Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 04:47:15 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 4  (Đọc 4724 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #40 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2021, 02:04:31 pm »

II- TƯ TƯỞNG KHÁNG CHIẾN TOÀN DIỆN

Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện đối với toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần của các bên tham chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.298). Kẻ thù xâm lược có tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn ta gấp nhiều lần. Trong những điều kiện đó, để đương đầu và đánh bại chiến tranh xâm lược, một vấn đề mang tính quy luật là phải phát huy được sức mạnh mọi mặt của đất nước, của dân tộc. Chiến tranh mà nhân dân Việt Nam tiến hành là chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân; muốn phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân, đánh bại chiến tranh tổng lực của địch, quân, dân Việt Nam phải đánh địch trên tất cả các mặt trận: Quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế cũng như văn hoá và tư tưởng. Mỗi mặt trận đấu tranh đều có vị trí quan trọng của nó. Vì lẽ đó, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng chỉ ra rằng: Kháng chiến toàn dân phải gắn liền với kháng chiến toàn diện.


Kháng chiến toàn diện là một nội dung cơ bản, một phương châm chiến lược trong tư Tưởng và trong đường lối chiến tranh nhân dân của một đất nước nhỏ yếu, chống lại đối phương lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần, nhằm huy động mọi khả năng, phát huy mọi sức mạnh, sử dụng, kết hợp mọi hình thức đấu tranh, liên hiệp với mọi lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới để tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh bại kẻ thù. Kháng chiến toàn diện là đánh giặc không chỉ trên mặt trận chủ yếu là quân sự, mà còn là đánh giặc trên tất cả các mặt trận khác như: Chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng kêu gọi: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hoá”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.444).


1. Mặt trận quân sự

Trong chiến tranh, mặt trận quân sự phải được coi là mặt trận quan trọng nhất, bởi “quân sự là việc chủ chốt”, là hình thức đấu tranh đặc trưng của chiến tranh, quyết định trực tiếp sự thắng thua trên chiến trường. Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực. Chính trị một khi không thể tiếp tục tiến lên với những thủ đoạn như cũ được nữa, thì phải dùng những thủ đoạn bạo lực, dùng chiến tranh để giải quyết mâu thuẫn đối kháng giữa hai bên. Một khi chiến tranh đã xảy ra, nếu không chiến thắng được kẻ thù về quân sự thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ chính trị. Đấu tranh trên mặt trận quân sự là một hình thức đấu tranh cơ bản, giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự của địch - chỗ dựa chủ yếu của chúng đế tiến hành chiến tranh phản cách mạng, duy trì chính quyền và các tổ chức chính trị phản động. Đi đôi với nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng quân sự của địch, đấu tranh trên mặt trận quân sự còn có nhiệm vụ bảo vệ dân, giữ dân, giành dân, kết hợp với đấu tranh chính trị, làm chỗ dựa cho quần chúng cách mạng đấu tranh chính trị và nổi dậy giành chính quyền. Chiến tranh càng phát triển, khi đối phương tăng cường vũ trang xâm lược bằng những lực lượng quân sự ngày càng lớn, thì vai trò của mặt trận quân sự càng trở nên quan trọng, yêu cầu đối với mặt trận quân sự càng cao. Lúc này, đấu tranh trên mặt trận quân sự phải chuyển từ hình thức chiến tranh du kích sang kết hợp với hình thức chiến tranh chính quy, tiêu hao và tiêu diệt những lực lượng quân sự quan trọng của đối phương, đánh bại mọi chiến lược quân sự, giành thắng lợi có tính chất quyết định về quân sự, mới có thể đưa cuộc chiến tranh nhân dân đến thắng lợi cuối cùng. Do đó, Đảng ta giương cao khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, “Các mặt công tác chính trị, kinh tế, văn hoá đều nhằm mục đích làm cho quân sự thắng lợi”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.437).


Để đảm bảo thắng lợi cho mặt trận quân sự, Đảng đề ra các nhiệm vụ: Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc; kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận, tác chiến với phá hoại, tiêu hao địch; triệt để dùng chiến tranh du kích, kết hợp với đánh lớn; quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công; vừa đánh vừa xây dựng lực lượng làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho ta.


Về quân đội chủ lực cách mạng, Đảng chủ trương xây dựng một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Đó là một đội quân cách mạng, một đội quân kiểu mới mang bản chất của giai cấp công nhân, nắm vững đường lối quân sự của Đảng, ra sức rèn luyện chiến thuật, kỹ thuật, luôn nâng cao cảnh giác bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, tham gia lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, thắt chặt đoàn kết trong nội bộ và đoàn kết với nhân dân, tuyệt đối chấp hành mọi đường lối chính sách của Đảng, của Chính phủ, có kỷ luật nghiêm minh, đồng thời, cán bộ với đội viên phải gắn bó chặt chẽ như chân tay, đội viên với cán bộ như ruột thịt. Quân đội Việt Nam là quân đội nhân dân, do nhân dân tổ chức và vì nhân dân mà chiến đấu. Nó có tính chất: Dân tộc, dân chủ và hiện đại1 (Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.123). Quân đội nhân dân Việt Nam có kỷ luật rất nghiêm, “nhưng là kỷ luật tự giác và dân chủ. Vừa tác chiến, nó vừa tiến hành công tác chính trị rộng rãi làm cho trên dưới một lòng, quân dân nhất trí và tinh thần lính địch tan rã”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.438).


Bên cạnh chủ trương tập trung lực lượng để xây dựng một đội quân chủ lực, Đảng còn hết sức chú trọng tổ chức lực lượng vũ trang tại chỗ, lực lượng vũ trang trong các địa phương và đặc biệt coi trọng dân quân du kích, coi đó là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là “bức tường sắt của Tổ quốc”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.132).


Để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân thực sự vững chắc, đáp ứng được yêu cầu của chiến tranh cách mạng, đưa kháng chiến đến toàn thắng, Đảng xác định ra sức tiến hành công tác đảng - công tác chính trị trong quân đội, xây dựng và không ngừng củng cố bản lĩnh chính trị vững vàng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, giáo dục tư tưởng, rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật, đề cao việc học tập lý luận quân sự, kết hợp với kinh nghiệm thực tế của chiến trường...


Vận dụng nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng và dựa trên kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám, trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng chủ trương kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, trong đó, đấu tranh vũ trang giữ vai trò chủ yếu, quyết định, kết hợp đánh trước mặt với đánh sau lưng địch, kết hợp tác chiến với hinh vận, địch vận, tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược (nông thôn rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị).


Với chiến lược đánh lâu dài, những năm đầu kháng chiến, khi lực lượng vũ trang còn đang trong quá trình xây dựng, chủ trương của Đảng và Chính phủ ta là tránh những trận quyết chiến để giữ gìn lực lượng, đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp, sử dụng các hình thức chiến thuật phù hợp, mở các cuộc tập kích, phục kích, đánh nhỏ, đánh chớp nhoáng, giải quyết nhanh, giành thắng lợi trong từng trận. Trong giai đoạn đầu, phải triệt để dùng chiến tranh du kích, phối hợp chặt chẽ tác chiến của bộ đội địa phương, dân quân du kích với chiến tranh chính quy của bộ đội chủ lực...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #41 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2021, 02:05:29 pm »

Du kích chiến là hình thức chiến tranh của quần chúng nhân dân chiến đấu chống đội quân xâm lược được trang bị vũ khí và kỹ thuật mạnh hơn. Địch mạnh thì tránh, địch yếu thì đánh; khi đánh tiêu hao, khi đánh tiêu diệt, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và đấu tranh kinh tế; đâu có địch ở đó là mặt trận tiến công địch, không có mặt trận cố định. Trong cuộc chiến đấu này, phải tập trung binh lực nhằm chỗ yếu của đối phương mà tấn công, mà tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch; chủ động, linh hoạt, nhanh chóng, bí mật, đánh nhanh, giải quyết nhanh trong từng trận. Trong điều kiện tương quan về chiến lược chưa có lợi, thì cương quyết tập trung binh lực để thực hiện ưu thế trong chiến đấu ở một khu vực, một địa bàn, một địa điểm nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định; lấy những chiến thắng ở trong nhiều cuộc chiến đấu nhỏ, góp gió thành bão, tiêu hao dần lực lượng của đối phương, bồi dưỡng và mở rộng dần lực lượng vũ trang cách mạng.


Tư tưởng quân sự về du kích chiến trong hoàn cảnh Việt Nam là một đóng góp quan trọng vào kho tàng tư tưởng quân sự thế giới về chiến tranh du kích. Tuy hình thức chiến tranh du kích không phải mới xuất hiện trong lịch sử thế giới1 (Du kích chiến thường được gọi dưới tên quen thuộc hơn là chiến tranh du kích (Guerrilla Warfare), thường được hiểu như một hình thức chiến tranh phi chính quy, trong đó nhóm nhỏ các chiến binh vũ trang như dân thường hoặc chính quy sử dụng chiến thuật phục kích, phá hoại, với các cuộc tiến công nhỏ, đánh và chạy, di động liên tục để chống lại một kẻ địch có lực lượng lớn hơn. Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên từ thế kỷ XVIII, ở Tây Ban Nha, trong cuộc chiến tranh tiến hành do các lực lượng quân sự nhỏ của Tây Ban Nha chống lại quân đội của Napôlêông (Napoleon). Cuộc chiến này được gọi là Chiến tranh Bán đảo (Peninsular War). Thậm chí, hình thức chiến tranh du kích đã xuất hiện sớm hơn trong lịch sử từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Những nguyên tắc nhằm chống lại chiến tranh du kích được tổng hợp lại và được coi như một nghệ thuật quân sự chính thức vào những năm 1950-1960 (Xem thêm Thompson, Robert (1966), Defeating Communist Insurgency: The Lessons of Malaya and Vietnam (Đánh bại cuộc nổi dậy của Cộng sản: Bài học Malai và Việt Nam), Chatto & Windus, ISBN 0-7011- 1133-X). Về lý thuyết du kích có lẽ phải kể đến lý thuyết Foco (Focalism) của Che Guevara. Với lý thuyết này, du kích chiến đã phát triển lên thành một lý thuyết cách mạng, với mục tiêu dùng các nhóm vũ trang nhỏ hỗ trợ các nhóm chống đối thực dân tại các vùng nông thôn, vận động để có được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân, dần dần chuyển biến tình hình và đi đến tổng khời nghĩa. Lý thuyết Foco cho rằng không cần đợi đến khi các điều kiện khách quan đem đến sự ủng hộ của nhân dân thì mới tiến hành cách mạng, trái lại, chính việc tổ chức chiến tranh du kích theo học thuyết Foco sẽ dần dần tạo ra sự ủng hộ của nhân dân, chiếm lấy các vùng nông thôn, bao vây đô thị, bẻ gãy các cơ sở địa phương của lực lượng thực dân, tiến đến tổng khởi nghĩa. (Xem thêm: Ernesto Che Guevara: Guerrilla war, a Method, (Chiến tranh du kích, một phương pháp), 1963, xuất bản lại trong Obra revolucionaria, Ed. Era, Mexico, 1973. Bản dịch tiếng Anh có thể tìm trên website www.marxists.org)), nhưng ở Việt Nam, tư tưởng về du kích chiến có những nét đặc biệt, nhất là trên phương diện phối hợp tác chiến và lực lượng tác chiến. Cách thức tiến hành du kích chiến ở Việt Nam đã đào tạo ra một lực lượng quân đội bổ trợ kết hợp với quân đội chính quy. Trên ý nghĩa đó, du kích đối với nghệ thuật quân sự Việt Nam mang hai nghĩa chính để chỉ một hình thức chiến tranh, và cũng để chỉ một lực lượng quân sự nhất định. Tính linh hoạt trong phương pháp tác chiến tùy theo từng hoàn cảnh địa phương của du kích chiến khiến đối phương tổn thất rất lớn cả về sinh lực và tinh thần.


Trong các cuộc kháng chiến, Đảng ta đã phát động được chiến tranh du kích rộng khắp ở các vùng tạm thời bị địch chiếm đóng. Toàn dân vũ trang đứng dậy chiến đấu với hình thức du kích phân tán, nhưng theo một đường lối thống nhất, theo phương châm chỉ đạo thống nhất. Đảng ta chủ trương tổ chức những làng chiến đấu, “các làng ấy liên lạc với nhau trong từng vùng, thành những hệ thống kháng chiến, khác nào như những lưới bổ vây quân địch”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.301). Những làng xã chiến đấu xuất hiện trong kháng chiến chống Pháp, những hệ thống làng xã, thôn ấp, bản làng chiến đấu và hệ thống “vành đai du kích diệt Mỹ” ở khắp miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ được tổ chức chặt chẽ đã phát huy vai trò, tác dụng to lớn, phân tán và ghìm chặt một bộ phận sinh lực và vũ khí chiến tranh của địch.


Để mặt trận quân sự giành được thắng lợi, Đảng ta xác định phải xây dựng căn cứ địa vững chắc ở cả vùng rừng núi và đồng bằng. Muốn vậy, trước hết phải tăng cường việc vận động quần chúng, đào tạo cán bộ địa phương. Căn cứ địa phải là nơi có nhân dân tích cực, sẵn sàng ủng hộ bộ đội về mọi mặt; có một đội quân chủ lực sẵn sàng xung phong cản địch, giữ gìn căn cứ, bảo vệ cho các cơ quan lãnh đạo và nhân dân; có địa hình hiểm trở, “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”. Trong đó, quần chúng nhân dân tốt và quân chủ lực là hai điều kiện có tính quyết định, vì: “không có rừng núi mà có đội quân chủ lực tinh thần và có quần chúng đông đảo, giác ngộ, thì đó sẽ là rừng người, núi người che chở cho ta”1 (Trường Chinh: Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1983, tr.128).


Một nội dung quan trọng trong đường lối quân sự của Đảng đó là tư tưởng chiến lược tiến công. Đảng coi tư tưởng tiến công là cơ sở cho chiến lược cách mạng, chiến lược quân sự, của phương pháp cách mạng và phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân ở Việt Nam. Chiến lược tiến công tổng hợp trong tư tưởng chiến tranh nhân dân của Đảng xuất phát từ quan điểm đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch, phù hợp với tình hình tương quan lực lượng giữa phe cách mạng và phản cách mạng trong thế chiến lược tiến công của cách mạng quốc tế; đồng thời, quán triệt quan điểm chỉ đạo cách mạng luôn phải giữ vững quyền chủ động chiến lược. Phát huy mạnh mẽ quyền chủ động chính là biểu hiện cao nhất của tư tưởng chiến lược tiến công. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Giữ quyền chủ động là khôn khéo sử khiến quân thù, muốn đánh nó ở chỗ nào thì đưa nó đến đó mà đánh, muôn đưa nó vào bẫy của mình có thể đưa được. Nếu nó mạnh quá đánh không có lợi thì mình lùi, mình tự ý lùi cũng là giữ quyền chủ động, giữ được chủ động thì thế nào cũng thắng, không thắng to thì thắng nhỏ”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.473). Khả năng tiến công chủ động của lực lượng vũ trang cách mạng còn dựa trên thế trận chiến tranh nhân dân rộng lớn với nhiều lực lượng khác nhau, được tổ chức và không ngừng phát triển trên ba địa bàn chiến lược là nông thôn rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị. Thế trận đó lồng xen vào vùng địch kiểm soát, bao vây, uy hiếp, áp sát các trục lộ giao thông huyết mạch, các căn cứ quân sự - hậu cần, kỹ thuật của địch, cho phép ta giữ vững và đẩy mạnh tiến công địch bằng nghệ thuật tiến công tổng hợp cả về quân sự, chính trị, ngoại giao, khởi nghĩa và chiến tranh, trên cả ba vùng chiến lược trong một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, càng đánh, càng mạnh.


Công tác sản xuất, chế tạo, cải tiến vũ khí để đảm bảo khả năng tác chiến là đòi hỏi cấp bách, đặt ra cho lực lượng vũ trang trong những ngày đầu và trong suốt cuộc kháng chiến. Trong hoàn cảnh lúc đó, mặc dù trình độ khoa học - kỹ thuật còn thấp kém, máy móc và nguyên vật liệu còn. thiếu, song việc ta xây dựng được một số cơ sở sản xuất vũ khí thô sơ và nghiên cứu sản xuất được một số vũ khí thiết yếu là một thành công lớn. Nền công nghiệp quốc phòng non trẻ của Việt Nam đã hình thành và từng bước phát triển ngay trong kháng chiến. Nền quốc phòng non trẻ đó đã khắc phục những khó khăn, trở ngại về kinh nghiệm, đội ngũ, nỗ lực vươn lên, đảm bảo được một phần vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang, đặc biệt đã nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, cung cấp cho tiền tuyến một số loại vũ khí khá tinh xảo như các loại mìn, lựu đạn, súng không giật (SKZ), đại bác không giật (DKZ)... khiến cho quân địch hết sức bất ngờ, bị động.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #42 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2021, 02:06:51 pm »

2. Mặt trận chính trị

Trong các cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, chính trị là điểm mạnh căn bản của nhân dân Việt Nam và đó cũng là điểm yếu căn bản của đối phương. Cách mạng và chiến tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam là chính nghĩa, vì vậy chúng ta có ưu thế tuyệt đối về chính trị so với đối phương. Nhưng trong chiến tranh, đối phương luôn dùng mọi thủ đoạn chính trị để lừa bịp nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới cũng như nhân dân của chính nước họ, nhằm che giấu mục đích của cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới đang tiến hành. Có đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận chính trị, mới kịp thời đập tan được mọi luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, lừa gạt và chia rẽ của địch, mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết chiến đấu của toàn dân, làm cho hàng ngũ của đối phương ngày càng phân hoá, làm cho hệ thống chính quyền đối phương từ trung ương đến cơ sở bị phá vỡ, bị suy yếu, khiến cho đối phương ngày càng bị cô lập và suy yếu về chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh của ta trên mặt trận quân sự và các mặt đấu tranh khác. Đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận chính trị có thể làm thất bại những âm mưu chính trị của địch, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam giành quyền làm chủ ở cơ sở với mức độ khác nhau và góp phần ngăn chặn bàn tay tội ác của địch đối với nhân dân Việt Nam.


Nhân dân Việt Nam tiến hành chiến tranh để chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ nền độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Chiến tranh chính nghĩa của Việt Nam là sự nghiệp của toàn dân, toàn quân, có sự tham gia rộng lớn, chủ động, tích cực của nhân dân cả nước, được sự đồng tình ủng hộ, sự giúp đỡ quý báu của bạn bè, của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Trái lại, cùng với thời gian, âm mưu và hành động phi nghĩa của những kẻ xâm lược ngày càng bị phơi bày, bị phản đối ngay trong nước cũng như bị nhân dân tiến bộ trên thế giới lên án. Vì thế, đi đôi với đấu tranh trên mặt trận chính trị ở trong nước, chúng ta còn phải tiến hành đấu tranh chính trị trên trường quốc tế, nhằm làm cho dư luận thế giới, kể cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ, hiểu rõ lập trường chính nghĩa và những thắng lợi của nhân dân Việt Nam, vạch trần âm mưu, thủ đoạn và tính chất phi nghĩa của chiến tranh xâm lược mà giới lãnh đạo Pháp và Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam và Đông Dương.


Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng chỉ rõ: Trên mặt trận chính trị, phải tăng cường đoàn kết toàn dân, xây dựng và mở rộng khối liên minh công nông, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố chính quyền, củng cố bộ máy lãnh đạo và chỉ đạo kháng chiến, thống nhất quân - dân - chính toàn quốc; đồng thời, tăng cường đoàn kết quốc tế, xây dựng, củng cố và không ngừng tăng cường liên minh chiến lược giữa ba nước Đông Dương và Mặt trận nhân dân thế giới, cô lập kẻ thù. Cách mạng Việt Nam có đặc điểm là luôn phải đứng trước những kẻ thù lớn mạnh và nhiều khi phải đối phó với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc, do vậy, Đảng chủ trương đấu tranh chính trị phải trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, nhưng vận dụng một cách mềm dẻo, khôn khéo nhiều sách lược để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương, phân hoá, cô lập đối phương đến cao độ, làm suy yếu thế và lực của đối phương, tạo điều kiện đưa cách mạng tiến lên giành thắng lợi.


Tăng cường đoàn kết toàn dân tộc, bên cạnh việc đề ra đường lối quân sự độc lập, tự chủ, sáng tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, mẫu mực, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, Đảng chủ trương: “mọi hành động của đoàn thể phải nhằm vào mục đích thống nhất dân, được lòng dân, vì dân”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.178); “phải nghiên cứu tất cả những biện pháp để thực hiện triệt để chính sách đại đoàn kết”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.349-350); phải chú trọng đoàn kết với các đảng phái khác, phải bằng những hành động thiết thực để chỉ cho họ thấy được rằng: “chúng ta đặt quyền lợi dân tộc trên quyền lợi đảng phái, chúng ta thành thật đoàn kết với họ trong cuộc tranh thủ độc lập, thống nhất cho nước nhà”3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.351).


Để hoàn thành những nhiệm vụ của cuộc kháng chiến, Đảng còn xác định không chỉ phải đoàn kết toàn dân, mà còn phải đoàn kết, thống nhất trong Đảng: “Không có một Đảng thống nhất và mạnh mẽ không thể đương đầu với tình thế hiện tại được. Thống nhất... củng cố Đảng, phát triển Đảng thành một đảng quần chúng đủ oai quyền đầy đủ năng lực lãnh đạo là điều kiện cốt yếu để kháng chiến kiến quốc”4 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.164).


Chú trọng tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong các tầng lớp nhân dân, coi “Đoàn kết chiến đấu, luôn luôn đoàn kết và chiến đấu bất cứ là hình thức nào, đó là điều kiện sông còn của dân tộc Việt Nam chúng ta”5 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.419), suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nói chung, và thời kỳ kháng chiến nói riêng, Đảng đặc biệt quan tâm đến công tác dân vận (vận động công nhân, vận động nông dân, củng cố các đoàn thể, vận động giáo giới...) và công tác phát động thi đua ái quốc. Đảng chủ trương phải tận dụng mọi hoàn cảnh thuận tiện, các tổ chức công khai để lôi kéo tất cả các thành phần xã hội, không phân biệt tôn giáo, đảng phái; tuyên truyền, vận động, thu hút đông đảo nhân sĩ, trí thức, công nhân, nông dân, sinh viên... vào cuộc đấu tranh ở các thành phố và các vùng tạm bị địch kiểm soát; “phải đưa kế hoạch hoạt động cụ thể, làm thế nào tất cả mọi người, dầu ở địa vị nào, dầu ở trong trường hợp nào cũng có thế kháng chiến và ủng hộ kháng chiến bằng hình thức này hoặc hình thức khác”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.354). Tin vào lòng yêu nước tiềm tàng trong mỗi người dân Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương đẩy mạnh công tác binh vận, địch vận, xem đấy là một bộ phận quan trọng trong công tác vận động quần chúng. Trong suốt 30 năm chiến tranh, dưới khẩu hiệu "công - nông - binh liên hiệp", Đảng và Chính phủ đã thường xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhằm giác ngộ binh lính địch, lôi kéo họ về phía cách mạng. Đây là một mũi tiến công sắc bén trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, một vấn đề cơ bản trong công tác vận động cách mạng ở Việt Nam. Về vấn đề này, Bác Hồ đã viết: Đánh mà thắng địch là giỏi. Không đánh mà thắng địch lại càng giỏi hơn; và không đánh mà thắng địch là nhờ địch vận. Đó chính là cách đánh “tâm công” - đánh vào lòng địch ở thời Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã được vận dụng và phát triển lên một trình độ mới của phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời hiện đại.


Một khía cạnh khác của đấu tranh chính trị trong chiến tranh toàn diện là xây dựng và phát huy sức mạnh của chế độ mới, xây dựng hậu phương vững chắc. Đảng chủ trương tập trung xây dựng nhà nước cách mạng, nhằm chăm lo mọi phương diện, chuẩn bị tốt nhất cho cuộc kháng chiến, thực hiện “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, từng bước tiến hành những nhiệm vụ cách mạng ngay trong quá trình kháng chiến.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #43 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2021, 02:08:26 pm »

3. Mặt trận kinh tế

Đi đôi với chiến tranh trên mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, nhân dân Việt Nam còn phải đấu tranh với đối phương trên mặt trận kinh tế. Bước vào kháng chiến, nền kinh tế - tài chính của Việt Nam kiệt quệ, nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào bị chết. Vì vậy, từ ngày đầu thành lập Nhà nước, Đảng và Chính phủ đã xem nạn đói là một thứ “giặc” nguy hiểm. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc chỉ rõ: “Công việc cứu đói cũng như công việc đánh giặc”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.32). Đảng và Chính phủ lập tức đặt ra kế hoạch thực hiện công tác cứu tế, kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của các giới đồng bào, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, tổ chức “bữa cháo cầm hơi”... động viên thanh niên nam, nữ tổ chức thành các đoàn “cứu đói” và các “đội quân trừ giặc đói”, trồng trọt, khai khẩn, hay quyên góp cho các quỹ cứu tế, mua gạo nhà giàu bán cho nhà nghèo theo giá hạ, chở gạo chỗ thừa sang chỗ thiếu...


Đối phương phong toả, đánh phá vùng tự do, vùng căn cứ, hậụ phương, phá hoại kế hoạch hậu cần, tiếp tế... của ta. Do vậy, “ta phải đánh lại chúng cả về mặt kinh tế. Phải có kế hoạch kinh tế kháng chiến lâu dài. Xây dựng nền kinh tế kháng chiến, làm cho kinh tế của ta lấn dần kinh tế của địch”1 (Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Sđd, tr.40). Trong quá trình chiến tranh, Đảng ta đã phát động nhân dân các vùng địch kiểm soát liên tục đấu tranh kinh tế với địch, nhằm bảo vệ quyền lợi và cải thiện đời sống của mình, gây khó khăn cho địch cả về kinh tế và chính trị; phải liên tục đánh phá các cơ sở kinh tế của địch, đánh phá kho tàng, cơ xưởng, đánh phá đường giao thông vận chuyển, đập tan âm mưu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch, gây khó khăn cho chúng trong việc bảo đảm vật chất. Cùng với đó, Đảng chủ trương phối hợp chặt chẽ đấu tranh kinh tế với đấu tranh trên các mặt trận quân sự và chính trị, làm cho nền kinh tế địch bị rối loạn và ngày càng suy sụp, làm cho ngân sách chiến tranh của địch ngày càng tăng, nạn lạm phát ngày càng lớn, đồng bạc của chính quyền địch ngày càng sụt giá, dẫn đến gây cho đối phương nhiều khó khăn về quân sự, chính trị trên chiến trường Việt Nam và ngay ở chính quốc. Như vậy, kháng chiến toàn diện trên mặt trận kinh tế bao gồm hai mặt: Phải làm cho nền kinh tế kháng chiến không ngừng lớn mạnh và làm cho kinh tế đối phương không ngừng suy yếu.


Vì vậy cần phối hợp chặt chẽ đấu tranh kinh tế với các mặt đấu tranh khác, nhằm tạo nên hợp lực mạnh đánh thắng các kế hoạch chiến lược, đập tan các biện pháp đánh trả của địch. Trong suốt những năm tháng kháng chiến, quân, dân Việt Nam khắp nơi luôn quán triệt vừa chiến đấu, vừa xây dựng, vừa tiến hành chiến tranh, vừa đẩy mạnh sản xuất.


Trong chiến tranh, bên cạnh việc phát triển thắng lợi của chiến trường, yêu cầu mở rộng và củng cố hậu phương về mọi mặt luôn được đặt ra, trong đó cần hết sức chú trọng đẩy mạnh sản xuất, xây dựng và phát triển nền kinh tế kháng chiến. Mặt khác, kháng chiến trên mặt trận kinh tế còn là hoạt động tích cực phá hoại kinh tế của đối phương, không để đối phương thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Đi đôi với những thủ đoạn quân sự và chính trị, đối phương cũng dùng rất nhiều thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn tàn bạo nhất, để đánh phá hậu phương, vùng căn cứ, vùng giải phóng, nhằm phá hoại nền kinh tế để chúng ta không có đủ lực lượng kinh tế cho đánh lâu dài. Đối phương tiến hành các cuộc đánh phá được mệnh danh là “chiến tranh lúa gạo”, chiến tranh hoá học, chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân, đánh phá giao thông, cơ xưởng, đê điều, bắn giết trâu bò, bao vây kinh tế của ta... Để đập tan mọi thủ đoạn của đối phương, bảo vệ đời sống nhân dân, tiến hành chiến tranh, càng đánh càng mạnh, Đảng xác định, phải cải thiện đời sống cho nhân dân, bồi dưỡng sức dân, phải chăm lo xây dựng, phát triển nền kinh tế kháng chiến, thực hiện “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “thực túc thì binh cường”. Thực hiện nguyên tắc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam ra sức xây dựng nền kinh tế mới, thực hiện hậu phương thi đua với tiền tuyến, coi đây là một mặt trận gian khó không kém gì chiến trường. Ngay từ cuối năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Cuộc kháng chiến lâu dài của chúng ta được thắng lợi là do nơi chúng ta động viên kinh tế được thành công, vì chúng ta có biết động viên kinh tế một cách khôn khéo, thực lực của chúng ta mới được đầy đủ và bền bỉ”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.479). Kháng chiến trên mặt trận kinh tế, chính vì thế là nỗ lực cải thiện đời sống nhân dân, bồi dưỡng sức dân, nhằm động viên cao nhất tinh thần kháng chiến của quân và dân; là phát triển và bảo vệ nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu kháng chiến và kiến quốc.


Tóm lại, trên mặt trận kinh tế, suốt những năm chiến tranh, Đảng ta đề ra chủ trương, giải pháp xây dựng nền kinh tế kháng chiến và phá hoại kinh tế của đối phương; xây dựng nền kinh tế kháng chiến theo nguyên tắc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, kiến quốc để kháng chiến, tự cung, tự cấp về mọi mặt. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế kháng chiến, Đảng đặc biệt chú trọng phát triển nông nghiệp, vì Việt Nam vốn là nước nông nghiệp. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định:

   “Ruộng rẫy là chiến trường,
   Cuốc cày là vũ khí,
   Nhà nông là chiến sĩ,
   Hậu phương thi đua với tiền phương”
1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.178).


Trong kinh tế kháng chiến, việc phát triển kinh tế nông nghiệp có một tầm quan trọng đặc biệt. Đây không chỉ đơn thuần là sản xuất để cung cấp lương thực cho tiền tuyến, mà thực chất còn nhằm nhanh chóng cải thiện đời sống cho nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động, thực chất là xây dựng, củng cố hậu phương. Chính vì vậy, phải vừa diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm; vừa đánh giặc ngoài mặt trận, vừa thực hiện giảm tô, giảm tức, ban hành chính sách thuế nông nghiệp, tiến hành cải cách ruộng đất, động viên toàn dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, ra sức xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác, tăng thu, giảm chi, thực hành tiết kiệm, củng cố tiền tệ, giữ vững giá cả. Năm 1952, Đảng và Chính phủ phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Cùng với đẩy mạnh sản xuất, Đảng và Chính phủ còn chấn chỉnh lại chế độ thuế khoá, tài chính, xây dựng các ngành thương nghiệp, ngân hàng. Nhờ chính sách kinh tế, tài chính đúng đắn, Nhà nước căn bản thăng bằng được thu chi.


Để cải thiện đời sống nhân dân, Đảng đã từng bước thực hiện nhiệm vụ cách mạng ruộng đất. “Có cải cách ruộng đất, lần lần thủ tiêu những tàn tích bóc lột phong kiến mới mong cải thiện đời sống cho quần chúng nhân dân đông đảo, làm cho số rất đông nhân dân càng ngày càng thiết tha ủng hộ chế độ cộng hoà dân chủ và tích cực tham gia kháng chiến, chống đế quốc Pháp và bọn Việt gian”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.9, tr.199). Đặc biệt, đến năm 1953, khi cuộc kháng chiến bước vào thời kỳ quyết liệt nhất, Đảng chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Việc thực hiện chính sách ruộng đất đã từng bước đem lại quyền lợi cho nông dân. Qua việc giảm tô và thực hiện chính sách thuế nông nghiệp, chế độ bóc lột tô của giai cấp địa chủ đã bị hạn chế rất nhiều. Nhờ đó, tinh thần và lực lượng kháng chiến của hàng triệu nông dân được động viên mạnh mẽ, khối liên minh công nông được tăng cường, chính quyền nhân dân và Mặt trận Dân tộc thống nhất được củng cố, sức chiến đấu của quân đội nhân dân cũng được nâng cao, mọi mặt hoạt động kháng chiến đều được đẩy mạnh. Trên ý nghĩa ấy, có thể khẳng định rằng, cải cách ruộng đất năm 1953 đã góp phần quan trọng vào chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại. Thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến chính là một chủ trương đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Như vậy, theo chủ trương của Đảng, kháng chiến về mặt kinh tế chính là mọi hoạt động kinh tế đều phải đảm bảo cho mặt trận, cho bộ đội ăn no đánh thắng.


Đi đôi với việc xây dựng kinh tế, nhân dân Việt Nam đã tìm mọi cách bao vây kinh tế đối phương, làm cho đối phương bị thiệt hại nặng và thất bại trong việc thi hành chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #44 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2021, 02:10:31 pm »

4. Mặt trận văn hoá - tư tưởng

Thực hiện kháng chiến toàn diện, bên cạnh kháng chiến về quân sự, chính trị, kinh tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương “phải kháng chiến về mặt văn hoá nữa. Văn hoá cũng là một mặt trận đấu tranh của nhân dân Việt Nam”1 (Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Sđd, tr.41).


Đấu tranh trên mặt trận văn hoá - tư tưởng phối hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự, chính trị và các mặt đấu tranh khác đã tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần và vật chất to lớn cần thiết cho chiến tranh nhân dân. Hoạt động văn hoá - tư tưởng là một vũ khí hết sức lợi hại cho ta trong cuộc đấu tranh toàn diện với địch. Đẩy mạnh hoạt động trên mặt trận văn hoá - tư tưởng sẽ góp phần tăng cường ảnh hưởng của cách mạng, truyền bá được tư tưởng cách mạng, xây dựng được tình cảm cách mạng một cách sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Trong quá trình chiến tranh, đối phương cũng rất chú trọng tấn công ta trên mặt trận văn hoá - tư tưởng, tâm lý. Với các hoạt động chiến tranh tâm lý tinh vi, đối phương đã ra sức gieo rắc tâm lý cầu an dao động, tâm lý sợ địch, ngại chiến tranh lâu dài, gian khổ, nhằm ru ngủ tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân ta. Trên mặt trận này, nếu nhân dân Việt Nam lùi một bước thì đối phương sẽ tiến lên một bước, nếu lực lượng cách mạng bỏ trông trận địa, đối phương sẽ gây khó khăn, tạo tình huống phức tạp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh: “Chiến tranh về mặt văn hoá hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không kém quan trọng”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.319).


Nhiệm vụ của chúng ta trên mặt trận này là phải quét sạch mọi tàn tích nô lệ, ngu dân, phản động của thực dân để lại và xây dựng một nền văn hoá dân chủ mới đậm tính dân tộc, khoa học và đại chúng. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám (1945) và trong suốt cuộc kháng chiến, Đảng, Chính phủ Việt Nam đã tiến hành có kết quả nhiệm vụ xóa nạn mù chữ, bổ túc văn hóa, xây dựng đời sống mới, chủ động giáo dục, bồi đắp lòng yêu nước, yêu Tổ quốc, khơi dậy lòng căm thù đối với quân xâm lược cho quần chúng nhân dân. Mọi nội dung, hình thức hoạt động văn hoá do Đảng chỉ đạo thực hiện đều nhằm mục đích phục vụ kháng chiến và thể hiện tư tưởng: “Phải kháng chiến hóa văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến”. Trong bức thư bàn Về nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay (16-11-1946) gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng chí Trường Chinh xác định rõ: Tất cả các nhà văn hóa Việt Nam, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tôn giáo, phải tích cực tham gia Mặt trận dân tộc, giành thống nhất và độc lập cho Tổ quốc; phải đem hết năng lực ra cứu nước và xây dựng nước; phải đứng trên lập trường chung là dân tộc và dân chủ mà phụng sự Tổ quốc. Khẩu hiệu thiết thực của văn hóa Việt Nam lúc này là: Dân tộc và dân chủ. Khẩu hiệu căn bản của văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này vẫn là: Dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá. Nhiệm vụ cụ thể của văn hóa Việt Nam trong kháng chiến là phát triển tinh thần đoàn kết và yêu nước của dân tộc, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp dân tộc giải phóng; phát triển những cái hay, cái đẹp trong văn hóa cổ truyền của dân tộc, đồng thời bài trừ những cái xấu xa hủ bại; ngăn ngừa sức thâm nhập và tấn công của văn hóa phản động, văn hóa thực dân, học những cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới, nhất là văn hóa Tàu, Pháp; kiến thiết một nền văn hóa mới cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giáo dục nhân dân, gây dựng đời sống mới, phát triển tư tưởng khoa học và học thuật tiến bộ, phát triển văn nghệ đại chúng...


Khi đất nước bị xâm lăng, cả dân tộc Việt Nam phải đứng lên chiến đấu. Do vậy, tất cả hoạt động văn hoá lúc này đều nêu cao khẩu hiệu: Yêu nước và căm thù giặc. Văn hóa cách mạng phải có nhiệm vụ kích thích, bồi đắp, cổ vũ tinh thần chiến đấu, khơi dậy nhiệt huyết cách mạng của nhân dân, thôi thúc nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến.


Trong chiến tranh, một khi bản sắc văn hoá dân tộc, mà nội dung cơ bản là chủ nghĩa yêu nước được bảo tồn vững chắc; văn hoá giáo dục phát triển tích cực, lành mạnh; dân trí ngày một nâng cao; bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam được khẳng định vững vàng... thì sẽ tạo nên một sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn và những hoạt động văn hoá - tư tưởng sẽ trở thành một mũi tấn công lợi hại trong cuộc chiến đấu toàn diện của nhân dân ta với kẻ thù. Chính vì vậy, ngoài việc tập trung lãnh đạo các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, Đảng còn chú trọng chăm lo xây dựng, phát triển giáo dục, y tế và đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân.


Để thực hiện kháng chiến trên lĩnh vực văn hoá, Đảng xác định phải động viên và thống nhất mọi lực lượng văn hóa Việt Nam, hợp lại thành mặt trận thống nhất về văn hóa trên nền tảng dân tộc, dân chủ (bài trừ mọi sự chia rẽ và tản mạn trong giới văn hóa). Mặt trận văn hóa phải là một bộ phận khăng khít của Mặt trận Dân tộc thống nhất. Các nhà văn nghệ, giáo dục, các bậc trí thức phải tham gia kháng chiến, mở một mặt trận văn hoá đế tiến công địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. “Tổ quốc rất trông đợi nơi đác nhà văn hóa, tinh hoa của dân tộc Việt Nam”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.146). Nói về vai trò của những người làm văn hoá trong kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.131), bởi vì, “trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc". Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.156). Trong tiến trình của cuộc kháng chiến, trên mặt trận văn hoá, Đảng, Nhà nước ta luôn chú trọng phát triển và ngày càng thu được nhiều kết quả. Đó là thành tích trong phong trào vận động đời sống mới, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; chống nạn mù chữ, phát triển giáo dục, bài trừ văn hóa ngu dân, văn hóa xâm lược của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ; tổ chức vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân; văn nghệ sĩ tham gia và ủng hộ kháng chiến; tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa cổ truyền và văn hóa nước ngoài.


Xâm lược và đô hộ Việt Nam, Pháp sử dụng chính sách “ngu dân” đi đôi với tuyên truyền văn hoá nô dịch của chủ nghĩa thực dân trong cả gần thế kỷ. Đó là một trong những phương pháp dùng để cai trị nhân dân Việt Nam và nó đã để lại những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống xã hội Việt Nam. Hậu quả nặng nề nhất là hơn 90% dân số Việt Nam mù chữ. Trên nền dân trí thấp kém ấy, các tệ nạn, các hủ tục xã hội càng có điều kiện để phát triển. Vì vậy, Đảng đã coi nạn dốt là một thứ “giặc” nguy hiểm cần phải tiêu diệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Đảng ta cũng xác định nhiệm vụ về văn hoá trong kháng chiến là: “tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ, cổ động văn hoá cứu quốc, kiến thiết nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc: khoa học hoá, đại chúng hoá, dân tộc hoá”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.28), đồng thời, phát động chiến dịch chống nạn mù chữ. Nhiệm vụ giáo dục được xây dựng phù hợp với thời kỳ kháng chiến, nghĩa là chương trình học phải thiết thực, nhằm mục đích đào tạo nhân tài phục vụ cho kháng chiến trên tất cả các ngành: Y tế, canh nông, quân giới cũng nhừ thương mại, ngoại giao...; học sinh phải vừa học vừa tham gia sản xuất; tiếp tục phát triển bình dân học vụ; chú ý mở trường ở các vùng dân tộc thiểu số.


Đối với vấn đề tôn giáo, dân tộc, thực dân Pháp ra sức chia rẽ nhân dân Việt Nam, chia rẽ đồng bào bên lương với đồng bào bên giáo; chia rẽ người Việt ở miền Nam và người Việt ở miền Bắc; chia rẽ các dân tộc trong đất nước Việt Nam; chia rẽ người giàu với người nghèo... Do vậy, chủ trương của Đảng ta là phải làm cho nhân dân hiểu rõ mục đích cuộc kháng chiến là "cốt đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập và thống nhất cho nước nhà; mang tự do, hạnh phúc lại cho toàn dân. Của cải nhà giàu được coi trọng, đời sống người nghèo được cải thiện; cũng như các quyền tự do dân chủ khác, tự do tín ngưỡng được đảm bảo; đồng bào Trung, Nam, Bắc như một; các dân tộc lớn nhỏ ngang hàng...”1 (Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Sđd, tr.43-44). Với các đồng bào tôn giáo - tín đồ Cao đài, Hoà hảo và đặc biệt là đồng bào Công giáo - những phần tử mà đối phương chú trọng lôi kéo, Đảng ta chủ trương tuyên truyền, cổ động, kêu gọi họ quay về Tổ quốc, làm cho họ thấy chính sách đoàn kết của Nhà nước, làm cho họ thấy quyền lợi của họ được đảm bảo chắc chắn trong chế độ dân chủ. Đảng nhấn mạnh: “Chúng ta không bỏ qua cơ hội nào để thân thiện với đồng bào Công giáo, nâng cao tinh thần ái quốc, kháng chiến của họ. Trong giới Công giáo luôn nêu cao khẩu hiệu: vì Chúa, vì Tổ quốc, ủng hộ mặt trận kháng chiến, Chính phủ kháng chiến”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.352). Mặt trận Việt Minh và sau đó là Mặt trận Liên Việt chính là sự đoàn kết thống nhất hết sức rộng rãi, vượt ra ngoài phạm vi các đảng phái, tôn giáo, dân tộc - một sự thống nhất của toàn dân. Sự ra đời của Mặt trận Liên Việt đã đáp ứng đầy đủ nhất những yêu cầu trong xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi theo đường lối của Đảng. Đó là một mặt trận đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, trung lập mọi lực lượng có thể trung lập, phân hoá mọi lực lượng có thể phân hoá, để tập trung chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu nhất của cách mạng là bọn thực dân, đế quốc xâm lược. Mặt trận đó được xây dựng trên cơ sở công - nông liên minh và được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Cùng với những đóng góp hết sức ý nghĩa của mặt trận văn hoá, đường lối kháng chiến toàn diện của Đảng đã phát huy được sức mạnh tổng lực của chiến tranh nhân dân để tiến tới giành chiến thắng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #45 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2021, 02:11:33 pm »

5. Mặt trận ngoại giao

Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng đã khắng định rõ, mặt trận ngoại giao là một mặt trận kháng chiến có vị trí chiến lược quan trọng, nhằm động viên cao độ mọi lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa ủng hộ, giúp đỡ các cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, cục diện đan xen giữa “đánh” và “đàm” giúp làm chuyển biến cục diện chiến tranh, tiến tới kết thúc chiến tranh đúng thời cơ. Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao chính là sự phát huy cao độ sức mạnh chính trị của cuộc chiến tranh chính nghĩa, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, thêm bạn, bớt thù, phân hoá và cô lập kẻ thù. Trong quá trình tiến hành chiến tranh cách mạng, khi cần thiết và có điều kiện, có thể và cần đấu tranh ngoại giao thông qua đàm phán với đổi phương.


Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, đấu tranh ngoại giao, trong nhiều thời điểm phối hợp rất chặt chẽ, nhịp nhàng với đấu tranh trên mặt trận quân sự, chính trị để góp phần làm chuyển biến cục diện chiến tranh tiến tới giành thắng lợi. Hơn nữa, đấu tranh ngoại giao có một vai trò to lớn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Việt Nam và quốc tế. Một đường lối đối ngoại đúng đắn, phù hợp, sắc bén sẽ làm tăng thêm sức mạnh của các cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc đã chứng minh: đấu tranh ngoại giao là một mặt trận quan trọng, nhưng nó chỉ có thể tiến triển, thu được kết quả trên cơ sở những thắng lợi về quân sự và chính trị mà quân và dân Việt Nam giành được trên chiến trường. Chỉ khi xây dựng lực lượng chính trị và quân sự của ta ngày càng lớn mạnh, đánh cho đối phương thất bại nặng nề, làm cho lực lượng chính trị và quân sự của đối phương suy yếu nghiêm trọng, các âm mưu chiến lược liên tiếp bị phá sản, thì mới đè bẹp được ý chí xâm lược của đối phương, buộc đối phương đi đến ký kết ngoại giao, chấp nhận những điều kiện của nhân dân Việt Nam.


Có thể khẳng định rằng, đường lối kháng chiến toàn dân gắn liền với kháng chiến toàn diện là chiến lược đúng đắn của Đảng. Với chủ trương huy động toàn dân kháng chiến, dưới nhiều hình thức, ở những mức độ khác nhau, tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng địa bàn, Đảng và chính quyền các cấp đã có những chủ trương và giải pháp nhằm huy động rộng rãi sức mạnh toàn dân, toàn quân, tạo ra và nhân lên sức mạnh tổng hợp to lớn, đảm bảo cho sự nghiệp kháng chiến ngày càng phát triển. Kháng chiến toàn dân đi đôi với kháng chiến toàn diện là một trong những nhân tố nền tảng, mang ý nghĩa quyết định, làm nên những chiến thắng to lớn, toàn diện của quân và dân Việt Nam trong 30 năm chiến trạnh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc (1945-1954).


Khi cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược vừa bắt đầu, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đã không bỏ lỡ cơ hội lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng để tiến hành đàm phán với Chính phủ Pháp nhằm tranh thủ thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 25-11-1945 xác định: “Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ”. Phải đặc biệt chú ý những điều này: một là, thuật ngoại giao là làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết; hai là, muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.27). Hai nội dung này được tuân thủ chặt chẽ trong suốt tiến trình kháng chiến. Đảng ta đã hai lần tiến hành đấu tranh ngoại giao với thực dân Pháp xâm lược. Đợt một ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến (1945-1946). Khi đó, một mặt, Đảng ta tiến hành đấu tranh ngoại giao nhằm trì hoãn chiến tranh; mặt khác, để vạch trần âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp xâm lược, làm cho thế giới biết nhiều hơn về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, từ đó tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế cho kháng chiến của nhân dân ta. Đợt hai ở giai đoạn cuối cuộc kháng chiến, với mục đích kết thúc chiến tranh, bắt đầu từ năm 1953 - thời điểm cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đang trên thế phản công, tiến công mạnh mẽ, nhằm đánh thắng những nỗ lực chiến tranh cao nhất của đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Khi giới cầm quyền Pháp bộc lộ ý định thương lượng để giải quyết cuộc chiến tranh, Đảng và Chính phủ ta chủ trương mở đợt tấn công địch trên mặt trận ngoại giao, đồng thời chỉ đạo: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy, và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.46).


Trong đấu tranh ngoại giao, Đảng chỉ rõ: Nhân dân Việt Nam không phải chiến đấu với nước Pháp, nhân dân Pháp, mà chỉ đấu tranh chống bộ phận phản động thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Trên cơ sở xác định chính xác đối tượng chiến lược của kháng chiến là phản động thực dân Pháp, chính sách của Đảng đối với từng đối tượng người Pháp được xác định hết sức cụ thể. Đảng và Chính phủ Việt Nam đã đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, nhằm phân hóa nội bộ, cô lập đối phương, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, trong đó có sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ Pháp. Ngoài ra, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là một cuộc chiến tranh chính nghĩa, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; đồng thời, chúng ta càng đánh lại càng thắng lớn. Đó là những điều kiện quan trọng tạo nên sức mạnh cho những cuộc tiến công ngoại giao sắc bén của Đảng. Hoạt động đối ngoại của Đảng đã thực hiện triệt để phương châm “bớt thù thêm bạn, tranh thủ sự đồng tình của nhân dân thế giới và viện trợ của các nước”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.112). Sau này, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, khi nhắc đến việc ký kết Hiệp định 6-3-1946, Tạm ước 14-9-1946 và những chính sách đối với các lực lượng phản động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lại lời của Lênin: “Nếu có lợi cho cách mạng, thì dù phải thỏa hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thỏa hiệp”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.22). Đó cũng chính là một phương châm trong đấu tranh ngoại giao của nhân dân Việt Nam để thực hiện triệt đề mục tiêu của cách mạng. Bên cạnh đó, Chính phủ và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng tình đoàn kết hữu nghị, không ngừng xây dựng liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung với cách mạng và nhân dân hai nước Lào, Campuchia. Một cách tổng quát, Đảng đã đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn, linh hoạt, nâng đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến lên thành nghệ thuật - nghệ thuật giải quyết quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, quan hệ giữa các quốc gia trong cộng đồng thế giới. Khi lực đã mạnh, thế đã vững, khi có thời cơ, Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành đàm phán với Pháp tại Hội nghị Giơnevơ và sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, ta đã buộc phía Pháp phải ký kết hiệp định đình chiến. Nhờ có đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn, hợp lòng người và sách lược đấu tranh ngoại giao khôn khéo, mặt trận ngoại giao đã trở thành mũi tiến công lợi hại, góp phần tăng thêm sức mạnh của cuộc kháng chiến. Trong kháng chiến, sách lược xen kẽ giữa “vừa đánh, vừa đàm”, đánh là chủ yếu, đàm là kết hợp để tiến tới kết thúc chiến tranh đúng thời cơ là một sách lược quan trọng, được toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thực hiện một cách hiệu quả. Sự kết hợp ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao đã đạt bước phát triển cao, tạo nên sức tiến công tổng hợp mạnh mẽ đánh thắng giặc ngoại xâm.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #46 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2021, 02:11:55 pm »

Mặt trận ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước luôn là mặt trận có ý nghĩa chiến lược. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 1-1969 khẳng định: Đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động, có nhiệm vụ phát huy thế thắng và thế chủ động, tiến công để đối phương phải xuống thang chiến tranh. Qua các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Việt Nam đã không ngừng nêu cao tính chất chính nghĩa, vị trí quốc tế của cuộc kháng chiến, vạch trần tính phi nghĩa của cuộc chiến tranh mà Mỹ đang theo đuổi chống nhân dân Việt Nam. Trên mặt trận ngoại giao, chủ động tuyên truyền với thế giới về những thắng lợi của nhân dân Việt Nam, thất bại của Mỹ, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của bạn bè quốc tế được coi là nhiệm vụ hàng đầu. Hoạt động ngoại giao đã góp phần quan trọng trong việc hình thành, phát triển mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ, làm cho dư luận tiến bộ trên thế giới và dư luận tiến bộ Mỹ hiểu rõ, hiểu đúng về những gì nhà cầm quyền Mỹ đang gây ra trên chiến trường Việt Nam. Dựa trên và phát huy tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến, hoạt động ngoại giao của ta đã làm lay động lương tâm nhân loại tiến bộ cũng như dư luận Mỹ, thúc đẩý phong trào phản đối cuộc chiến tranh Mỹ tiến hành ở Việt Nam trên toàn thế giới, thúc đẩy phong trào phản chiến ngày càng phát triển rộng lớn và mạnh mẽ trong lòng nước Mỹ. Trong những năm 1967-1968, phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ bùng nổ và lan rộng chưa từng có. Đây thực sự là cuộc nổi giận của lương tâm người Mỹ. Có thể nói rằng, trong lịch sử thế giới, chưa có cuộc đấu tranh nào được sự ủng hộ rộng và mạnh của nhân dân thế giới, nhân dân nước đối phương như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam.


Kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị và quân sự trên chiến trường, đấu tranh ngoại giao đã tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến. Cục diện “vừa đánh, vừa đàm” trong suốt một thời gian dài thực sự là đỉnh cao của việc kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa chiến đấu của quân, dân Việt Nam trên chiến trường với đấu tranh trên bàn đàm phán và trên trường quốc tế. Thắng lợi của Hội nghị Pari năm 1973 là một minh chứng sống động cho sự kết hợp ấy. Trong suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao đã phát huy được thế thắng, thế chủ động, thế mạnh chính trị, thế mạnh quân sự của ta trên chiến trường; phát huy vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, góp phần không nhỏ vào việc triệt để lợi dụng mâu thuẫn nội bộ, bế tắc của đế quốc Mỹ và Chính quyền Sài Gòn để làm cho nội bộ nước Mỹ ngày càng chia rẽ trong vấn đề chiến tranh Việt Nam, khiến giới lãnh đạo Oasinhtơn bị nhân dân Mỹ phản ứng, chống đối, lâm vào thế lúng túng, bị động. Bằng những hoạt động hiệu quả, hoạt động ngoại giao của ta phối hợp với đòn tiến công quân sự, chính trị, buộc đế quốc Mỹ phải rút quân và chấp nhận giải pháp chính trị đáp ứng yêu cầu cơ bản của Chính phủ Việt Nam, góp phần đưa đến thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.


Nhìn chung lại, suốt 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện một cuộc chiến tranh toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc chiến đấu và chiến thắng những kẻ thù sừng sỏ, có sức mạnh vượt trội. Điều đó chứng tỏ nghệ thuật điều hành chiến tranh, chỉ đạo thực hiện chiến lược kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã được bổ sung, hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao, mang lại hiệu quả to lớn, tạo ra và nhân lên sức mạnh tổng hợp, đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #47 vào lúc: 15 Tháng Chín, 2021, 07:18:20 am »

III- TRÊN CƠ SỞ ĐÁNH LÂU DÀI, TRANH THỦ THỜI CƠ GIÀNH THẮNG LỢI TRONG MỘT THỜI GIAN TƯƠNG ĐỐI NGẮN


Nắm chắc quy luật chuyển hoá tương quan lực lượng giữa ta và địch, ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Đảng chủ trương “kháng chiến lâu dài” - Trường kỳ kháng chiến. Đây là phương châm chiến lược của chiến tranh nhân dân Việt Nam khi phải chiến đấu với kẻ thù có ưu thế vượt trội về tiềm lực kinh tế, quân sự. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện của toàn dân”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.164). Là những đội quân xâm lược, tiến hành chiến tranh phi nghĩa, lại thực hiện chiến tranh ở xa, đối phương luôn muốn đánh nhanh, thắng nhanh, nhằm phát huy lợi thế, giảm bớt những mặt yếu thế. Để làm thất bại mọi toan tính của đối phương, Việt Nam chủ trương đánh lâu dài. Đánh lâu dài làm cho chỗ yếu của đối phương ngày càng lộ rõ, chỗ mạnh ngày một bị hạn chế; ngược lại, chỗ yếu của quân và dân Việt Nam dần dần được khắc phục, chỗ mạnh ngày càng được phát huy, như Bác Hồ đã khái quát một cách ngắn gọn: “Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.485). Nói cách khác, đối phương muốn dùng cách đánh nhanh, thắng nhanh, nhưng nếu chiến tranh kéo dài, hao binh, tổn tướng, đối phương sẽ dễ bị thất bại. Vì vậy, nhân dân Việt Nam dùng chiến lược trường kỳ kháng chiến để phát triển lực lượng, vừa đánh vừa vũ trang, vừa đánh vừa bồi dưỡng sức dân, vừa đánh vừa rút kinh nghiệm, dần dần chuyển hoá so sánh lực lượng trong thành thế có lợi cho ta. Đánh lâu dài không những là yêu cầu, mà còn là con đường tất yếu để giành thắng lợi. Đây cũng là truyền thống quân sự của dân tộc Việt Nam - một dân tộc nhỏ bé, luôn phải chống chọi với những lực lượng ngoại xâm lớn mạnh hơn gấp bội về tiềm lực và sức mạnh kinh tế, quân sự.


Tư tưởng chiến lược kháng chiến trường kỳ là một nét nổi bật trong đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, được xây dựng dựa trên việc đánh giá đúng tình thế cách mạng, đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng và tranh thủ những thời cơ mới xuất hiện. Trong chỉ đạo chiến lược, điều khiển chiến tranh, điều quan trọng nhất là phải nắm bắt chính xác quá trình phát triển so sánh lực lượng đôi bên; tình thế cách mạng trong từng thời kỳ. Nếu như chỉ xem xét hoặc nhấn mạnh so sánh lực lượng quân sự theo quan điểm quân sự đơn thuần của chiến tranh thông thường, mà không thấy được trong chiến tranh cách mạng còn cần phải căn cứ vào tình thế cách mạng và lực lượng cách mạng, thì sẽ dẫn tới hữu khuynh, không dám tiến công khi địch chiếm ưu thế về quân sự và trang bị vũ khí... Mặt khác, nếu đánh giá quá cao lực lượng cách mạng và tình thế cách mạng, dễ dẫn tới chủ quan, duy ý chí, nôn nóng. Đặc biệt, so sánh lực lượng giữa ta và địch không thể chỉ đơn thuần nhìn vào lực lượng vật chất, mà phải so sánh lực lượng một cách toàn diện, thấy rõ những chỗ mạnh của địch chỉ là tạm thời, những chỗ yếu của chúng là căn bản và khó bề khắc phục. Về vấn đề này, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng, trong bài viết đăng ở Tạp chí Quân đội nhân dân, số tháng 3-1967, đã chỉ rõ: Chiến tranh nhân dân ở miền Nam là một cuộc tiến công toàn diện của cách mạng miền Nam vào nền tảng thống trị của bọn Mỹ và tay sai chứ không đơn thuần là một cuộc tiến công về quân sự. Sức mạnh của nó không đơn thuần là sức mạnh quân sự (nhất là trong thời kỳ đầu thì chủ yếu không phải là sức mạnh quân sự, mà là một sức mạnh tổng hợp mọi mặt về chính trị, về tinh thần, về thế và lực của cả nhân dân và đất nước...). Khi so sánh lực lượng, nói mạnh yếu là nói trong những điều kiện nhất định. Nhất là phải xem những lực lượng đó với hiệu lực thực tế (efficacité) trong hành động, trong cuộc đọ sức trực tiếp với nhau, mà trong hành động của con người (bao gồm cả ý chí, tài năng, mưu trí, sáng tạo), có tác dụng quyết định1 (Xem Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993). Xuất phát từ quan điểm đánh giá sức mạnh và so sánh lực lượng một cách khoa học, cách mạng như thế, Đảng đã đề ra chiến tranh và xác định phương châm chiến lược đánh lâu dài, thực hiện kháng chiến trường kỳ.


Kháng chiến trường kỳ trong tư duy của Đảng là phải trải qua một quá trình vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, thực hành tiến công địch cả về quân sự, chính trị bằng ba mũi giáp công, trên ba vùng chiến lược, tiêu diệt địch từng bộ phận, giành thắng lợi từng phần, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, tạo ra và nắm vững thời cơ, kịp thời hạ quyết tâm mở các cuộc tiến công chiến lược, làm xoay chuyển cục diện chiến trường, tạo điều kiện đưa sự nghiệp kháng chiến giành thắng lợi hoàn toàn. Đó chính là sự vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam. Ăngghen từng viết: Những làn sóng của chiến tranh nhân dân cùng với thời gian sẽ nghiền nát và tiêu huỷ một đội quân lớn nhất ra từng mảnh. Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam đã minh chứng cho luận điểm này và Đảng đã kế thừa, phát triển lên một trình độ mới. Đánh lâu dài, đánh thắng đối phương từng bước là một quy luật của chiến tranh nhân dân Việt Nam hiện đại - cuộc chiến tranh lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều.


Căn cứ vào tình hình phát triển cụ thể của so sánh lực lượng giữa cách mạng và chiến tranh cách mạng với chiến tranh xâm lược của kẻ thù mà Đảng đã xác định phương châm chiến lược đánh lâu dài. Đảng chỉ rõ rằng, chiến lược đánh lâu dài là một tất yếu khách quan. Do đó, mọi tư tưởng sốt ruột, chủ quan, nóng vội, muốn mau giành chiến thắng, hoặc bi quan, thiếu tin tưởng vào thắng lợi đều là sai lầm.


Kháng chiến trường kỳ là chủ trương phù hợp với điều kiện hiện thực của tương quan lực lượng so sánh đôi bên và đó cũng là giải pháp hiệu quả đối với âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của quân đội xâm lược. Nhân dân Việt Nam tiến hành kháng chiến trên chính đất nước mình - một cuộc kháng chiến mang tính chính nghĩa, được đông đảo nhân dân tiến bộ trên thế giới đồng tình, ủng hộ, và vì thế, tiến hành kháng chiến trường kỳ là lựa chọn hợp lý nhất. Trong khi đó, quân đội thực dân, đế quốc thực hiện cuộc chiến tranh phi nghĩa, lại ở một chiến trường xa nên càng kéo dài, khó khăn càng chồng chất, mâu thuẫn nội bộ càng bộc lộ rõ và trở nên gay gắt, dư luận tiến bộ trong nước cũng như trên thế giới sẽ phản đối mạnh mẽ và một kết cục thảm bại là không tránh khỏi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #48 vào lúc: 15 Tháng Chín, 2021, 07:18:53 am »

Quá trình đánh lâu dài là quá trình liên tục tiến công địch từ quy mô nhỏ đến lớn. Trong quá trình đó, ta phải biết phát huy đến mức cao nhất cố gắng chủ quan, tận dụng mọi điều kiện khách quan thuận lợi để tạo ra và lợi dụng những chỗ yếu, chỗ sơ hở của địch, chỉ đạo chiến lược chính xác và sắc bén, nhằm xác định phương hướng, mục tiêu đúng và chọn thời cơ có lợi, tập trung nỗ lực cao, giáng những đòn đau, hiểm vào quân địch, giành thắng lợi căn bản về quân sự. Ta cũng phải khéo kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị; tiến công quân sự với khởi nghĩa và nổi dậy của quần chúng; tiêu diệt địch để làm chủ trên cả ba vùng chiến lược, tạo những bước nhảy vọt quan trọng làm thay đổi thế và lực có lợi cho cách mạng, làm chuyển biến cả cục diện chiến tranh nghiêng về phía nhân dân Việt Nam. Nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài có nghĩa là phải thực sự quán triệt phương châm ấy vào mọi công tác tổ chức và tư tưởng của cuộc kháng chiến. Phải ra sức tranh thủ nhân dân, đánh bại mọi âm mưu giành dân, lấn đất của địch; vừa tiến công tiêu diệt lực lượng địch, vừa xây dựng và phát triển sức mạnh mọi mặt, ra sức mở rộng và củng cố hậu phương, căn cứ địa, thực hiện càng đánh càng mạnh về cả thế và lực. Cuộc trường kỳ kháng chiến thực chất là một cuộc “dân tộc cách mệnh đến trình độ tối cao”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.167) như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định.


Mức độ trường kỳ của kháng chiến tuỳ thuộc vào sự thay đổi trong so sánh lực lượng đôi bên, tuỳ thuộc vào sự chỉ đạo chiến tranh của hai bên đối chiến. Tiến dần từng bước đến phát triển nhảy vọt là quy luật phát triển của mọi quá trình vận động. Trong cuộc đấu tranh một mất một còn giữa ta và địch, quy luật đó lại càng biểu hiện rõ nét. Kinh nghiệm chiến tranh của dân tộc Việt Nam cho thấy, trong quá trình kháng chiến lâu dài, khi kháng chiến chuyển từ bước phát triển này sang bước phát triển khác, thường có những bước nhảy vọt về chất, hoặc do cố gắng của lực lượng vũ trang cách mạng, hoặc do sai lầm của đối phương, hoặc do tác động của những điều kiện khách quan thuận lợi, hoặc do tất cả những nhân tố nói trên tạo nên. Trong chiến tranh, nếu biết phát huy cao độ những cố gắng chủ quan, tận dụng mọi điều kiện khách quan thuận lợi, biết tạo ra và lợi dụng những chỗ yếu và sai lầm của địch, sáng tạo ra cách đánh thích hợp, có sự chỉ đạo chiến lược sắc bén, thì ta hoàn toàn có thể tạo ra những điều kiện tối ưu, để thực hiện những bước nhảy vọt quan trọng, giành thắng lợi quyết định. Tuy nhiên, từ bước nhảy vọt trước đến bước nhảy vọt sau luôn phải trải qua một quá trình phát triển dần từng bước, chứ không phải là những bước nhảy vọt liên tục. Khoảng cách giữa hai bước nhảy dài hay ngắn là tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau. Nếu trong quá trình đó, ta luôn nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh, tiếp tục phát huy cao độ cố gắng chủ quan, vừa đánh vừa tích cực giữ gìn và phát triển lực lượng, xây dựng thế chiến lược ngày càng có lợi, thì chắc chắn sẽ tạo được những điều kiện thuận lợi cho những bước nhảy vọt mới cao hơn, giành được thắng lợi quyết định sớm hơn. Cho nên, trong quá trình chỉ đạo chiến lược, Đảng luôn nhận thức rất rõ rằng, trên cơ sở đánh lâu dài, phải ra sức phát huy cao độ cố gắng về mọi mặt để tạo thời cơ, tranh thủ thời gian, giành thắng lợi ngày càng to lớn. Theo quan điểm của Đảng, chiến lược đánh lâu dài là không phải kéo dài vô thời hạn chiến tranh, mà phải nắm vững quy luật chuyển hoá, vận động trong mâu thuẫn, tạo và nắm thời cơ, vận dụng nhân tố thời gian một cách biện chứng, tranh thủ giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn, càng nhanh chóng kết thúc chiến tranh càng tốt. Về chiến lược, đối với toàn cục cuộc kháng chiến, cần có một thời gian tương đối dài để làm chuyển biến so sánh lực lượng, nhưng về hoạt động cụ thể, lại luôn phải tranh thủ thời gian đánh bại các chủ trương, biện pháp, chiến lược của đối phương, cần có quyết tâm cao đẩy mạnh các hoạt động quân sự, tạo những bước nhảy vọt, rút ngắn thời gian chiến đấu, thúc đẩy cuộc kháng chiến nhanh chóng đi tối thắng lợi cuối cùng. Trong tư tưởng chỉ đạo của Đảng đánh lâu dài và tranh thủ thời cơ, nỗ lực phấn đấu giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn để sớm kết thúc chiến tranh không có gì là mâu thuẫn. Đây là một trong những biểu hiện sinh động mối quan hệ giữa quy luật khách quan của cách mạng, của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng ở Việt Nam với hoạt động có ý thức của Đảng, của nhân dân Việt Nam trong khởi nghĩa và chiến tranh. Chiến lược đó là nhằm phát huy cao độ sự cố gắng chủ quan trên cơ sở hiểu và vận dụng đúng quy luật khách quan để giành thắng lợi cuối cùng. Thực tiễn chiến đấu và thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã chứng tỏ chiến lược đó của Đảng là hoàn toàn đúng đắn.


Một cách tổng quát, chiến lược đánh lâu dài đòi hỏi một sự chỉ đạo rất sáng suốt trong từng giai đoạn của chiến tranh. Kinh nghiệm thành công trong chỉ đạo chiến tranh cách mạng của Đảng cho thấy: Trên cơ sở đánh lâu dài, phải càng đánh càng mạnh; đánh thắng địch từng bước, đánh thắng từng kế hoạch chiến lược tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn; thực hiện triệt để mục tiêu cách mạng và mục đích chính trị của kháng chiến. Nhân dân Việt Nam chiến đấu với quyết tâm: Hễ còn một tên lính thực dân, đế quốc trên đất nước Việt Nam, thì còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi, như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #49 vào lúc: 15 Tháng Chín, 2021, 07:20:27 am »

1. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ba nghìn ngày đêm là một trong những cuộc chiến tranh dài ngày trong lịch sử những cuộc chiến tranh trên thế giới. Nhân dân Việt Nam áp dụng chiến lược đánh lâu dài để đối phó với âm mưu tốc chiến, tốc thắng của đối phương.


Trong văn kiện của Đảng, trong các bài viết, bài phát biểu của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thể hiện rất rõ chiến lược đánh lâu dài: “Theo tình hình bên Pháp và lòng tham của thực dân, chỉ có một cuộc chiến tranh toàn diện, lâu dài, gay gắt, khó khăn mới giải quyết được chủ quyền của Việt Nam”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.156). Chiến lược “trường kỳ kháng chiến” cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt một cách súc tích: “Địch âm mưu đánh chớp nhoáng. Chúng muốn đánh mau, thắng mau, giải quyết mau, thì Đảng và Chính phủ ta nêu lên khẩu hiệu: trường kỳ kháng chiến"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.23); đồng thời, chỉ rõ: “Chúng ta cũng phải luôn luôn nhớ rằng: giặc Pháp, so với ta, là một kẻ địch khá mạnh, chúng lại có Mỹ và Anh giúp.


Giặc Pháp là “vỏ quýt dày", ta phải có thời gian để mà mài “móng tay nhọn”, rồi mới xé toang xác chúng ra...”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.25).

Chủ trương kháng chiến lâu dài của Đảng xuất phát từ sự phân tích tương quan lực lượng giữa hai bên đối chiến. Những ngày đầu kháng chiến, cán cân lực lượng nghiêng hẳn về phía thực dân Pháp. Tuy bị kiệt quệ và lâm vào tình trạng suy yếu nghiêm trọng sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng quân đội Pháp vẫn là một đội quân nhà nghề, thiện chiến, được trang bị những vũ khí, phương tiện chiến tranh tối tân, hiện đại, với đội ngũ sĩ quan được đào tạo chính quy, có trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng. Từ năm 1950, thực dân Pháp lại được đế quốc Mỹ tích cực viện trợ về kỹ thuật và hậu cần. Do so sánh lực lượng ban đầu có lợi, nên thực dân Pháp ảo tưởng có thể sử dụng sức mạnh vật chất để đè bẹp cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và nhanh chóng kết thúc chiến tranh phi nghĩa của chúng.


Về phía Việt Nam, đất nước vừa giành được độc lập, tuy có ưu thế lớn về chính trị và tinh thần, nhưng “quân đội ta là quân đội thơ ấu. Tinh thần dũng cảm có thừa, nhưng thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu mọi mặt”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.24). Bên cạnh đó, nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam vốn đã lạc hậu nay lại bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng; công nghiệp chưa phát triển; đất nước nằm trong vòng vây của thực dân Pháp và các nước đế quốc... Trong điều kiện đó, nếu đem toàn lực mà dốc vào một số trận đánh, thì nhất định thất bại, đối phương sẽ chiến thắng. Lúc này, hơn bao giờ hết, chúng ta cần thời gian để làm chuyển hóa so sánh lực lượng thành có lợi cho ta, vì thế phải tiến hành kháng chiến trường kỳ, một “cuộc kháng chiến sẽ cực khổ, sẽ dai dẳng”, lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, quyết không để cho đối phương đánh nhanh, không để bị cuốn theo cuộc chiến tranh mà địch mong muốn. Có như vậy ta mới có thể tranh lại quyền độc lập, tự do cho dân tộc. Nhận thức rõ điểm khác biệt căn bản trong so sánh lực lượng giữa ta và địch, cho nên, ngay từ lúc đầu Đảng đã chỉ rõ: Muốn thắng nhanh thì nhất định đi đến thất bại và muốn tránh thất bại để giành lấy thắng lợi cuối cùng thì phải kháng chiến trường kỳ. Với phương châm đó, quân và dân Việt Nam ra sức giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng, kiên trì xây dựng căn cứ địa ở nông thôn, mở rộng chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch.    Quán triệt tinh thần đó, nên khi quân địch tạm thời chiếm ưu thế trên chiến trường, thì nhân dân Việt Nam vẫn vững tin ở thắng lợi ngày mai.


Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam trải qua ba giai đoạn: Trong giai đoạn đầu, đối phương mạnh, lực lượng cách mạng còn yếu, do vậy, nhiệm vụ căn bản là bảo toàn lực lượng, giữ vững căn cứ địa, tiêu hao một phần sinh lực địch để tạo điều kiện chuyển sang giai đoạn sau; ở giai đoạn thứ hai, lực lượng của ta dần dần lớn mạnh, lực lượng của địch dần suy yếu, tạo nên hình thái hai bên ở thế giằng co, lực lượng ta chuyển từ yếu sang mạnh và có đủ điều kiện để bước sang giai đoạn thứ ba; đến giai đoạn thứ ba, thế và lực của ta dần mạnh hơn địch, trước tiên là trong phạm vi cục bộ, sau đó là trong phạm vi toàn cục. Chúng ta chuyển sang phản công khi các điều kiện khách quan, chủ quan chín muồi, lúc đầu ở quy mô nhỏ, sau càng mở rộng, giành thế áp đảo và cuối cùng là tiêu diệt đối phương.


Như vậy, thực hiện phương châm kháng chiến trường kỳ, sau một thời gian chiến đấu để tiêu hao và ngăn chặn đối phương, quân đội nhân dân Việt Nam đã từ các thành thị chuyến về nông thôn, bảo toàn lực lượng, giữ vững căn cứ địa nông thôn, phát triển chiến tranh du kích. Sau khi cuộc tấn công của Pháp lên Việt Bắc (1947) thất bại, Đảng ta chủ trương phát động rộng rãi chiến tranh du kích; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Từ năm 1950 trở đi, Quân đội nhân dân Việt Nam liên tiếp mở những chiến dịch có tính chất phản công cục bộ, từng bước giành quyền chủ động trên chiến trường. Quá trình từ chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, chiến dịch Biên Giới cuối năm 1950, đến chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là những mốc lịch sử quyết định những chuyển biến chiến lược quan trọng, đánh dấu sự phát triển của cuộc kháng chiến đang trên đà đi đến thắng lợi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM