Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 08:19:15 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 4  (Đọc 4753 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #20 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2021, 02:03:20 pm »

đ) Giai đoạn từ tháng 1-1973 đến tháng 4-1975

Thực ra, khi ký Hiệp định Pari, Mỹ không còn mong giành thắng lợi ở Việt Nam, nhưng chính quyền Níchxơn vẫn chưa chịu từ bỏ chính sách đối với miền Nam Việt Nam, vẫn nuôi hy vọng tiếp tục cuộc chiến tranh bằng việc sử dụng quân đội Sài Gòn nhằm tạo ra một khoảng cách cần thiết giữa việc Mỹ rút ra với sự sụp đổ của chế độ Thiệu, qua đó, gỡ gạc thể diện cho Mỹ. Vì vậy, trước, trong và sau khi Hiệp định ký kết, Mỹ không ngừng chuyển vũ khí, gài nhân viên, cố vấn Mỹ ở lại làm nhiệm vụ chỉ huy, hỗ trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn.


Sau ngày Hiệp định Pari được ký kết, quân đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ", lấn chiếm vùng giải phóng. Trong khi đó, Mỹ duy trì lực lượng "ngăn đe" ở các vùng phụ cận quanh Việt Nam, đồng thời tiếp tục các hoạt động ngoại giao nhằm ngăn chặn sự phát triển của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.


Các hoạt động chống phá Hiệp định Pari của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngày càng tăng, gây cho chúng ta một số lúng túng khi đối phó. Đến giữa năm 1973, ở Khu 5, chính quyền giải phóng mất 26 vạn dân, 45 xã, 302 ấp, địch đóng thêm 200 bốt; Khu 6 và Khu 7, ta mất 29 vạn dân, 308 ấp, chính quyền Sài Gòn đóng thêm 287 đồn bốt. Tháng 5-1973, Bộ Chính trị họp và chỉ ra những sơ hở, khuyết điểm của ta trong thời điểm này. Tiếp đó, tháng 7- 1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 họp, khẳng định con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới này là tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kẻ thù chính vẫn là đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị do Mỹ bảo trợ. Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đấu tranh trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao; nhiệm vụ của miền Bắc là ra sức chi viện miền Nam, phục hồi và phát triển kinh tế để luôn là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng miền Nam trong sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.


Dưới ánh sáng Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, quân dân miền Nam đẩy mạnh các hoạt động phản công và tiến công. Đến giữa năm 1974, trên toàn Miền, quân, dân miền Nam đã xoá được 3.600 đồn bốt, giải phóng thêm 850 ấp với 115 vạn dân. Ở vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát, đặc biệt ở các đô thị lớn, mặt trận đấu tranh chính trị phát triển mạnh mẽ, tập trung vào việc đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định, tố cáo chính quyền Thiệu tham nhũng, bất công. Trong khi đó, tại Mỹ, tháng 7-1974, Níchxơn buộc phải từ chức do vụ bê bối Oatơghết, Phó Tổng thống Mỹ Giêrôn Pho lên thay. Lúc này, trên thực tế, khả năng viện trợ của Mỹ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn sụt giảm tối 50% trong khi nền kinh tế của chế độ Sài Gòn lại phụ thuộc vào viện trợ Mỹ tới 90%.


Tháng 7-1974, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn đã trực tiếp hướng dẫn Bộ Tổng tham mưu khỏi thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.

Theo dõi sát toàn bộ diễn biến trên chiến trường trong nước và trên thế giới có liên quan tới sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và lượng định đúng khả năng phát triển của tình hình, tháng 10 và tháng 12-1974, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương cùng các bộ chủ chốt ở chiến trường đã họp bàn về quyết tâm và kế hoạch giải phóng miền Nam trong thời gian hai năm 1975-1976.


Trong lúc Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng đang tiến hành bàn bạc, thảo luận về kế hoạch chiến lược trên đây, thì tại chiến trường, quân dân miền Nam đẩy mạnh các hoạt động quân sự, nổi bật nhất là chiến thắng Phước Long (tháng 12-1974). Phước Long có vị trí chiến lược quan trọng1 (Tỉnh Phước Long nằm ở phía đông bắc và cách Sài Gòn hơn 100 km, bắc giáp Campuchia, đông giáp Quảng Đức, nam giáp Bình Dương, tây giáp Bình Long. Đây là giao điểm của các địa bàn chiến lược nam Tây Nguyên, đông nam Campuchia, Đông Nam Bộ, Khu 6 và là cửa ngõ phía tây bắc Sài Gòn). Chiến thắng Phước Long chứng tỏ khả năng đánh chiếm thành phố thị xã và trụ lại của bộ đội giải phóng; khả năng phản ứng của quân đội Sài Gòn và khả năng trực tiếp can thiệp quân sự trở lại của Mỹ.


Bộ Chính trị kết luận: dù Mỹ có can thiệp như thế nào ta cũng có đầy đủ quyết tâm và điều kiện đánh thắng và chúng cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Do đó, chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, để tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.


Bộ Chính trị hạ quyết tâm và thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Ngoài kế hoạch này, Bộ Chính trị còn dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định chọn Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975.


Thực hiện quyết tâm chiến lược trên đây của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, hai miền Nam, Bắc khẩn trương hoàn tất các mặt chuẩn bị, cả về thế và lực. Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu quyết định thành lập 3 quân đoàn 1, 2, 4; mở rộng và kéo dài tuyến vận tải chiến lược Bắc - Nam tới Nam Bộ; miền Bắc dồn sức chi viện mạnh mẽ, toàn diện, liên tục cho miền Nam.


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam mở màn từ ngày 4-3-1975 bằng chiến dịch Tây Nguyên mà trận đột phá chiến lược là việc đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Qua 20 ngày đêm chiến đấu, đến ngày 24-3-1975, chiến dịch Tây Nguyên đã giành thắng lợi hoàn toàn. Quân, dân miền Nam đánh bại cuộc phản kích của Sư đoàn 23 Việt Nam cộng hòa, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng rút chạy trên đường số 7, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2, Quân khu II, giải phóng Tây Nguyên, nhanh chóng phát triển xuống các tỉnh ven biển miền Trung.


Những thắng lợi to lớn trong chiến dịch Tây Nguyên là cơ sở để Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975.

Trong lúc đó, từ ngày 6-3-1975, Quân giải phóng bắt đầu tiến công ở Trị Thiên và Khu 5. Đến ngày 21-3, phát huy thắng lợi nhanh chóng và dồn dập ở Tây Nguyên và đồng bằng miền Trung, hai chiến dịch ở Quân khu V và Quân khu Trị Thiên đã phát triển thành chiến dịch tiến công Huế - Đà Nẵng.


Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975.

Ngày 26-3-1975, Huế được giải phóng.

Ngày 29-3, Đà Nằng được giải phóng.

Sau 25 ngày đêm chiến đấu (6-3 đến 29-3), Quân giải phóng tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân đoàn 1, Quân khu I. Đến ngày 3-4, toàn bộ các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung được giải phóng.


Ngày 4-4, Quân ủy Trung ương giao cho Khu 5 và lực lượng hải quân tiến công giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Từ ngày 14 đến ngày 29-4, toàn bộ các đảo trên được giải phóng.


Từ ngày 26-4 đến ngày 30-4-1975, chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh diễn ra và giành toàn thắng. Sài Gòn - Gia Định và miền Đông Nam Bộ được sạch bóng quân thù. 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, Tổng thống Dương Văn Minh buộc phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Toàn bộ Quân đoàn 3, Quân khu III quân đội Sài Gòn bị tiêu diệt và tan rã.


Ở khu vực các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam từ đầu tháng 3-1975, đến ngày 1-5-1975 đã giải phóng toàn bộ khu vực này, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 4, Quân khu IV. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi.


Nhìn chung lại, trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thời gian đầu sau Hiệp định Pari, về chỉ đạo của ta còn có thiếu sót và hạn chế, nhưng ngay sau đó, đã kịp thời khắc phục và nhanh chóng chuyển thế chiến trường, tạo ra những điều kiện cần và đủ để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.


Thắng lợi trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là kết quả cuối cùng của cả một quá trình kháng chiến lâu dài, bền bỉ, quyết chiến, quyết thắng của quân và dân trên cả hai miền Nam - Bắc nhằm đánh bại từng chiến lược chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Đó là thắng lợi của bản lĩnh Việt Nam, văn hoá Việt Nam; thắng lợi của sự vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự tiên tiến vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam; thắng lợi của sức mạnh khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, của chế độ xã hội mới được xây dựng trên miền Bắc và ở vùng giải phóng miền Nam, của tình đoàn kết chiến đấu, gắn bó keo sơn, bền chặt giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia.


Cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp (1945-1954) và cuộc kháng chiến 21 năm chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975) vì nền tự do, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi là kết quả hợp thành của nhân tố dân tộc và thời đại. Phân tích tình hình thế giới, tương quan so sánh lực lượng, Đảng ta đã đề ra đường lối chiến tranh nhân dân độc lập, tự chủ, lãnh đạo nhân dân Việt Nam vượt qua mọi gian khổ, thiếu thốn, hy sinh, thực hành tư tưởng chiến lược tiến công, đấu tranh bằng hai lực lượng chính trị và quân sự, tiến công đối phương về chính trị, về quân sự, về ngoại giao, tạo ra và nhân lên sức mạnh tổng hợp đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến.


Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ vững chắc nền tự do, độc lập và thống nhất Tổ quốc của nhân dân Việt Nam cũng là thắng lợi của tư tưởng quân sự Việt Nam hiện đại. Đó là một bộ phận hợp thành và gắn bó khăng khít với tư tưởng lãnh đạo cách mạng của Đảng đấu tranh vì lợi ích tối cao của dân tộc, đấu tranh cho khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam yêu nước về một nền hòa bình bền vững trên đất nước. Qua chặng đường dài 30 năm cách mạng và kháng chiến, tư tưởng quân sự của Đảng là một nhân tố nền tảng đảm bảo vững chắc cho mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đương đầu với các thế lực xâm lược lớn mạnh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #21 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2021, 02:18:15 pm »

Chương II
KHÁNG CHIẾN VÌ HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP, TỰ DO
THỰC HIỆN ĐOÀN KÊT DÂN TỘC VÀ QUỐC TẾ


I- CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC VÌ HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP, TỰ DO

Lịch sử Việt Nam là lịch sử song hành dựng nước và giữ nước, bắt nguồn từ những nguyên nhân căn bản về địa lý đến những nhân tố phức tạp hơn như những cuộc di dân lớn trong lịch sử. Theo lịch sử Việt Nam được ghi nhận qua văn tự, thì có tới 12 thế kỷ dân tộc ta bị đứng trước họa vong thân về văn hóa và lệ thuộc về chính trị. Nhưng với truyền thống hòa ái, đoàn kết của một dân tộc lúa nước, yêu chuộng hòa bình, sau khi kháng chiến chống xâm lược thắng lợi, cha ông ta luôn chủ động thiết lập, duy trì quan hệ hòa bình với chính quốc gia vừa gây chiến. Đó chính là biểu hiện của tinh thần dân tộc kết hợp với lòng yêu nước, tình đoàn kết và khát vọng hòa bình yên ổn của nhân dân, cùng với ý chí dân tộc độc lập, tự chủ của triều đình. Sự phối hợp trên - dưới, dân - quân đồng lòng, cả nước góp sức đã biểu hiện rõ tinh thần đó, vừa duy trì và thúc đẩy tinh thần đó qua nhiều thời kỳ lịch sử, biến nó trở thành tài sản quý báu của dân tộc Việt Nam. Đến thời kỳ hiện đại, cụ thể là từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, truyền thống đó lại được kế thừa và phát huy mạnh mẽ trong hoàn cảnh mới, với những đối tượng xâm lược mới. Truyền thống đó, cùng với ý chí quyết chiến quyết thắng của quân và dân Việt Nam, đã đưa lại thắng lợi to lớn, giành lại được độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, giành lại cuộc sống hòa bình, ấm no cho nhân dân luôn xuyên suốt trong toàn bộ quá trình lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được hiện thực hóa bằng quyết tâm cao độ của cả dân tộc trong cuộc trường kỳ kháng chiến.


Từ giữa tháng Tám năm 1945, khi thời cơ lịch sử xuất hiện - tình hình quốc tế và trong nước tạo cơ hội cho thành công của cuộc vận động cách mạng, từ sự chủ động, sáng tạo của từng địa phương, Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh đã phát động toàn dân trong cả nước nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, đánh đổ ách thống trị của thực dân, phát xít, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngay sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là thành quả cách mạng to lớn và quan trọng. Ngay sau đó, chính quyền dân tộc non trẻ phải đối mặt với hàng loạt những khó khăn, thử thách. Chỉ ba tuần sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thực dân Pháp, được sự giúp sức của quân Anh, đã nổ súng tại Sài Gòn, mở đầu cuộc tái xâm lược Việt Nam. Một dân tộc hòa bình khi đã giành lại được tự do, độc lập thì sẽ không bao giờ chịu đánh mất thành quả đó. Thời gian được sống trong hòa bình, tự do tuy ít ỏi nhưng cũng đủ để người dân Việt Nam hiểu được giá trị được làm người dân của một nước độc lập, vì vậy tất cả nhân dân Việt Nam sẵn sàng “đem hết tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vũng quyền tự do, độc lập ấy”.


Ngày 5-11-1945, trong diễn văn đọc trong “Ngày kháng chiến toàn quốc”1 (Để biểu thị sự ủng hộ cuộc chiến đấu của đồng bào Nam Bộ chống thực dân Pháp xâm lược, cả nước đã tiến hành "Ngày toàn quốc kháng chiến" vào ngày 5-11-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bọn thực dân Pháp phải biết rằng: dân Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Nhưng nếu cần phải hy sinh mấy triệu chiến sĩ, nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để giữ gìn quyền độc lập của Việt Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ, thì chúng ta vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến. Vì dân Việt Nam tin chắc rằng thế nào cuộc kháng chiến này cũng thành công”2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.91-92).


Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Về kháng chiến kiến quốc, nêu rõ nhiệm vụ kháng chiến ở miền Nam, xây dựng, củng cố chế độ mới ở miền Bắc vững mạnh, làm cơ sở cho cuộc kháng chiến lâu dài khi thực dân Pháp mở rộng chiến tranh ra cả nước. Chỉ thị xác định: “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.26 ). Chỉ thị cũng đồng thời đề ra các nhiệm vụ cụ thể về chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, nội chính, văn hóa, tuyên truyền, xây dựng đảng, về công tác Mặt trận Việt Minh, về cải tổ chính phủ, về cứu tế... Đây chính là cương lĩnh hành động của toàn Đảng, toàn dân trong tình hình mới. Chỉ thị phản ánh hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam lúc này: (1) vừa phải kháng chiến để đánh đuổi quân xâm lược, (2) vừa phải kiến quốc để xóa bỏ tàn dư chế độ cũ, xây dựng đất nước để có đủ khả năng, sức mạnh giành thắng lợi trong chiến tranh, đem lại hòa bình, độc lập cho dân tộc. Đây cũng chính là tư tưởng chỉ đạo hành động cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong một tình thế rất đặc biệt của đất nước là vừa có chiến tranh, vừa có hòa bình. Nhiệm vụ - tư tưởng vừa kháng chiến vừa kiến quốc còn tiếp tục xuyên suốt những năm tháng kháng chiến, thể hiện trong tinh thần và nội dung của đường lối kháng chiến của Đảng. Trên khía cạnh này, đường lối kháng chiến và đường lối xây dựng đất nước là hai bộ phận không tách rời nhau trong đường lối cách mạng. Nói cách khác, tư tưởng quân sự là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng cách mạng.


Đường lối kháng chiến liên quan mật thiết đến các vấn đề ngoại giao và cùng nằm trong đường lối chính trị. Cùng lúc với việc “tập trung ngọn lửa đấu tranh” vào quân Pháp xâm lược ở miền Nam, thì ở miền Bắc, quân, dân ta phải đấu tranh chống lại âm mưu và hành động của quân Trung Hoa dân quốc và các lực lượng chống phá cách mạng nhằm bảo vệ, giữ vững chính quyền cách mạng, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Chủ trương xuyên suốt của Đảng lúc này là kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền, nhưng mềm dẻo trong đối phó với quân Trung Hoa dân quốc. Chính quyền cách mạng nhấn mạnh trách nhiệm của lực lượng Tưởng Giới Thạch khi vào Việt Nam là để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật theo phân công của Đồng minh. Vì thế, nếu quân đội Tưởng Giới Thạch có hành động can thiệp, lật đổ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì nhất định chúng ta sẽ huy động toàn lực bảo vệ đất nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #22 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2021, 02:20:56 pm »

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định quân Trung Hoa dân quốc vào Việt Nam chỉ là tạm thời, cần tìm cách hòa hoãn, nhân nhượng theo phương châm: Nếu là đại sự (sự việc lớn) thì tìm cách thu giảm thành trung sự (sự việc vừa); nếu là trung sự thì tìm cách thu giảm xuống thành tiểu sự (sự việc nhỏ); nếu là tiểu sự thì tìm cách làm cho nó trở thành vô sự (coi như không có việc gì xảy ra).


Chính vì thế, mặc dù quân đội Trung Hoa dân quốc và lực lượng chống phá đưa ra nhiều đòi hỏi, yêu sách, gây không ít khó khăn, song quân và dân các địa phương đã nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Chính phủ, hết sức kiềm chế; nên quân đội Trung Hoa dân quốc đã không tìm được lý do để gây sức ép, lật đổ được chính quyền cách mạng: Thậm chí, trước đòi hỏi ngang ngược của quân Tưởng, Đảng đã tuyên bố “tự giải tán”, tổ chức Việt Nam giải phóng quân phải đổi thành Vệ quốc đoàn (đoàn thể bảo vệ quốc gia) để tránh những xung đột không cần thiết. Hơn thế, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận dành 70 ghế trong Quốc hội (không phải qua bầu cử) cho các đại biểu đảng phái phản động Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (Việt Cách); chấp nhận một số thành viên trong Chính phủ liên hiệp là các phần tử thân với chính quyền Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh... Những nhượng bộ trên là cần thiết, tuy nhiên, các vị trí chủ chốt trong Chính phủ, Quốc hội, về quốc phòng, an ninh vẫn do Chính phủ Việt Minh nắm giữ nhằm đảm bảo sự lãnh đạo, điều hành đất nước trong mọi tình huống.


Việt Nam mong muốn có hòa bình thực sự dựa trên sự giao hảo giữa hai dân tộc Việt - Pháp. Đây là một thực tế đã được chính Cao ủy Pháp Đácgiăngliơ (D’Argenlieu), người luôn muốn sử dụng vũ lực trong giải quyết mối quan hệ Việt - Pháp, thừa nhận trong bức thư gửi Đờ Gôn (De Gaulle) ngày 28-12-1945. ông ta viết: “Chính phủ cách mạng Việt Nam với lãnh tụ là ông Hồ Chí Minh không mong gì cái việc cắt đứt quan hệ với Chính phủ Cộng hòa (Pháp)... Mặc dù họ đả kích mạnh mẽ những người Pháp thực dân đế quốc (lập trường độc đoán của Đảng), họ vẫn giữ mối liên hệ sâu sắc với Pháp. Sau nữa, Chính phủ Cách mạng Việt Nam chắc chắn mong muốn tránh một hành động quân sự mãnh liệt và đi đến một hiệp định với nước Pháp... Do đó mà họ đang tăng cường những cuộc tiếp xúc với người của chúng ta...”1 (Ph. Devillers: Paris - Sài Gòn - Hà Nội, Sđd, tr.170).


Để làm rõ hơn lập trường mong muốn độc lập, hòa bình của Việt Nam, ngày 6-1-1946, đúng vào ngày Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp M. Đesinh (M. Dessinges): “Chúng tôi không hề thù ghét gì nước Pháp và nhân dân Pháp. Chúng tôi rất khâm phục họ và chúng tôi không muốn cắt đứt những mối quan hệ chặt chẽ nối liền hai dân tộc chúng ta... Nhưng ông nên biết rằng: Chúng tôi quyết tâm chiến đấu đến cùng, nếu người ta bắt buộc chúng tôi phải chiến đấu”2 (Ph. Devillers: Paris - Sài Gòn - Hà Nội, Sđd, tr.179).


Để tránh cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, khi Pháp, Trung Hoa dân quốc ký Hiệp định Trùng Khánh ngày 28-2-1946, trong đó chính quyền Tưởng Giới Thạch đồng ý để cho Pháp đưa quân ra miền Bắc làm nhiệm vụ giải giáp phát xít Nhật, Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương ngày 3-3-1946. Sau khi phân tích tình hình và âm mưu của các thế lực đế quốc, thực dân phản động, Chỉ thị nhấn mạnh: “nếu Pháp giữ chủ trương cho Đông Dương tự trị theo bản Tuyên ngôn ngày 24-3-1945, thì nhất định đánh, và rất có thể đánh lâu dài theo lối du kích, nhưng nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hòa, hòa để phá tan thâm thù của bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Pháp còn sót lại, chúng định hãm ta vào tình thế cô độc, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc để dử thực lực của ta tiêu hao”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.43).


Từ nhận định trên, Thường vụ Trung ương Đảng xác định: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy, và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.46).


Với tinh thần đó, mặc dù Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Tạm ước 14-9 với Chính phủ Pháp để tận dụng thời gian hòa hoãn, xây dựng thực lực, song vẫn khẳng định kẻ thù chính là thực dân Pháp đang tìm mọi cách để gây chiến. Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng họp ngày 19-10-1946, nhận định: Nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp.


Ngày 20-10-1946, Hồ Chí Minh về đến Hải Phòng sau chuyến thăm Pháp hơn bốn tháng rưỡi. Ngay sau đó, Người đã họp với Ban Thường vụ Trung ương Đảng, nhận định: thực dân Pháp vẫn âm mưu lập lại nền thống trị thuộc địa ở Đông Dương. Chiều hướng tình hình chính trường ở Pháp cho phép chúng có thể mở rộng chiến tranh. Vì thế, Ban Thường vụ Trung ương Đảng khẳng định: không còn con đường nào khác ngoài việc tích cực chuẩn bị kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, đồng thời vẫn tìm mọi cách kéo dài thời gian hòa hoãn để chuẩn bị thêm.


Từ chủ trương đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết nghị thống nhất Quân sự ủy viên hội (còn gọi là Quân ủy hội) và Bộ Quốc phòng thành Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy quân đội. Cả nước được chia thành 12 chiến khu để tiện cho việc chỉ đạo chung và phát huy khả năng độc lập tác chiến của từng địa phương khi chiến sự nổ ra. Các lực lượng vũ trang tiếp tục được xây dựng và củng cố...


Từ cuối tháng 11-1946, sau khi thực dân Pháp tạo cớ đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Đảng đã chỉ rõ: “Sự thật đã chứng tỏ rằng thực dân Pháp ngang nhiên gây hấn. Chúng định dùng vũ lực bắt ta phải nhượng bộ. Nhưng không khi nào ta chịu. Tạm ước 14-9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại đến quyền lợi cao trọng của dân tộc...”. Đồng thời, Đảng kêu gọi: "... Tình thế vô cùng nghiêm trọng. Hãy sẵn sàng chiến đấu để tự vệ bất cứ lúc nào và chỗ nào. Mỗi người Việt Nam lúc này phải gách vác nghĩa vụ thiêng liêng: bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc”1 (Báo Sự thật, số 64, ngày 29-11-1946).


Dã tâm gây chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đã dẫn tới sự phản kháng đồng loạt của quân và dân Việt Nam. Để bảo vệ thành quả cách mạng, để sớm tạo thế và lực cho cuộc chiến đấu chắc chắn phải kéo dài, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cho quân và dân các địa phương từ phía Bắc vĩ tuyến 16 trở lên, đặc biệt là ở các đô thị, nhất tề đứng lên đánh quân Pháp xâm lược và tay sai.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #23 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2021, 02:22:24 pm »

Như vậy, 9 tháng thực hiện chủ trương hòa hoãn (từ ngày 6-3 đến ngày 19-12-1946), dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Việt Nam một mặt hết sức kìm nén cố gắng tránh cho hai bên khỏi một cuộc chiến nhưng mặt khác, tiếp tục ra sức chuẩn bị mọi mặt, kiên quyết chiến đấu đến cùng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì quyền làm chủ cuộc sống mới vừa giành được sau đêm dài sống dưới ách phong kiến, thực dân.


Khi chiến tranh bùng nổ trên phạm vi cả nước, Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tìm mọi cách để vãn hồi hòa bình, đưa tình hình trở lại như trước ngày 19-12-1946. Chủ trương đó được thể hiện nhất quán trong các điện, thư, lời kêu gọi gửi Chính phủ, Quốc hội, nhân dân Pháp hoặc gửi cho cá nhân những người trực tiếp liên quan đến việc điều tra nguyên nhân bùng phát cuộc chiến trước và sau ngày 19-12-1946, cũng như trong việc Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp trực tiếp đại diện Cao ủy Pháp Bôlae tại Thái Nguyên (5-1947). Khi phía Pháp vẫn một mực đưa ra những điều kiện thực chất để buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đầu hàng, thì cánh cửa thương lượng mới khép lại. Trong Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước sau cuộc hội kiến với Pôn Muýt, đại diện Cao ủy Pháp Bôlae, ngày 25-5-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì nhân đạo, vì hòa bình, vì muốn giữ cảm tình với dân Pháp, Chính phủ ta đề nghị với Chính phủ Pháp, căn cứ nguyện vọng thống nhất và độc lập của dân ta, tìm cách dàn xếp cuộc chiến tranh. Song... chúng đòi ta đầu hàng...”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.126). Trước âm mưu và hành động đó của phía Pháp, ý chí của toàn thể nhân dân Việt Nam là “kiên quyết hy sinh chiến đấu để đánh tan bọn quân phiệt thực dân, để tranh lấy thống nhất và độc lập”2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.127).


Đến cuối năm 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất quan trọng. Tình hình và dư luận nước Pháp cũng như trên thế giới đều bất lợi cho những thế lực xâm lược hiếu chiến ở cả Pari và Đông Dương. Trước tình hình đó, khả năng giải quyết cuộc chiến tranh bằng đàm phán trở nên rõ ràng hơn. Bên cạnh đó, làn sóng phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Đông Dương cũng dâng cao. Nội bộ giới cầm quyền Pháp mâu thuẫn trong cách thức kết thúc cuộc chiến tranh hao người, tốn của này. Chính vì thế, Đảng và Chính phủ chủ trương mở cuộc tiến công ngoại giao, kết hợp với tiến công quân sự, để kết thúc chiến tranh. Truyền thống chủ động đi đến những giải pháp hòa bình bao giờ cũng là đặc trưng cho tinh thần quân sự của một dân tộc hướng đến hòa bình, vì với người Việt Nam, chiến tranh là để bảo vệ hòa bình, hòa bình luôn là mục đích của chiến tranh.


Ngày 26-11-1953, trả lời phỏng vấn Báo Expressen (Thụy Điển), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.168). Người khẳng định: “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.168). Tiếp theo, ngày 27-12-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra thông tư gửi xứ ủy Nam Bộ, các liên khu ủy và thành ủy, nêu rõ: “Trong lịch sử, có nhiều cuộc chiến tranh do thương lượng hòa bình mà đi đến đình chiến. Chiến tranh Triều Tiên là một thí dụ... Nhân dân ta chiến đấu chống bọn xâm lược là vì độc lập dân tộc, mà cũng vì hòa bình thế giới. Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kẻ thù của dân tộc ta, đồng thời cũng là kẻ thù của nhân dân thế giới.


Chủ tịch Hồ Chí Minh nói hòa bình, không phải để tuyên truyền đối ngoại, mà chính vì vấn đề Việt Nam cũng như các vấn đề tranh chấp khác trên thế giới có thể giải quyết bằng cách thương lượng hòa bình”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.14, tr.555).


Ban Bí thư Trung ương Đảng khẳng định: "Ngọn cờ hoà bình phải do tay ta nắm lấy và giương cao lên"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.14, tr.556). "Tuy vậy, như Hồ Chủ tịch đã căn dặn: chúng ta tuyệt đối không nên có ảo tưởng rằng hoà bình sẽ đến một cách mau chóng và dễ dàng. Hoà bình cũng như độc lập phải đấu tranh gian khổ mới giành được... Ta phải đẩy mạnh kháng chiến, tiêu diệt cho thật nhiều sinh lực địch hơn nữa, thì địch mới chịu nhận thương lượng để giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam, tôn trọng quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.14, tr.556). Ban Bí thư đã kịp thời chấn chỉnh những tư tưởng sai lầm nảy sinh như:

- Ảo tưởng vào hoà bình, cho rằng đàm phán hoà bình sắp xảy ra, muốn sớm chấm dứt chiến tranh vì cuộc kháng chiến đã bước sang năm thứ 8, tâm lý mỏi mệt đã xuất hiện.

- Chủ quan, khinh địch, cho rằng kẻ địch đã yếu mà không hiểu rõ so sánh lực lượng, không hiểu rõ thực tế chiến trường.

- Bi quan cho rằng cuộc kháng chiến gặp nhiều tổn thất nên phải thương lượng với Pháp mà không hiểu rõ thắng lợi và lập trường hoà bình của Việt Nam.

- Coi việc tuyên bố thương lượng chỉ là để tuyên truyền chứ không chủ trương thương lượng, mà sẽ đánh đến khi có hoà bình mới thôi.

- Ỷ lại vào sự giúp đỡ bên ngoài để có hoà bình.


Những chấn chỉnh đó thể hiện đặc tính xuyên suốt trong truyền thống quân sự - chính trị Việt Nam là: chiến thắng vừa đủ để hòa bình, và không thể có hòa bình khi chưa có chiến thắng. Trước những kẻ thù xâm lăng, Việt Nam chưa bao giờ là một quốc gia chiếm ưu thế về tài lực hay quân đội, chính ý chí hòa bình và tinh thần dân tộc đoàn kết là sợi chỉ đỏ và là động lực kết nối mọi nhân tố dân tộc lại thành một tổng lực đối kháng để đi tới thắng lợi cuối cùng. Hòa bình là một mục tiêu của chiến tranh chính nghĩa, không phải là ảo Tưởng chính trị của những kẻ bị trị đã mất hết tinh thần. Đây cũng là những nhân tố làm trụ cột cho sách lược chính trị - quân sự của người Việt Nam trước những lực lượng xâm lược trong lịch sử.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #24 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2021, 02:23:42 pm »

Trả lời phỏng vấn Hãng thông tấn Nam Dương Antara (Inđônêxia) ngày 14-5-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định lập trường trước sau như một của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Giơnevơ trong thương thuyết với Pháp đế đình chiến và lập lại hoà bình là: "thật sự độc lập, thống nhất và dân chủ tự do"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.281). Đó là mục đích cuối cùng của nhân dân Việt Nam. Đó cũng là điều kiện căn bản để từ đó Việt Nam đàm phán với Pháp. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng lưu ý: phải có tinh thần cảnh giác rất cao đối với âm mưu của đế quốc Mỹ cản trở việc đình chiến và âm mưu lập khối liên minh quân sự có tính xâm lược nhằm khống chế Đông Dương và Đông Nam Á.


Như vậy, quan điểm và thái độ của Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam cơ bản không thay đổi, mặc dù đã giành được thắng lợi lớn về quân sự trên chiến trường và đang tiến hành đàm phán với Pháp để kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, một yếu tố đang ngày càng ảnh hưởng đến tình hình cuộc chiến tranh ở Đông Dương, đó là sự can thiệp có tính leo thang của Mỹ. Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), ngày 15-7-1954, đã xác định rõ tư tưởng và nhiệm vụ của quân và dân Việt Nam: "Từ nay đến khi thực hiện hoà bình, ta vẫn tiếp tục đánh Pháp. Nhưng mũi nhọn của ta cũng như mũi nhọn của thế giới đều chĩa vào Mỹ. Chính sách của Mỹ là mở rộng và quốc tế hoá chiến tranh Đông Dương. Chính sách của ta là tranh thủ hoà bình để chống lại chính sách chiến tranh của Mỹ"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.168). Bởi vì "Muốn hoà bình thì phải chấm dứt chiến tranh, muốn chấm dứt chiến tranh thì phải ngừng bắn... Bất kỳ hoà bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước.


Tranh lấy hoà bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ gian khố phức tạp, nó có những điều kiện có lợi, cũng có những khó khăn..."1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.15, tr.169).


Nhận thức về cuộc đấu tranh trong đàm phán để đi tới ký kết Hiệp định Giơnevơ, ngoài mong muốn chủ quan muốn kết thúc cuộc chiến tranh kéo dài, còn xuất phát từ những điều kiện thực tế khách quan, cả thuận lợi và khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Những điều kiện lợi cho ta là: các nước bạn ủng hộ ta, nhân dân thế giới cũng ủng hộ ta, nhân dân ta hăng hái và tin tưởng vào Đảng và Chính phủ ta. Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo khéo thì nhân dân ta nhất định đoàn kết đấu tranh trong hoà bình cũng như trong kháng chiến. Những điều khó khăn là: Mỹ ra sức phá hoại việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, phe chủ hoà Pháp thì vẫn chưa dứt khỏi ảnh hưởng của Mỹ"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.317).


Khi cuộc đàm phán đi vào giai đoạn quyết định, khả năng chấm dứt chiến tranh trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết, đây cũng chính là thời điểm dễ nảy sinh những tư tưởng sai lầm, vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Đó là lúc chúng ta cần nêu cao tư tưởng phấn đấu giành lấy hoà bình. Vì vậy, cần phải kiên quyết chống tư tưởng tả khuynh, nghĩa là muốn đánh đến cùng, không thấy được âm mưu lâu dài của Pháp cũng như mưu đồ của Mỹ, chỉ thiên về tác chiến mà coi thường ngoại giao, không thấy được quan hệ biện chứng giữa mặt trận ngoại giao và mặt trận quân sự. Tuy quân và dân Việt Nam đã đánh bại quân Pháp ở Điện Biên Phủ, nhưng so sánh lực lượng trên chiến trường chưa có sự thay đổi cơ bản vì toàn bộ binh lực của Pháp ở Điện Biên Phủ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng binh lực của Pháp trên toàn Đông Dương. Chính vì thế, tận dụng những tình thế có lợi trên mặt trận quân sự để đi đến thắng lợi quyết định trên mặt trận ngoại giao mới là một sách lược đúng đắn, cũng là điểm kế thừa truyền thống quân sự Việt Nam.


Chủ trương của Đảng và Chính phủ Việt Nam về hoà bình là cần phải chống cả tư tưởng "tả khuynh" và "hữu khuynh". "Tả khuynh" thì sẽ bị cô lập, sẽ xa rời nhân dân và không thu hút được sự ủng hộ của quốc tế, sẽ dẫn đến thất bại. Còn "hữu khuynh" thì sẽ nảy sinh tư tưởng bi quan, tiêu cực, nhân nhượng vô nguyên tắc, không tin tưởng vào lực lượng và sức mạnh của nhân dân. Vì thế, để đấu tranh có kết quả trên bàn đàm phán, Đảng xác định: Mục đích bất di bất dịch vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc thì phải vững chắc nhưng sách lược thì linh hoạt.


Báo cáo của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu mở rộng đã chỉ rõ hai luồng tư tưởng hiện đang ảnh hưởng đến suy nghĩ của cán bộ, đảng viên và nhân dân là: Một là, không nhận rõ tình hình mới phức tạp và sự chuyển hướng sách lược đấu tranh của Đảng nên có khuynh hướng đánh giá quá cao lực lượng của mình, coi thường âm mưu, hành động của Pháp, Mỹ, khăng khăng cho rằng cần đánh đến cùng, đánh trong một thời gian ngắn nữa là có thể quét sạch quân xâm lược. Do đó, không tán thành phương pháp đàm phán hoà bình để giải quyết vấn đề Đông Dương hoặc có tán thành dùng phương pháp hoà bình nhưng lại muốn thực hiện ngay những điều chưa giành được trên chiến trường. Một số cán bộ, đảng viên chỉ nhìn thấy khả năng lập lại hoà bình ở Đông Dương mà không nhìn thấy khả năng chiến tranh kéo dài và mở rộng; không nhìn thấy trường hợp đạt được đình chiến nhưng không đạt được hoà bình vững chắc, vì thế nảy sinh tư tưởng chủ quan, thiếu cảnh giác, không chú ý tăng cường sức mạnh quân sự, củng cố hậu phương, phát triển sản xuất, bồi dưỡng lực lượng và nâng cao tinh thần chiến đấu của toàn quân, toàn dân.

Hai là, có những cán bộ vì sợ gian khổ, hy sinh, sợ Mỹ trực tiếp can thiệp thì ta sẽ thất bại nên muốn hoà bình bằng bất cứ giá nào.

Thực tế là chủ trương đàm phán để lập lại hoà bình của Việt Nam căn cứ trên cơ sở đối phương phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Muốn đàm phán có kết quả thì phải linh hoạt, có khi phải nhân nhượng, nhưng nhân nhượng trong một chừng mực nhất định, có nguyên tắc và đối phương cũng phải thống nhất một số yêu cầu của Chính phủ Việt Nam. Nếu đối phương nhất định phủ nhận những thắng lợi của quân và dân miền Nam, đưa ra các điều kiện vô lý, thì một mặt, phải giương cao ngọn cờ hoà bình, mặt khác, phải tiếp tục chiến đấu để đạt tới mục đích đã xác định, chấp nhận gian khổ, hy sinh để giành lấy thắng lợi cuối cùng.


Báo cáo của đồng chí Trường Chinh cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của lực lượng quân sự trong việc đưa đến hoà bình, vì thế cần chống lại tư tưởng cho rằng khi đã ngừng bắn, việc tăng cường lực lượng quân sự chỉ là công tác thứ yếu, hay như quân đội chỉ tham gia vào việc kiến thiết hoà bình chứ không phải là chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại các âm mưu gây chiến mới của thực dân, đế quốc. Đó là một tư tưởng sai lầm rất nguy hiểm. Nhiệm vụ tăng cường lực lượng quân sự là một trong những nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân lúc bấy giờ cũng như sau khi đình chiến, đây cũng là một trong những động lực tăng cường sự gắn bó quân - dân đồng lòng, vốn là sức mạnh thường trực và to lớn nhất của quân đội Việt Nam.


Đối với những hành động cố tình vi phạm Hiệp định của Pháp, ta phải nhận thức rõ: phản đối hòa bình, không dùng vũ lực hoặc tổ chức những cuộc míttinh biểu tình rầm rộ, vì như thế dễ xảy ra xung đột, tạo điều kiện cho các thế lực chống đối - thù địch nhân cơ hội đó khiêu khích, gây trở ngại cho việc thực hiện đình chiến. Trong Lời phát biểu tại buổi đón tiếp ủy ban quốc tế Kiểm soát và giám sát thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, tổ chức tại Thái Nguyên ngày 12-8-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhân dân Việt Nam chúng tôi vốn yêu chuộng hoà bình, cho nên chúng tôi rất phấn khởi đón tiếp cuộc đình chiến. Chúng tôi sẽ đưa hết lực lượng và sẽ cố gắng không ngừng để giữ gìn hoà bình và thi hành đúng đắn tất cả những điều khoản đã ghi trong hiệp định đình chiến... Tôi trịnh trọng hứa với các vị rằng quân đội nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhất định tôn trọng và sẽ ra sức thi hành đầy đủ mỗi một điều khoản trong hiệp định đình chiến. Đồng thời, chúng tôi mong rằng Chính phủ Pháp và các bên có quan hệ cũng đảm bảo thi hành đúng đắn hiệp định đình chiến"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.328-329). Những nỗ lực hòa bình không phải bao giờ cũng mang đến một nền hòa bình trước mắt, nhưng nó là căn bản cho một nền hòa bình lâu dài. Thực vậy, mọi chính sách và sách lược quốc gia - dân tộc vốn đều có tính lôgic và nhân quả, ngay cả khi có những biểu hiện mâu thuẫn nhưng chắc chắn vẫn luôn thống nhất trong bản sắc - truyền thống của dân tộc ấy. Cuộc kháng chiến của người Việt Nam đã luôn là cuộc chiến tranh vệ quốc, vì nền hòa bình và độc lập dân tộc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #25 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2021, 09:25:25 pm »

II- ĐOÀN KẾT DÂN TỘC GẮN VỚI ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

Việt Nam là một quốc gia hình thành sớm, nên ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt có từ ngàn xưa. Lịch sử hàng ngàn năm chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm đã hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: Yêu nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất, nhân ái khoan dung.


Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, cố kết dân tộc là truyền thống bền vững nổi trội, giữ một vai trò cực kỳ quan trọng. Đó là sản phẩm của cả một quá trình chung lưng đấu cật, làm ăn sinh sống, chống thiên tai và ngoại xâm của nhân dân Việt Nam. Đó vừa là kết quả, vừa là động lực của sự hình thành, lớn mạnh của quốc gia, dân tộc Việt Nam trong trường kỳ lịch sử. Sẽ không thể hình dung và lý giải đầy đủ sức sống bền bỉ, mãnh liệt của dân tộc Việt Nam nếu không đề cập tới tính cố kết dân tộc với tư cách là một trong những giá trị truyền thống của văn hoá dựng nước và giữ nước Việt Nam.


Nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, Việt Nam là đất nước thuộc miền khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuận lợi cũng lắm mà khắc nghiệt, thiên tai cũng nhiều. Nhưng thử thách nghiệt ngã đe dọa sự tồn vong của giống nòi, dân tộc do nạn xâm lăng thường trực của các thế lực từ bên ngoài mới là điều đáng chú ý. Chính vì lẽ đó, tâm thế chung của người Việt Nam trong lịch sử là phải sớm cố kết lại để có đủ sức mạnh đương đầu, chống trả với thiên nhiên, giặc dã, gìn giữ cuộc sống bình yên.


Từ buổi đầu dựng nước, do nhu cầu tồn tại và phát triển, các bộ tộc thuộc giống nòi Lạc Việt sinh sống trên cùng một địa vực khác nhau sớm cố kết, gắn bó với nhau trong một lợi ích chung. Sự gắn bó này đã dẫn đến việc ra đời nhà nước sơ khai có tên là Văn Lang. Cùng với quá trình ra đời của nhà nước Văn Lang rồi Âu Lạc, sự cố kết trong nội bộ các bộ tộc Việt cổ đã thực sự trở nên bền chặt, ý thức cộng đồng, ý thức dân tộc bao trùm lên ý thức bộ tộc. Đấy chính là lõi cốt của lòng yêu nước, văn hoá Việt Nam - điều kiện quan trọng bậc nhất để Việt Nam có đủ bản lĩnh, sức sống và sức mạnh vượt qua bao thử thách khốc liệt của hơn nghìn năm bị đô hộ và đồng hoá bởi thế lực phong kiến phương Bắc, từ đó giành, giữ chủ quyền, tiến lên xây dựng quốc gia phong kiến tập quyền...


Tính cố kết cộng đồng đó còn thể hiện cả trong tôn giáo, tín ngưỡng, một lĩnh vực rất hay mâu thuẫn và thường bị kẻ thù lợi dụng để chia rẽ. Nói cách khác, truyền thống cố kết dân tộc là nhân tố chi phối mọi mối quan hệ trong xã hội Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Ở Việt Nam các tôn giáo cùng tồn tại hòa thuận trong một gia đình, một làng, một xã.


Cố kết dân tộc, đoàn kết nhân dân, như đã nói ở trên, là một trong số những nhân tố quyết định sự trường tồn, vững mạnh của dân tộc, đất nước Việt Nam. Vì thế, kẻ thù không từ một thủ đoạn nào để hòng phá hoại khối đại đoàn kết đó. Trong quá trình thiết lập ách thống trị, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thực hành chính sách chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chia rẽ giữa các địa phương đế dễ bề thống trị và thi hành nhiều biện pháp đồng hoá hòng xoá bỏ nền văn hoá của dân tộc Việt Nam, đè bẹp ý thức dân tộc và ý chí tự cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam.


Cuối thế kỷ XIX, sau khi cơ bản kết thúc quá trình vũ trang xâm lược, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách thống trị và khai thác thuộc địa ở Việt Nam, khôi phục chế độ thống trị thuộc địa ở Việt Nam và Đông Dương. Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đề ra đường lối chiến lược cho cách mạng Việt Nam là đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập, tự do cho dân tộc. Cương lĩnh khẳng định: Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Đảng phải đoàn kết, tập hợp cho được đại bộ phận giai cấp công nhân và đại đa số dân cày, dựa vững vào hạng dân cày nghèo. Bên cạnh việc xác định hai giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc, Đảng đã nêu rõ “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.4). Trong khi thực hiện chủ trương đoàn kết dân tộc, Cương lĩnh cũng nhấn mạnh: “phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.5), nhằm đánh đổ thực dân Pháp xâm lược. Như vậy, ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã có chủ trương đoàn kết các giai cấp, các tổ chức chính trị, các cá nhân yêu nước, nhằm phát huy sức mạnh truyền thống yêu nước, huy động mọi nhân tố dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc.


Chủ trương đại đoàn kết dân tộc của Đảng đã làm dấy lên những cao trào cách mạng. Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, thắng lợi nghiêng về phe đồng minh. Cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển mạnh mẽ, rộng lớn chưa từng thấy, đã thúc đẩy tình thế cách mạng chín muồi. Khi thời cơ đến, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.554). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh đã phát động toàn thể nhân dân vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi. Thắng lợi này là kết quả của đường lối tập hợp lực lượng, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.


Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, bên cạnh những thuận lợi, Nhà nước ta phải đối mặt với vô vàn khó khăn, chính quyền cách mạng non trẻ ở vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trong bối cảnh đó, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra và thực hiện chủ trương nhất quán là thống nhất bên trong, tìm bạn bên ngoài, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, tăng cường thực lực cách mạng trên cơ sở dựa chắc vào khối đại đoàn kết toàn dân được tập hợp trong Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc. Khẩu hiệu: “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”, “Tập trung ngọn lửa đấu tranh vào thực dân Pháp xâm lược"... đã thu hút rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, kể cả các quan đại thần cũ, các tư sản, địa chủ yêu nước, nhân sĩ và trí thức tiến bộ. Thông qua các đoàn thể cứu quốc, Mặt trận Việt Minh để tuyên truyền và vận động quần chúng tự nguyện, hăng hái tham gia các phong trào sản xuất, cứu đói, hũ gạo tiết kiệm, tuần lễ vàng, bình dân học vụ... Quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện thông qua cuộc Tổng tuyển cử lịch sử đầu tiên bầu Quốc hội, xây dựng Hiến pháp mới. Chính quyền nhân dân ra đời trong Cách mạng Tháng Tám là của dân, gắn bó với dân, thực hiện chức năng chính là động viên và tổ chức toàn dân đem hết tinh thần, lực lượng để bảo vệ sự nghiệp cách mạng, kháng chiến, kiến quốc. Tiếp đó, để mở rộng hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, Đảng chủ trương vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt, ngày 29-5-1946). Cương lĩnh của Hội nêu rõ mục đích đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước không đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc, làm cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #26 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2021, 09:26:08 pm »

Mặt trận Việt Minh là thành phần tích cực của Hội Liên Việt, tập hợp những thành phần cơ bản của xã hội (công nhân, nông dân, trí thức...), làm cơ sở cho Hội Liên Việt. Nhiều đoàn thể được thành lập như Hội Công nhân cứu quốc, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Việt Nam công giáo cứu quốc hội, Phật giáo cứu quốc hội, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội... Chính sách đoàn kết được Đảng đề ra trong kháng chiến rất rộng rãi. Bên ngoài, liên hiệp với nhân dân Pháp, đoàn kết với nhân dân Lào, Campuchia, thân thiện với các dân tộc yêu chuộng hoà bình, tự do. Ơ trong nước, thực hiện đoàn kết chặt chẽ toàn dân, bảo vệ dân, thu phục lòng dân. Cơ quan chỉ đạo của Hội Liên Việt là Ủy ban Liên hiệp quốc dân ủng hộ kháng chiến toàn quốc có nhiệm vụ hiệu triệu, cổ vũ quân và dân cả nước, làm cho cuộc kháng chiến “thật là của toàn dân”; tích cực vận động và tổ chức các tầng lớp nhân dân thàm gia kháng chiến tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện từng vùng, từng đối tượng...


Với những chủ trương, chính sách cụ thể, Đảng đã tập hợp được đông đảo lực lượng trong Mặt trận Việt Minh, Liên Việt, tăng cường được thực lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến, đưa cuộc kháng chiến tiến lên giành những thắng lợi bước đầu quan trọng như Việt Bắc Thu - Đông 1947, Biên giới 1950... đánh bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp. Để đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi, tháng 2-1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tổng kết chặng đường 20 năm lãnh đạo cách mạng làm cơ sở cho việc đề ra những chủ trương, chính sách mới, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại hội tiếp tục khẳng định nhiệm vụ đoàn kết tất cả mọi đảng phái, đoàn thể, mọi thân sĩ yêu nước, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, nam nữ để cùng nhau kháng chiến, kiến quốc. Đại hội chủ trương thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt nhằm củng cố, mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân để chiến thắng kẻ thù. Từ ngày 3 đến 7-3-1951, tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang, Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt diễn ra trọng thể và thành công rực rỡ. Đây là một bước phát triển mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Trong thực hiện chiến lược đại đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn của khối đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp kháng chiến, xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra nhiều hình thức tập hợp và tổ chức quần chúng rất đa dạng, phong phú trong Mặt trận dân tộc thống nhất, trong các đoàn thể, các hội quần chúng nhằm thu hút thật đông đảo người Việt Nam vào sự nghiệp cứu nước, cứu nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập hợp được những người tài đức trong cả nước cùng tham gia gánh vác việc chung, mời các chí sĩ yêu nước, các vị quan to của triều đình Huế trước đó ra đảm đương việc nước. Nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước có tên tuổi, trí thức người Việt có tài năng ở nước ngoài đã về nước cùng toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc.


Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với đoàn kết quốc tế là một trong những vấn đề mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhất quán nguyên tắc ấy trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp. Để củng cố khối đoàn kết ba nước trên bán đảo Đông Dương, ngày 11-3-1951, Hội nghị liên minh ba nước Đông Dương gồm đại biểu của Mặt trận Liên Việt do Chủ tịch Tôn Đức Thắng làm trưởng đoàn, Mặt trận Lào Ítxala do Hoàng thân - Chủ tịch Xuphanuvông làm trưởng đoàn, Mặt trận Khmer Ítxarắc do Chủ tịch Sơn Ngọc Minh làm trưởng đoàn. Hội nghị đánh giá cao những thắng lợi của nhân dân ba nước, khẳng định ý nghĩa quan trọng của sự đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa ba dân tộc. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào gồm đại biểu của Mặt trận ba nước, nhằm tăng cường đoàn kết và phát huy sức mạnh của khối đoàn kết ba dân tộc anh em, cùng tập trung tiêu diệt thực dân Pháp, đánh bại can thiệp Mỹ, giành độc lập thật sự cho ba dân tộc, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.


Bên cạnh việc củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết trong nước, đoàn kết ba nước Đông Dương, Đảng khẳng định: phải tăng cường đoàn kết, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân tiến bộ Pháp, tạo ra sức mạnh to lớn đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Thực hiện chính sách thêm bạn bớt thù, trong những năm tháng đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, khi đất nước rơi vào tình trạng thù trong giặc ngoài, Đảng đã phân rõ kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp để tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.


Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, nhất là khi cuộc kháng chiến bùng nổ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách để liên hệ với bên ngoài (qua Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ), tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Ngày 1-10-1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời. Ngày 18-1-1950, Trung Quốc chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta. Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô và Trung Quốc, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nước bạn đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Tháng 9-1950, Chiến thắng Biên giới đã nối liền cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam với hậu phương của cách mạng thế giới. Liên Xô và các nước Đông Âu lần lượt công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng lớn của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc.


Như vậy, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, khối đại đoàn kết dân tộc không ngừng được củng cố và tăng cường, tạo ra sức mạnh to lớn đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt của nhân dân Việt Nam, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Thắng lợi đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, nhưng trước hết đó là kết quả và biểu hiện cao độ sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #27 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2021, 09:26:56 pm »

Tháng 7-1954, Mỹ thay chân Pháp vào miền Nam Việt Nam, chà đạp lên “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.1) của các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia, đi ngược lại xu thế phát triển của nhân loại. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Mặt trận đoàn kết toàn dân có bước phát triển mới, với nhiệm vụ mới là động viên và tổ chức toàn dân tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, thực hiện mục tiêu chung là hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Song do tình hình thực tế của cách mạng mà nhiệm vụ của mỗi miền có sự thay đổi, Đảng chủ trương, ở miền Nam dần dần phải hình thành một mặt trận rộng rãi tập hợp lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình. Trên miền Bắc, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam quyết định lấy tến là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (9-1955). Mặt trận ra tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân, kêu gọi mọi người Việt Nam không phân biệt gái trai, già trẻ, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, khuynh hướng chính trị và tín ngưỡng tôn giáo, không phân biệt trước đây đã đứng về phe nào, nhưng ngày nay tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ hãy xiết chặt hàng ngũ trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống Mỹ, cứu nước.


Sự kiện tiêu biểu, có ý nghĩa như một “Hội nghị Diên Hồng” trong thời đại mới, biểu thị ý chí mạnh mẽ, tinh thần đoàn kết và thống nhất hành động của toàn dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là Hội nghị chính trị đặc biệt do Hồ Chí Minh triệu tập ngày 27-3-1964. Tại Hội nghị, các bậc lão thành cách mạng, nhân sĩ yêu nước, những người tiêu biểu cho các giới, các ngành, đại biểu người Việt Nam ở nước ngoài... đã thay mặt toàn dân cùng nhau dân chủ bàn việc nước. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua “mỗi người làm việc bằng hai”, phong trào kết nghĩa Bắc - Nam được toàn dân hưởng ứng sôi nổi. Nhiều khẩu hiệu hành động, nhiều phong trào thi đua có sức động viên, tập hợp rộng rãi các lực lượng, các ngành nghề, lứa tuổi trong mọi lĩnh vực sản xuất, chiến đấu, học tập, công tác đã xuất hiện và phát triển sâu rộng ở khắp các địa phương. Công nhân bám xưởng, bám máy, “tay búa, tay súng”. Nông dân ngày đêm bám ruộng đồng, “tay cày, tay súng”, hăng hái góp người, góp của cho kháng chiến với phong trào “thóc thừa cân, quân thừa người”. Thanh niên nam nữ nô nức lên đường trong phong trào “ba sẵn sàng”, “năm xung phong""; phụ nữ có phong trào “ba đảm đang"; trí thức có phong trào “ba quyết tâm"; các cụ phụ lão có phong trào “ba giỏi"; thiếu niên nhi đồng làm “nghìn việc tốt”, các bà mẹ, các chị hăng hái tham gia “Hội Mẹ chiến sĩ’, động viên con em lên đường đánh giặc... Có thể nói, tất cả các lực lượng, các địa phương, các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ tiền tuyến đến hậu phương, từ nông thôn đến thành thị, từ nhà máy đến ruộng đồng... đều có khẩu hiệu tập hợp, đều có phong trào hành động.


Ở miền Nam, hình thức tập hợp lực lượng phát triển vô cùng đa dạng, phong phú. Tháng 12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, ra lồi kêu gọi “tất cả hãy đứng lên, tất cả hãy đoàn kết lại. Hãy xiết chặt hàng ngủ để chiến đấu...”. Với cương lĩnh đúng đắn, chương trình hành động thiết thực, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam nhanh chóng tập hợp các tổ chức chính trị, xã hội, đảng phái, tôn giáo như Hội lao động giải phóng, Hội Liên hiệp sinh viên - học sinh, Hội các nhà giáo yêu nước, Hội Phụ nữ giải phóng, Hội những người công giáo kính Chúa yêu nước, Hội lục hoà phật tử miền Nam, Đảng Xã hội cấp tiến của trí thức yêu nước, Đảng Dân chủ miền Nam của tư sản dân tộc... Để mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc, Mặt trận chủ trương thành lập một chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, cải thiện dân sinh, giữ vững hoà bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Mặt trận công bố “bốn chủ trương cứu nước khẩn cấp”1 (Bốn chủ trương cứu nước khẩn cấp do Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam đề ra tháng 7-1962 là 1- Chính phủ Mỹ phải đình chỉ chính sách và hành vi xâm lược vũ trang vào miền Nam Việt Nam; 2- Các phái hữu đình chỉ chiến tranh, lập lại hòa bình; 3- Tổ chức tổng tuyển cử tự do để bầu Quốc hội; 4- Thi hành chính sách hòa bình trung lập) nhằm tạo điều kiện đoàn kết rộng rãi nhất, sẵn sàng bắt tay với tất cả những ai, dù chưa tán thành Cương lĩnh của Mặt trận nhưng đồng lòng chống Mỹ, cứu nước.


Khi Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam, mở rộng chiến tranh bằng không quân và hải quân ra miền Bắc, Mặt trận đề ra Cương lĩnh mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân, tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ, thu hút rộng rãi hơn nữa những tầng lớp, cá nhân có khuynh hướng hoà bình, trung lập, để cô lập triệt để Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Cương lĩnh của Mặt trận được Hồ Chí Minh đánh giá là “ngọn cờ đoàn kết toàn thể nhân dân miền Nam để cùng chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi cuối cùng”. Tháng 4-1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam ra đời, đoàn kết và tranh thủ thêm một số trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở các thành thị và một số người có xu hướng chính trị hoà bình, trung lập, nhưng chưa tham gia Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự ra đời và hoạt động tích cực của Liên minh “là một thắng lợi rực rõ của lòng yêu nước và sức mạnh toàn dân đoàn kết chống Mỹ, cứu nước”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.448).


Kháng chiến càng phát triển, các hình thức tập hợp lực lượng càng phải được mở rộng. Nhìn lại các giai đoạn phát triển của 30 năm chiến tranh giải phóng có thể thấy, khi nào giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp thì khối đoàn kết dân tộc được mở rộng, vững chắc, cách mạng phát triển thuận lợi; ngược lại, sẽ khó khăn, vấp váp, thậm chí thất bại. Thực chất mối quan hệ này là không ngừng mở rộng và phát huy sức mạnh của khối đoàn kết thống nhất của toàn dân trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, truyền thống với hiện đại, luôn bổ sung và đổi mới cả về nội dung và hình thức. Việc đoàn kết giữa các thành phần, lực lượng trong Mặt trận, đoàn thể, trong các tổ chức quần chúng phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, thành thật, lâu dài, thống nhất hành động, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Điểm quy tụ, đoàn kết các lực lượng kháng chiến là mục tiêu chung của đương lối kháng chiến đúng đắn. Quá trình lãnh đạo kháng chiến, Đảng phải đấu tranh, khắc phục những nhận thức và việc làm sau trái, lệch lạc như hẹp hòi, định kiến, coi đoàn kết chỉ là tạm thời, là sách lược; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, vô nguyên tắc cần nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh đoàn kết, thống nhất của khối liên minh công, nông, trí thức coi đó là nòng cốt, là điều kiện tiên quyết để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Khắc phục khuynh hướng thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, hạ thấp vai trò của công nông, đồng thời đấu tranh với những biểu hiện cứng nhắc hẹp hòi, chỉ dựa vào Mặt trận cho có danh nghĩa, thực chất là vô hiệu hoá, làm cho Mặt trận và các đoàn thể chỉ mang một nội dung và màu sắc thuần tuý công - nông. Thực tiễn lịch sử cho thấy, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, của Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể quần chúng không chỉ ở chỗ có lực lượng đông đảo và giữ được bản chất công - nông mà còn thể hiện ở việc đề ra và thực hiện thành công những sách lược mềm dẻo, linh hoạt nhằm tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ, trung lập những lực lượng có thể trung lập, phân hoá và cô lập triệt để những lực lượng chống đối, ngoan cố nhất trong hàng ngũ đối phương.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #28 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2021, 09:27:51 pm »

Nêu cao tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, thực thà đoàn kết vì lợi ích tối cao của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của những người thuộc tầng lớp trên như vua, quan, tư sản, địa chủ yêu nước; những chức sắc có uy tín trong các tôn giáo, những ngươi lầm đường hoặc bị cưỡng bức theo địch... Binh vận trở thành mũi đấu tranh sắc bén, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, hình thành phương châm chỉ đạo, phương thức đấu tranh toàn diện rộng khắp, rất có hiệu lực của cuộc kháng chiến toàn dân là “hai chân, ba mũi”, “ba vùng”. Những thắng lợi quân sự trên chiến trường đã khiến hàng ngũ đối phương bị phân hoá lực lượng, làm suy giảm ý chí của đội quân xâm lược, góp phần tăng cường thế và lực cho cách mạng.


Đồng bào và chiến sĩ miền Nam trên tuyến đầu Tổ quốc, xuyên suốt cuộc kháng chiến mười ngàn ngày, luôn đấu tranh một mất một còn với kẻ thù hung bạo với tinh thần “hiểm nguy không lùi bước”, “uy vũ chẳng chuyển lay”. Đồng bào miền Nam, trước sau một lòng, một dạ trung thành với cách mạng, hướng về miền Bắc thân yêu, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến trường kỳ. Là người mở đầu cuộc trường chinh tự giải phóng của dân tộc, triệu triệu con em thành đồng Tổ quốc đã nêu cao tấm gương của chủ nghĩa anh hùng cách mạng mà lịch sử đất nước, dân tộc Việt Nam đời đời ghi nhớ.


Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng có vai trò quyết định trong quá trình tập hợp, phát huy hiệu quả của khối đại đoàn kết toàn dân, hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Hiệu lực hoạt động của các tổ chức này gắn liền với quá trình xây dựng, phát huy tính ưu việt của chế độ mới, với việc phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Mọi chính sách, chế độ, quy định của Đảng và Nhà nước đều phải thực hiện trên cơ sở vận động, giáo dục để trở thành hoạt động tự giác của đông đảo quần chúng. Mặt trận, các đoàn thể vừa là nơi tập hợp, vừa là nơi quần chúng thực hiện quyền làm chủ của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ thù không thể nào tiêu diệt được.


Công cuộc cách mạng và kháng chiến của nhân dân Việt Nam luôn chịu sự tác động của tình hình thế giới, của các mối quan hệ quốc tế và của khu vực. Do đó, phương châm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam là: kiên trì đoàn kết quốc tế, đồng thời nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ. Đây là một nhân tố quyết định thành công trên mặt trận đối ngoại. Đương đầu với Mỹ - một cương quốc có tiềm lực, sức mạnh kinh tế, quân sự vượt trội, mạnh hơn Việt Nam gấp nhiều lần, vấn đề cơ bản đặt ra cho toàn Đảng, toàn thể nhân dân Việt Nam, mà trước hết là cho bộ não lãnh đạo cách mạng Việt Nam là phải động viên được sức mạnh của toàn thể dân tộc thông qua khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ tối đa sự ủng hộ, sức mạnh vật chất, tinh thần của các lực lượng dân chủ, tiến bộ, hoà bình trên thế giới, kết hợp nội lực với ngoại lực, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cuộc kháng chiến. Tư Tưởng đoàn kết quốc tế của Đảng có thể khái quát như sau: Đoàn kết, tập hợp và tranh thủ bất cứ lực lượng nào có thể đoàn kết, tập hợp, tranh thủ được, nhằm phân hoá, cô lập kẻ thù, đồng thời có thêm nhiều bạn bè và sự ủng hộ cho cuộc kháng chiến. Nội dung của đoàn kết quốc tế có thể đúc rút ngắn gọn: 1). Tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị, tranh thủ tối đa sự ủng hộ về cả vật chất, lẫn tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là hai nước lớn Liên Xô, Trung Quốc; 2). Tăng cường tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương chống lại kẻ thù chung; 3). Vận động, tranh thủ sự đồng tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, nhất là của nhân dân tiến bộ Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Chúng ta có chính nghĩa, chúng ta có sức mạnh đoàn kết của hàng chục triệu đồng bào, lại được sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, trong đó có nhân dân Mỹ. Chúng ta nhất định thắng.


Thực hiện chính sách thêm bạn bớt thù, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam luôn chú ý và khéo léo lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của đối phương, tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ, phân hoá và cô lập kẻ thù chủ yếu để đánh thắng. Đây là một nguyên tắc chiến lược của cách mạng và chiến tranh cách mạng chứ không đơn thuần chỉ là vấn đề sách lược. Bước vào cuộc chiến đấu chống Mỹ, trong quá trình thực hiện đường lối kháng chiến, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều chủ trương, biện pháp khéo léo nhằm khoét sâu và lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ với các nước đồng minh, giữa phái chủ chiến và phái chủ hoà, giữa các tập đoàn tư bản có lợi ích khác nhau trong giới cầm quyền Mỹ, giữa Mỹ với các nước phụ thuộc, giữa Mỹ với chính quyền Sài Gòn, giữa nhà cầm quyền Mỹ với nhân dân Mỹ. Khẩu hiệu là: “đoàn kết với bất cứ người nào có thể đoàn kết được, tranh thủ bất cứ người nào có thể tranh thủ được, trung lập bất cứ người nào có thể trung lập cốt nhằm phân hoá kẻ thù đến cao độ và cô lập chúng, đồng thời kiếm thêm nhiều bạn cả trong nước và ngoài nước”1 (Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, t.1, tr.76-76).


Việt Nam đã đẩy mạnh vận động tuyên truyền quốc tế xoay vào ba nội dung chính: chính nghĩa, quyết tâm và tất thắng, thiện chí hoà bình. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã huy động mọi lực lượng, kết hợp nhiều phương thức đấu tranh, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và phát huy sức mạnh của nghệ thuật đấu tranh ngoại giao. Trong những năm chiến tranh, để đạt hiệu quả tối đa trong hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao theo quy luật phát triển từ thấp đến cao, từ nông đến sâu, chủ động tích cực, linh hoạt sử dụng nhiều hình thức tổ chức, nhiều phương thức đấu tranh, huy động nhiều lực lượng tham gia, phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt Nam được sự ủng hộ đồng tình của phong trào nhân dân thế giới, một phong trào quy mô rộng lớn, đấu tranh bền bỉ, quyết liệt có tác động to lớn đến chiến tranh Việt Nam; trong lịch sử nhân loại chưa từng có một phong trào nào có tầm vóc và ý nghĩa lớn như vậy.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #29 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2021, 09:28:51 pm »

Tháng 8-1964, Mỹ gây "sự kiện Vịnh Bắc Bộ" cho không quân, hải quân đánh phá Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc hội Mỹ thông qua nghị quyết cho phép Tổng thống đưa quân sang Việt Nam nếu cần. Nguy cơ chiến tranh mở rộng đã trở thành trực tiếp. Ngoại giao ở hai miền Nam - Bắc đã mở cuộc vận động quốc tế quy mô và dài ngày lên án, tố cáo Mỹ. Nhiều chính phủ các nước, các tổ chức dân chủ và hoà bình quốc tế, nhiều nhân sĩ trí thức có tên tuổi lên tiếng ủng hộ tuyên bố của Việt Nam. Từ đây, vấn đề Việt Nam, nguy cơ Mỹ xâm lược Việt Nam ngày càng được dư luận quốc tế quan tâm và thưòng được đề cập trong các hội nghị quốc tế và khu vực. Tại nhiều nước đã bắt đầu hình thành các Ủy ban đoàn kết với Việt Nam, Ủy ban ủng hộ Việt Nam. Phong trào nhân dân Mỹ chống đế quốc Mỹ gây chiến tranh ở Việt Nam cũng hình thành. Phong trào ủng hộ Việt Nam mở rộng từ các nước xã hội chủ nghĩa đến các nước phát triển phương Tây và nhiều nước dân tộc độc lập khắp năm châu. Phong trào ủng hộ Việt Nam đặc biệt sôi nổi, rầm rộ ở các nước Tây Bắc Âu, Thụy Điển, Hà Lan, Pháp, Italia, Đan Mạch, Na Uy, Tây Đức, Anh... cho đến các nước phát triển ở Thái Bình Dương, Nhật Bản, Ôxtrâylia. Ở các nước dân tộc chủ nghĩa như Angiêri, Ghinê, Mali, Cônggô B, An Độ, Inđônêxia... đều có những hoạt động ủng hộ Việt Nam, đặc biệt là khi có những sự kiện quan trọng.


Chính sự yêu chuộng hoà bình, công lý, tính chất chính nghĩa, nhân đạo và thắng lợi cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã thức tỉnh lương tâm nhân dân hai nước Pháp và Mỹ, góp phần thúc đẩy phong trào phản chiến rộng lớn và mạnh mẽ không chỉ trong phạm vi nước Mỹ mà trên toàn thế giới. Phong trào nhân dân Mỹ phản đối chiến tranh đã phát triển mạnh và lan rộng chưa từng có, làm lay chuyển cả nước Mỹ. Nhiều cuộc biểu tình, diễu hành, hội thảo được tổ chức ở 120 thành phố, với sự tham gia của 2.000 trường học, hàng trăm tờ báo phản chiến và hơn 200 tổ chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ làm rung động Nhà Trắng. Thanh niên, sinh viên đốt thẻ quân dịch, cựu binh vứt bỏ huân chương để phản đối chính phủ. Chiến sĩ hoà bình Nôman Môrixơn tự thiêu trước cửa sổ Lầu Năm Góc; Oantơ Lýpman, nhà bình luận chính trị nổi tiếng nước Mỹ hồi đó nhận xét “lương tâm người Mỹ nổi giận... Cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc chiến tranh không được lòng nhiều người Mỹ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ”. Phong trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh có sự phối hợp, ủng hộ về tình cảm, hành động với phong trào của nhân loại tiến bộ, quy mô rất lớn, đấu tranh quyết liệt, kéo dài, tăng sức ép và gây thêm nhiều khó khăn cho chính quyền Mỹ ở trong nước và trên quốc tế, có tác động mạnh mẽ đến nội tình nước Mỹ và kết cục của chiến tranh. Mỹ phải chuyển chiến lược từ leo thang sang xuống thang, ngồi vào đàm phán với Việt Nam là để cứu vãn chiến lược toàn cầu, và cũng là để khôi phục lại an ninh ngay trong nước Mỹ. Đối với Việt Nam, phong trào nhân dân Mỹ là một nguồn ủng hộ về chính trị và tinh thần lớn lao. Hồ Chí Minh đã từng nói "Mặt trận số một chống đế quốc Mỹ là Việt Nam. Mặt trận số hai ở ngay nước Mỹ".


Trên thế giới, Hội nghị 50 nước Phong trào không liên kết họp ở Gioócgiơtao, Guyana (1972) lên án cuộc chiến tranh của Mỹ xâm lược Việt Nam. Các tổ chức hòa bình, Toà án quốc tế Béctơrăng Rútxen, Giáo hoàng, nhiều nhà khoa học nổi tiếng... đã xét xử tội ác, lên án và phản đối Mỹ... Những hình thức hoạt động phong phú của các phong trào này đã ủng hộ nhân dân Việt Nam, tạo thành một hậu thuẫn; hậu phương quốc tế lớn cổ vũ nhân dân Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách để giành lấy chiến thắng. Phong trào còn tác động trực tiếp đến chính sách của chính phủ các nước mà trước hết là các nước phát triển. Hầu hết các nước Tây Bắc Âu, kế cả các đồng minh của Mỹ trong NATO đều thận trọng, tránh bày tỏ ủng hộ hoặc đồng tình với lập trường của Mỹ. Chính phủ Thụy Điển, Chính phủ Pháp (De Gaulle) cũng chính thức lên án Mỹ xâm lược, ủng hộ sự nghiệp kháng chiến của Việt Nam.


Trong những năm chiến tranh, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải thực hiện cho được sự đoàn kết liên minh với các lực lượng cách mạng của thời đại, phải chăm lo vun đắp và phát triển sự đoàn kết giữa Việt Nam với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, trước hết với Liên Xô, Trung Quốc, lấy đó làm cơ sở, làm hạt nhân để mở rộng đoàn kết với tất cả những người cộng sản, những lực lượng cách mạng, hoà bình, dân chủ và tiến bộ khác trên thế giới.


Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng tăng cường quan hệ đoàn kết với các đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ; đoàn kết với các đảng khác trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, gắn bó mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp cùng nhiều đảng anh em khác và sau này là các tổ chức cộng sản ở Mỹ. Khi hai nước Liên Xô và Trung Quốc bất hoà gay gắt, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta không xem nhẹ tính chất khó khăn, phức tạp của tình hình để có những chủ trương, biện pháp kịp thời. Từ năm 1956-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh liên tục dẫn đầu các đoàn đại biểu Việt Nam đi thăm các nước xã hội chủ nghĩa: năm 1956, thăm chính thức Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ; năm 1957, thăm 9 nước, gồm tất cả các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Bắc Á và một số nước dân tộc chủ nghĩa ở châu Á (trong đó có Liên Xô, Trung Quốc); trong hai năm 1959-1960, hai lần thăm Trung Quốc và Liên Xô. Qua các cuộc đi thăm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ lòng mong muốn tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và các nước, để cao quan hệ đoàn kết giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô và Trung Quốc đứng đầu, thông báo tình hình Việt Nam - Đông Dương, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc đối với sự chuyển hướng đường lối và phương pháp cách mạng ở miền Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 15 (1-1959). Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tầm quan trọng của hai nhiệm vụ: tăng cường đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc; tích cực góp phần thu hẹp những bất đồng giữa hai nước. Với mục đích đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu tại Kỳ họp đặc biệt Xôviết tối cao Liên Xô nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 Cách mạng Tháng Mười Nga (1957): “Trong hoàn cảnh quốc tế hiện nay, khi bọn đế quốc đang âm mưu phá hoại sự nhất trí của chủ nghĩa xã hội, âm mưu gây cuộc chiến tranh mới, thì sự nhất trí của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa có một ý nghĩa đặc biệt to lớn”. Từ năm 1960 trở đi, khi mâu thuẫn giữa Liên Xô - Trung Quốc lên đến mức độ trầm trọng, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tăng cường đẩy mạnh các hoạt động trên mặt trận đối ngoại, hướng trực tiếp vào mục tiêu củng cố, phát triển tình hữu nghị, hợp tác với Liên Xô và Trung Quốc, tranh thủ sự chi viện cho cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Việt Nam luôn coi những điểm khác biệt, mâu thuẫn trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và giữa Liên Xô - Trung Quốc là những mâu thuẫn có tính chất nội bộ, tạm thời, không mang tính chất đối kháng, nhưng cần phải nỗ lực để dẹp bỏ, tránh để mâu thuẫn gia tăng, gây bất lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cảnh giác đối với âm mưu gây chia rẽ của đối phương, xử lý rất khôn khéo, “có lý có tình” mối quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực của sự bất hoà. Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị với cả hai nước Liên Xô, Mỹ. Đề cương công tác đối ngoại do Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày với Bộ Chính trị đầu năm 1962 nêu rõ nhiệm vụ của Đảng, của Nhà nước Việt Nam là phải góp phần giữ vững và tăng cường đoàn kết nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa. Liên tiếp qua các kỳ Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (9-1960), Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9 (12-1963), lần thứ 11 (3-1965) và lần thứ 12 (12-1965), lần thứ 13 (1-1967)... đường lối nhất quán, xuyên xuốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam là: “Tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu”, thực hiện nhiệm vụ quốc tế quan trọng: “ra sức góp phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.625); “đẩy mạnh đấu tranh chính trị và ngoại giao, góp phần củng cố sự đoàn kết của phe xã hội chủ nghĩa”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.112), kiên trì phấn đấu bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin; “tranh thủ sự giúp đỡ về mặt quân sự của các nước anh em tới mức cao nhất, trên cơ sở có lợi cho công cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tăng cường đoàn kết quốc tế trong phe xã hội chủ nghĩa”3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.641). Trong quá trình thực hiện các nghị quyết nêu trên, việc được coi là khó khăn nhất là xử lý mối quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô, Việt Nam với Trung Quốc. Để giữ được thế cân bằng trong điều kiện hai nước này đang có những bất hoà sâu sắc, phải đảm bảo nguyên tắc được không đứng về một bên và không cùng bên này chống bên kia. Để thực hiện được điều đó, Việt Nam luôn chủ động, tế nhị trong quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, không tham gia các cuộc tranh luận công khai giữa hai bên, tránh gây ra những hiểu lầm không cần thiết. Trong các văn kiện, các tuyên bố, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định tình đoàn kết hữu nghị anh em trên tinh thần quốc tế vô sản với cả hai nước xã hội chủ nghĩa lớn. Nguyên tắc ấy được thể hiện rất linh hoạt trên thực tế và đúng thời điểm.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM