủ trương "Tổ chức Việt Nam nhân dân cách mạng quân và võ trang dân chúng"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.150).


Theo phương hướng đó, cuối năm 1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, Việt Nam giải phóng quân chính thức được thành lập. Đến đây, quan điểm vũ trang quần chúng và xây dựng quân đội cách mạng của Đảng đã có bưổc phát triển mới. Điểm mới của nó là, đi đôi với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng đã chủ trương trên cơ sở của lực lượng chính trị mà xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng song song với việc xây dựng quân đội cách mạng. Trong quá trình khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cũng như trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, mặc dù mức độ ở từng địa phương có khác nhau, nhưng nhìn chung, Đảng đã kết hợp sử dụng cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, cả lực lượng vũ trang quần chúng và lực lượng quân đội cách mạng để giành chính quyền địa phương cũng như trên toàn quốc. Trong Cách mạng Tháng Tám, lực lượng chính trị của nhân dân, gồm đông đảo quần chúng cách mạng không vũ trang và có vũ trang là lực lượng chủ yếu quyết định thành công của Cách mạng. Đồng thời, lực lượng của Việt Nam Giải phóng quân và các đội du kích địa phương đóng một vai trò rất quan trọng. Điều đó cho thấy giá trị các chủ trương của Đảng trong chỉ đạo thực tiễn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #102 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2021, 06:53:18 am »

2. Tư tưởng về thiết lập quân đội chính quy

Cách mạng Tháng Tám thành công, quán triệt quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng quân đội thường trực kiểu mới của nhà nước xã hội chủ nghĩa, Đảng đã nhanh chóng phát triển và củng cố Việt Nam giải phóng quân. Sau đó, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc đoàn rồi Quân đội quốc gia và từ năm 1950, lấy tến là Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đi đôi với việc tăng cường xây dựng quân đội thường trực của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương), Đảng chủ trương củng cố và phát triển dân quân tự vệ, tức là lực lượng của đông đảo quần chúng được vũ trang thường xuyên và có tổ chức ở cơ sở, không thoát ly sản xuất.


Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, trước yêu cầu của tình thế mới, Đảng đề ra phương châm xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến lên chính quy và hiện đại; đồng thời tiếp tục nêu cao vai trò chiến lược của dân quân tự vệ và của toàn dân trong việc củng cố quốc phòng, tiến hành chiến tranh nhân dân ở Việt Nam.


Là quân đội nhân dân, quân đội cách mạng của giai cấp vô sản, vấn đề giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng của quân đội luôn được Đảng coi là yêu cầu cơ bản nhất, được đặt lên vị trí hàng đầu. Trên cơ sở đó, Đảng đã lãnh đạo việc thực hiện chính quy hóa và hiện đại hóa quân đội đế đáp ứng được yêu cầu của chiến tranh nhân dân.


Chủ trương chính quy hóa quân đội được thực hiện thống nhất về mặt tổ chức, dựa trên những chế độ, điểu lệnh, quy định, nhằm đưa toàn bộ hoạt động của quân đội vào nền nếp thống nhất, nâng cao tính tổ chức, kỷ luật, tính tập trung, tính khoa học, đạt đến hành động kiên quyết và nhất trí, đến sự phối hợp chặt chẽ và chuẩn xác giữa mọi bộ phận của quân đội trong chiến tranh. Việc xây dựng quân đội chính quy của Đảng nhằm phục vụ những mục tiêu chính trị cao cả của cách mạng, dựa trên những nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới và sự giác ngộ chính trị, ý thức kỷ luật tự giác, tinh thần chủ động của cán bộ, chiến sĩ để bảo đảm việc nghiêm chỉnh chấp hành.


Trong quá trình đẩy mạnh chính quy hóa, Đảng luôn giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ, giữa lãnh đạo của Đảng ủy và vai trò của thủ trưởng; quan hệ đoàn kết giữa cán bộ và chiến sĩ, giữa cấp trên và cấp dưới; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức; gắn chặt việc giáo dục, thuyết phục với việc rèn luyện, quản lý nghiêm cách, kết hợp nâng cao tính tự giác với yêu cầu phải làm, tiến hành thưởng, phạt nghiêm minh; phát huy tinh thần trách nhiệm, ý thức làm chủ tập thể của mọi cán bộ và chiến sĩ đối với việc quản lý kỷ luật, chấp hành chế độ, điều lệnh, điều lệ. Trong vấn đề này, vai trò gương mẫu và trình độ tổ chức, quản lý của cán bộ có một ý nghĩa rất quan trọng.


Đi đôi với chính quy hóa, phải đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, Đảng vẫn chủ trương không ngừng đổi mới trang bị kỹ thuật cho quân đội, phát triển các quân chủng, binh chủng kỹ thuật, nâng cao trình độ sử dụng những vũ khí và phương tiện chiến tranh mới của cán bộ, chiến sĩ. Hiện đại hóa quân đội trong những năm này gắn liền với việc xây dựng hệ thống công nghiệp quốc phòng hiện đại, mở rộng hệ thống giao thông hiện đại, nhằm bảo đảm cho quân đội hoạt động trong điều kiện chiến tranh hiện đại.


Hiện đại hóa đã được tiến hành với yêu cầu nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước đang xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện nhân dân Việt Nam nhận được sự viện trợ to lớn về trang bị kỹ thuật của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Chính vì vậy, việc hiện đại hóa Quân đội nhân dân Việt Nam đã có những thay đổi to lớn và nhanh chóng nhờ vào trang bị kỹ thuật của quân đội các nước anh em. Một yêu cầu nữa trong xây dựng quân đội thời kỳ này là Đảng rất chú trọng yếu tố con người. Con người mới trong quân đội nhân dân là những người có tinh thần yêu nước nồng nàn, có giác ngộ xã hội chủ nghĩa sâu sắc, có ý thức tổ chức và kỷ luật cao, có tri thức quân sự hiện đại. Do vậy mà Đảng đã xây dựng được một quân đội hiện đại thích hợp với điều kiện cụ thể và đáp ứng tốt nhất yêu cầu quốc phòng trong quá trình hiện đại hóa quân đội. Đảng luôn xác định phải quán triệt đường lối chính trị, đường lối quân sự, đường lối kinh tế của Đảng, xuất phát từ khả năng và điều kiện thực tế của đất nước, từ đối tượng tác chiến và sự so sánh lực lượng giữa địch và ta, từ nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, từ khuynh hướng phát triển của nền khoa học, kỹ thuật quân sự trên thế giới.


Chính vì vậy, tư tưởng, đường lối vũ trang quần chúng cách mạng đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân của Đảng đã có sự phát triển mới, với phương hướng rõ rệt hơn, cụ thể hơn về mặt xây dựng quân đội nhân dân, tức là xây dựng một quân đội cách mạng, chính quy và hiện đại. Chính nhờ quán triệt tư tưởng và đường lối đó nên chúng ta mới xây dựng được một lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh vượt bậc cả về sô lượng và chất lượng, bao gồm một lực lượng dân quân tự vệ đông đảo, rộng khắp và một quân đội nhân dân hùng mạnh với nhiều binh chủng và quân chủng. Dựa vào lực lượng đó và lực lượng của toàn dân, Việt Nam mới đủ sức đương đầu với bộ máy chiến tranh hiện đại của những đế quốc đầu sỏ và bè lũ tay sai, liên tiếp làm thất bại mọi âm mưu và hành động xâm lược của chúng trên cả hai miền Nam - Bắc. Tuy nhiên, trong quá trình đó, những khuynh hướng lệch lạc, phiến diện cũng từng xuất hiện. Đó là khi nhấn mạnh một chiều việc xây dựng quân đội thường trực, coi nhẹ vai trò của dân quân tự vệ và của toàn dân trong chiến tranh hiện đại; hoặc chỉ nói đến chính quy hóa và hiện đại hóa, coi nhẹ việc giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng của quân đội. Khi thì ngược lại, không coi trọng đầy đủ việc xây dựng các lực lượng vũ trang tập trung, hoặc coi nhẹ việc chính quy hóa và hiện đại hóa quân đội. cả hai khuynh hướng phiến diện trên đây từng lúc, từng nơi đã gây nên trở ngại và thiệt hại cho sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng đã và đang ra sức đấu tranh để khắc phục.


Trong đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng đã nắm vững và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vũ trang quần chúng và xây dựng quân đội thường trực của giai cấp vô sản, thực hiện vũ trang quần chúng rộng rãi đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân trước khi giành được chính quyền cũng như sau khi đã có cơ cấu của một quốc gia độc lập, khi quân đội nhân dân còn non trẻ cũng như khi đã trưởng thành, lớn mạnh, tiến lên chính quy và hiện đại.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #103 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2021, 06:56:09 am »

3. Tư tưởng về lực lượng vũ trang ba thứ quân

Trong quá trình chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, theo đường lối vũ trang quần chúng rộng rãi đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh, Đảng đã giải quyết một cách rất sáng tạo vấn đề tổ chức lực lượng vũ trang. Căn cứ theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, theo hình thức đấu tranh cách mạng và đối tượng tác chiến, ở mỗi thời kỳ, dựa trên các điều kiện lịch sử cụ thể về chính trị, kinh tế và xã hội, Đảng đã vận dụng các hình thức tổ chức lực lượng vũ trang cụ thể một cách thích hợp. Trong quá trình đó, hình thức tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm ba thứ quân là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ đã sớm hình thành và ngày càng trở nên hoàn chỉnh.


Khi thực dân Pháp tiếp tục xâm lược nước ta bất chấp hiệp ước đã được ký kết, cả dân tộc Việt Nam đã đứng lên chống thực dân Pháp cứu quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Chỉ có một con đường giành thắng lợi là dựa vào nhân dân, xây dựng lực lượng chính trị rộng rãi của quần chúng, trên cơ sở đó, tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quản du kích, tự vệ với cơ cấu hợp lý, chất lượng toàn diện, trong đó lấy chất lượng chính trị làm cơ sở, góp phần làm nòng cốt cho toàn dân kháng chiến thắng lợi.


Kiểm nghiệm trong thực tiễn cho thấy ba thứ quân là hình thức tổ chức thích hợp nhất để động viên và thu hút toàn dân tham gia đánh giặc. Đó là hình thức tổ chức kết hợp quân đội thường trực (bao gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương) với quần chúng vũ trang (dân quân tự vệ). Đó cũng là hình thức tổ chức kết hợp lực lượng nòng cốt với lực lượng rộng rãi, kết hợp lực lượng cơ động với lực lượng tại chỗ của cả nước và của từng địa phương. Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt, dân quân tự vệ là lực lượng rộng rãi. Trong phạm vi cả nước thì bộ đội chủ lực là lực lượng cơ động trong phạm vi quân khu, còn bộ đội địa phương và dân quân tự vệ là lực lượng tại chỗ. Trong phạm vi từng địa phương (tỉnh, huyện), bộ đội địa phương là lực lượng cơ động, còn dân quân tự vệ là lực lượng tại chỗ. Trong dân quân tự vệ lại còn có tổ chức dân quân du kích, tự vệ chiến đấu làm lực lượng nòng cốt, lực lượng cơ động ở cơ sở.


Nhiệm vụ và vai trò chiến lược của từng thứ quân được quy định rất rõ ràng. Dân quân tự vệ là lực lượng đông đảo quần chúng được vũ trang thường xuyên và có tổ chức ở cơ sở, không thoát ly sản xuất. Đây là công cụ bạo lực của Đảng và chính quyền nhân dân ở cơ sở, do Đảng ủy cơ sở trực tiếp lãnh đạo, do cơ quan quân sự ở cơ sở trực tiếp chỉ huy dưới sự chỉ đạo của cơ quan quân sự cấp trên.


Đối với dân quân tự vệ, nhiệm vụ căn bản là: Tác chiến tiêu diệt địch, làm nòng cốt phát động phong trào toàn dân đánh giặc và phòng không nhân dân ở cơ sở, hỗ trợ nhân dân đấu tranh chống địch; cùng với công an nhân dân, giữ gìn trật tự trị an ở cơ sở, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước và của quân đội ở địa phương; bổ sung cho bộ đội thường trực, phối hợp và phục vụ bộ đội chiến đấu, phục vụ tiền tuyến, bảo đảm giao thông thời chiến; gương mẫu xung kích trong sản xuất và bảo vệ sản xuất; gương mẫu chấp hành và vận động nhân dân chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.


Quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc đã chứng minh phải có đông đảo dân quân tự vệ thì mới có lực lượng để bảo vệ cơ sở đảng và cơ sở quần chúng trước sự khủng bố khốc liệt của kẻ thù, giữ vững và đẩy mạnh được phong trào đấu tranh chính trị; mới có lực lượng xung kích cùng quần chúng vùng lên khởi nghĩa khi điều kiện chín muồi; mới có lực lượng rộng rãi để tiến hành chiến tranh du kích. Trong chiến tranh giải phóng cũng như chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Đảng nhận thức rất rõ rằng: phải có đông đảo dân quân tự vệ mới có lực lượng rộng khắp và tại chỗ để bảo vệ làng, xã, khu phố’, xí nghiệp, cơ quan...; bảo vệ căn cứ địa, hậu phương, phát triển chiến tranh nhân dân ở cơ sở. Dân quân tự vệ giữ vai trò quan trọng trong việc tiêu hao, tiêu diệt địch ở khắp nơi, đồng thời giam chân và phân tán lực lượng của chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cơ động tác chiến của bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực.


Mặt khác, dân quân tự vệ tuy là lực lượng đông đảo nhưng lại là lực lượng vũ trang không thoát ly sản xuất, tổ chức phân tán, trang bị không thống nhất. Do vậy, lực lượng này chỉ có thể làm nhiệm vụ tiêu hao và tiêu diệt những bộ phận nhỏ quân địch. Muốn tiêu diệt những lực lượng tương đối tập trung của địch, cần có những lực lượng vũ trang thoát ly sản xuất của địa phương, có trình độ trang bị, huấn luyện và tác chiến cao hơn. Điều đó nói lên vai trò quan trọng của bộ đội địa phương. Có bộ đội địa phương làm nhiệm vụ đó, mới tạo được điều kiện thuận lợi cho quần chúng vùng lên khởi nghĩa, duy trì và phát triển được chiến tranh du kích, mới có lực lượng tại chỗ vững mạnh để bảo vệ hậu phương kháng chiến trước mọi cuộc tấn công của đối phương.


Bộ đội địa phương là một bộ phận quân đội thường trực ở tại địa phương, do cấp ủy Đảng địa phương trực tiếp lãnh đạo, do cơ quan quân sự địa phương trực tiếp chỉ huy dưới sự chỉ đạo của cơ quan quân sự cấp trên; là lực lượng tập trung cơ động của địa phương, cùng dân quân tự vệ làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương, làm công cụ của chính quyền cách mạng ở địa phương. Bộ đội địa phương được xây dựng thích hợp với nhiệm vụ và điều kiện thực tế của từng chiến trường và từng địa phương, được tổ chức thành những đơn vị mạnh có chất lượng cao, có các binh chủng cần thiết, có khả năng tác chiến tập trung trong địa phương. Nhiệm vụ của bộ đội địa phương là: Tác chiến tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, làm nòng cốt phát động chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích ở địa phương; dìu dắt dân quân tự vệ trong tác chiến và xây dựng, hỗ trợ quần chúng đấu tranh chống địch, phối hợp tác chiến với dân quân tự vệ và bộ đội chủ lực, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực tác chiến ở địa phương; bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền địa phương, bảo vệ nhân dân, bảo vệ trị an, bảo vệ sản xuất; gương mẫu chấp hành và vận động quần chúng chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, tham gia sản xuất tự túc.


Đây là lực lượng vũ trang tập trung của địa phương, cùng dân quân du kích, tự vệ ở địa phương chiến đấu bảo vệ bản làng và phối hợp với bộ đội chủ lực khi cần thiết. Trong quá trình kháng chiến, bộ đội địa phương trên cả nước được xây dựng phù hợp với từng chiến trường, tổ chức thành những đơn vị mạnh có khả năng tác chiến tập trung, độc lập, hoạt động khi tập trung, khi phân tán, phối hợp chặt chẽ với dân quân du kích, tự vệ và bộ đội chủ lực, làm nòng cốt phát triển chiến tranh nhân dân ở địa phương.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #104 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2021, 06:57:17 am »

Khi đề cập đến vai trò và nhiệm vụ quan trọng của nhân dân và các lực lượng vũ trang địa phương (bao gồm bộ đội địa phương và dân quân tự vệ) trong chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 5 - 1970 đã chỉ rõ: Nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương phải tạo sẵn thế bố trí chiến lược rộng khắp, tạo nên thế trận tiến công mạnh mẽ của chiến tranh nhân dân từ đầu làm cho quân địch tới từ phương hướng nào, với phương thức, quy mô nào, và tiến đến đâu cùng bị đánh liên tiếp, càng mở rộng tiến công càng bị sa lầy, bị vây hãm trong biển lửa chiến tranh nhân dân.


Bộ đội chủ lực là bộ phận quan trọng nhất của quân đội thường trực, là lực lượng cơ động, lực lượng nòng cốt để hoàn thành các nhiệm vụ chiến lược trên chiến trường toàn quốc và các chiến trường khác. Bộ đội chủ lực cần giúp đỡ và đoàn kết hiệp đồng với bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Bộ đội chủ lực do Trung ương Đảng (thông qua Quân ủy Trung ương) trực tiếp lãnh đạo, do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy; bao gồm lực lượng lục quân, lực lượng phòng không - không quân, lực lượng hải quân. Nhiệm vụ chủ yếu của bộ đội chủ lực là tiến hành tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng, quy mô lớn nhằm tiêu diệt những đơn vị lớn của địch, giải phóng những vùng đất đai quan trọng góp phần quyết định làm chuyển biến cục diện chiến trường có lợi cho ta.


Bộ đội chủ lực là bộ phận quan trọng nhất của lực lượng vũ trang, là lực lượng cơ động chiến lược trên địa bàn cả nước hoặc trên từng chiến trường để tiến hành tác chiến tập trung thúc đẩy chiến tranh chính quy phát triển. Nhiệm vụ của bộ đội chủ lực là tiêu diệt quân chủ lực địch, nhất là lực lượng cơ động chiến lược, giáng những đòn tiêu diệt ngày càng lớn vào lực lượng quân sự của đối phương, giải phóng đất đai, làm chuyển biến cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội địa phương và dân quân du kích tự vệ tác chiến, thực hiện những đòn đánh quyết định trên hướng chiến lược chủ yếu, chiến trường chủ yếu, làm chuyển biến so sánh lực lượng và cục diện chiến tranh có lợi cho ta, kết thúc chiến tranh.


Yêu cầu khách quan của lực lượng kháng chiến là phải từ du kích chiến là chủ yếu tiến dần lên vận động chiến. Do vậy, trong khi xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ, Đảng ta đồng thời rất chú trọng tối việc xây dựng các đơn vị bộ đội chủ lực, đặc biệt là chuẩn bị những điều kiện cần thiết đế xây dựng các binh đoàn cơ động cấp đại đoàn.


Chủ trương từng bước xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, đưa chiến tranh từ du kích chiến tiến dần lên vận động chiến và kết thúc bằng chiến tranh chính quy của các binh chủng chủ lực, là một sáng tạo lớn của Đảng trong việc vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh nhân dân và tổ chức quân sự của giai cấp vô sản vào thực tiễn 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam. Việc xây dựng và kết hợp chặt chẽ lực lượng vũ trang tại chỗ, rộng rãi, hùng hậu với xây dựng những binh đoàn chủ lực, cơ động, tác chiến chính quy và hợp đồng binh chủng... vừa phù hợp với quy luật chung, vừa phù hợp với quy luật đặc thù của chiến tranh giải phóng ở Việt Nam. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân được bảo đảm trên cơ sở sự cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ. Sự cân đối đó phù hợp với sự phát triển của đấu tranh vũ trang, với vị trí chiến lược của từng thứ quân và sự phát triển hùng hậu của lực lượng chính trị quần chúng trong từng thời kỳ, trên từng chiến trường cũng như trên địa bàn cả nước, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến.


Cơ cấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân được cấu trúc theo kiểu hình nón. Trong đó, vành nón là hàng triệu dân quân du kích, tự vệ gắn liền với lực lượng toàn dân tham gia kháng chiến; phần thân nón là bộ đội địa phương gắn liền với sức mạnh và tiềm năng của tỉnh, thành phố, thị xã, huyện, quận; phần chóp nón là bộ đội chủ lực, tiêu biểu về sức mạnh của dân tộc, của cả nước và cả chế độ. Sự cân đối giữa ba thứ quân còn là sự cân đối giữa lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ trên cả nước cũng như trên từng chiến trường theo từng thời kỳ.


Những năm 1948-1949, ta phát triển chiến tranh du kích trong vùng tạm bị chiếm. Đến giai đoạn đẩy mạnh kháng chiến, Đảng chủ trương phân tán bộ đội chủ lực, giảm bớt lực lượng cơ động, phát triển lực lượng dân quân du kích, tăng cường lực lượng tại chỗ để tiến công tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch. Ngược lại, đến giai đoạn đẩy mạnh tiêu diệt lực lượng chiến lược của địch, Đảng chủ trương tăng cường lực lượng cơ động, phát triển bộ đội chủ lực để tiến công các binh đoàn, tập đoàn quân của đối phương trên chiến trường, theo phương thức đôn quân: dân quân, du kích thành bộ đội địa phương; bộ đội địa phương thành quân chủ lực; tổ chức tập trung các đơn vị lẻ độc lập để thành lập các đại đoàn, trung đoàn chủ lực mạnh của bộ, giảm lực lượng tại chỗ, hoặc xây dựng các đơn vị chủ lực mới.


Trong thư gửi bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích nhân ngày thành lập Quân đội giải phóng Việt Nam (22-12-1949), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Sau Cách mạng Tháng Tám, Quân giải phóng Việt Nam phát triển thành Vệ quốc quân đến mấy nghìn người. Ngày nay, quân đội có hàng chục vạn người, cộng với bộ độ địa phương và dân quân du kích thì lực lượng vũ trang nửa vũ trang của nhân dân ta có hàng triệu người"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.722). Trong giai đoạn kháng chiến, công tác xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân được tiến hành với việc phân chia chiến trường tổ chức lực lượng quân sự của các quân khu, các địa bàn chiến lược trong chiến lược, chiến tranh nhân dân. Việc phân chia chiến trường, tổ chức các khu và liên khu có sự thay đổi và phát triển phù hợp với quá trình phát triển của kháng chiến, với yêu cầu phát triển của nhiệm vụ đấu tranh vũ trang, với sự trưởng thành của lực lượng vũ trang ba thứ quân trên cơ sở chiến lược quân sự của Đảng trong từng giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến.


Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, Đảng đã chú trọng đến cả ba lực lượng: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Bởi vì nếu tập trung bộ đội chủ lực quá sớm, hoặc muộn, thì đều không phù hợp với yêu cầu thực tế. Còn xây dựng chậm thì ảnh hưởng đến tác chiến, nhưng nếu làm vội vàng mà không chú trọng trang bị, cấp dưỡng, rút đại đội độc lập quá sớm, tập trung bộ đội địa phương quá sớm thì đều có hại.


Quan điểm của Đảng là chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy trong kháng chiến chống Pháp muốn tiến hành có hiệu quả phải gắn liền với sự trưởng thành và lớn mạnh của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Mỗi thứ quân đều phát huy vai trò và vị trí chiến lược quan trọng của mình để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện. Theo quan điểm của Đảng, dân quân du kích, tự vệ và bộ đội địa phương có mạnh thì mới phân tán được lực lượng địch và tiến công địch ở khắp mọi nơi, tạo điều kiện cho tác chiến của bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Ngược lại, bộ đội chủ lực được xây dựng và hoạt động mạnh, đánh những đòn tiêu diệt lớn quân địch, làm cho chúng bị tổn thất nặng nề, hoang mang, dao động, sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh chiến tranh nhân dân địa phương.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #105 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2021, 06:58:05 am »

Do đó, trong quá trình xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhất là bộ đội chủ lực, Đảng đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết về các mặt quân sự, chính trị cũng như cơ sở vật chất - kỹ thuật... để xây dựng sức mạnh chiến đấu và chất lượng toàn diện của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Đó là việc tăng cường giáo dục, huấn luyện, rèn luyện đối với lực lượng vũ trang ba thứ quân về khả năng chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu, về sử dụng các loại vũ khí trang bị, về chiến thuật, kỹ thuật, cách đánh và hợp đồng tác chiến... Trong đó, Đảng luôn chú trọng xây dựng lực lượng vững mạnh về chính trị, lấy đó làm cơ sở để xây dựng các mặt khác. Tổ chức, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân đã được gắn liền với việc đẩy mạnh công tác chính trị, quân sự, nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao trình độ kỹ thuật và chiến thuật, rèn luyện kỷ luật và tự giác.


Lực lượng vũ trang ba thứ quân Việt Nam ra đời ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá trình xây dựng và phát triển đi từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện thì sự vững mạnh toàn diện chỉ có thể đạt được trên cơ sở vững mạnh về chính trị. Đảng luôn xác định chính trị là "gốc", là "nền tảng" trong xây dựng các tổ chức và lực lượng quân sự, là "vận mệnh của quân đội cách mạng". Sự vững mạnh về chính trị là cơ sở quan trọng để xây dựng vững mạnh các mặt khác của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Vì vậy, Đảng thường xuyên coi trọng giáo dục bản chất giai cấp công nhân, quan điểm đường lối của Đảng, mục tiêu chiến đấu cho lực lượng vũ trang ba thứ quân, được tiến hành dựa trên cơ sở đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ của Đảng trong tổ chức, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân.


Thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chứng minh lực lượng vũ trang ba thứ quân không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Quân chủ lực, quân địa phương và dân quân trở thành những lực lượng anh hùng quyết chiến, quyết thắng.


Bước sang thời kỳ kháng chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vũ trang ba thứ quân của Việt Nam đã lớn mạnh, trưởng thành toàn diện, trở thành nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trên khắp các chiến trường từ Bắc vào Nam. Trước đối tượng tác chiến là quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và quân đồng minh với trang bị vũ khí hiện đại - vốn được huấn luyện theo yêu cầu của chiến tranh hiện đại, công cuộc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân của Việt Nam được đặt ra những yêu cầu mới cao hơn. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra phương châm và chỉ đạo sát sao sự nghiệp xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân trên cơ sở xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, phát huy sức mạnh đấu tranh chính trị và phát huy vũ trang, sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến miền Nam, từng bước hoàn chỉnh cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân với quy mô số lượng thích hợp toàn diện có sức chiến đấu cao. Bên cạnh đó, Đảng tiến hành củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có, xây dựng căn cứ làm chỗ dựa, đồng thời xây dựng cơ sở kháng chiến vững mạnh là điều kiện cơ bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang.


Tháng 3-1957, Hội nghị lần thứ 12 Trung ương Đảng (khóa II) bàn về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Hội nghị chủ trương chuẩn bị thực lực của cách mạng, đặt việc tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trên miền Bắc thành một trong những nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam.


Trước yêu cầu xây dựng và phát triển thực lực của cách mạng miền Nam, trong lời khai mạc tại Hội nghị lần thứ 15 Trung ương Đảng (tháng 1-1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: "Nếu ta tổ chức lực lượng chính trị cho tốt. Khi cần vũ trang sẽ không khó". Quán triệt tinh thần nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 15 cùng các nghị quyết Trung ương khác, việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam được đẩy mạnh. Từ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng và trong cuộc Đồng khởi, các lực lượng vũ trang giải phóng đã ra đời phát triển nhanh chóng với ba hình thức tổ chức: các đội tự vệ, du kích xã; các đội vũ trang tỉnh, huyện; các đơn vị bộ đội tập trung của khu, trong đó bộ đội chủ lực được tổ chức phổ biến với quy mô trung đoàn, sư đoàn. Quân đội nhân dân Việt Nam đã có bước trưởng thành mới, từ đơn thuần bộ binh, tổ chức không thống nhất thành một quân đội nhân dân chính quy và tương đối hiện đại gồm các quân chủng lục quân, phòng không, không quân và hải quân. Bộ đội chủ lực được tổ chức thành các binh đoàn bộ binh mạnh, biên chế nhiều thành phần binh chủng, quy mô phổ biến là sư đoàn và trung đoàn bộ binh độc lập. Bộ đội địa phương tổ chức cấp tiểu đoàn bộ binh ở tỉnh. Dân quân du kích tổ chức các hợp tác xã nông nghiệp, tự vệ được thành lập ở các xí nghiệp, công - nông trường, cơ quan nhà nước.


Trong chiến tranh nhân dân ở Việt Nam, không phải chỉ có lực lượng vũ trang mà còn có đông đảo quần chúng nhân dân cầm vũ khí đánh giặc. Cho nên nghệ thuật quân sự Việt Nam không những chỉ đạo hoạt động quân sự của các lực lượng vũ trang, mà còn chỉ đạo hoạt động quân sự của đông đảo quần chúng nhân dân tham gia đánh giặc với mọi thứ vũ khí có trong tay. Đó là một đặc điểm rất quan trọng của nghệ thuật quân sự Việt Nam.


Trong khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam, từ khởi nghĩa từng phần cho đến tổng khởi nghĩa, đều có lực lượng vũ trang cách mạng tham gia, nhưng lực lượng chủ yếu quyết định thắng lợi là lực lượng của đông đảo quần chúng cầm vũ khí đứng lên lật đổ chính quyền của địch. Chính vì vậy, nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa vũ trang của Việt Nam chủ yếu là nghệ thuật chỉ đạo hoạt động quân sự và sự nổi dậy của quần chúng được vũ trang, đồng thời chỉ đạo hoạt động tác chiến của các lực lượng vũ trang phát triển đến một trình độ nhất định.


Các cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam thường bắt đầu trong điều kiện nhân dân Việt Nam mới có một lực lượng vũ trang còn nhỏ bé. Bởi vậy, hình thức phổ biến và quyết định lúc đầu là nổi dậy của quần chúng vũ trang, trước hết ở những nơi quân thù sơ hở. Về sau, quân địch càng tăng cường lực lượng vũ trang để phản công trở lại, lực lượng vũ trang ta ngày một trưởng thành, thì vai trò tác chiến của lực lượng vũ trang cũng ngày càng quan trọng. Do đó trong chiến tranh giải phóng, nghệ thuât quân sự của Việt Nam chủ yếu là nghệ thuật chỉ đạo tác chiến của lực lượng vũ trang được phát triển ngày càng cao và ngày càng hoàn chỉnh. Đồng thời, đó cũng là nghệ thuật chỉ đạo hoạt động quân sự ngày càng phát triển của đông đảo quần chúng đứng lên cầm vũ khí đánh giặc trong suốt quá trình chiến tranh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #106 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2021, 06:59:32 am »

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã có lực lượng vũ trang được xây dựng từ trong thời bình, nên hình thức nổi lên lúc đầu là tác chiến của lực lượng vũ trang để tiêu diệt quân xâm lược, bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất đai của Tổ quốc. Như trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây, thì bên cạnh hình thức tác chiến của lực lượng vũ trang, còn có hình thức vũ trang nổi dậy của đông đảo quần chúng ở vùng địch tạm chiếm để khôi phục lại quyền làm chủ của mình. Do đó, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc là nghệ thuật chỉ đạo hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang đã phát triển đến trình độ cao ngay từ đầu, đồng thời vẫn chỉ đạo hoạt động quân sự của đông đảo quần chúng được tổ chức ngày càng chặt chẽ cầm vũ khí đứng lên đánh giặc.


Trước hết, Đảng đã xác định đúng đắn nhiệm vụ của lực lượng vũ trang và của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh toàn dân, toàn diện. Đi đôi với việc tiêu diệt lực lượng quân sự của địch, các lực lượng vũ trang ta luôn chú ý xây dựng và phát triển cơ sở chính trị, đẩy mạnh đấu tranh chính trị của quần chúng, đẩy mạnh công tác binh vận, tạo điều kiện cho quần chúng nối dậy giành quyền làm chủ. Mặt khác, trong quá trình lãnh đạo, Đảng đã ra sức tận dụng thắng lợi của đấu tranh chính trị, của công tác binh vận, của các cuộc khởi nghĩa quần chúng để phát triển tiến công quân sự, tiêu diệt địch được nhiều hơn.


Kết hợp quân sự với chính trị, tác chiến với binh vận, tác chiến với nổi dậy, kết hợp tiêu diệt lực lượng quân sự địch với phát động quần chúng giành quyền làm chủ đã trở thành những nguyên tắc trong nghệ thuật quân sự của toàn dân đánh giặc ở Việt Nam.


Trong lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, mỗi thứ quân đều có vị trí, tác dụng, đặc điểm và quy luật hoạt động riêng của nó. Vì vậy, trong nghệ thuật chỉ đạo tác chiến, Đảng ta đã phát huy hết sức mạnh của từng thứ quân. Do ba thứ quân lại có nhiệm vụ chung và có mối quan hệ khăng khít với nhau trong tác chiến, nên trong lãnh đạo xây dựng lực lượng, Đảng đã giải quyết tốt vấn đề phối hợp tác chiến giữa ba thứ quân cả về chiến lược cũng như trong chiến dịch và chiến đấu đế phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang nhân dân, nhằm đánh bại những đội quân xâm lược lớn mạnh hơn ta cả về quân số và trang bị kỹ thuật.


Trong quá trình trưởng thành của mình, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã từ bộ binh đơn thuần từng bước phát triển thành một lực lượng vũ trang gồm nhiều binh chủng và quân chủng. Bộ đội chủ lực Việt Nam bao gồm lục quân, quân chủng phòng không - không quân và hải quân. Bộ đội địa phương và dân quân tự vệ không phải chỉ có bộ binh mà còn có bộ binh tinh nhuệ (bộ đội đặc công), pháo binh, bộ đội cao xạ, công binh, thông tin... Bởi vậy, nghệ thuật quân sự Việt Nam những năm này không chỉ có nhiệm vụ chỉ đạo tác chiến các lực lượng bộ binh, các lực lượng lục quân, mà còn phải chỉ đạo tác chiến các binh chủng khác, các lực lượng phòng không - không quân và hải quân; chỉ đạo hoạt động của các binh đoàn vận chuyển chiến lược. Nó có nhiệm vụ chỉ đạo tác chiến hiệp đồng binh chủng và quân chủng, đồng thời chỉ đạo tác chiến độc lập của từng binh chủng và quân chủng.


Nghệ thuật chỉ đạo tác chiến của ba thứ quân, của các binh chủng, quân chủng lực lượng vũ trang Việt Nam cũng là nghệ thuật kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn; kêt hợp chặt chẽ tác chiến du kích và tác chiến tập trung; kết hợp chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh nhân dân của các binh đoàn chủ lực. Sự kết hợp chặt chẽ của các phương thức tác chiến đã tạo ra một hình thái chiến tranh nhân dân thật sự, hình thái chiến tranh cài răng lược, xen kẽ triệt để giữa ta và địch, làm cho binh lực và hỏa lực của đối phương bị phân tán, dàn mỏng, khiến địch đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu. Chính vì vậy, các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có thể chủ động tiến công đối phương một cách liên tục và rộng khắp, thực hiện tiêu hao địch một cách rộng rãi, trên cơ sở đó từng bước tiến lên thực hiện những đòn đánh tiêu diệt địch với quy mô lớn, tạo nên sự chuyển biến cục diện chiến trường theo hướng có lợi cho Việt Nam.


Lực lượng vũ trang nhân dân không những phải làm tốt nhiệm vụ chủ yếu của mình là tiêu diệt địch, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, mà mỗi thứ quân đều phải làm tốt nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng và chính quyền; đánh bại mọi âm mưu bình định, giành dân, bắt lính của địch; tham gia xây dựng và phát triển lực lượng chính trị của quần chúng.


Thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 1945 - 1975 đã chứng tỏ ba thứ quân là ba thành phần không thể thiếu được của lực lượng vũ trang nhân dân. Mỗi thứ quân đều giữ một địa vị chiến lược vô cùng quan trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau hoàn thành nhiệm vụ.


Sở trường của quân đội xâm lược là dựa vào ưu thế về trang bị kỹ thuật, dùng sức mạnh của mọi quân chủng và binh chủng hiện đại hóa để tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng. Trong quá trình chiến tranh, trước sự trưởng thành của các lực lượng vũ trang địa phương Việt Nam, quân Mỹ và quân đội Sài Gòn luôn dùng những phương thức mới để đối phó. Quân đội Sài Gòn co cụm lại trong những cứ điểm kiên cố khi phòng ngự, sử dụng những binh lực lớn, khi tiến công hòng tiêu hao, tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng, ngăn cản sự phát triển của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Do vậy, Quân đội nhân dân Việt Nam phải có những đơn vị chủ lực lớn mạnh, có trình độ tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng mới có thể tiêu diệt được những lực lượng lớn và tập trung của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, giải phóng những địa bàn chiến lược quan trọng, tạo nên những biến chuyển lớn có lợi trên cục diện chiến trường. Tác chiến của bộ đội chủ lực thu hút binh lực, hỏa lực lớn của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tác chiến của các lực lượng vũ trang địa phương, làm cho chiến tranh chính quy cũng như chiến tranh du kích ngày càng phát triển, thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến tiêu diệt địch và nổi dậy giành quyền làm chủ của nhân dân.


Trong chiến tranh giải phóng, quy luật hình thành và phát triển ba thứ quân từ thấp lên cao một cách nhịp nhàng, cân đối, phù hợp với quy luật phát triển của đấu tranh vũ trang từ chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy và kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Khi tình hình đòi hỏi và điều kiện chín muồi, Đảng ta chủ trương rút một bộ phận dân quân tự vệ lên xây dựng bộ đội địa phương hoặc rút một bộ phận bộ đội địa phương lên xây dựng bộ đội chủ lực kịp thời đáp ứng được yêu cầu phát triển của các lực lượng vũ trang tập trung và của chiến tranh chính quy, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng vũ trang địa phương trưởng thành thêm một bước, cho chiến tranh du kích phát triển lên một trình độ mới. Phải có dân quân tự vệ trưởng thành mới xây dựng được bộ đội địa phương vững mạnh; phải có bộ đội địa phương vững mạnh thì bộ đội chủ lực mới có điều kiện thuận lợi để xây dựng và tác chiến cơ động trên các chiến trường.


Khi đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn thi hành chính sách xâm lược thực dân kiểu mới, ra sức tăng cường lực lượng kìm kẹp ở địa phương, thì song song với việc xây dựng bộ đội chủ lực có chất lượng chiến đấu ngày càng cao, việc Đảng ta chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang địa phương thật mạnh lại càng cần thiết. Có như vậy, cả ba thứ quân mới phát huy được sức mạnh chiến đấu cao nhất, cùng phối hợp chặt chẽ để tiêu diệt địch, đồng thời bảo vệ có hiệu quả lực lượng mọi mặt của nhân dân, giữ vững quyền làm chủ, phát triển mạnh mẽ và toàn diện chiến tranh nhân dân, giành thắng lợi ngày càng lớn. Khi miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng và trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam, sự chi viện to lớn về nhân lực, vật lực của miền Bắc đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển của ba thứ quân ở miền Nam, đặc biệt là của bộ đội chủ lực. Quy luật phát triển ba thứ quân ở miền Nam có những bước nhảy vọt chứ không diễn ra một cách tuần tự như trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây. Tuy vậy, muốn cho sự chi viện của miền Bắc phát huy đầy đủ tác dụng, phải hết sức coi trọng việc động viên nhân lực, vật lực tại chỗ để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ở miền Nam, đặc biệt là các lực lượng vũ trang địa phương.


Đối với miền Bắc, để bảo đảm cho quân và dân sẵn sàng tiến hành chiến tranh tự vệ trong trường hợp kẻ thù liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược, do đã có cơ cấu hoàn chỉnh của một nhà nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và có sự chi viện quốc tế to lớn, nên việc xây dựng ba thứ quân có những điều kiện thuận lợi mới. Quân đội có thể đồng thời phát triển cả ba thứ quân một cách cân đối, hoàn chỉnh theo yêu cầu của sự nghiệp củng cố quốc phòng và thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Vấn đề bố trí hợp lý trên từng địa bàn chiến lược, từng chiến trường và địa phương được giải quyết, từ đó bảo đảm vừa có lực lượng tại chỗ mạnh, vừa có lực lượng cơ động mạnh, kết hợp chặt chẽ và có trọng điểm lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động của từng cấp và của cả nước. Đây chính là điều kiện cho việc kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, bảo đảm cho nhân dân Việt Nam vừa có lực lượng tại chỗ mạnh để kịp thời tiến công địch ở mọi nơi, với những đơn vị thông thạo địa phương, nắm chắc tình hình địch, nhằm tiêu hao, tiêu diệt, phân tán, giam chân lực lượng địch ở khắp nơi, vừa có lực lượng cơ động mạnh để đánh những đòn tập trung tiêu diệt địch ở những nơi chúng sơ hở.


Trong điều kiện chiến tranh nhân dân Việt Nam phát triển rộng khắp, kẻ địch có sức cơ động cao, có quân đông, lại trên địa bàn không rộng, thì cách tổ chức và bố trí lực lượng như vậy giúp hạn chế điểm mạnh và sở trường của đối phương, phát huy điểm mạnh và sở trường của lực lượng vũ trang cách mạng, tạo nên một thế chiến lược vững chắc của chiến tranh nhân dân để giữ vững quyền chủ động tiến công đối phương trong mọi tình huống mà không cần phải có một số lượng quân thường trực đông hơn hoặc bằng đối phương. Đây là điều kiện thuận lợi để huy động đến mức cao nhất sức người, sức của ở địa phương, để vừa chiến đấu vừa sản xuất, vừa đánh giặc vừa xây dựng căn cứ địa - hậu phương vững chắc, bảo đảm đánh lâu dài và kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển của chiến tranh khi thời cơ đến.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #107 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2021, 07:02:50 am »

4. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam - quân đội mang tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc

Nhận thức và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng bạo lực và xây dựng tổ chức quân sự vô sản kiểu mới vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng quân đội mang tính nhân dân, tính dân tộc, coi đó là nhân tố nền tảng nhằm bảo đảm cho lực lượng vũ trang ba thứ quân luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Lực lượng vũ trang nói chung, quân đội nói riêng, là công cụ bạo lực quan trọng của giai cấp, nhà nước để tiến hành đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Bản chất của lực lượng vũ trang bao giờ cũng được quyết định trước hết ở bản chất giai cấp của nó. Lực lượng vũ trang cách mạng ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo, là lực lượng vũ trang của công nông, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đây là quan điểm phù hợp, sáng tạo của Đảng trong xây dựng, tổ chức quân sự ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân đứng lên đi theo Đảng làm cách mạng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.


Thường xuyên tăng cường bản chất giai cấp, bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang là vấn đề mấu chốt trong đường lối xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng. Khi xác định tính chất của lực lượng vũ trang trong quá trình lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng luôn khẳng định: Lực lượng vũ trang nhân dân là lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân lao động. Thực chất là của công nông, chiến đấu vi quyền lợi của nhân dân lao động, do chính Đảng của giai cấp công nhân tổ chức, giáo dục và lãnh đạo. Bản chất của lực lượng vũ trang chính là bản chất giai cấp công nhân, lập trường tư tưởng là lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa Mác - Lênin.


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quân đội là sản phẩm của xã hội có giai cấp, là một bộ phận khăng khít của nhà nước, là công cụ của một giai cấp nhất định tiến hành đấu tranh giai cấp bằng hình thức đấu tranh vũ trang. Mọi thứ quân đội trong lịch sử đều mang tính chất giai cấp, không thể có thứ quân đội siêu giai cấp, trung lập về chính trị.


Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ra đời trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm hơn 90% dân số. Như thế, lực lượng chính của cách mạng bao gồm số đông là công nhân, nông dân, đồng thời thu hút rộng rãi những người xuất thân từ các giai cấp và tầng lớp nhân dân yêu nước khác. Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng nên tình hình đó tuyệt đối không làm mất đi bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang hoàn toàn không mâu thuẫn với tính chất nhân dân của nó, mà ngược lại, là điều kiện tiên quyết để xây dựng lực lượng vũ trang của ta thành một lực lượng vũ trang thực sự của nhân dân. Vì lợi ích của giai cấp công nhân căn bản nhất trí với lợi ích của dân tộc. Chỉ có giai cấp công nhân mới có tinh thần cách mạng triệt để, kiên quyết xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột để vĩnh viễn giải phóng mình, đồng thời giải phóng đông đảo nhân dân lao động, giải phóng toàn dân tộc.


Quan điểm, nguyên lý về tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng quân đội cách mạng đã được Đảng để cập trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chánh cương vắn tắt do Lãnh tụ Hồ Chí Minh khởi thảo trình Hội nghị thành lập Đảng đã nêu rõ sự cần thiết của Đảng là: "Tổ chức ra quân đội công nông"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1). Văn kiện đầu tiên về quân sự - Nghị quyết về Đội tự vệ (3-1935) của Đảng cũng nêu rõ: "Công nông cách mạng Tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương, quân ủy của Đảng Cộng sản... Luôn luôn phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong Tự vệ thường trực"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.94-95). Khi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (22-12-1944), Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: "theo chỉ thị mới của Đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.507). Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Người khẳng định: "Các đảng phái không được có quân đội riêng"4 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.141).


Trước tiên, cần khẳng định rằng lực lượng vũ trang ba thứ quân của Việt Nam đều đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Khảng định vai trò quan trọng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Toàn thể quân đội tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ, có thể nói rằng đó là một thắng lợi rất to"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.12). Người nhấn mạnh: "Đoàn thể và Chính phủ phải tăng cường lãnh đạo phong trào du kích.

- Tư tưởng của cán bộ và nhân dân phải thấu suốt: tin tưởng sâu sắc vào chính sách của Đoàn thể và Chính phủ"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.336).

Sự lãnh đạo của Đảng quyết định bản chất giai cấp, bản chất cách mạng và mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Đảng và Nhà nước Việt Nam lãnh đạo và quản lý mọi hoạt động của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Bản chất giai cấp của lực lượng vũ trang được biểu hiện ở tính tự giác chấp hành sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, tuyệt đối trung thành với Đảng, chiến đấu hy sinh vì mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng. Đó cũng là hệ tư tưởng thống trị đối với lực lượng vũ trang ba thứ quân, là nền tảng tinh thần góp phần nâng cao bản lĩnh và năng lực hoạt động cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang ba thứ quân.


Quá trình xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp của lực lượng vũ trang ba thứ quân Việt Nam chính là quá trình không ngừng bồi dưỡng nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc.

Bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam biểu hiện chủ yếu trên các mặt như: Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam từ ngày thành lập đến nay qtã luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, chiến đấu vì độc lập, thống nhất của dân tộc, ruộng đất của dân cày, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, trung thành với Đảng, với lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân ấy luôn lấy tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, biểu hiện tập trung của tư tưởng giai cấp công nhân, làm tư tưởng chỉ đạo duy nhất, làm kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Lực lượng ấy cũng là công cụ của Đảng để thực hiện mọi nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra, đó là một đội quân không chỉ chiến đấu, mà còn tham gia sản xuất.


Các mối quan hệ chủ yếu trong nội bộ cũng như trong mối quan hệ với nhân dân và quan hệ quốc tế của lực lượng vũ trang ba thứ quân là sự thế hiện sâu sắc những đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân. Tính tập thể, tính tổ chức chặt chẽ, tính kỷ luật tự giác, tinh thần đoàn kết dân chủ, phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, sự gắn bó "máu thịt" với nhân dân,... là những vấn đề luôn được cán bộ, chiến sĩ quán triệt khi thực hiện các nhiệm vụ được giao.


Trong quá trình xây dựng và phát triển, bản chất giai cấp của lực lượng vũ trang ba thứ quân của Việt Nam luôn thể hiện rõ quan điểm thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc. Lực lượng vũ trang ba thứ quân không chỉ chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu lý tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, mà còn vì hạnh phúc của nhân dân và độc lập chủ quyền của dân tộc. Xây dựng và trưởng thành từ một dân tộc cần lao, tính nhân dân của lực lượng vũ trang ba thứ quân là một đặc trưng nổi bật. Dựa chắc vào dân, tuyệt đối trung thành, phục vụ nhân dân và tăng cường mối quan hệ với nhân dân trên cơ sở kỷ luật tự giác, nghiêm minh là nguyên tắc căn bản trong việc nâng cao bản chất cách mạng, tính nhân dân và dân tộc của lực lượng vũ trang ba thứ quân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #108 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2021, 07:04:15 am »

Được sự quan tâm giáo dục, rèn luyện của Đảng, lực lượng vũ trang ba thứ quân, ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu trưởng thành trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đều luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân đùm bọc, giúp đỡ và sát cánh cùng chiến đấu. Khẳng định tình đoàn kết quân - dân trong kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ ta, tình đoàn kết giữa quân và dân đã thành một lực lượng vô cùng to lớn mạnh mẽ. Chính vì tình đoàn kết ấy mà ta đã thắng nhiều chiến dịch, và sẽ thắng nhiều nữa. Chính vì tình đoàn kết ấy, mà kháng chiến nhất định thắng lợi hoàn toàn"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.429).


Tính chất nhân dân của lực lượng vũ trang ba thứ quân được thể hiện rõ trong hình thức tổ chức và cơ cấu thành phần lực lượng. Lực lượng vũ trang ba thứ quân đã thu hút và tập hợp lực lượng thanh niên yêu nước xuất thân từ nhiều thành phần xã hội, từ con em của các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Trong hàng ngũ các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu trên cả nước, các đội du kích ở các chiến khu, căn cứ vũ trang và các đơn vị Vệ quốc quân, có đủ mọi giai cấp, tầng lớp từ công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, các dân tộc thiểu số, các nhân sĩ, trí thức... tham gia. Điều đó phản ánh khối đại đoàn kết toàn dân trong nhiều loại hình, nhiều hình thức tổ chức của lực lượng vũ trang ba thứ quân, trong đó, đông đảo hơn cả là các giai cấp nông dân, công nhân và thanh niên cứu quốc. Cán bộ chỉ huy, các đơn vị vũ trang hoặc là đảng viên cộng sản hoặc là hội viên, cán bộ phụ trách của một tổ chức cứu quốc trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Ngay trong thành phần lực lượng đã thể hiện sâu sắc tính nhân dân của lực lượng vũ trang ba thứ quân, tạo cơ sở quan trọng để gắn bó mật thiết với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho đươc lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy thì bất kể việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.525).


Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, giáo dục, rèn luyện; là quân đội của dân, do dân và vì dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ. Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén của nền chuyên chính vô sản, có nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và cuộc sống hòa bình của nhân dân. Quân đội đó luôn sát cánh cùng nhân dân và dựa vào nhân dân để chiến đấu, giữ gìn mối quan hệ máu thịt với nhân dân, kính trọng dân, đoàn kết và giúp đỡ nhân dân trong chiến đấu và trong lao động sản xuất, đoàn kết và phối hợp chiến đấu cùng với dân quân du kích, tự vệ ở địa phương, giữ nghiêm kỷ luật quần chúng trong mọi điều kiện...


Trải qua những năm tháng trường kỳ kháng chiến, sự lớn mạnh, trưởng thành của quân đội gắn liền với sự đùm bọc, che chở, nuôi dưỡng của nhân dân, cũng như sự giáo dục, rèn luyện trong chiến đấu và trên lĩnh vực tư tưởng chính trị. Sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam bắt nguồn từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của cách mạng, của Đảng và Nhà nước Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cũng nhờ có được tính nhân dân vững chắc, gắn bó máu thịt với nhân dân, xây dựng trên "nền nhân dân" mà Quân đội nhân dân Việt Nam đã luôn xứng đáng với danh hiệu cao quý mà nhân dân ban tặng "Bộ đội Cụ Hồ".


Tính nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, còn được thể hiện ỏ phẩm chất "hiếu với dân" của cán bộ, chiến sĩ. Hiếu với dân bao hàm trong đó sự biết ơn sâu sắc, sự phục vụ tận tụy để đền đáp công lao của nhân dân đã đùm bọc giúp đỡ, nuôi dưỡng quân đội, mà sự báo đền lớn nhất là hy sinh chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tại Hội nghị kiểm thảo chiến dịch đường số 18 (5-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình không phải là "cứu tinh" của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân. Tất cả quần nhân phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu... Muốn vậy, bộ đội phải giúp đỡ dân, thương yêu dân... Dân như nước, quân như cá"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.207). Mặt khác, Quân đội nhân dân Việt Nam với bản chất của giai cấp công nhân, có vai trò to lớn, vinh dự vẻ vang, phát huy tính nhân dân trong công tác xây dựng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân do Đảng lãnh đạo. Đây không chỉ là vinh dự, trách nhiệm chính trị, mà còn là tình cảm cách mạng sâu sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân.


Trong kháng chiến chống Pháp, dân quân du kích, tự vệ ra đời và phát triển từ phong trào quần chúng đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là lực lượng đông đảo, do các cấp bộ Đảng và chính quyền địa phương trực tiếp tổ chức và lãnh đạo. Với chức năng vừa lao động sản xuất vừa tham gia và phối hợp chiến đấu cùng với Vệ quốc quân và bộ đội địa phương bảo vệ xóm làng, cơ quan và chính quyền nhân dân ở cơ sở. Là lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước, gắn bó "tự nhiên" với nhân dân trong lao động sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, nằm ngay tại làng bản, không thoát ly sản xuất, giặc đến thì đánh, giặc đi là sản xuất, luôn sống và chiến đấu trong sự chở che, đùm bọc của nhân dân. Nhờ thường xuyên quán triệt đường lối kháng chiến của Đảng, nhờ quan tâm giúp đỡ mọi mặt của nhân dân trong cuộc sống, chiến đấu mà lực lượng dân quân du kích, tự vệ đã trưởng thành nhanh chóng trong thực tiễn kháng chiến chống Pháp, thực sự trở thành một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc. Trong thư gửi Hội nghị Trung Du (19-9-1949), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào ta, gái cũng như trai, trẻ cũng như già, cho đến các cháu nhi đồng cỏn con ai cũng nồng nàn yêu nước, ai cũng hăng hái kháng chiến, ai cũng cố gắng giết giặc. Nếu cán bộ khéo cơ động, tổ chức, lãnh đạo thì ngoài Vệ quốc quân anh dũng của chúng ta, chúng ta lại có những cái lưới sắt du kích rộng lớn và mạnh mẽ quét hết lũ giặc, không sót một tên nào”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.649).


Lực lượng vũ trang ba thứ quân là lực lượng cách mạng tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân và cả dân tộc. Điều ấy còn có nghĩa nguồn gốc sức mạnh của lực lượng vũ trang ba thứ quân gắn liền với vai trò lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, với vai trò và sức mạnh to lớn của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cũng như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vũ trang ba thứ quân được tổ chức, xây dựng và phát triển trên tinh thần kế thừa, phát huy những tinh hoa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đã hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tiếp thu những kinh nghiệm quý báu của cha ông về nghệ thuật đánh giặc giữ nước để từ đó vận dụng vào sự nghiệp xây dựng, chiến đấu và chiến thắng trong cuộc chiến tranh nhân dân chống xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ phải tuyệt đối trung thành với Đảng với Tổ quốc và nhân dân, chấp hành vô điều kiện và sự điều hành quản lý của Nhà nước; tận trung với nước, tận hiếu với dân; đồng thời phải biết kế thừa phát huy truyền thống quân sự tốt đẹp của dân tộc, ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt để không ngừng tiến bộ, trưởng thành. Trong thư gửi các chiến sĩ vệ quốc đoàn, tự vệ dân quân toàn qụôc (1-1974), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Anh dũng thay! Lòng quyết thắng của anh em. Các chiến sĩ là đàn con anh hùng của Tổ quốc. Các chiến sĩ quyết đem xương máu để giữ vững non nước Lạc Hồng"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.42).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #109 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2021, 07:05:44 am »

5. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là một quân đội với bản chất giai cấp - nhân dân sâu sắc, với những quan hệ có tính tiến bộ: quan hệ đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế, dân chủ rộng rãi đi đôi với kỷ luật tự giác nghiêm minh. Đảng ta hết sức coi trọng việc tăng cường bản chất giai cấp của nó, coi đó là bảo đảm vững chắc nhất, là yếu tố cơ bản nhất tạo nên sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là nhân tố quan trọng đối với việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở một nước mà đa số nhân dân là nông dân và tiểu tư sản, còn giai cấp lãnh đạo - giai cấp công nhân thì số lượng có hạn. Xuất phát từ những điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam và của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, Đảng xem việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường giáo dục tư tưởng vô sản đồng thời tăng cường thành phần công nông, trước hết là trong đội ngũ cán bộ của lực lượng vũ trang là biện pháp chủ yếu để tăng cường bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang.


Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt là nguyên tắc cơ bản nhất của việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. V.I. Lênin nói: "... Đường lối, chính sách, chủ trương của ngành quân sự... phải tiến hành trên cơ sở mọi chỉ thị chung mà Đảng thông qua, Trung ương định ra và phải ở dưới sự kiểm soát trực tiếp của Đảng"1 (Đảng Cộng sản Liên Xô bàn về các lực lượng vũ trang (tiếng Nga), Nxb. Chính trị nhà nước, Mátxcơva, 1958, tr.47).


Sự lãnh đạo của Đảng là nguồn gốc, là nhân tố quyết định sự ra đời, trưởng thành và phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong quá trình xây dựng, lực lượng vũ trang ta luôn có được mục tiêu chiến đấu và đường lối xây dựng rõ ràng, để phát huy sức mạnh của mình và đã chiến thắng mọi kẻ thù.


Sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang phải là sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện. Trong lực lượng vũ trang nhân dân, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất nắm quyền lãnh đạo. Ban Chấp hành Trung ương trực tiếp lãnh đạo lực lượng vũ trang. Trong quân đội, hệ thống tổ chức của Đảng được phân cấp từ trên xuống dưới để trực tiếp lãnh đạo đơn vị. Đảng không qua một hình thức tổ chức trung gian nào khác để thực hành việc lãnh đạo lực lượng vũ trang. Sự lãnh đạo của Đảng trong lực lượng vũ trang được bao quát toàn diện từ quân chủng, binh chủng, mọi ngành, mọi mặt hoạt động cả trong xây dựng và chiến đấu; không có khâu nào trong lực lượng vũ trang thiếu sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thực tế lịch sử đã khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng với những nội dung trên đây là một hệ thống hoàn chỉnh là một nguyên tắc bất di - bất dịch trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.


Chính vì vậy, đế bảo đảm công tác lãnh đạo của Đảng, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã không ngừng củng cố hệ thống tổ chức đảng trong quân đội, chấp hành nghiêm chỉnh chế độ lãnh đạo của Đảng trong lực lượng vũ trang. Đối với việc xây dựng hệ thống tổ chức đảng vững mạnh làm hạt nhân đoàn kết và lãnh đạo lực lượng vũ trang, vấn đề then chốt là luôn giữ vững và nâng cao tính giai cấp, tính tiên phong của Đảng. Điều đó được thể hiện trong việc chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên lớn mạnh toàn diện. Việc bảo đảm cho đội ngũ đảng viên trong lực lượng vũ trang luôn luôn có chất lượng cao, tiên tiến về mọi mặt, có số lượng thích hợp với yêu cầu nhiệm vụ tổ chức của đơn vị... là cần thiết. Vấn đề phấn đấu thực hiện được yêu cầu đề ra là ở tiểu đội có đảng viên, ở trung đội có tổ đảng và ở đại đội có chi bộ được thực hiện nghiêm túc. Việc nâng cao tính giai cấp, tính tiên phong của Đảng còn được thế hiện trong việc không ngừng củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng, của các cấp ủy Đảng từ trên xuống dưới; trước hết là ở việc tăng cường sức mạnh lãnh đạo của chi bộ, tổ chức cơ sở của Đảng trong lực lượng vũ trang. Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng ta luôn quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện chặt chẽ các chế độ sinh hoạt chính trị, tư tưởng, chế độ tự phê bình và phê bình, tăng cường kỷ luật trong Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng.


Chế độ lãnh đạo của Đảng trong lực lượng vũ trang càng được thể hiện ở chế độ Đảng ủy, chi bộ lãnh đạo tập thể và thủ trưởng quân sự, chính trị phân công phụ trách tổ chức thực hiện. Chế độ đó đã bảo đảm được việc quán triệt chấp hành đường lối chính trị, đường lối quân sự và mọi phương châm, chính sách của Đảng trong lực lượng vũ trang; từ đó kết hợp chặt chẽ giữa tập thể và cá nhân, giữa quân sự và chính trị, giữa lãnh đạo và quần chúng. Đó là chế độ lãnh đạo đúng đắn và phù hợp với điều kiện sinh hoạt, chiến đấu khẩn trương và quy mô, hình thức hoạt động của lực lượng vũ trang. Sự lãnh đạo của Đảng chính là nhân tố chủ yếu, điều kiện tất yếu bảo đảm cho các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam xây dựng và tác chiến thắng lợi. Như Chỉ thị ngày 22-12-1952 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nhấn mạnh: "Lãnh đạo quân sự là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của Đảng trong toàn bộ công tác kháng chiến. Xây dựng quân đội là một phần trọng yếu của công tác lãnh đạo quân sự mà toàn Đảng có nhiệm vụ thi hành"1 (Văn kiện quân sự của Đảng, tập III, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr.354).


Sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang bao gồm tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức. Để bảo đảm sự lãnh đạo lực lượng vũ trang được chặt chẽ, Đảng đã chú trọng xây dựng các tổ chức đảng, lập ra chi bộ làm hạt nhân lãnh đạo tất cả các đơn vị cơ sở, đặt chế độ Đảng ủy các cấp, quy định nguyên tắc Đảng ủy lãnh đạo, thủ trưởng phân công phụ trách. Đảng còn lập ra cơ quan chính trị các cấp, coi công tác chính trị là mạch sông của các lực lượng vũ trang. Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng tháng 10-1946 đã đặt vấn đề cho Đảng bộ trong lực lượng vũ trang phải phấn đấu để đại đội có chi bộ, trung đội có tổ đảng, quy định mỗi đại đội hay một cơ quan từ tiểu đoàn trở lên sẽ thành lập chi bộ.


Việc củng cố và kiện toàn chi bộ trong lực lượng vũ trang được đặt ra một cách toàn diện, từ khâu giáo dục và rèn luyện đảng viên, đến phát triển đảng, kiện toàn cấp ủy và cải tiến công tác lãnh đạo của chi bộ. Đảng thông qua kết quả hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo của chi bộ trong chiến đấu để đề ra kế hoạch, định ra biện pháp củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa số lượng và chất lượng, thực hiện phương châm củng cố đi đôi với phát triển. Tháng 8-1951, tại Hội nghị Tuyên huấn toàn quân lần thứ nhất, Đảng chủ trương: Phải động viên giáo dục trong Đảng trước để phát huy tác dụng lãnh đạo của các đảng viên trong việc học tập làm tăng thêm kết quả học tập. Hội nghị tổ chức toàn quân lần thứ nhất tháng 8-1952 đề ra nhiệm vụ: Tăng cường giáo dục đảng viên, đặt nền nếp học tập thường xuyên trong chi bộ. Đồng thời còn quy định "chế độ Đảng viên" và quyết định mở các lớp huấn luyện ngắn ngày cho bí thư chi bộ, chi ủy viên và đảng viên mới.


Bằng những biện pháp xây dựng tích cực, công phu thông qua thực tiễn chiến đấu để Đảng kết nạp đảng viên, rèn luyện, giáo dục, sàng lọc cán bộ, qua việc kiện toàn tổ chức, lực lượng vũ trang đã xuất hiện nhiều chi bộ kiên cường, những "chi bộ thép", hạt nhân vững chắc bảo đảm cho từng đơn vị hoàn thành nhiệm vụ ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương.


Căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ cách mạng và điều kiện cụ thể của lực lượng vũ trang, Đảng đã định ra cơ chế lãnh đạo thích hợp. Tháng 1-1946, Trung ương Đảng lập ra "Trung ương quân ủy" để Đảng lãnh đạo công tác quân sự trong quân đội. Sau đó, Đảng chỉ đạo việc thành lập các quân khu ủy và các cấp ủy ở trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội. Tháng 10-1948, bỏ hệ thống cấp ủy trong quân đội, lập chế độ chính ủy đại diện Đảng phụ trách trong quân đội. Trước yêu cầu của tình hình mới, tháng 5-1952, chế độ cấp ủy được lập lại trong bộ đội chủ lực.


Chế độ Đảng ủy lãnh đạo toàn diện và thủ trưởng phân công phụ trách với hệ thống đảng ủy các cấp tổ chức theo chiều dọc từ quân ủy Trung ương đến tổ chức cơ sở của Đảng đã phát huy tác dụng to lớn. Đó là việc bảo đảm chấp hành đúng đường lối chính trị, đường lối quân sự và mọi chủ trương, chính sách khác trong lực lượng vũ trang đế vừa phát huy được trí tuệ tập thể vừa đề cao được trách nhiệm cá nhân của người chỉ huy; kết hợp được các mặt công tác quân sự, chính trị, hậu cần, công tác chung và công tác của từng ngành; kết hợp giữa lãnh đạo, chỉ huy và quần chúng, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đúng đắn, toàn diện, sát thực tế, phù hợp với tình hình và ngày càng có hiệu quả.


Trong quá trình rèn luyện bản chất công nhân của lực lượng vũ trang, Đảng coi trọng kết hợp giáo dục, giác ngộ giai cấp với giác ngộ dân tộc, giáo dục tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế; gắn giáo dục chính trị với nhiệm vụ quân sự từng thời kỳ; kết hợp giáo dục nâng cao nhận thức với giải quyết tư tưởng, động viên hành động cách mạng, đẩy mạnh thi đua luyện quân lập công, hoàn thành mọi nhiệm vụ tác chiến và xây dựng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM