Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:29:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 4  (Đọc 4638 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #30 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2021, 09:30:53 pm »

Năm 1965, Việt Nam hoan nghênh ý kiến của Liên Xô để nghị lập Mặt trận thống nhất và lập cầu hàng không để giúp đỡ Việt Nam, nhưng khi Trung Quốc phản đối đề nghị này, thì Việt Nam không nhắc đến nữa. Việt Nam cũng công khai cải chính những thông tin cho rằng Trung Quốc cản trở hàng viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam quá cảnh qua Trung Quốc. Trong khi cuộc chiến tranh ở Việt Nam trở nên khốc liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi thăm Trung Quốc hai lần vào năm 1965 và năm 1966. Việt Nam đồng ý để Trung Quốc cử một đội quân sang làm đường ở vùng đất thuộc lãnh thổ Việt Nam gần biên giới với Trung Quốc. Đồng thời, Việt Nam cũng tăng cường quan hệ hợp tác với Liên Xô. Tháng 2-1965, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.N. Côxưghin đã đến Việt Nam và được đón tiếp trọng thể, thân thiết. Việt Nam cử đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng dẫn đầu đi thăm Liên Xô (4-1965), dự Đại hội lần thứ XXIII Đảng Cộng sản Liên Xô (3-1966). Mặt khác, Đảng Lao động Việt Nam không tham gia Hội nghị 75 Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế do Liên Xô triệu tập năm 1970, mà không có Đảng Cộng sản Trung Quốc tham dự. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam trao đổi và thông báo với lãnh đạo Liên Xô, Trung Quốc về các vấn đề lớn qua các cuộc gặp gõ cấp cao khá thường xuyên. Trong 7 năm (1965-1972) đã có tới 51 cuộc gặp cấp cao Việt Nam - Liên Xô (từ cấp ủy viên Bộ Chính trị trở lên). Với Trung Quốc, số lần gặp gỡ cũng xấp xỉ1 (Trích theo Bộ Ngoại giao: Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.235). Ngày 8-10-1972, lúc cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ trao cho cố vấn của Tổng thống Mỹ H.Kítxinhgiơ “Dự thảo Hiệp định”, thì hai ủy viên Bộ Chính trị khác của Việt Nam cũng trao văn kiện đó cho lãnh đạo Liên Xô và Trung Quốc.


Đặc biệt, khi đặt lợi ích dân tộc, mục tiêu thắng Mỹ lên trên hết, Việt Nam vẫn tôn trọng tiếng nói và vai trò của Liên Xô, Trung Quốc trong các vấn đề có liên quan. Bởi, mặc dù có những điểm khác nhau, những lợi ích, chính sách khác nhau đối với Việt Nam và chiến tranh ở Việt Nam, nhưng cả hai nước đều có điểm tương đồng, mẫu số chung là quan điểm ủng hộ, giúp đỡ nhân dân Việt Nam chống Mỹ, làm nghĩa vụ quốc tế đối với một nước xã hội chủ nghĩa - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bảo đảm hòa bình thế giới. Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam đề ra sách lược mềm dẻo, sáng tạo, tránh phê phán trực tiếp ý định của Liên Xô thúc đẩy hòa hoãn với Mỹ trong bối cảnh Mỹ leo thang và sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam và cũng không phủ nhận hoàn toàn lời khuyên của Liên Xô sớm tìm một giải pháp kết thúc chiến tranh thông qua thương lượng. Việt Nam không công khai phê phán Liên Xô có ý muốn chúng ta tạm thời giảm chi viện cho miền Nam, xuống thang kỹ thuật với Mỹ, một điều không thể có được khi đế quốc Mỹ đang mở rộng chiến tranh và khi tương quan lực lượng ở chiến trường, trên thế giới chưa cho phép thực hiện. Với Trung Quốc, khi cuộc cách mạng văn hoá diễn ra, Việt Nam coi đó là công việc nội bộ của Trung Quốc và bày tỏ mong muốn tình hình Trung Quốc sớm ổn định, không làm ảnh hưởng đến sự ủng hộ, chi viện của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, không gây trở ngại cho việc quá cảnh hàng viện trợ từ Liên Xô và Đông Âu cho Việt Nam. Việt Nam luôn coi trọng vai trò của Trung Quốc trong quan hệ quốc tế, coi trọng truyền thống hữu nghị lâu đời giữa nhân dân hai nước và vai trò của Trung Quốc đối với sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương. Vào dịp đầu và cuối năm 1967, khi Việt Nam tuyên bố điều kiện ngừng ném bom hoàn toàn, sẽ có thương lượng trực tiếp với Mỹ, Trung Quốc tỏ ý muốn Việt Nam đánh mà chưa vội đàm, Việt Nam đã kiên trì trao đổi, giải thích với Trung Quốc về bước đi sách lược nhằm kiềm chế Mỹ. Và ngày 17-11-1968, Mao Trạch Đông khi tiếp đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam thăm Trung Quốc đã nói rằng, Việt Nam đánh giỏi, đàm phán cũng giỏi và khẳng định ủng hộ phương châm vừa đánh, vừa đàm của Việt Nam1 (Trích theo Bộ Ngoại giao: Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Sđd, tr.227). Năm 1971, Trung Quốc đột nhiên chơi trò “ngoại giao bóng bàn”, bí mật mời H.Kítxinhgiơ - Cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ tới Bắc Kinh để dàn xếp, chuẩn bị cho chuyến đi của Níchxơn đến Bắc Kinh vào tháng 2-1972, Đảng, Nhà nước Việt Nam cử Thủ tướng Phạm Văn Đồng thương thuyết, đề nghị Trung Quốc không tiếp Níchxơn và mặc dù chuyến đi không thành công, nhưng Việt Nam vẫn tỏ ra tế nhị và kiềm chế các phản ứng. Qua các hoạt động kể trên, có thể thấy, Việt Nam đã tạo dựng được mối quan hệ phù hợp với cả Liên Xô và Trung Quốc, dựa trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, không đứng về bên nào, không vì quan hệ với nước này mà đối kháng với nước kia.


Tuy nhiên, khi đặt mục tiêu giữ vững cân bằng trong quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, tăng cường củng cố tình đoàn kết xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng bày tỏ rõ quan điểm của mình. Trước thực tế là Liên Xô và Trung Quốc đang điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình một cách mạnh mẽ, nhằm phục vụ lợi ích chiến lược của mỗi nước, nhất là thái độ của Trung Quốc đối với Mỹ, thì một mặt, Việt Nam lên tiếng tuyên bố về quyền độc lập tự chủ của mình, báo chí Việt Nam đăng tải các bài bình luận khẳng định rằng thời đại của các nước lớn áp đặt các nước nhỏ theo ý của mình không còn nữa, nhưng những tuyên bố chính thức của Việt Nam vẫn đề cao quan hệ, sự giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô; mặt khác, Việt Nam yêu cầu Liên Xô, Trung Quốc giữ vững lập trường ủng hộ Việt Nam trên phương diện chính trị, ủng hộ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ vì độc lập dân tộc và hoà bình, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam; đề nghị các nước bạn thể hiện lập trường đó trên các diễn đàn quốc tế, trong hoạt động ở Liên hợp quốc và nhất là trong quan hệ với Mỹ. Chính thái độ của Việt Nam đã có tác động nhất định tới hai nước này. Trong tuyên bố công khai sau khi tiếp Kítxinhgiơ vào năm 1971, Trung Quốc nhấn mạnh, vấn đề Việt Nam phải do chính người Việt Nam quyết định, còn Liên Xô cũng thường xuyên khẳng định tinh thần đoàn kết, ủng hộ Việt Nam.


Đảng, Nhà nước Việt Nam đã động viên, khích lệ toàn dân làm tròn nghĩa vụ dân tộc thiêng liêng, giữ gìn tình cảm quốc tế thủy chung, làm xoay chuyển thái độ của Liên Xô và Trung Quốc theo hướng ngày càng có lợi cho ta, góp phần làm giảm bớt khó khăn và tạo được điều kiện quốc tế thuận lợi hơn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #31 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2021, 09:31:55 pm »

Bằng đường lối đối ngoại thích hợp với thực tiễn quan hệ quốc tế lúc đó, Đảng và Nhà nước đã hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của mâu thuẫn Xô - Trung, của sự chia rẽ và phân liệt trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Nhân dân Việt Nam đã đánh bại mưu đồ của Mỹ lợi dụng mâu thuân trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là giữa Liên Xô - Trung Quốc để cô lập và làm suy yếu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau này, Mỹ phải thừa nhận: một trong những nguyên nhân đưa đến thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam là đã quá tin vào việc thông qua thủ đoạn hoà hoãn tay đôi với Liên Xô và Trung Quốc, lợi dụng bất đồng, đối địch giữa Liên Xô - Trung Quốc để thực hiện “chiến tranh bóp nghẹt” ở Việt Nam. Việc lực lượng đồng minh chiến lược của Việt Nam trong lúc khó khăn, hay thuận lợi chủ yếu đều đứng về phía nhân dân Việt Nam, kiên định sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế to lớn cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đã chứng tỏ đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước là đúng đắn, phù hợp.


Việt Nam tăng cường mối quan hệ nhà nước với chính phủ của hầu hết các nước độc lập dân tộc, các nước trong phong trào không liên kết và các nước khác có quan hệ ngoại giao chính thức hoặc bán chính thức với Việt Nam. Do vậy, đã phát huy thanh thế của lực lượng kháng chiến, nâng cao uy tín của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và chính quyền cách mạng ở miền Nam Việt Nam, làm cho các nước trên thế giới ngày càng hiểu rõ đường lối chính sách của Việt Nam, đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ ngày càng to lớn cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.


Bằng sự nỗ lực cao độ, Việt Nam đã tranh thủ được Liên Xô, Trung Quốc từng bước đồng tình, đi đến ủng hộ đường lối, mục tiêu, lập trường và quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam, giành cho nhân dân Việt Nam sự giúp đỡ to lớn, quý báu về mọi mặt. Việt Nam đã tận dụng vai trò quan trọng của Liên Xô trên trường quốc tế, đặc biệt đối với các nước Đông Âu, các tổ chức dân chủ, hoà bình quốc tế, với phong trào giải phóng dân tộc. Việt Nam tranh thủ vai trò to lớn của Trung Quốc là hậu phương trực tiếp của Việt Nam bảo đảm việc đào tạo cán bộ, xây dựng lực lượng, cung cấp hậu cần, đảm bảo vận chuyển. Việt Nam tranh thủ được các viện trợ không hoàn lại, cho vay không tính lãi với nhiều chương trình kinh tế, thương mại, lương thực, ngoại tệ... và đặc biệt là quân sự của cả Liên Xô và Trung Quốc. Có lẽ, trong lịch sử, hiếm có trường hợp hai nước đối địch nhau lại cùng cung cấp viện trợ cho một nước thứ ba, như mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và Liên Xô thời kỳ này. Việc thực hiện thành công sự đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã tạo ra cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam một sức mạnh tổng hợp cần và đủ để hạn chế một phần sức mạnh của Mỹ, bảo đảm cho nhân dân Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn của Mỹ.


Trong việc tăng cường đoàn kết quốc tế, đoàn kết với Lào và Campuchia là một trong những mặt trận đối ngoại quan trọng, góp phần trực tiếp vào thắng lợi của Việt Nam và đảm bảo sự thắng lợi của mỗi nước.

Gần một thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, ba dân tộc Việt - Lào - Campuchia đã gắn bó với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Cùng chung cảnh ngộ mất độc lập, tự do, nên từ rất sớm, tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào được hình thành như một lẽ tất yếu. Nhân dân Việt Nam, nhân dân Campuchia và nhân dân Lào đã tự nguyện liên kết, cùng sát cánh bên nhau đấu tranh chống thực dân Pháp.


Tháng 8-1945, nhân dân ba nước Đông Dương đứng lên đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, giành thắng lợi to lớn1 (Do điều kiện chủ quan và khách quan khác nhau, mỗi nước trên bán đảo Đông Dương giành được thắng lợi ở mức độ không giống nhau. Ở Lào và Việt Nam, chính phủ cách mạng được thành lập. Ở Campuchia, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, chính quyền vẫn thuộc quyền kiểm soát của vua Xihanúc). Tuy nhiên, ngay sau đó, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương tiếp tục tổ chức và lãnh đạo cuộc chiến đấu của nhân dân ba nước chống kẻ thù chung, sớm xác định Đông Dương là một chiến trường, chiến đấu theo một chiến lược chung. Trên cơ sở đó, trong khi tổ chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống kẻ thù chung, Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng vun đắp tình đoàn kết, quan hệ chiến lược giữa nhân dân ba nước bằng việc việc ký kết các hiệp ước liên minh1 (Ngày 30-10-1945, Hiệp định Liên minh quân sự giữa Chính phủ Ítxali và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng với Hiệp định Thành lập Liên Lào - Việt được ký kết và bắt đầu thực hiện. Cuối 1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Ủy ban Cao Miên độc lập ký tuyên bố chung về Đoàn kết Việt - Miên - Lào chống Pháp) và sự ủng hộ, giúp đỡ hết lòng về nhân tài, vật lực2 (Việt Nam lần lượt cử nhiều cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện sang Lào, Campuchia giúp đỡ nhân dân nước bạn xây dựng lực lượng vũ trang, cơ sở cách mạng, căn cứ kháng chiến, cùng tham gia chiến đấu trên mọi mặt trận. Ngay từ đầu năm 1946, ta cùng lực lượng hỗn hợp "Liên quân Miên - Việt". Từ 1947, 1948, nhiều đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam lần lượt sang hoạt động bên cạnh liên quân Lào - Miên, Miên - Việt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Dân tộc giải phóng Campuchia và Chính phủ kháng chiến Lào). Từ năm 1951, xuất phát từ đặc điểm tình hình cách mạng chung ở Đông Dương và tình hình cách mạng mỗi nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập ở mỗi nước một chính đảng vô sản1 (Từ một Đảng Cộng sản Đông Dương đã tách ra thành ba đảng cách mạng: Đảng Lao động Việt Nam; Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia (thành lập ngày 28-6-1951), Đảng nhân dân Lào (Thành lập ngày 22-3-1955)). Đáp ứng yêu cầu liên minh đoàn kết chiến đấu trong tình hình mới, ngày 11-3-1951, Hội nghị đại biểu Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào, bao gồm đại biểu các mặt trận dân tộc thống nhất ba nước, đã họp và quyết định “thành lập khối liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ". Sự phối hợp của quân dân ba nước Đông Dương đã từng bước đánh bại mọi kế hoạch leo thang chiến tranh của thực dân Pháp. Sau khi Mặt trận liên minh được thành lập, cán bộ và chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ ở Lào và Campuchia đã tận tụy công tác, không quản ngại khó khăn, gian khổ, hy sinh giúp đỡ nước bạn xây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng vũ trang quần chúng, phát động chiến tranh du kích rộng khắp. Nhiều đơn vị chủ lực Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Lào, Campuchia mở nhiều chiến dịch và giành thắng lợi to lớn2 (Giữa năm 1953, Liên quân Việt - Lào phối hợp mở chiến dịch Thượng Lào, quân dân Liên khu 5 và Nam Bộ phối hợp với quân dân yêu nước Campuchia tăng cường hoạt động mở các đợt hoạt động quân sự lớn, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó. Thắng lợi giành được ở Điện Biên Phủ (chiến trường Việt Nam) cùng những thắng lợi trên toàn chiến trường Đông Dương đã đánh tan mọi nỗ lực chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp). Trong muôn vàn gian khó, sự giúp đỡ, ủng hộ lẫn nhau của nhân dân ba nước chính là một trong những nguyên nhân cơ bản làm nên thắng lợi vẻ vang của cách mạng mỗi nước, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (tháng 7- 1954) công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của từng nước. Sức mạnh đoàn kết liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương thực sự là tấm gương sáng của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #32 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2021, 09:33:00 pm »

Sau khi thay chân thực dân Pháp, Mỹ đã cùng một lúc xâm lược cả ba nước Đông Dương với nhiều biện pháp chiến lược khác nhau, lợi dụng triệt để vấn đề tôn giáo, dân tộc đế gây chia rẽ, dùng lãnh thổ nước này làm bàn đạp uy hiếp, xâm lược nước khác.


Nếu thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ba dân tộc Đông Dương đoàn kết, liên minh chiến đấu do một đảng lãnh đạo và từ năm 1951, mỗi nước có Mặt trận thống nhất dân tộc hoạt động theo cương lĩnh riêng, thì trong kháng chiến chống Mỹ, tình hình đã hoàn toàn đổi khác. Sau Hiệp định Giơnevơ, mỗi nước Đông Dương đều đã độc lập, có chủ quyền, được thế giới thừa nhận về pháp lý, có đường lối chính sách riêng, cuộc vận động cách mạng trong từng nước do từng đảng của nước đó tiến hành theo cương lĩnh riêng, nhưng có sự phối hợp chung giữa ba đảng. Bước vào cuộc đụng đầu lịch sử, đứng trước nguy cơ nền độc lập, tự do bị đe dọa, yêu cầu tiếp tục củng cố, phát triển quan hệ liên minh đoàn kết chiến đấu Việt - Lào - Campuchia lại trở thành một yêu cầu khách quan, một nhu cầu tự thân cấp bách.


Sớm nhận ra ý đồ của Mỹ, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương giương cao ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống quý báu trong kháng chiến chống Pháp của ba dân tộc; kiên trì đẩy mạnh sự nghiệp đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia theo nguyên tắc luôn tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích và nguyện vọng chính đáng của mỗi dân tộc, đồng thời giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ của Việt Nam, cùng nhau đoàn kết, liên minh chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ, bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia cho cả ba dân tộc.


Trên tinh thần giải phóng, bảo vệ đất nước là nhiệm vụ của nhân dân mỗi nước, nên mỗi nước phải tự lo liệu, tự quyết định; đồng thời, coi trọng liên minh đoàn kết chiến đấu, “giúp bạn là tự giúp mình”, trong điều kiện Mỹ đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng vũ trang để tấn công quân sự tiêu diệt lực lượng cách mạng Lào và Campuchia, từ năm 1954, Đảng Lao động Việt Nam, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam chủ trương tăng cường củng cố lực lượng đội tình nguyện Việt Nam ở Lào; đồng thời, kiện toàn các đơn vị hiện có ở Campuchia, chuẩn bị tiến tới xây dựng các tiểu đoàn Miền1 (Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, phông Ban Lào - Miên, số 73, Mục lục số 1, Đơn vị bảo quản số 102, tờ 38-40). Quân tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng Pathét Lào mở các chiến dịch Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng (1961), Nậm Thà (1962), Đường số 8, Đường 12 (1963), Nậm Bạc (1968), Cánh Đồng Chum (1964, 1969)... Bộ đội tình nguyện Việt Nam chủ động phối hợp với lực lượng vũ trang yêu nước Lào đẩy mạnh tác chiến ở khu vực hành lang phía tây Trường Sơn, tổ chức nhiều đợt chiến đấu giải phóng Mường Phin, Bản Đông (1960-1961), Đường 12, từ Mụ Dạ đến Đường 9 (1962-1963), Pha Lam - Đồng Hến (1964-1965)... Các chiến dịch trên cùng hàng loạt trận chiến đấu của Liên quân Lào - Việt đã đánh bại từng bước “chiến tranh đặc biệt” rồi “chiến tranh đặc biệt phát triển cao” của Mỹ ở Lào, làm nao núng tinh thần quân đội Mỹ.


Với tinh thần “thắng lợi của nhân dân Khmer cũng là thắng lợi chung của nhân dân Việt Nam”, của Khối liên minh nhân dân Khmer - Việt Nam - Pathét Lào đoàn kết chiến đấu, để dành lại tự do độc lập của ba dân tộc anh em1 (Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng nhân ngày độc lập của nước Khơme tự do, Báo Nhân dân (Việt Nam), số 196, từ ngày 19 đến ngày 21-6-1954), Quân đội nhân dân Việt Nam nỗ lực giúp đỡ Campuchia xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng chỗ đứng chân, củng cố quan hệ đoàn kết chiến đấu Việt - Miên. Quân tình nguyện Việt Nam đã giúp xây dựng bộ đội chủ lực, dân quân du kích, xây dựng hệ thống trường, lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chỉ huy, cán bộ tham mưu các binh chủng và một số ngành chuyên môn kỹ thuật, như bộ binh, pháo binh, công binh, đặc công, thông tin, cơ yếu, y tá, thợ sửa chữa quân giới... cho Campuchia. Trên chiến trường Campuchia, những cuộc phản công chiến lược phối hợp giữa Quản đội nhân dân Việt Nam và lực lượng vũ trang Khmer đã đánh bại lực lượng lớn quân Mỹ và quân đội Sài Gòn (4-1970), làm phá sản các cuộc hành quân lớn của đối phương như Chen La I (6-1970), Toàn Thắng (2-1971), Chen La II (8-1971)... Những thắng lợi liên tiếp, ròn rã đó đã đẩy quân Mỹ vào thế bất lợi, đánh bại một bước các kế hoạch chiến tranh của đối phương, tạo thế và lực cho cách mạng Campuchia.


Phối hợp với cách mạng Việt Nam, trong những thời điểm lực lượng vũ trang miền Nam đang gặp khó khăn (đặc biệt vào những năm 1968-1970), Quân đội hoàng gia và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tích cực giúp Quân giải phóng Việt Nam đứng chân an toàn trên địa bàn Campuchia.


Những thắng lợi to lớn cả về chính trị, ngoại giao, đặc biệt là quân sự trên chiến trường ba nước Đông Dương đã buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari (27-1-1973) rút quân khỏi Việt Nam, ký Hiệp định Viêng Chăn về Lào (22-2-1973). Không ngừng, tiến công đối phương đều khắp trên cả ba chiến trường, từ đó phát triển thế chủ động chiến lược trên từng chiến trường, hình thành thế chiến lược tiến công chung trên toàn Đông Dương, lực lượng vũ trang ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đã dẫn dắt cuộc chiến tranh chuyển động theo ý đồ của mình, giam chân và làm đối phương sa lầy, bế tắc. Sự phối hợp tác chiến quân sự giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và lực lượng vũ trang Lào, Campuchia ngày càng có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến cục diện cuộc chiến, nhất là vào giai đoạn cuối của cuộc chiến.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #33 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2021, 09:33:51 pm »

Chớp thời cơ, tháng 4-1975, Quân đội nhân dân Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng đất nước. Ngày 8-5-1975, Quân ủy Trung ương và Bộ Chỉ huy tối cao Lào lệnh cho các lực lượng vũ trang nhanh chóng tấn công, chiếm lĩnh những địa bàn quan trọng. Đến giữa năm 1975, quân và dân Lào đã giành được chính quyền ở 13 tỉnh và 4 thành phố. Ngày 29-11-1975, nhà vua Lào tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ ở Lào. Ngày 2-12-1975, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào được thành lập. Đông Dương hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc; các dân tộc trên bán đảo Đông Dương bước vào một chặng đường mới, hòa nhịp cùng khu vực, thế giới và thời đại. Gần 21 năm cùng “đồng cam, cộng khổ” tiến hành kháng chiến, sự cố gắng và hy sinh xương máu của lực lượng vũ trang ba nước Đông Dương đã được đền đáp xứng đáng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trên bán đảo Đông Dương là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu giữa quân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, của mối quan hệ đặc biệt đã có từ lâu trong lịch sử, được thử thách, tôi rèn trong trường kỳ đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do.


Từ thực tế Liên minh ba nước Đông Dương, có thể rút ra kinh nghiệm về chỉ đạo và tổ chức thực hiện: một mặt, phải kiên trì, nhất quán đoàn kết, liên minh với Lào, với Campuchia, mà trước hết là đoàn kết với nhân dân hai nước; mặt khác, phải biết lực chọn những hình thức, nội dung phù hợp theo từng giai đoạn đối với từng lực lượng, của từng nước khác nhau trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, đồng thời giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ của Việt Nam.


Thực tiễn chiến tranh ở cả ba nước, trên các chiến trường cho phép khẳng định: phát huy sức mạnh đoàn kết liên minh, tạo ra thế chiến lược tiến công chung đánh địch ở cả ba nước, miền Nam Việt Nam vừa là chiến trường, vừa là hậu phương lớn của các chiến trường là những nội dung lớn trong chỉ đạo chiến tranh. Vấn đề xuyên suốt có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp đoàn kết, liên minh là luôn quán triệt điều Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong đoàn kết, liên minh chống Pháp “giúp bạn là tự giúp mình”, nêu cao chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, đấu tranh chống mọi tư tưởng nước lớn, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Trong lịch sử chiến tranh cách mạng thế giới trước đây, mới có Liên Xô năm 1945 là giải phóng cho mình, đồng thời giải phóng cho một số nước khác; thì đến nay, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, do thực hiện đoàn kết liên minh với nhân dân Lào, Campuchia, nên không những tự giải phóng mình mà còn góp phần quan trọng giúp hai nước láng giềng anh em cùng giành thắng lợi trọn vẹn. Công cuộc đoàn kết, liên minh với Lào, với Campuchia đã góp phần đem lại thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù xâm lược chung của ba nước Đông Dương, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.


Một cách tổng quát, lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã một lần nữa chứng kiến sức mạnh chưa từng có của lòng yêu nước, khối đoàn kết thống nhất muôn người như một, cả nước chung sức, toàn dân đánh giặc, quyết chiến quyết thắng của con Lạc cháu Hồng trong cuộc chiến tranh 30 năm (1945-1975) vì độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Có thể nói, chưa bao giờ nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam lại đoàn kết thống nhất và tạo nên sức mạnh to lớn như trong cuộc chiến tranh 30 năm vĩ đại này, cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện.


Để có được đoàn kết trong đánh giặc, cứu nước, trước hết phải giương cao ngọn cờ chính nghĩa. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nền độc lập vừa giành được trong Cách mạng Tháng Tám, và tiếp đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước là sự nghiệp chính nghĩa, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn”. Chiến tranh chính nghĩa, chống xâm lược, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đem lại ruộng đất và quyền làm chủ cho dân cày, tiến lên xây dựng một đất nước không có người bóc lột người là động lực cơ bản có sức cuốn hút mạnh mẽ và tập hợp lực lượng rộng lớn đối với toàn thể các dân tộc trong đất nước Việt Nam, tạo nên khối đoàn kết thống nhất toàn dân. Đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng đáp ứng quyền lợi cơ bản của nhân dân, từng bước thực hiện hoá khát vọng lâu đời của toàn dân tộc, cùng nhiều hình thức tổ chức phù hợp đã phát huy được sức mạnh của toàn dân kháng chiến và kiến quốc, không ngừng củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, dẫn đến “đại thành công” trong cuộc chiến đấu quyết liệt với những kẻ thù xâm lược hung bạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của đường lối đoàn kết toàn dân đầy chất nhân văn và trí tuệ đó. Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lập ra nhiêu tổ chức để tập hợp quần chúng phù hợp với lứa tuổi, giới, ngành nghề, dân tộc, tôn giáo nhằm đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng và chiến tranh.


Trong tương quan giữa đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, thì sức mạnh đoàn kết dân tộc là chủ đạo, sức mạnh quốc tế là sự hỗ trợ, thúc đẩy. Đảng ta chủ trương tận lực phát hứy sức mạnh của đoàn kết dân tộc, coi nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy được tác dụng to lớn của nó thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy, Đảng, Nhà nước Việt Nam cho rằng, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trước hết và chủ yếu là dựa vào sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Song sức mạnh ấy sẽ không phát huy được hiệu quả, nếu như không kết hợp chặt chẽ với sức mạnh đoàn kết quốc tế. Đây cũng là quy luật chi phối quá trình xây dựng, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết, thế hiện quan điểm coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thể hiện lòng tin sắt đá của Đảng vào sức mạnh của dân tộc, đồng thời khẳng định quan điểm coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, luôn gắn chặt cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng của nhân dân thế giới, biết phát huy những thuận lợi của thời đại để giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời đóng góp tích cực cho sự nghiệp cách mạng của các dân tộc khác.


Sức mạnh đoàn kết dân tộc mang ý nghĩa chủ quan. Sức mạnh đoàn kết quốc tế là tồn tại khách quan. Đảng ta đã khai thác, kết hợp cả hai sức mạnh ấy trong quá trình xây dựng, mở rộng khối đại đoàn kết, phục vụ sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm. Tư tưởng phát huy nội lực, đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng là một nhân tố căn bản, bảo đảm cho việc tập hợp lực lượng quốc tế, góp phần tăng thêm đáng kể sức mạnh của dân tộc Việt Nam, góp phần quan trọng cho việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế đã tạo ra sự cộng hưởng to lớn, tạo nên sức mạnh, đánh bại những đế quốc lớn nhất thời đại.


Con đường đi đến độc lập, tự do, hạnh phúc, đem đến một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đem đến sự thống nhất cho đất nước luôn gập ghềnh khó khăn, để đi đến được đích đòi hỏi sự đoàn kết của toàn dân thuộc mọi tầng lớp, tôn giáo dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Phát huy sức mạnh đoàn kết, thống nhất của dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, thực hiện tư Tưởng lớn của Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” là kinh nghiệm quý báu mà chúng ta rút ra được sau 30 năm chiến tranh giải phóng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #34 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2021, 05:00:40 pm »

Chương III
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN VÀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ


I- PHÁT ĐỘNG VÀ CHỈ ĐẠO KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN

Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội, có tính lịch sử, là sự tiếp nối của chính trị bằng bạo lực giữa các lực lượng đối kháng trong một nước, hoặc giữa các nước, hay liên minh các nước, nhằm đạt được những mục đích kinh tế, chính trị nhất định. Chiến tranh nhân dân là công tác động viên quân sự trên toàn thể cộng đồng quốc gia - dân tộc không phải một hiện tượng hiếm hoi trong lịch sử thế giới, trái lại, khá phố biến. Đặc biệt, chiến tranh nhân dân là vũ khí thích hợp cho một cộng đồng yếu thế tận dụng mọi nguồn lực chống lại những kẻ thù hùng mạnh. Đối với thời kỳ tiền tư bản, việc thi hành các chính sách nhằm thiết lập tình trạng thời chiến trên phạm vi toàn quốc, thậm chí vượt ra ngoài biên giới, đã có sự chuyên môn hóa lực lượng quân đội quốc gia - chính quy thời tiền tư bản (tuy nhiên chưa đạt đến ngưỡng chuyên biệt hẳn như thời đại công nghiệp hóa chiến tranh về sau).


Nhưng ngay cả trong thời đại công nghiệp hóa quân sự, thì nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân không phải là hiện tượng hiếm hoi ngay cả ở châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai1 (Có thể nghiên cứu học thuyết Toàn quốc kháng chiến hay Quốc phòng toàn dân qua trường hợp tiêu biểu là Nam Tư (1969). năm 1969, Luật quốc phòng của Nam Tư thông qua học thuyết Chiến tranh tổng lực được biết với tên Toàn quốc kháng chiến (Total National Defense) hay Toàn dân kháng chiến (Total People  Defense). Theo đó, bất kỳ công dân nào chống lại kẻ thù đều là thành viên của lực lượng quốc phòng quốc gia. Có thể tìm hiểu thêm tại Library of Congress Country Studies, nguồn: http://lcweb2.loc.gov/; hoặc báo cáo về Toàn quốc kháng chiến ở Nam Tư (Total National Defense in Yugoslavia) của A.Ross Johnson, Cục Thông tin kỹ nghệ quốc gia (Hoa Kỳ, tháng 12 -1971). Thực tế, dạng học thuyết Quốc phòng toàn dân với những nguyên lý tổ chức khác nhau có thể tìm thấy ở nhiều nước Đông Âu khác. Ngay ở Inđônêxia, những năm đầu thế kỷ XXI, tư tưởng Quốc phòng toàn dân đang có xu hướng được phục hồi).


Như đã nói, lý do dẫn đến sự ra đời của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân là từ mâu thuẫn giữa nhu cầu kháng chiến - tiến hành chiến tranh chống lại những kẻ thù vượt trội và hiện thực quân sự thua kém về tiềm lực. Quá trình giải quyết mâu thuẫn ấy trước hết thường cho ra đời một bộ máy chiến tranh lớn gồm hai bộ phận: (a) bộ phận chỉ đạo chiến tranh và (b) lực lượng trực tiếp tham chiến. Tư tưởng quân sự về chiến tranh nhân dân chính là chất keo gắn kết giữa hai bộ phận ấy. Bộ phận chỉ đạo chiến tranh được hình thành dưới hai dạng: (i) hoặc trực tiếp là những người lãnh đạo tối cao của quốc gia chủ động thiết lập nền quốc phòng toàn dân, (ii) hoặc là một bộ phận phụ trách chuyên biệt công tác chiến tranh rồi dần mở rộng ảnh hưởng và tác động đến cấu trúc vận hành của nhà nước. Trường hợp thứ nhất, trong thời hiện đại, thường là những người cách mạng, ái quốc và đi liền với đó là lực lượng quần chúng tiến bộ của lịch sử. Trường hợp thứ hai liên quan chặt chẽ đến sự ra đời của những nhà nước quân sự và chế độ độc tài quân sự. Nên nhớ rằng, việc ra đời một bộ máy chiến tranh lớn nếu không xuất phát từ nền tảng và mục đích chính nghĩa, thì rất có thể dẫn đến tình trạng lạm dụng quyền lực trên diện rộng khi quyền lực quân sự kiểm soát mọi trạng thái của quyền lực chính trị. Một bộ máy chiến tranh lớn nếu không có một đường lối chính trị kiên định, mang tính tiến bộ, với những người lãnh đạo sáng suốt, thì sẽ dẫn đến nguy cơ quyền lực quân sự xâm nhiễm và tái cấu trúc mọi định thức xã hội, khiến xã hội thời bình rơi vào tình trạng thời chiến thường trực hoặc phản phát triển.


Chiến tranh nhân dân không phải là một hiện tượng xa lạ trong lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nó xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử dân tộc, dưới sự lãnh đạo của các vương triều phong kiến tiến bộ, hoặc phát triển từ các cuộc khởi nghĩa của nông dân, chiến tranh nhân dân Việt Nam đã đánh bại những đội quân xâm lược của các tập đoàn phong kiến nước ngoài lớn mạnh. Tư tưởng quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân Việt Nam hiện đại không chỉ kế thừa, tiếp nối truyền thống quân sự hàng ngàn năm của dân tộc, mà còn tiếp thu những nhân tố của thời đại mới, mở rộng trên nhiều phương diện từ khoa học - kỹ thuật, công tác tổ chức quân đội, công tác chính trị, cho đến những lĩnh vực như ngoại giao, kinh tế... Tư tưởng chiến tranh nhân dân nói riêng và tư tưởng quân sự Việt Nam hiện đại nói chung đều là những bộ phận của tư tưởng cách mạng Việt Nam, và đều gắn chặt với quá trình phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam.


Trong cuộc kháng chiến 30 năm chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, để đương đầu với thế lực xâm lược có tiềm lực về kinh tế quân sự, khoa học - kỹ thuật, Đảng cho rằng, nhất thiết phải động viên toàn dân, tổ chức toàn dân, huy động sức mạnh toàn dân tộc. Đây là một quan điểm rất cơ bản trong đường lối quân sự của Đảng. Đường lối này có cơ sở từ truyền thống đánh giặc của cha ông, được kế thừa và phát triển lên một trình độ mới. Cha ông ta ngay từ rất sớm đã biết cố kết để dựng nước và giữ nước, đã biết gắn quyền lợi của Tổ quốc với quyền lợi của gia đình và bản thân, gắn bó nước với nhà, làng với nước. "Nước mất thì nhà tan" - quy luật đó đã thể hiện mối quan hệ keo sơn, mật thiết, bền chặt giữa “nước” và “nhà” trong ý thức của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, mỗi khi có giặc ngoại xâm, để có thể đương đầu và đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, như một tất yếu, mọi người, mọi nhà, mọi vùng miền trong cả nước, từ miền xuôi đến miền ngược... tất thảy đều đứng lên chống giặc. Các nhà yêu nước thời xưa, mặc dù không thể tránh khỏi những sự hạn chế nhất định của lịch sử, nhưng khi lãnh đạo chiến tranh, họ đã thấy được sức mạnh của muôn dân, có chủ trương dựa vào dân để chống giặc, giữ nước. Tổng kết kinh nghiệm ba lần đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông của dân tộc, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chỉ rõ: sở dĩ Việt Nam thắng được giặc ngoại xâm là do dân trên dưới một lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức. Trước khi mất, Trần Hưng Đạo đã dặn lại vua Trần: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, coi đây là thượng sách để giữ nước. Nguyễn Trãi ví sức dân như nước, chở thuyền là dân và lật thuyền cũng là dân. Nhận rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, của lòng dân, gắn bó chặt chẽ quyền lợi của vương triều, dòng họ với lợi ích tối cao của đất nước, của muôn dân, các vương triều phong kiến tiến bộ đã giương cao ngọn cờ đại nghĩa dân tộc, quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân, thực hiện những hình thức dân chủ nhất định để phát huy lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết chống ngoại xâm. Trong mỗi thời kỳ lịch sử của Việt Nam trước đây, tiến hành chiến tranh yêu nước không chỉ có quân đội của nhà nước phong kiến, mà còn có lực lượng dân binh và mở rộng ra là lực lượng toàn dân trong cả nước. Quân và dân cùng chung sức chiến đấu trên mặt trận quân sự cũng như các mặt trận khác. Các thời Lê, Lý, Trần đều áp dụng chính sách "ngụ binh ư nông", thực hiện "trăm họ đều là binh"...


Ở thời kỳ hiện đại, đường lối chiến tranh toàn dân của Đảng còn là sự vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng, về động viên toàn dân, vũ trang rộng rãi quần chúng cách mạng và xây dựng quân đội cách mạng kiểu mới vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. V.I. Lênin đã tổng kết: Để tiến hành chiến tranh, phải động viên toàn bộ mọi lực lượng trong nhân dân. Phải biến cả nước thành một dinh luỹ cách mạng. Tất cả hãy chi viện cho chiến tranh và tất cả mọi lực lượng, mọi tài nguyên của đất nước đều phải dành cho công cuộc bảo vệ cách mạng.


Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, sức mạnh đánh thắng kẻ thù không thể chỉ dựa vào quân đội thường trực, càng không thể chỉ dựa vào trang bị vũ khí, mà trước hết và chủ yếu cần phải dựa vào việc phát huy sức mạnh của toàn dân theo một đường lối đúng đắn, hiệu quả.


Kế thừa truyền thống “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc” từ cha ông để lại; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.261-262), “Nước lấy dân làm gốc”2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.409); vận dụng lý luận của học thuyết Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trên cơ sở lượng sức mình, và phân tích diễn biến của tình hình, Đảng đã sớm đề ra đường lối chiến tranh toàn dân, kháng chiến toàn dân. Đảng xác định một cách nhất quán: “Muốn hoàn thành nhiệm vụ dân tộc giải phóng vĩ đại ấy, sự đoàn kết nhất trí của toàn dân không phân biệt giai cấp, đảng phái là một điều kiện cốt yếu”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.19). Cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống lại kẻ thù xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sự nghiệp chính nghĩa, với mục đích thực sự vì nhân dân, vì sự sống còn của dân tộc, vì thế, cuộc kháng chiến ấy mang đậm tính nhân văn, có sức hiệu triệu mọi người Việt Nam yêu nước tham gia. Có thể khẳng định rằng, toàn dân kháng chiến là tư tưởng cơ bản nhất, là tư tưởng cốt lõi xuyên suốt, có ý nghĩa chỉ đạo toàn bộ chiến lược chiến tranh nhân dân, được thể hiện xuyên suốt qua các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện ở việc động viên, tổ chức toàn dân đánh giặc, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân, lấy lực lượng vũ trang nhân dân với ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #35 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2021, 05:01:44 pm »

1. Lực lượng của thế trận toàn dân kháng chiến

Toàn dân kháng chiến bao gồm lực lượng nhân dân rộng rãi đứng lên đánh giặc với lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, nhân dân tiến hành các hoạt động đấu tranh với nhiều hình thức trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, ngoại giao... Đó là các hoạt động đấu tranh chính trị của đông đảo nhân dân vùng bị địch chiếm; là các đội thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến ở hậu phương, ở vùng tự do, ở mỗi nẻo đường kháng chiến; là các đội diệt tề, trừ gian, các đội tuyên truyền, phá hoại, các hội mẹ chiến sĩ, các đội quân chăm lo hậu cần... Toàn dân kháng chiến là: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.480), hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh đổ thực dân, đế quốc để giành độc lập cho Tổ quốc.


Đây là cuộc kháng chiến toàn dân nên lực lượng vũ trang Việt Nam không chỉ có quân đội nhân dân (bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương), mà còn bao gồm lực lượng đông đảo của dân quân tự vệ, của “quần chúng lâm thời vũ trang”, nghĩa là bao gồm cả những người dân bình thường trong xã hội, nhưng luôn sẵn sàng tham gia đánh địch mỗi khi chúng xâm lược với tinh thần “cử quốc nghênh địch”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Với phương châm vũ trang toàn dân, nhân dân Việt Nam đã sử dụng và chế tạo ra mọi thứ vũ khí có thể dùng được, từ gươm, súng, đến cuốc, thuổng, gậy gộc...; kể cả lấy vũ khí của địch để tiêu hao, tiêu diệt địch. Với phương châm toàn dân kháng chiến, nên ta có thể đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi điều kiện địa hình, thời tiết, đâu đâu cũng là trận địa, mỗi người dân là một chiến sĩ, kết thành lực lượng toàn dân, và lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết - không ai chiến thắng được lực lượng đó. Toàn dân kháng chiến khiến quân địch không thể tạo ra một chiến tuyến rõ rệt để đối phó với quân và dân Việt Nam. Vì thế, có thể nói rằng, ở đâu có địch, có dân, ở đó có mặt trận. Việt Nam không cho địch phát huy được chỗ mạnh và sở trường của chúng là số quân đông, trang bị vũ khí nhiều, hiện đại, khả năng cơ động nhanh, quen đánh theo lối dàn trận chính quy, hiệp đồng quân chủng và binh chủng; khiến chúng quân đông mà hoá ít, trang bị kỹ thuật hiện đại nhưng không phát huy được hiệu lực, từ đó, khoét sâu những mâu thuẫn mà chúng không thể nào khắc phục được là mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung, giữa phòng ngự và tiến công, giữa giữ đất và chiếm thêm đất, giữa đánh nhanh và đánh kéo dài... Tiến hành kiểu chiến tranh như vậy, Đảng, Chính phủ có điều kiện khắc phục dần chỗ yếu, chuyển hóa dần lực lượng so sánh, tạo ra và nhân lên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của chúng. Có thể nói, suốt 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975), trong điều kiện phải lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít đánh nhiều, vũ khí và phương tiện chiến tranh đều kém địch cả về số lượng và trình độ hiện đại, quân dân Việt Nam đã buộc đối phương phải đối đầu không chỉ với lực lượng vũ trang, mà với cả dân tộc Việt Nam, tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân phát triển đến trình độ cao chưa từng thấy, với khối đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động của cả dân tộc.


Với phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân, quân, dân Việt Nam triệt để thực hiện được khẩu hiệu: "Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã, khu phố là một pháo đài, mỗi chi bộ đảng là một bộ tham mưu". Và như vậy, hễ là người Việt Nam yêu nước, thì ai ai cũng nhất tề đứng lên cứu nước. Sức mạnh vĩ đại của chiến tranh nhân dân Việt Nam là ở chỗ đã huy động được mọi tầng lớp nhân dân đứng lên kháng chiến, đã khai thác và phát huy đến mức cao nhất khả năng và sức mạnh tiềm tàng to lớn của đất nước, của mọi người dân để tiến hành chiến tranh. Đối phương đã phải dùng đến mọi loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, nhưng không thể khuất phục được ý chí kháng chiến của quân và dân Việt Nam. Rút cục, đội quân xâm lược khổng lồ đông mà hoá ít, mạnh mà hoá yếu, càng dấn sâu vào chiến tranh, chúng càng bị sa lầy, lúng túng và bị động. Chiến tranh toàn dân phát triển rộng rãi đã làm cho thế và lực của đối phương ngày càng bị hao mòn, suy giảm, ý chí xâm lược sa sút, và cuối cùng không tránh khỏi thất bại.


Khẳng định các cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh nhân dân, điều có ý nghĩa quyết định là phải động viên toàn dân, tổ chức toàn dân. Đây là một quan điểm rất cơ bản của Đảng trong việc xây dựng lực lượng để tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. V.I. Lênin từng nói: Để tiến hành chiến tranh, phải động viên toàn bộ mọi lực lượng trong nhân dân; phải biến cả nước thành một dinh luỹ cách mạng; tất cả hãy chi viện cho chiến tranh và tất cả mọi lực lượng, mọi tài nguyên của quốc gia đều phải dùng vào công cuộc bảo vệ cách mạng. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, sức mạnh để chiến thắng kẻ thù không thể chỉ dựa vào quân đội thường trực, càng không thể chỉ dựa vào ưu thế về trang bị vũ khí, mà trước hết và chủ yếu là phải dựa vào sức mạnh của toàn dân được tổ chức lại; cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #36 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2021, 05:02:53 pm »

2. Tư tưởng về xây dựng lực lượng chính trị và mặt trận chính trị làm nền tảng cho thế trận chiến tranh nhân dân

Xuất phát từ quan điểm bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta cho rằng, sự nghiệp kháng chiến là sự nghiệp của toàn dân và chủ trương xây dựng lực lượng kháng chiến, lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân thành một khối thống nhất rộng rãi, vững chắc, bao gồm lực lượng chính trị quần chúng có tổ chức và lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Trong chiến tranh nhân dân Việt Nam, bạo lực cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng. Để tiến hành cách mạng bạo lực phải kết hợp chặt chẽ hai lực lượng với nhau, đó là: Lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó, Đảng coi việc xây dựng lực lượng chính trị là điều cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định nhất, là cơ sở để xây dựng, phát triển lực lượng mọi mặt của kháng chiến: chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa, ở cả tiền tuyến lẫn hậu phương. Khi chiến tranh cách mạng đã phát triển một cách toàn diện, quy mô ngày càng rộng lớn, thì lực lượng chính trị quần chúng không chỉ là lực lượng tham gia xây dựng hậu phương, chi viện tiền tuyến, mà còn là lực lượng trực tiếp tiến công địch bằng nhiều hình thức phong phú như đấu tranh chính trị trực diện, nổi dậy giành quyền làm chủ với những mức độ khác nhau, tham gia chiến tranh du kích, vận động binh lính địch..., cùng với lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy với tác chiến bằng những hình thức vô cùng phong phú và linh hoạt. Có lực lượng chính trị hùng hậu tức là lực lượng của toàn dân được giác ngộ và tổ chức chặt chẽ, kiên quyết đấu tranh với địch, thì mới thực hiện được vũ trang quần chúng cách mạng đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân, tạo thành lực lượng quân sự lớn mạnh; mới khai thác được tiềm lực của nhân dân, của đất nước, xây dựng được nền kinh tế lớn mạnh; mới phát huy được sức mạnh to lớn về tinh thần để đấu tranh thắng lợi với địch trên mặt trận văn hóa - tư tưởng. Chính vì thế, Đảng xác định phải bắt đầu từ việc xây dựng lực lượng chính trị, rồi trên nền tảng đó mà xây dựng lực lượng vũ trang, nghĩa là phải có “người trước, súng sau”, phải có quần chúng giác ngộ chính trị tự nguyện cầm súng để đánh giặc. Lực lượng chính trị quần chúng là lực lượng của toàn dân tham gia khởi nghĩa và chiến tranh một cách có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong.


Trên tinh thần ấy, Đảng động viên toàn dân chiến đấu và ra sức xây dựng khối đoàn kết toàn dân, xem đó là nhân tố quyết định cho thắng lợi. Muốn độc lập, tự do, đi tới chiến thắng, thì toàn dân phải đúc thành một khối thống nhất, “Bao nhiêu thành kiến giai cấp, bao nhiêu phân tranh đảng phái, bao nhiêu đố kỵ về tôn giáo và nòi giống phải hất ra khỏi con đường tiến triển của dân tộc Việt Nam... Lúc này bí quyết của sự thành công ở chỗ tinh thần đoàn kết”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.70-71).


Để động viên toàn dân, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, dưới ánh sáng tư tưởng chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, Đảng đề ra chính sách đại đoàn kết, “nhân dân Việt Nam ví như bó đũa, chụm lại thì địch khó bẻ, chia ra thì địch sẽ lần lượt bẻ từng cái một, đến gãy hết mới thôi. Đoàn kết cần cho kháng chiến là như thế"2 (Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1948, tr.34). Chính sách đại đoàn kết của Đảng thể hiện ở chỗ: Đoàn kết thống nhất chặt chẽ mọi lực lượng của dân tộc, bao gồm tất cả các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, tất cả các đảng phái, các thành phần dân tộc; đoàn kết thống nhất chặt chẽ trong Đảng, trong các cơ quan chính quyền các cấp, trong quân đội và đoàn kết thống nhất chặt chẽ giữa các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, lãnh đạo chính quyền với toàn thể nhân dân.


Thực hiện chiến lược đại đoàn kết, tổ chức cả nước đánh giặc, Đảng chủ trương tập hợp, không ngừng chăm lo xây dựng, vun đắp, thu hút đông đảo các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước, các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam vào một Mặt trận rộng rãi, mà nòng cốt là liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do đó, lực lượng chính trị quần chúng trong chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân ở Việt Nam bao gồm các giai cấp, tầng lớp, cá nhân yêu nước, tiến bộ, thuộc đủ mọi thành phần dân tộc và tôn giáo, ở nông thôn cũng như ở thành thị, được tập hợp trong tổ chức, hoặc dưới khẩu hiệu hành động của Mặt trận. Đó là lực lượng hết sức rộng rãi, đồng thời là lực lượng vững mạnh của dân tộc. Lực lượng đó là cơ sở vững chắc để tiến hành chiến tranh nhân dân.


Quy luật của đấu tranh cách mạng ở Việt Nam là từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp với đấu tranh vũ trang, kết hợp khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng. Kinh nghiệm 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945 - 1975) cho thấy, không thể tiến hành chiến tranh toàn dân, nếu không có lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt; lực lượng vũ trang nòng cốt đó phải đủ mạnh để đương đầu với lực lượng vũ trang của địch, đánh thắng địch về quân sự mới có thể giành được thắng lợi cho chiến tranh, ở đây, lực lượng vũ trang rõ ràng là lực lượng chủ yếu quyết định trực tiếp việc tiêu hao, tiêu diệt sinh lực đối phương, giành thắng lợi về quân sự, trên cơ sở đó, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng. Hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang ba thứ quân phối hợp chặt chẽ với hoạt động đấu tranh của lực lượng chính trị, thực hiện “ba mũi giáp công”1 (Tiến công bằng chính trị, quân sự, binh vận), kết hợp tác chiến với nổi dậy, tạo thành một sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, đánh bại chiến tranh xâm lược của đối phương.


Lực lượng vũ trang nhân dân ở Việt Nam là lực lượng nhân dân cách mạng, được tổ chức chặt chẽ và vũ trang ở những mức độ khác nhau. Đó là lực lượng không thể thiếu khi tiến hành cách mạng bạo lực, là công cụ sắc bén của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, nhằm giành và giữ chính quyền.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #37 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2021, 05:03:43 pm »

Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, Đảng chủ trương dựa trên cơ sở lực lượng chính trị quần chúng, tiến hành vũ trang quần chúng cách mạng đi đôi với xây dựng quân đội nhân dân, với hình thức tổ chức ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) để làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Trong quá trình chỉ đạo chiến tranh cách mạng, Đảng đã giải quyết một cách rất sáng tạo vấn đề hình thức tổ chức lực lượng vũ trang. Trong mỗi thời kỳ, Đảng đã căn cứ theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, theo hình thức đấu tranh cách mạng và đối tượng tác chiến, dựa trên điều kiện lịch sử cụ thể về chính trị, kinh tế và xã hội mà vận dụng các hình thức tổ chức lực lượng vũ trang một cách thích hợp. Trong quá trình đó, hình thức tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm ba thứ quân là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ đã sớm hình thành và ngày càng trở nên hoàn chỉnh. Đó là hình thức tổ chức kết hợp quân đội thường trực (bao gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương) với quần chúng vũ trang (dân quân tự vệ). Đó cũng là hình thức tổ chức kết hợp lực lượng nòng cốt với lực lượng rộng rãi, kết hợp lực lượng cơ động với lực lượng tại chỗ của cả nước và của từng địa phương. Mỗi thứ quân có hình thức tổ chức và nhiệm vụ khác nhau. Dân quân tự vệ là lực lượng quần chúng đông đảo được vũ trang thường xuyên và có tổ chức ở cơ sở, không thoát ly sản xuất. Đây là công cụ bạo lực của Đảng và chính quyền nhân dân ở cơ sở, do Đảng ủy cơ sở trực tiếp lãnh đạo, do cơ quan quân sự ở cơ sở trực tiếp chỉ huy dưới sự chỉ đạo của cơ quan quân sự cấp trên. Nó được tổ chức theo thôn, xã, bản, làng, phum, sóc, xí nghiệp, đường phố..., phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu và với điều kiện và đặc điểm của từng địa phương, hình thành một lực lượng vững mạnh, rộng khắp trên cả nước, sẵn sàng đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí thích hợp, từ thô sơ đến hiện đại. về vai trò của dân quân du kích và dân quân tự vệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.132). Bộ đội địa phương là một bộ phận quân đội thường trực tại địa phương, do cấp ủy đảng địa phương trực tiếp lãnh đạo, do cơ quan quân sự địa phương trực tiếp chỉ huy dưới sự chỉ đạo của cơ quan quân sự cấp trên. Đây là lực lượng tập trung cơ động của địa phương, cùng với dân quân tự vệ làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương, làm công cụ của chính quyền cách mạng ở địa phương. Nó được xây dựng thích hợp với nhiệm vụ và điều kiện thực tế của từng chiến trường và từng địa phương, tổ chức thành những đơn vị mạnh, có chất lượng cao, có các binh chủng cần thiết, có khả năng tác chiến tập trung ở địa phương. Bộ đội chủ lực là bộ phận quan trọng nhất của quân đội thường trực, là lực lượng cơ động, lực lượng nòng cốt để hoàn thành các nhiệm vụ chiến lược trên chiến trường toàn quốc và các chiến trường khác. Bộ đội chủ lực có nhiệm vụ giúp đỡ và đoàn kết, hiệp đồng với bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Bộ đội chủ lực do Trung ương Đảng (thông qua Quân ủy Trung ương) trực tiếp lãnh đạo, do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy, bao gồm một lực lượng lục quân mạnh, một lực lượng phòng không - không quân mạnh, một lực lượng hải quân được phát triển từng bước theo một kế hoạch thích hợp. Nhiệm vụ chủ yếu của bộ đội chủ lực là tiến hành tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng, quy mô ngày càng lớn, nhằm tiêu diệt những đơn vị lớn của địch, giải phóng những vùng đất đai quan trọng, góp phần quyết định làm chuyển biến cục diện chiến trường có lợi cho ta. Trải qua kiểm nghiệm khắt khe của thực tiễn, ba thứ quân rõ ràng là hình thức tổ chức thích hợp nhất để động viên và thu hút toàn dần tham gia đánh giặc, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.


Lực lượng vũ trang nhân dân chiến đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, đồng thời vì lợi ích của cả dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam chính là hình ảnh của khối liên minh công - nông vũ trang chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng, đồng thời là hình ảnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân đông đảo, vững chắc chính là nhân tố trực tiếp thể hiện sức mạnh của chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Có thể nói, chiến lược toàn dân đánh giặc của Đảng là nhằm phát huy cao độ ưu thế và sở trường của cuộc chiến tranh chính nghĩa, được toàn dân ủng hộ, tham gia đánh giặc; đồng thời hạn chế đến mức tối đa những lợi thế, sở trường của đối phương. Thế trận chiến tranh toàn dân đã khiến cho trên khắp đất nước Việt Nam, bất cứ ở đâu và vào lúc nào, đối phương cũng đều có thể bị tấn công. Đối với đối phương, người nông dân đang làm việc trên cánh đồng cũng nguy hiểm chẳng khác gì người lính trên chiến trường. Như vậy, huy động toàn dân đánh giặc, Đảng chủ trương dựa trên xây dựng vững chắc hậu phương, tìm chỗ đứng chắc chắn của cuộc kháng chiến không chỉ ở rừng núi, mà ngay cả ở nông thôn, đồng bằng, vùng ven, thậm chí ở giữa lòng các đô thị do đối phương kiểm soát. Những lõm căn cứ du kích lẫn lõm căn cứ chính trị ở vùng ven, vùng đô thị do Mỹ và chính quyền Sài Gòn kiểm soát là ví dụ sinh động về thế trận chiến tranh nhân dân thời kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Dựa vào đó, quân, dân ta tiến công địch rộng khắp, liên tục cả về chính trị, quân sự; đánh vào chỗ yếu, không cho chúng phát huy ưu thế về vật chất, kỹ thuật, đồng thời hạn chế sở trường và khoét sâu chỗ yếu của chúng trong từng thời điểm, từng giai đoạn của cuộc chiến tranh. Dựa trên thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng và ngày càng phát triển trên cả ba vùng chiến lược, quân đội ta đã khắc phục được những yếu kém ban đầu về trang bị, vũ khí để ngày một vững mạnh. Từ tay không với tầm vông, giáo mác..., quân và dân Việt Nam cướp súng giặc đánh giặc, tự tạo, tiến lên xây dựng các xưởng quân giới, bảo đảm cung cấp súng đạn, làm tăng thêm sức mạnh của kháng chiến. Nhờ toàn dân đánh giặc, toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc, quân đội từ du kích, phân tán, trang bị thô sơ đã tiến lên tập trung, chính quy, có lực lượng cơ động chiến lược mạnh và lực lượng chiến đấu tại chỗ đông đảo, rộng khắp.


Một cách tổng quát, với tư tưởng toàn dân kháng chiến, Đảng đã tổ chức cả nước thành một mặt trận. Khắp các miền Bắc, Trung, Nam không phải chỉ có lực lượng vũ trang đánh giặc, mà toàn dân tham gia đánh giặc. Không những các vùng tự do, vùng giải phóng chống giặc, mà ở vùng địch tạm chiếm, các tầng lớp nhân dân cũng bằng nhiều hình thức tham gia kháng chiến, tiến công địch mọi nơi, mọi lúc về quân sự, chính trị, binh vận cũng đánh giặc, xây dựng cơ sở và căn cứ địa kháng chiến. Ngay từ những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hầu hết nhân sĩ, trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ đều lên chiến khu, ra bưng biền tham gia kháng chiến, cả nước ta đã hoà cùng một nhịp nhất loạt đứng lên kháng chiến.


Tư tưởng và đường lối chiến lược toàn dân đánh giặc của Đảng đã được triển khai thực hiện một cách sâu rộng trên thực tế trong 30 năm chiến tranh cách mạng, đúng như nhận định của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Có mục đích “vì dân” với nội dung và ý nghĩa đầy đủ của nó và mục đích đó được thấm nhuần sâu sắc trong quần chúng nhân dân thì chiến tranh mới có thể “do dân” tiến hành một cách triệt để”1 (Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tr.93) và “chiến tranh nhân dân ở Việt Nam là chiến tranh nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, là chiến tranh “vì dân” và “do dân” với ý nghĩa và nội dung đầy đủ nhất của nó trong thời đại mới”2 (Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tr.89). Nhờ phát động cuộc chiến tranh chính nghĩa, nhờ biết dựa vào dân, biết phát huy sức mạnh của cả dân tộc, nên Đảng đã đủ sức mạnh lãnh đạo các cuộc kháng chiến vượt qua khó khăn, từng bước chiến thắng kẻ thù. Kẻ thù xâm lược đã phải đương đầu không chỉ với một quân đội, mà với cả một dân tộc được tổ chức chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do vậy, kẻ thù xâm lược, dù mạnh hơn gấp nhiều lần, dù hiếu chiến, cuối cùng cũng phải nhận lấy một kết cục thảm bại.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #38 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2021, 05:04:56 pm »

3. Tư tưởng quốc phòng toàn dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quan điểm chiến tranh toàn dân của Đảng đã phát triển thành một quan điểm hoàn chỉnh. Thấu suốt mục tiêu của cách mạng, dựa trên cơ sở phân tích đúng đắn quan hệ giai cấp trong nước và tình thế cách mạng, dựa trên sự đánh giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch, Đảng đã đề ra và tổ chức thực hiện một cuộc chiến tranh của toàn dân. Điều này đã khẳng định tính đúng đắn trong mục tiêu cách mạng của Đảng, đồng thời cũng có nghĩa là mục đích chính trị của cuộc chiến tranh do Đảng phát động là phù hợp với nguyện vọng của cả dân tộc, của đại đa số các tầng lớp nhân dân và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam đã trở thành một cuộc chiến tranh cách mạng, một cuộc chiến tranh nhân dân thực sự vì dân và do dân tiến hành một cách triệt để.


Ngay khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng luôn nhấn mạnh rằng, đây là cuộc kháng chiến toàn dân - sức mạnh của toàn dân tộc đã từng được thử thách trong Cách mạng Tháng Tám đang được phát huy ở một mức độ cao hơn trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống quân thù xâm lược, để bảo vệ thành quả của cách mạng và giải phóng đất nước. “Cuộc chiến đấu này là một cuộc chiến tranh nhân dân, hình thức phổ biến và chủ yếu là chiến tranh du kích. Lực lượng cơ sở của ta là nhân dân, quần chúng nông dân đoàn kết chặt chẽ với mọi tầng lớp và nhân sĩ yêu nước”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.39). Quan điểm đó thể hiện đậm nét trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.480). Trong Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm 6 tháng kháng chiến (19-6-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc.


Trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi, đồng chí Trường Chinh đã khái quát chiến lược của cuộc kháng chiến chống Pháp: “Phải đánh toàn dân (...) khiến cho địch đến đâu là đụng phải sức kháng chiến mãnh liệt của ta tới đó, khiến cho chúng bị nghẹt thở, bao vây, không thể sống trên đất Việt Nam - toàn dân đoàn kết phải là cốt tử”1 (Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Sđd, tr.7 ). Một trong những nét nổi bật của đường lối toàn dân kháng chiến trong kháng chiến chống thực dân Pháp là đường lối ấy đã thu hút được đông đảo đồng bào cả nước tham gia kháng chiến, không phân biệt tôn giáo, dân tộc. Sau ba tháng toàn quốc kháng chiến, từ thực tiễn cuộc kháng chiến diễn ra trên cả nước, Hội nghị cán bộ Trung ương (4-1947) đã nhận định: “Cuộc kháng chiến được toàn dân tham gia; đồng bào lao động hăng hái tác chiến, đồng bào tư sản, địa chủ hy sinh của cải không nề hà, nói chung đồng bào Phật giáo, Công giáo, Cao đài, Hoà hảo, quốc dân thiểu số và đa số chung sức giết giặc”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.175). Chính cương Đảng Lao động Việt Nam do Đại hội Đảng lần thứ II thông qua (2-1951) xác định rõ: Cuộc kháng chiến Việt Nam là một cuộc chiến tranh nhân dân. Nhân dân cả nước đã đứng lên đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.


Có thể nói rằng, đường lối động viên và tổ chức toàn dân chống giặc ngoại xâm của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp là sự phát triển chưa từng thấy về tổ chức và động viên toàn dân đánh giặc trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Vì thế, kể từ những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến cho đến khi kháng chiến toàn quốc thắng lợi hoàn toàn, Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam đã đoàn kết thành một bức tường vững chắc để kiên quyết giữ gìn, bảo vệ Tổ quốc.


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), lực lượng chính trị quần chúng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Lực lượng chính trị ngày càng được củng cố và mở rộng, bao gồm hàng triệu người được tổ chức trong các đoàn thể của Mặt trận. Chính nhờ có lực lượng chính trị quần chúng lớn mạnh mà quân, dân Việt Nam đã đẩy mạnh được mọi mặt đấu tranh ở vùng sau lưng địch, ở thành thị cũng như ở nông thôn, khiến quân địch dù đã phải giam chân một phần lớn binh lực để đối phó, nhưng vẫn không bình định được những vùng tạm chiếm, ở các vùng tự do, lực lượng chính trị quần chúng không những đã phát huy tác dụng hết sức tích cực trong việc xây dựng và củng cố hậu phương, mà còn đảm nhiệm nhiều công tác phục vụ và bảo đảm chiến đấu ở ngay tiền tuyến, trực tiếp chi viện cho lực lượng vũ trang nhân dân đánh giặc.


Để thực hiện toàn dân đánh giặc, cả nước ra trận, trong kháng chiến chống Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng quân đội nhân dân theo mô hình tổ chức ba thứ quân gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, tự vệ.


Được hun đúc bởi tinh thần yêu nước và cách mạng, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, lực lượng ba thứ quân đã phát triển rất nhanh. Tháng 10-1949, chỉ sau gần ba năm toàn quốc kháng chiến, Đại đoàn quân chính quy đầu tiên đã được thành lập, lấy tến là Đại đoàn Quân tiên phong. Sự ra đời của đại đoàn quân chính quy đánh dấu một thắng lợi mới và mở ra những triển vọng tốt đẹp trong quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Bộ đội địa phương cũng được chính thức thành lập trong toàn quốc với Sắc lệnh ngày 1-4-1949 và nhanh chóng phát triển, trưởng thành về mọi mặt. Các lực lượng dân quân du kích, tự vệ ngày càng phát huy vai trò của mình trên các mặt trận bảo vệ và củng cố hậu phương, diệt ác, trừ gian, địch vận, phá hoại và bao vây kinh tế địch... Qua thực tiễn kháng chiến, lực lượng vũ trang nhân dân ngày càng trưởng thành, lớn mạnh, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ.


Kế thừa truyền thống “trăm họ là binh”, “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc” của tổ tiên và phát huy tinh thần toàn dân nổi dậy giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám, ngay từ trong quá trình chuẩn bị toàn quốc kháng chiến, Đảng ta đã chủ trương phát động toàn dân tham gia kháng chiến, động viên toàn bộ nhân lực, vật lực, tài lực cho cuộc kháng chiến. Thực tiễn sinh động của cuộc kháng chiến đã chỉ ra rằng, toàn dân kháng chiến là yếu tố quyết định thắng lợi, là quy luật cơ bản của cuộc kháng chiến chống Pháp. Với việc sớm đề ra và tổ chức thực hiện toàn dân kháng chiến, Đảng đã chuyển cuộc kháng chiến từ yếu sang mạnh và chủ động từng bước lái cuộc chiến tranh theo ý đồ của mình, buộc thực dân Pháp phải từng bước thay đổi chiến lược mà vẫn nhận kết cục thảm hại.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #39 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2021, 05:05:55 pm »

4. Tư tưởng quốc phòng toàn dân trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khi nhận định về tính chất của cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.24). Hồ Chí Minh kêu gọi: “31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước”2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.323).


Ở miền Bắc, trên cơ sở tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, lực lượng của toàn dân tham gia chiến tranh đã được huy động một cách triệt để, trở thành một lực lượng rộng rãi và to lớn hơn bất kỳ thời kỳ lịch sử nào trước đây, với sự nhất trí cao độ về chính trị, tinh thần và khả năng mới về vật chất và kỹ thuật. Để đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ, đường lối chiến tranh toàn dân đã được vận dụng và phát triển một cách sáng tạo trong điều kiện mới. Toàn dân đánh máy bay và tàu chiến của địch, toàn dân đảm bảo giao thông vận tải, kết hợp chặt chẽ giữa chiến đấu với sản xuất, thực hiện chuyển hướng kinh tế đế phục vụ quốc phòng, toàn dân chung tay xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiếp tục làm tròn nhiệm vụ chi viện cho miền Nam và chi viện quốc tế, chiến đấu giải phóng miền Nam.   


Trong điều kiện chiến tranh toàn dân ở hai miền Nam, Bắc đã phát triển lên một trình độ mới, cao hơn, vấn đề xây dựng lực lượng chính trị tiếp tục có những bước phát triển mới, đạt những đỉnh cao mới.

Ở miền Bắc, trong điều kiện được hoàn toàn giải phóng, lực lượng chính trị quần chúng đã có sự phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, về sức mạnh vật chất, kỹ thuật và sức mạnh chính trị tinh thần, phát huy tác dụng to lớn trong việc thực hiện quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại, lực lượng chính trị đã nêu cao ý chí chống Mỹ, cứu nước, góp phần cùng với lực lượng vũ trang đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đóng một vai trò hết sức to lớn trong việc bảo đảm sản xuất, bảo đảm giao thông vận tải trong điều kiện chiến tranh ác liệt; trong các công tác phục vụ chiến đấu cho các lực lượng vũ trang; trong việc tổ chức phòng không nhân dân, giữ gìn trật tự trị an xã hội...


Kế thừa và phát huy kinh nghiệm của Tổng khởi nghĩa tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, ở miền Nam, quân, dân ta đã xây dựng được một lực lượng chính trị hết sức hùng hậu, trong đó có những đội quân chính trị rất to lớn, được tổ chức khoa học và chặt chẽ, có thể phát huy mạnh mẽ tác dụng xung kích thông qua hình thức tập hợp lực lượng là Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã phát huy vai trò to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Mặt trận đã góp phần quan trọng thực hiện chính sách của Đảng, đoàn kết bất cứ người nào có thể đoàn kết được, tranh thủ bất kỳ người nào có thể tranh thủ được; phân hoá cao độ kẻ thù, đập tan âm mưu chia rẽ của chúng, động viên lực lượng toàn dân, chĩa mũi nhọn đấu tranh cách mạng vào kẻ thù trực tiếp, chủ yếu là đế quốc Mỹ. Dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, lực lượng chính trị của nhân dân miền Nam hùng hậu hơn lúc nào hết, được xây dựng, tổ chức, phát huy tối đa ảnh hưởng và tác dụng cực kỳ to lớn trong cuộc chiến đấu lâu dài và quyết liệt, chống mọi chính sách và hình thức chiến tranh của Mỹ. Lực lượng chính trị của nhân dân miền Nam khẳng định sức mạnh vô địch qua thắng lợi của phong trào Đồng khởi, cùng lực lượng vũ trang nhân dân đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ. "Đội quân đấu tranh chính trị" được tổ chức trên cơ sở lực lượng chính trị mạnh mẽ của quần chúng, lấy khối liên minh công nông làm nền tảng, bao gồm những phần tử dũng cảm, ưu tú của các đoàn thể quần chúng, gồm đủ mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, có cơ sở ở khắp đồng bằng và rừng núi, nông thôn và thành thị. Đội quân đấu tranh chính trị không chỉ được tổ chức chặt chẽ, mà còn có nghệ thuật đấu tranh với nhiềứ hình thức phong phú, linh hoạt, sáng tạo. Đây là lực lượng nòng cốt của đấu tranh chính trị trong cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam. Như vậy, Đảng đã tiến hành công tác vận động quần chúng bền bỉ, cồng phu, vận dụng mọi hình thức tổ chức thích hợp để thu hút vào đội ngũ cách mạng tất cả các tầng lớp nhân dân, các lứa tuổi, các dân tộc, các tôn giáo, nhân dân trong nước và kiều bào ở nước ngoài để cứu nước và giữ nước.


Trong quá trình phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng toàn dân luôn hỗ trợ đắc lực và góp phần quan trọng vào thắng lợi của từng giai đoạn. Trong những năm 1959-1960, khi Đảng phát động quần chúng nổi dậy, quần chúng cách mạng đã vùng lên, tiến hành cuộc “Đồng khởi”, làm chủ một số vùng nông thôn rộng lớn. Thắng lợi của Đồng khởi phản ánh một hiện thực khách quan: Đại bộ phận quần chúng nhân dân đứng về phía cách mạng, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân. Trong những năm đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược Chiến tranh đặc biệt, với lực lượng chính trị đông đảo được tổ chức chặt chẽ, quân, dân miền Nam Việt Nam đẩy mạnh phương châm đấu tranh “hai chân, ba mũi”, kết hợp đấu tranh chính trị với quân sự, đồng thời vận động đồng bào trong các ấp chiến lược đấu tranh, kết hợp với các đòn tiến công quân sự phối hợp từ bên ngoài, phá kế hoạch lập ấp chiến lược của Mỹ. Trong những năm 1963-1964, hàng triệu quần chúng vùng lên, đấu tranh phá rã hàng ngàn ấp chiến lược của địch. Khi Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa hàng chục vạn quân Mỹ vào miền Nam, với chủ trương giữ vững thế chiến lược tiến công, quân, dân Việt Nam tiếp tục thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn thể nhân dân tiến công địch trên ba vùng chiến lược. Mậu Thân 1968 chính là biểu tượng sức mạnh của toàn quân, toàn dân đứng lên tiến hành tổng tiến công và nổi dậy. Cuối cùng, thắng lợi của cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 là bức tranh cô đọng nhất, khái quát nhất, sinh động nhất sức mạnh của toàn dân kháng chiến, của khối đại đoàn kết toàn dân từ Nam chí Bắc, từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến rừng núi, bao gồm mọi giai cấp, mọi tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng. Sức mạnh toàn dân kháng chiến đã đập tan mọi lực lượng của kẻ thù, quét sạch bọn bán nước và cướp nước, giải phóng hoàn toàn đất nước, thống nhất Tổ quốc.


Trong toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với việc thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng ở cả hai miền, hướng vào mục tiêu chung thống nhất nước nhà, xác định cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đóng vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà; cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, Đảng ta, trên thực tế, đã khẳng định phải động viên lực lượng của cả nước tiến hành cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ, thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân.


Đánh giá về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Đây rõ ràng là một cuộc chiến tranh toàn dân. Trước quyền lợi sống còn của dân tộc, trước nguy cơ nước mất nhà tan, sinh mạng bị đe dọa, của cải bị giày xéo, 14 triệu đồng bào ta ở miền Nam không phân biệt già trẻ, gái trai, dân tộc, tôn giáo, xu hướng chính trị, quyết không cam tâm chịu làm nô lệ, đã đoàn kết đứng lên chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai”1 (Võ Nguyên Giáp: Cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai nhất định thắng lợi, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr.38). Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam là sự kết hợp ở một trình độ mới trong điều kiện lịch sử mới giữa lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị. Đó là sự phát triển chiến tranh toàn dân lên một tầm cao mới. Toàn dân kháng chiến là nét đặc sắc, là nội dung chủ yếu, là tư tưởng chỉ đạo tác chiến và xây dựng lực lượng trong đường lối quân sự của Đảng suốt quá trình 30 năm chiến tranh. Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng là nội dung cơ bản, được quán triệt trong từng thời kỳ, từng giai đoạn của cuộc chiến tranh, trên tất cả các lĩnh vực đấu tranh, ở mọi vùng miền của Tổ quốc. Chiến tranh nhân dân đã tạo ra nguồn sức mạnh vô địch để chúng ta chiến thắng thực dân Pháp xâm lược và đế quốc Mỹ hiếu chiến. Đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng đã giải quyết một cách triệt để, thấu đáo những vấn đề quân sự do thực tiễn các cuộc chiến tranh bảo vệ và giải phóng Tổ quốc của dân tộc đặt ra.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM