Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 10:03:29 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007  (Đọc 5485 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #100 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2022, 04:35:37 pm »

d) Hợp tác giữa các tỉnh kết nghĩa

Quan hệ giữa các tỉnh kết nghĩa không chỉ dừng lại ở 10 tỉnh có đường biên giới quốc gia với nhau mà còn mở rộng ra các tỉnh không có chung đường biên giới quốc gia như Thủ đô Hà Nội với Thủ đô Viêng Chăn, thành phố Hồ Chí Minh với Thủ đô Viêng Chăn, hay Chămpaxắc, Hải Dương với tỉnh Viêng Chăn... Thành quả của hợp tác giữa các địa phương kết nghĩa của hai nước trong giai đoạn 1986 - 1996 tuy khiêm tốn nhưng ý nghĩa đạt được thì vô cùng sâu sắc, vượt ra ngoài hiệu quả kinh tế.

Quan hệ hợp tác giữa các tỉnh kết nghĩa không chỉ đơn thuần là mối quan hệ có tính chất địa phương mà là một bộ phận quan trọng, góp phần thắt chặt mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Nhìn chung, trong giai đoạn này, quan hệ hợp tác giữa các tỉnh kết nghĩa được mở rộng trên nhiều mặt, đánh dấu sự chuyển biến về chất so với giai đoạn trước: từ viện trợ không hoàn lại sang việc cùng nhau đầu tư xây dựng các công trình và công việc được hạch toán. Vì thế, đã động viên khai thác có hiệu quả trí tuệ của mỗi cán bộ, chuyên gia, người lao động, thúc đẩy sản xuất, khai thác tiềm năng lao động, tiềm lực kinh tế của mỗi bên, thế mạnh và nội lực của mỗi địa phương, hạn chế những lãng phí không cần thiết.

Quan hệ hợp tác giữa các tỉnh kết nghĩa của hai nước thực chất là hợp tác toàn diện. Về chính trị, cùng với hoạt động của các địa phương kết nghĩa khác, tỉnh Điện Biên của Việt Nam và các tỉnh Bắc Lào đã cử nhiều đoàn đại biểu Đảng, chính quyền, đoàn thể tỉnh và các ngành, các cấp... duy trì các hoạt động đối ngoại chính thức hoặc trao đổi kinh nghiệm, thống nhất quan hệ hợp tác, giúp đỡ nhau trên các lĩnh vực. Công tác đối ngoại nhân dân được chú trọng đã tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, cùng vun đắp xây dựng mối quan hệ đoàn kết đặc biệt có chiều sâu, thêm bền chặt. Hai bên luôn quan tâm và tạo điều kiện cho thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên được tham gia các hoạt động giao lưu, trao đổi để lớp lớp thế hệ mai sau luôn giữ gìn, bảo vệ, phát triển tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, coi đó là quy luật tồn tại, phát triển của hai nước.

Về quốc phòng, an ninh, cũng như các địa phương có chung đường biên giới quốc gia với nhau, tỉnh Sơn La và các tỉnh Bắc Lào gồm Hủa Phăn, Uđômxay, Bò Kẹo, Luổng Nặm Thà, Luổng Phạbang, Phôngxalỳ, Xaynhabuli thường xuyên trao đổi công tác thông tin, phối hợp xử lý kịp thời những vụ việc phát sinh liên quan đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của mỗi bên. Hai bên duy trì đều đặn giao ban công tác biên giới, tổ chức tuần tra song phương và sửa chữa mốc giới trên tuyến biên giới giáp hai tỉnh Hủa Phăn và Luổng Phạbang. Xây dựng khu vực biên giới ổn định và phát triển bền vững, góp phần xây dựng biên giới hữu nghị Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Nhân dân vùng biên giới tỉnh Sơn La và các tỉnh Bắc Lào ngày càng tăng cường đoàn kết, thực hiện tốt quy chế biên giới, giúp đỡ nhau vượt mọi khó khăn để ổn định và phát triển.

Một nội dung ấn tượng khác trong hoạt động hợp tác giữa các tỉnh kết nghĩa, thắm đượm tình nghĩa Việt - Lào, Lào - Việt là việc quy tập hài cốt quân tình nguyện và các chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Lào. Trong ba năm (1994 - 1997), được sự giúp đỡ chu đáo của Chính phủ, các cấp chính quyền và nhân dân Lào và sự tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ của phía Việt Nam, 5.771 mộ liệt sĩ đã được phát hiện, ngoài 1.499 mộ chỉ còn di vật, đã đưa về nước 4.274 bộ hài cốt. Riêng mùa khô 1996 - 1997, đã phát hiện được 1.860 mộ và đưa về nước 1.407 hài cốt. Theo thoả thuận giữa hai nước tại Biên bản kỳ họp Ủy ban liên Chính phủ lần thứ 16 tại Viêng Chăn, 1994, nhiệm vụ này theo đó sẽ được kết thúc trong năm 1997, nhưng trên thực tế còn khoảng trên 9.000 ngôi mộ cần xác minh kết luận, nên chương trình này dự kiến còn phải kéo dài hợp tác thực hiện đến những năm về sau.

Về phía Lào, Đảng, chính quyền, quân đội và nhân dân các địa phương Lào đã phối hợp tổ chức trọng thể nhiều đợt lễ tiễn đưa hài cốt liệt sĩ trở về Việt Nam. Cùng nằm trong những hoạt động “Uống nước nhớ nguồn” trên, Lào đã triển khai kế hoạch xây dựng ba tượng đài “Tình đoàn kết chiến đấu Lào - Việt Nam” đầu tiên, đặt tại ba địa điểm là Mương Xài, Cánh đồng Chum (thuộc Bắc Lào) và Áttapư (thuộc Nam Lào) .

 Lĩnh vực hợp tác kinh tế giữa các địa phương kết nghĩa đã thu được những kết quả sâu rộng và thiết thực. Hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy lợi, qua đó tác động rõ rệt đến quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế - xã hội của Lào, nhất là các vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng cũ. Việc xây dựng các mô hình điển hình về nông nghiệp, trồng rừng, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc và thủy sản gắn với việc chuyển giao công nghệ đã đem lại những hiệu quả kinh tế thiết thực trong việc cùng nhau xóa nghèo, cải thiện đời sống và phát triển kinh tế. Hoạt động thương mại, đầu tư và du lịch cũng được đẩy mạnh, Lào đã giúp hàng hóa Việt Nam chiếm lĩnh thị trường Lào, từ đó còn mở rộng sang các thị trường nước thứ ba, trước hết là các nước trong tiểu vùng Mê Công, cũng như giải quyết việc làm cho lao động Việt Nam. Các tỉnh Việt Nam giúp Lào trao đổi và vận chuyển hàng hóa thiết yếu, đặc biệt là giúp kho bãi và đường ra biển. Các doanh nghiệp địa phương của Việt Nam đã bắt đầu chú ý đầu tư vào các ngành khai khoáng, thủy điện, công nghiệp chế biến gỗ, phân bón, dược phẩm, trồng cao su... kết hợp với việc đào tạo nhân lực cho Lào, theo hướng đáp ứng nhu cầu phát triển nội tại và hội nhập quốc tế của Lào.

Thành lập vào tháng 5 năm 1991, Trung tâm liên doanh Viêng Chăn - Hải Dương có trụ sở chính ở tỉnh Viêng Chăn, một chi nhánh tại Hải Dương và một văn phòng đại diện tại thành phố Vinh (Nghệ An). Trung tâm hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nên cán bộ, nhân viên của Trung tâm có 45 người, gồm 15 người Việt Nam và 30 người Lào. Trung tâm đang phấn đấu trở thành đơn vị vững mạnh về uy tín chính trị, giàu về kinh tế, tạo cơ sở niềm tin, giới thiệu cho các doanh nghiệp tại tỉnh Hải Dương các khả năng hợp tác sản xuất kinh doanh trên đất Lào.

Ở Bình - Trị - Thiên, từ Ban Hợp tác kinh tế - văn hóa với Lào và Campuchia và Công ty Hợp tác liên doanh miền núi được thành lập vào ngày 14 tháng 6 năm 1985, sau đổi thành Công ty Hợp tác lâm nghiệp Việt - Lào, các đơn vị này đã chủ động hợp tác với các tỉnh kết nghĩa của Lào là Xavẳnnakhệt, Khăm Muộn. Đáng chú ý là mục tiêu của Công ty được đặt ra rất thực tế: hai bên đều có lợi, hai bên đều mạnh lên. Qua ba năm hoạt động, từ chỗ chưa đầy 10 cán bộ, công nhân viên, Công ty đã có 400 cán bộ, công nhân viên với năm đơn vị trực thuộc.

Quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh còn để lại những dấu ấn hàng ngày trong lòng nhân dân hai nước. Sau cơn bão số 8 năm 1985, Đoàn đại biểu Đảng, chính quyền và đoàn thể tỉnh Khăm Muộn đã đến thăm tỉnh Bình - Trị - Thiên và ủng hộ lương thực, hàng hóa, trị giá 215.700 kíp, tỉnh Xavẳnnakhệt giúp 220 m3 gỗ và 10.000 cây tre . Đó thực sự là món quà sâu nặng nghĩa tình giữa Đảng bộ, chính quyền và nhân dân hai tỉnh kết nghĩa của Lào đối với Bình - Trị - Thiên.

Năm 1989, biết tình hình cơn bão số 9 đã gây thiệt hại một số nơi thuộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Tỉnh ủy và Ủy ban chính quyền Áttapư đã kịp thời gửi tặng nhân dân Gia Lai - Kon Tum 2.000 tấn thóc để cứu trợ cho những vùng bị thiên tai khắc phục hậu quả. Đó là những món quà sâu đậm nghĩa tình, thể hiện truyền thống đoàn kết gắn bó “hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” giữa nhân dân hai nước Lào và Việt Nam .

Đặc biệt, các địa phương kết nghĩa đều dành sự quan tâm lớn đến hợp tác giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, cũng như những hoạt động giao lưu văn hóa, thể dục thể thao.

Quan hệ hợp tác toàn diện và đa dạng giữa nhân dân các tỉnh kết nghĩa thực sự là nét mới của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đây không phải là mối quan hệ của một nước giàu đối với một nước nghèo, của một nước đã thành công với một nước mới tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mà ngược lại, đây là sự giúp đỡ lẫn nhau, nương tựa vào nhau của hai nước cùng hoàn cảnh vừa ra khỏi chiến tranh với hậu quả nặng nề của sự tàn phá khốc liệt. Đây là sự chia sẻ lẫn nhau những kinh nghiệm trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội với nhiều khó khăn, lúng túng. Đây là sự tương trợ lẫn nhau nhằm khắc phục tình trạng thiếu thốn từ cái ăn, cái mặc, đến cả những nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Và đây cũng là sự phối hợp trên mặt trận ngoại giao để cùng vượt qua những thách thức do các mối quan hệ khu vực và quốc tế tạo nên, hình thành môi trường quốc tế thuận lợi để hai nước cùng hỗ trợ nhau hội nhập và phát triển bền vững.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #101 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2022, 04:44:39 pm »

4. Tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam giai đoạn đẩy mạnh công cuộc đổi mới (1996 - 2007)

a) Yêu cầu mới của sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam

Từ năm 1996, cả hai nước Việt Nam và Lào đều bước vào thời kỳ đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước bằng việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Công cuộc xây dựng đất nước của cả hai nước Việt Nam và Lào trong thời kỳ này diễn ra trong một bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường.

Đặc điểm nổi bật của cục diện chính trị Đông Nam Á thời kỳ này là sự phát triển tích cực của các nỗ lực hợp tác và liên kết khu vực và bước đầu giành được những kết quả đáng khích lệ. Từ việc thành lập Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN với sự tham gia của các nước ASEAN và các nước hữu quan chủ chốt như Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, EU, Ôxtrâylia đến việc xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) 1 đã mở ra một giai đoạn mới trên lộ trình liên kết kinh tế khu vực.

Ngoài sự hình thành các tam giác tăng trưởng ở khu vực Đông Nam Á, từ năm 1992 tổ chức Tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS -  Greater Mekong Subregion) cũng được thành lập gồm sáu nước Campuchia, Lào, Mianma, Thái Lan, Việt Nam và tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. GMS rộng 2,6 triệu km2 với gần 300 triệu dân.

Với sự hỗ trợ của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) 2, sáu nước trong GMS đã khởi động chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng để đẩy mạnh quan hệ kinh tế dựa trên nền văn hoá và lịch sử chung. Chương trình bao gồm bảy lĩnh vực ưu tiên: giao thông vận tải, điện lực, viễn thông, môi trường, phát triển nguồn nhân lực, mậu dịch, đầu tư và du lịch.

Chương trình GMS xây dựng chiến lược ba mũi nhọn để đạt được tầm nhìn về một tiểu vùng thịnh vượng, hội nhập và đoàn kết. Nghĩa là: tăng cường tính kết nối, nâng cao tính cạnh tranh và xây dựng tính cộng đồng. Sự xuất hiện của chương trình hợp tác tiểu vùng Mê Công mở rộng tạo điều kiện rất thuận lợi cho Việt Nam và Lào mở rộng quan hệ và hợp tác phát triển kinh tế với các quốc gia trong khu vực.
Thuận lợi cơ bản nhất đối với việc củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào là hai nước có nhiều lợi ích chiến lược và thể chế xã hội tương đồng. Công cuộc xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam và Lào đều đặt dưới sự lãnh đạo của các chính đảng mácxít. Do vậy nhu cầu đoàn kết, phối hợp hành động quốc tế và hợp tác toàn diện trong tình hình mới đòi hỏi cả hai nước cần tăng cường củng cố và phát triển quan hệ với nhau. Quan hệ Việt Nam - Lào thời kỳ này vận động trong điều kiện hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển đang trở thành xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế, là đòi hỏi bức xúc của mọi quốc gia dân tộc. Phát triển kinh tế trở thành ưu tiên hàng đầu của mọi quốc gia và xu hướng bình thường hoá, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế diễn ra phổ biến. Như vậy, tăng cường củng cố và phát triển quan hệ Việt Nam - Lào không chỉ đáp ứng lợi ích của hai nước mà còn phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và khu vực.

Với hoạt động đối ngoại tích cực và năng động, Việt Nam và Lào đã khai thác được những nhân tố thuận lợi của tình hình chính trị quốc tế, phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, cải thiện và nâng cao vị thế của hai nước trên trường quốc tế. Đặc biệt là từ sau khi hai nước Việt Nam và Lào tham gia vào cộng đồng các quốc gia ASEAN, Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam và Lào tham gia vào AFTA, GMS... đã tạo lập được một môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung và phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng.

Trong bối cảnh chung của khu vực, việc đẩy nhanh quá trình tự do thương mại với AFTA và APEC đã tạo điều kiện thuận lợi nhất định cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và Lào. Một khi AFTA đi vào hoạt động, sự phân công lao động quốc tế trong nội bộ các nước ASEAN sẽ được đẩy mạnh. Theo đó, Việt Nam và Lào sẽ tập trung sản xuất và xuất khẩu một số mặt hàng có thế mạnh, vì vậy hai nước có khả năng thu hút được nguồn vốn đầu tư từ nhiều nước vào các ngành, các lĩnh vực mà hai nước có lợi thế so sánh so với các nước ASEAN khác. Mặt khác, sự tăng cường quan hệ Việt Nam - Lào góp phần củng cố và đẩy nhanh xu thế hợp tác khu vực, đóng góp vào sự ổn định khu vực, nâng cao vị thế của ASEAN trên trường quốc tế.

Cùng với những tác động tích cực, các biến động của tình hình thế giới thời kỳ này cũng có những ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội và quan hệ Việt Nam - Lào. Tuy nhiên, nhân tố tác động có ý nghĩa quyết định đến quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào là tình hữu nghị truyền thống, mối quan hệ đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước đã trải qua thử thách và đang giành được những thắng lợi to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước.

Tại Việt Nam, sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhất là sau năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6 năm 1996) khẳng định, Việt Nam đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng Việt Nam thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đại hội chủ trương kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm; đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, vì hoà bình, độc lập và phát triển, tạo môi trường quốc tế thuận lợi. Mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Coi trọng và tiếp tục phát huy những quan hệ truyền thống. Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng, các nước trong tổ chức ASEAN...

Tuy nhiên, là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng đứng trước hàng loạt những khó khăn thách thức, đó là phải đối diện với bốn nguy cơ, trong đó nguy cơ lớn nhất là thách thức của sự tụt hậu về trình độ phát triển. Trong điều kiện cơ sở vật chất, tiềm lực kinh tế còn hạn chế, năng lực khoa học - công nghệ còn thấp, trình độ quản lý còn yếu kém, sự hiểu biết và kinh nghiệm hợp tác với nước ngoài còn ít, những thách thức về cạnh tranh trong kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà Việt Nam phải đối diện ngày càng khốc liệt.

Là một nước kiên trì mục tiêu xã hội chủ nghĩa, Việt Nam tiếp tục là mục tiêu chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bằng “diễn biến hoà bình” với những âm mưu ngày càng nham hiểm và xảo quyệt.

Vì vậy, muốn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, toàn Đảng, toàn dân Việt Nam phải vượt qua khó khăn, phát huy nội lực, từng bước nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong đó có sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào.

Tại Lào, đến năm 1996, việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã thu được nhiều kết quả mới, đất nước có chuyển biến tích cực trên nhiều mặt. Điểm nổi bật là việc ban hành Hiến pháp đầu tiên của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từ năm 1993 đến 2000. Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân được củng cố, ổn định vững chắc, trật tự trị an xã hội về cơ bản được giữ vững; kinh tế - xã hội phát triển rõ rệt, kinh tế quốc dân liên tục phát triển với tốc độ khá cao (bình quân 6,4%/năm). Chủ trương chuyển nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hóa, lấy hộ gia đình làm xuất phát điểm và là đơn vị chủ yếu được thực hiện nghiêm túc và bước đầu đem lại hiệu quả rõ rệt. Bước đầu đã có những yếu tố phát triển công nghiệp năng lượng, khai khoáng, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, đáp ứng thị trường trong nước và xuất khẩu. “Đạt được những thành quả đó là do Lào đã xây dựng được kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội dài hạn và ngắn hạn, tích cực điều chỉnh cơ cấu và chính sách phù hợp với kinh tế thị trường. Quan hệ quốc tế được mở rộng nhiều mặt với mức độ khác nhau, uy tín và địa vị của Lào trong khu vực và trên trường quốc tế ngày càng được đề cao. Chúng ta vui mừng thấy rằng mối quan hệ hữu nghị đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào - Việt Nam không ngừng được tăng cường theo hướng thiết thực và hiệu quả, phù hợp với công cuộc đổi mới của mỗi nước và đặc điểm của tình hình quốc tế” .

Tuy nhiên, kinh tế - xã hội cũng còn nhiều khó khăn, đặc biệt là an ninh chính trị và an toàn xã hội. Các thế lực thù địch tiếp tục thông qua viện trợ, hợp tác, tổ chức tôn giáo và các lực lượng lưu vong... tranh thủ lôi kéo cán bộ, sinh viên nhằm làm chuyển hướng đi của cách mạng Lào. Các lực lượng phản động người Lào đẩy mạnh hoạt động tình báo, cho lực lượng xâm nhập nội địa Lào dưới nhiều hình thức để nắm tình hình, hoạt động gây rối, nhất là trong thời gian diễn ra Đại hội VI Đảng Nhân dân cách mạng Lào.

Đặc biệt, từ năm 1997, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực, tình hình kinh tế Lào đã có diễn biến không lành mạnh. Tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng chậm lại và giảm dần (năm 1998 chỉ tăng 5,6%). Đáng chú ý là xuất khẩu, đầu tư trực tiếp và vay nợ, viện trợ nước ngoài giảm mạnh. Cán cân thanh toán quốc tế bội chi lớn và tỷ giá hối đoái biến động không bình thường (ba năm tăng 10 lần).

Ngân sách bội chi tới 11 - 12% so với GDP, đặc biệt lạm phát phi mã đã có xu hướng tăng cao, không kiềm chế được đã làm cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài hoạt động khó khăn, nhiều doanh nghiệp thua lỗ nặng, các nhà đầu tư nản lòng. Tình trạng mua vét ngoại tệ để thanh toán khá phổ biến, ngoại tệ chảy ra bên ngoài ngày càng nhiều. Các công trình đầu tư kém hiệu quả, người hưởng lương gặp khó khăn. Ngân hàng thương mại thiếu tiền mặt, dư nợ quá hạn cao đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ .
 
Trong bối cảnh đó, tháng 3 năm 1996, Đảng Nhân dân cách mạng Lào tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đại hội khẳng định nhân dân các bộ tộc Lào có đầy đủ khả năng xây dựng đất nước phồn vinh, tiến bộ; đồng thời xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa đất nước Lào thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Đại hội cũng xác định mục tiêu của năm năm trước mắt (1996 - 2000): phấn đấu đưa nền kinh tế phát triển liên tục ở mức độ cao (8 - 8,5%/năm). Phát triển nông thôn toàn diện, xây dựng một số công trình cơ bản làm tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Về công tác đối ngoại, Đảng và Nhà nước Lào tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, tăng cường quan hệ ngoại giao hoà bình, hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, bình đẳng, hai bên cùng có lợi, góp phần cùng các dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong giai đoạn này, Đảng Nhân dân cách mạng Lào chủ trương đổi mới chính sách đối ngoại nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam và Campuchia, phối hợp với nhau để cải tiến hình thức và phương thức hợp tác cho ngày càng phù hợp và có hiệu quả hơn, vì lợi ích chung cũng như lợi ích của mỗi bên cả trước mắt và lâu dài.

Đảng và Nhà nước Lào cũng chủ trương làm hết sức mình để vun đắp mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Trung Quốc và các nước anh em trên thế giới. Tiếp tục thực hiện chính sách cũng tồn tại hoà bình trên tình nghĩa láng giềng trước sau như một với Vương quốc Thái Lan và các nước trong khu vực.

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, khoá VI (tháng 9 năm 1996) đã làm rõ thêm về chính sách đối ngoại. Nâng cao ý thức độc lập, tự chủ và tự hào dân tộc hơn nữa để chủ động trong quan hệ hợp tác và tranh thủ viện trợ của nước ngoài trên cơ sở vững vàng trong chiến lược, mềm dẻo linh hoạt trong sách lược, thực hiện phương châm tăng bạn bớt thù, mở rộng quan hệ hợp tác với bên ngoài theo hướng quan hệ đa phương, nhiều mức độ nhưng có trọng tâm, có quan điểm bạn, thù rõ ràng, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại chính trị, ngoại giao với kinh tế nhằm tạo ra môi trường thuận lợi và thời cơ cho công cuộc phát triển đất nước.

Với chính sách đối ngoại rộng mở như vậy, đến đầu năm 1996, Lào đã có quan hệ với gần 100 nước, có hơn 30 nước đầu tư trực tiếp vào Lào, trong đó đáng chú ý là Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ, Malaixia.

Mặc dù vậy, quan hệ với Việt Nam vẫn được Đảng và Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào xác định là mối quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển và thắng lợi của cách mạng mỗi nước. Tuy nhiên, so với tiềm năng, thế mạnh và yêu cầu phát triển của mỗi nước thì hợp tác về kinh tế và văn hoá vẫn là khâu yếu nhất, cơ chế, chính sách còn thiếu đồng bộ và chưa hợp lý, do vậy việc mở rộng đầu tư trực tiếp, liên doanh tại Lào còn chậm và hiệu quả thấp. Vì vậy, trong bối cảnh mới càng đòi hỏi hai bên nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và phát huy nội lực của mỗi nước, tăng cường hơn nữa sự hợp tác toàn diện, ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn.




-------------------------------------------------------------------
1. AFTA (ASEAN Free Trade Area) là Hiệp định thương mại tự do đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0 - 5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hoà hoá các thủ tục hải quan giữa các nước.

Mục đích cơ bản của AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT - Common Effective Preferential Tariff). Việt Nam tham gia AFTA từ năm 1996.

2. Năm 1992, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đã viện trợ cho chương trình 280 triệu USD dành cho các dự án được ưu tiên và viện trợ kỹ thuật cho công tác nghiên cứu và các chương trình dự án thúc đẩy việc phát triển về tư vấn dự án.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #102 vào lúc: 10 Tháng Giêng, 2022, 04:52:35 pm »

b) Hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam giai đoạn 1996 - 2007

* Hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam  trong lĩnh vực chính trị, đối ngoại

Quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong lĩnh vực chính trị ngày càng được tăng cường. Từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị đã trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Biên bản thoả thuận giữa hai Bộ Chính trị là văn kiện quan trọng quyết định những phương hướng lớn của quan hệ và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong từng thời kỳ và hàng năm.

Mở đầu cho thời kỳ 1996 - 2007 là cuộc gặp cấp cao giữa hai Đảng vào tháng 1 năm 1996 tại Viêng Chăn. Hai bên đã thống nhất những định hướng lớn cho sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000. Trên cơ sở đó, ngày 14 tháng 1 năm 1996, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000 và kế hoạch hợp tác năm 1996. Hai bên cũng đã ký Hiệp định bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần; Nghị định thư thực hiện Hiệp định vận tải đường bộ giữa hai Chính phủ. Đầu tháng 1 năm 1997, đoàn cán bộ cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã tiến hành hội đàm, trao đổi và nhất trí cao nhiều vấn đề quan trọng trong quan hệ giữa hai Đảng và hai nước. Hai bên đánh giá cao kết quả hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trong năm 1996; đồng thời cũng xác định những mặt yếu kém và các nguyên nhân của nó.

Trên cơ sở những tiềm năng, thế mạnh và yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, hai bên đã thống nhất phương hướng hợp tác trong năm 1997 với những nội dung cơ bản sau:

Tăng cường hợp tác về chính trị, duy trì cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị, tăng cường hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại, hai Bộ Ngoại giao, nhất là khi hai nước cùng tham gia ASEAN và AFTA; tăng cường phối hợp chống vận chuyển ma tuý qua biên giới; tăng cường hợp tác giữa các tỉnh có chung biên giới, cho phép mở chợ đường biên, khuyến khích trao đổi hàng hoá, giao lưu buôn bán, hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng; hai bên thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật theo hướng lựa chọn các công trình, dự án phù hợp với khả năng và điều kiện của mỗi nước.

Về đầu tư, hai Bộ Chính trị nhất trí yêu cầu hai Chính phủ cần có một số giải pháp mạnh mẽ thúc đẩy đầu tư của Việt Nam vào Lào bằng các hình thức: hai nước liên doanh cùng góp vốn; Việt Nam đầu tư 100% vốn; Việt Nam đấu thầu xây dựng kết cấu hạ tầng bằng vốn của Lào hoặc vốn của nước thứ ba. Coi đây là vấn đề trọng điểm của hợp tác Việt Nam - Lào trong năm 1997 và những năm tiếp theo .

Bộ Chính trị hai Đảng cũng nhất trí giao cho Chính phủ và Uỷ ban Hợp tác hai nước phối hợp nghiên cứu và sớm ban hành các cơ chế, chính sách về: vay vốn ưu đãi, miễn giảm thuế, hỗ trợ chi phí nghiên cứu cho một số dự án... nhằm tạo môi trường pháp lý và động lực thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp hai nước.

Phía Việt Nam tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho Lào sử dụng các tuyến đường ra biển và cảng biển của Việt Nam. Hai bên sẽ nghiên cứu xây dựng tuyến đường ra cảng Vũng Áng và đường ống dẫn dầu thuận lợi nhất.

Việt Nam tiếp tục giúp Lào đào tạo và bồi dưỡng cán bộ theo khả năng của mình. Ngoài việc đào tạo cán bộ có trình độ đại học và trên đại học ở các trường đại học Việt Nam, Việt Nam sẽ giúp Lào bồi dưỡng ngắn hạn nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ chính trị, cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ đoàn thể ở Việt Nam hoặc ở Lào. Đào tạo có hệ thống để hình thành khung cán bộ đồng bộ cho các ngành của Lào. Việt Nam sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của Lào về chuyên gia, tiếp tục khuyến khích hợp tác giữa hai bên về lao động.

Hai Bộ Chính trị cũng đã thống nhất chủ trương tăng cường bộ phận thường trực Phân ban Hợp tác Việt Nam - Lào.

Trong năm 1997, nhiều đoàn cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước và các ban, ngành trung ương và địa phương hai nước đã thăm viếng, trao đổi, giới thiệu những kinh nghiệm quý báu của mỗi bên trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, tạo bầu không khí hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau, mở ra nhiều hướng hợp tác mới với nội dung phong phú, giúp nhau giải quyết những vấn đề thiết thực trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Tháng 6 năm 1997, đồng chí Nủhắc Phumxavẳn, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào thăm Việt Nam; tháng 8 năm 1997, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào...

Năm 1997, Việt Nam và Lào đã long trọng kỷ niệm hai sự kiện lớn có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai nước, đó là: 20 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào và 35 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

Mặc dù bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - tài chính và thiên tai, nhưng sự nghiệp đổi mới đất nước của Việt Nam và Lào tiếp tục giành được những thành tựu quan trọng. Quan hệ Việt Nam - Lào có bước phát triển mới, thoả thuận của hai Bộ Chính trị (tại Viêng Chăn, tháng 3 năm 1998) được tích cực triển khai và kết quả tốt hơn các năm trước trên tất cả các lĩnh vực.

Tháng 1 năm 1999, hai Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào hội đàm tại Hà Nội. Hai bên thống nhất: “Trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế, quan hệ Việt Nam - Lào tiếp tục phát triển trên cơ sở nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ và phát huy cao nhất nội lực của mỗi nước, hợp tác bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào với thông lệ quốc tế, ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho hai nước khắc phục hậu quả của khủng hoảng kinh tế - tài chính, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, từng bước hội nhập khu vực và quốc tế” .

Hai bên chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác về chính trị, duy trì cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị; tăng cường hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại, Bộ Ngoại giao phối hợp hành động trong quan hệ với ASEAN, AFTA (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN), ARF (Diễn đàn khu vực ASEAN).

Hai bên thống nhất khẩn trương xây dựng định hướng chiến lược hợp tác đến năm 2020 và chương trình hợp tác từ năm 2001 đến 2010. Tiếp tục hợp tác toàn diện, tập trung ưu tiên cho các lĩnh vực quan trọng, có hiệu quả cao, trước hết tập trung cho lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ lợi để từng bước giúp Lào giải quyết vấn đề an ninh lương thực. Chính phủ hai nước cần có cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư mạnh mẽ giữa hai nước, coi đây là trọng điểm hợp tác Việt Nam - Lào trong năm 1999 và những năm tiếp theo.

Tại cuộc gặp giữa hai Bộ Chính trị diễn ra hồi tháng 1 năm 2000 tại Viêng Chăn, hai bên nhất trí đánh giá cao kết quả thực hiện thoả thuận tháng 1 năm 1999. Mặc dù bị tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á và thiên tai nặng nề, công cuộc đổi mới của cả hai nước vẫn giành được những thành tựu quan trọng, tạo điều kiện cho quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào ngày càng được củng cố và phát triển. Trong năm 1999, các cuộc gặp gỡ truyền thống giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào lên một bước mới.

Về phương hướng hợp tác năm 2000, hai bên khẳng định: “Tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản dày công vun đắp và trải qua thử thách lâu dài 70 năm qua, là tài sản quý báu của hai dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của nhân dân hai nước. Ngày nay, trước thềm của thiên niên kỷ mới, mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị đặc biệt đó lại càng cần phải được củng cố và tăng cường hơn nữa để truyền tiếp cho muôn đời con cháu mai sau” .

Hai bên khẳng định tiếp tục thực hiện có hiệu quả tuyên bố chung Việt Nam - Lào tháng 3 năm 1998, tháng 1 năm 1999 và các thoả thuận của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước, trong đó có thoả thuận của hai Phân ban Hợp tác Việt Nam - Lào tại Cửa Lò. Hai bên phối hợp tổng kết bước đầu về quan hệ 70 năm qua, phối hợp tổng kết và biên soạn tài liệu về truyền thống quan hệ Việt Nam - Lào.

Nhìn chung, quan hệ chính trị Việt Nam - Lào trong năm năm (1996 - 2000) đã diễn ra sôi động với nội dung phong phú và quy mô lớn hơn các năm trước. Hai bên đã thoả thuận được những chủ trương, biện pháp tăng cường quan hệ và nâng cao hiệu quả hợp tác; khẳng định và khai thông những vấn đề còn tồn đọng và ký kết được nhiều văn kiện quan trọng qua các cuộc gặp gỡ truyền thống hàng năm giữa hai Bộ Chính trị và các chuyến thăm, làm việc của các đoàn cấp cao Đảng và Nhà nước hai nước. Kết quả này ngày càng khẳng định mối quan hệ đặc biệt, toàn diện có ý nghĩa chiến lược giữa hai nước và củng cố tình đoàn kết, gắn bó, tin tưởng lẫn nhau; mở ra nhiều nội dung phong phú, giải quyết kịp thời được nhiều vấn đề thiết thực, mang lại những hiệu quả cao trong quan hệ hợp tác giữa hai nước và tạo nên bầu không khí hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau, đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác đặc biệt giữa hai nước, tạo tiền đề cho phát triển hợp tác giai đoạn sau.

Cuộc gặp giữa hai Bộ Chính trị tháng 2 năm 2001 mở đầu cho thời kỳ mới 2001 - 2005 được tiến hành tại Hà Nội. Hai Bộ Chính trị thống nhất định hướng chiến lược hợp tác thời kỳ 2001 - 2010 và chương trình hợp tác năm năm 2001 - 2005. Hai bên cho rằng: “Dù trong hoàn cảnh nào cũng cần tiếp tục thực hiện những phương hướng và nguyên tắc lớn mà hai Bộ Chính trị đã thoả thuận nhằm củng cố và phát triển sâu rộng hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai Nhà nước”... .

Hai bên chủ trương tiếp tục hoàn thành các dự án đã thoả thuận: dự án bảo đảm an ninh lương thực của Lào; dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội toàn quốc Lào đến năm 2020; dự án lập bản đồ biên giới quốc gia Việt Nam - Lào. Tiếp tục mở rộng hợp tác toàn diện, dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau; phối hợp, tiến tới hoà mạng trên các lĩnh vực giao thông, điện lực, xăng dầu, bưu chính viễn thông và du lịch.
Sử dụng tập trung và có hiệu quả hơn nguồn viện trợ phát triển và hợp tác giữa hai nước; tập trung vào việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và những công trình trọng điểm có ý nghĩa chiến lược đối với nền kinh tế của Lào và những công trình thể hiện quan hệ đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào. Hai bên tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách, đẩy mạnh đầu tư liên doanh sản xuất phù hợp với điều kiện, khả năng, thế mạnh của mỗi nước. Trước mắt tập trung vào những sản phẩm có thị trường tiêu thụ và sử dụng nguyên liệu tại chỗ; mở rộng hoạt động thương mại trên cơ sở đã được hai bên thỏa thuận trong hiệp định thương mại.

Thời kỳ 2001 - 2005 và đến 2007, những cuộc gặp cấp cao giữa hai Đảng (Bộ Chính trị) được duy trì thường xuyên vào đầu năm, tiếp sau đó là các cuộc gặp của các đoàn Nhà nước và các bộ, ban, ngành và các địa phương, đơn vị hai bên Việt - Lào. Trung bình mỗi năm có khoảng hơn 200 đoàn ở tất cả các cấp của hai bên qua lại trao đổi, thăm viếng lẫn nhau, tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, góp phần củng cố khối đoàn kết, hữu nghị giữa hai Đảng, hai Nhà nước và hai dân tộc.

Đặc biệt là trong cuộc thăm chính thức Lào của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh tháng 7 năm 2001, hai bên đã ra Tuyên bố chung - một văn kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ Việt Nam - Lào khi bước vào thế kỷ XXI. Trong lần viếng thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Bun Nhăng Volachít, tháng 7 năm 2001, hai bên đã ký Hiệp định tín dụng xây dựng đường 18B và Thỏa thuận về quy chế sử dụng cảng Vũng Áng. Trong chuyến viếng thăm chính thức Việt Nam của Chủ tịch nước Khăm Tày Xiphănđon, tháng 5 năm 2002, hai bên ký nhiều thỏa thuận hợp tác trong các lĩnh vực như nông nghiệp, năng lượng, giáo dục và đào tạo trên cơ sở định hướng chiến lược hợp tác giữa Việt Nam và Lào giai đoạn 2001 - 2010.

Từ thực tế của sự phát triển kinh tế - xã hội mỗi nước với những tác động của bối cảnh khu vực và quốc tế, tại cuộc hội đàm tháng 1 năm 2006, hai Bộ Chính trị đã thống nhất định hướng chương trình, kế hoạch hợp tác Việt Nam - Lào giai đoạn 2006 - 2010. Tư tưởng chỉ đạo trong chương trình hợp tác giai đoạn 2006 - 2010 là: tiếp tục phát huy mối quan hệ truyền thống tốt đẹp, có hiệu quả trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác kinh tế với chính trị, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Lấy mục tiêu chính trị làm cơ sở để xem xét hiệu quả của các hoạt động hợp tác kinh tế, trên cơ sở phát huy và duy trì các kết quả hợp tác đã đạt được; sử dụng tốt tiềm năng, thế mạnh và bảo đảm sự phát triển bền vững môi trường sinh thái của mỗi nước; nâng cao hiệu quả và tăng cường ảnh hưởng thông qua hợp tác kinh tế; đồng thời có cơ chế hỗ trợ thông thoáng, tạo sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư, thương mại trên thị trường hai bên.

Thông qua các cuộc thăm chính thức của lãnh đạo cấp cao hai nước, nhiều vấn đề cụ thể của chiến lược hợp tác 2001 - 2010 và kế hoạch hợp tác Việt Nam - Lào giai đoạn 2006 - 2010 đã được thống nhất. Đó là: chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Chummaly Xaynhaxỏn, tháng 10 năm 2006; chuyến thăm hữu nghị chính thức Lào của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh, tháng 10 năm 2006; chuyến thăm chính thức Lào của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tháng 12 năm 2006; các chuyến viếng thăm chính thức Lào của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (tháng 2 năm 2007) và của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (tháng 6 năm 2007).

Trong các cuộc viếng thăm của các đoàn cấp cao, hai bên đã tiến hành trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong nhiều lĩnh vực về lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, về quản lý nhà nước, xây dựng đảng, về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực là rất cần thiết và đem lại hiệu quả thiết thực cho cả hai bên, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của cả hai dân tộc.

Hai bên nhất trí phối hợp nghiên cứu, biên soạn công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam giai đoạn 1930 - 2007 nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm, phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào lên một tầm cao mới.

Lĩnh vực hợp tác về đối ngoại từ sau năm 1996 tiếp tục được tăng cường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đem lại nhiều kết quả khả quan. Trong bối cảnh quốc tế mới, Việt Nam và Lào đẩy mạnh triển khai đường lối độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trong chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại Việt Nam và Lào đều tiếp tục hết sức coi trọng quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, cam kết quyết tâm giữ gìn và không ngừng phát triển truyền thống quý báu đó như một quy luật phát triển và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước . Hợp tác trong lĩnh vực đối ngoại được thể hiện trên phạm vi quốc gia và giữa hai Ban Đối ngoại, hai Bộ Ngoại giao, ngoài ra còn có quan hệ giữa các địa phương, trong đó các tổ chức chính trị, xã hội giữ một vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường các mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước.

Hợp tác đối ngoại Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2007 bao gồm những nội dung sau:

Trao đổi thông tin được tiến hành thường xuyên, đặc biệt là trong các cuộc gặp gỡ, nhất là các cuộc gặp cấp cao giữa hai Đảng và hai Nhà nước và các cuộc gặp của hai Ban Đối ngoại, hai Bộ Ngoại giao. Trong các cuộc gặp gỡ, hai bên thông báo cho nhau về tình hình nước mình, về các vấn đề quốc tế và khu vực mà hai bên đều quan tâm; trao đổi ý kiến, quan điểm về các vấn đề bức xúc như: khủng hoảng kinh tế - tài chính 1997 - 1999, tình hình Trung Đông, tình hình Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương. Đặc biệt là từ khi hai bên quyết định thực hiện trao đổi thông tin (Tuyên bố chung Việt Nam - Lào trong chuyến thăm chính thức Lào, tháng 7 năm 2001 của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh) và kênh giao lưu giữa hai Bộ Ngoại giao được thiết lập (năm 2003) thì việc trao đổi thông tin giữa hai bên ngày càng được tăng cường và có hiệu quả.

Phối hợp tại các diễn đàn quốc tế và khu vực: Việt Nam và Lào đều là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực, đặc biệt là từ sau khi Việt Nam và Lào tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Việt Nam năm 1995 và Lào năm 1997) 1.

Nội dung hợp tác cụ thể giữa Việt Nam và Lào trong các tổ chức và diễn đàn bao gồm: trao đổi thông tin, trao đổi đánh giá tình hình về các vấn đề liên quan; phối hợp lập trường, quan điểm, đặc biệt là những vấn đề có tính nguyên tắc và nhạy cảm như Hiệp ước chống khủng bố, cải tổ Liên hợp quốc, tình hình bán đảo Triều Tiên, các nguyên tắc của ASEAN, vấn đề dân chủ, nhân quyền, sử dụng nguồn nước sông Mê Công, vận chuyển hàng hoá và người qua biên giới; trao đổi kinh nghiệm về tổ chức hội nghị quốc tế, vận động ODA; ủng hộ Lào trong việc xây dựng dự án và vận động tài trợ trong hợp tác tiểu vùng...

Hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại, hai Bộ Ngoại giao: trong thời kỳ 1996 - 2007, hợp tác giữa hai Ban Đối ngoại, hai Bộ Ngoại giao ngày càng được tăng cường với những nội dung và hình thức mới. Đó là các hiệp định hợp tác dài hạn, tổ chức giao lưu luân phiên giữa hai Ban Đối ngoại và hai Bộ Ngoại giao, các thỏa thuận hợp tác giữa các đơn vị thuộc Ban Đối ngoại và Bộ Ngoại giao hai nước. Hai bên giúp đỡ nhau tổ chức thành công nhiều hội nghị và diễn đàn lớn trong khu vực như: hỗ trợ Lào tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10 tại Viêng Chăn (năm 2004), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (năm 2005) tại Viêng Chăn.

Hai bên phối hợp trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác đối ngoại. Việc Việt Nam giúp Lào đào tạo cán bộ đối ngoại đã được tiến hành từ lâu. Đặc biệt từ năm 1997 đến nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Học viện Quan hệ quốc tế của Việt Nam đã mở nhiều lớp đào tạo cán bộ cho Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bộ Ngoại giao Lào. Từ năm 1997 đến 2007, Học viện Quan hệ quốc tế Việt Nam đào tạo cho Lào 169 cán bộ bậc đại học, tám học viên cao học chuyên ngành ngoại giao.

Trong quan hệ đối ngoại Việt Nam - Lào, việc hợp tác đối ngoại nhân dân giữa hai bên cũng được đặc biệt chú trọng và có những bước phát triển mới, góp phần quan trọng vào việc củng cố và phát triển mối quan hệ đặc biệt, thủy chung, trong sáng Việt Nam - Lào. Trong kết quả chung đó phải kể đến sự đóng góp to lớn của Liên hiệp Các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Hữu nghị Việt Nam - Lào, Hội Hữu nghị Lào - Việt Nam.

Trong thời kỳ 1996 - 2007, các hội hữu nghị hai nước đã tích cực giới thiệu, giúp đỡ doanh nghiệp hai nước xúc tiến hợp tác kinh tế, thương mại giữa hai bên, trợ giúp các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Lào. Phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ chức những đoàn du lịch thăm chiến trường xưa, du lịch tìm cơ hội hợp tác kinh doanh. Các địa phương biên giới giúp nhau kỹ thuật sản xuất, hỗ trợ cây, con giống, duy trì an ninh biên giới. Các hoạt động hữu nghị được tổ chức với quy mô và mức độ ngày càng cao, nổi bật là Liên hoan hữu nghị nhân dân biên giới hai nước năm 2002; Kỷ niệm 30 năm Quốc khánh Lào tại Việt Nam; các hoạt động Kỷ niệm 30 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào và 45 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao trong năm 2007 diễn ra tại hai nước; Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam - Lào là một hình thức giao lưu hữu nghị nhân dân rất thiết thực và hiệu quả đối với việc củng cố quan hệ hữu nghị và hợp tác nhân dân Việt Nam - Lào.




-----------------------------------------------------------------
1. Liên hợp quốc (UN), Hội đồng kinh tế - xã hội châu Á - Thái Bình Dương (ESCAD), Phong trào Không liên kết (NAM), Tổ chức Cộng đồng Pháp ngữ, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Uỷ ban Mê Công (MRC), Tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam (CLV), Hợp tác Campuchia - Lào - Việt Nam với Nhật Bản (CLV+J), Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), Tổ chức chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mê Công (ACMECS), Hợp tác Campuchia - Lào - Mianma - Việt Nam (CLMV), Hợp tác sông Mê Công - sông Hằng (MGC).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #103 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2022, 04:56:42 pm »

* Hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh

Đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh luôn luôn là một trong hai nhiệm vụ chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6 năm 1996) chỉ rõ: trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ. Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế. Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ trong tình hình mới. Phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại.

Đại hội lần thứ VI Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tháng 3 năm 1996) cũng tiếp tục khẳng định: để làm nòng cốt cho sự nghiệp quốc phòng toàn dân phải chú trọng xây dựng và củng cố quân đội nhân dân về mọi mặt..., coi trọng hơn nữa việc xây dựng thế trận quốc phòng nhân dân ở cơ sở, gắn với việc phát triển nông thôn toàn diện, kết hợp chặt chẽ công tác quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội.

Từ những quan điểm chỉ đạo trên, trong các cuộc gặp hai Bộ Chính trị hàng năm, vấn đề hợp tác về quốc phòng, an ninh giữa hai nước luôn luôn được đặt ở vị trí thứ hai (chỉ sau lĩnh vực hợp tác về chính trị). Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của việc hợp tác về quốc phòng, an ninh trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào.

Đối với lĩnh vực quốc phòng, sự hợp tác trước hết được thực hiện thông qua các cuộc gặp cấp cao. Trên cơ sở định hướng của thỏa thuận giữa hai Bộ Chính trị về quốc phòng, an ninh, hai Bộ Quốc phòng Việt Nam và Lào tiến hành các cuộc gặp trao đổi, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau về xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chuyên môn. Hàng năm, Việt Nam đều cử chuyên gia sang giúp Bộ Quốc phòng Lào. Các quân khu 2, 4, 5 cử chuyên gia sang giúp các sư đoàn, tỉnh đội các tỉnh của Lào. Từ năm 2001 đến 2006, Việt Nam đã cử 167 chuyên gia quân sự sang giúp Lào xây dựng các kế hoạch và lập phương án tác chiến. Các quân khu, các tỉnh có chung biên giới thì xúc tiến chương trình hợp tác, trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ lẫn nhau về xây dựng thế trận cụm chiến đấu liên hoàn và củng cố các lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương để đẩy mạnh sản xuất, kết hợp với bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Việt Nam trực tiếp phối hợp nghiên cứu, hướng dẫn nghiệp vụ về kinh tế - quốc phòng, thúc đẩy hợp tác trên tất cả các mặt với quân đội nhân dân Lào như: góp vốn cho các công ty liên doanh Lào - Việt; xây dựng mô hình hợp tác kinh tế - quốc phòng theo hướng chỉ đạo của hai nước; tạo thuận lợi cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng cũng như các trang thiết bị, phương tiện quân sự qua lại biên giới; phối hợp và hợp tác chặt chẽ trong việc vận tải quá cảnh giữa hai nước, đặc biệt là vấn đề mua sắm hàng hoá, vật tư, trang thiết bị kỹ thuật, vũ khí, khí tài quân sự sau khi được Chính phủ hai nước cho phép . Năm 2004, hai Bộ Quốc phòng Việt Nam và Lào phối hợp xây dựng dự án phát triển kinh tế - quốc phòng tại huyện Viêng Thoong (tỉnh Bolikhămxay). Công ty 32 Bộ Quốc phòng Việt Nam viện trợ không hoàn lại cho Bộ Quốc phòng Lào 599.177 USD để nâng cấp Nhà máy Sản xuất giày dép Thà Ngòn (Viêng Chăn); Công ty 85 Quân khu 4 thực hiện các dự án trồng rừng, khai khoáng phục vụ nhiệm vụ kinh tế và quốc phòng; Quân khu 5 (Việt Nam) xây dựng hệ thống thoát nước và nâng cấp đường bộ từ biên giới Việt Nam đến bản Nặm Tạc (tỉnh Bolikhămxay)...

Một trong những nội dung hợp tác về quốc phòng giữa hai nước là sự giúp đỡ về phương tiện hậu cần kỹ thuật. Năm 2002, Việt Nam giúp xây dựng một hội trường cho Sư đoàn 4, tỉnh Xavẳnnakhệt (trị giá 160.000 USD)... Năm 2003, Việt Nam viện trợ cho Lào một số bản đồ, trang thiết bị quân sự; giúp Lào xây dựng Trường Hạ sĩ quan cho sáu tỉnh Bắc Lào (trị giá 13,5 tỷ VNĐ). Năm 2004, Việt Nam viện trợ cho Lào 120 tấn xăng, nhiều trang thiết bị quân sự (mạng thông tin, điện thoại, máy phát điện, thiết bị phục vụ các học viện, nhà trường). Giúp sửa chữa vũ khí, phương tiện kỹ thuật: Việt Nam và Lào đã phối hợp xây dựng Xưởng sửa chữa cơ khí ôtô Lào - Việt tại Lào, trị giá 400.000 USD, vốn do hai bên góp chung. Năm 2005, giúp xây dựng bệnh xá 30 giường cho Sư đoàn 5, giúp 600 tấn xăng phục vụ huấn luyện máy bay, 10 xe ôtô GAT... Trong hai năm 2006 và 2007, Bộ Quốc phòng Việt Nam hỗ trợ thiết bị quân sự cho Lào trị giá gần 50 tỷ VNĐ.

Về đào tạo cán bộ, ngoài chương trình đào tạo dài hạn, Bộ Quốc phòng Việt Nam còn thường xuyên tổ chức các lớp học ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đơn vị của quân đội Lào. Từ năm 2000 đến 2005, Việt Nam nhận đào tạo dài hạn cán bộ cho quân đội Lào gồm hơn 600 người .

Việc tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trên đất Lào cũng được hai bên quan tâm, tích cực phối hợp và đạt được kết quả tốt, đặc biệt là sự giúp đỡ to lớn của chính quyền và nhân dân các địa phương trên đất Lào. Tính đến hết năm 2007 đã tìm kiếm và đưa về Việt Nam hơn 12.000 hài cốt liệt sĩ.

Điểm nổi bật trong việc hợp tác về an ninh là hợp tác chống lại các lực lượng phản động lưu vong đang tìm cách chống phá cách mạng Lào và Việt Nam. Điển hình là trong những năm 2002 - 2003, một số phần tử phản động trong nước Lào được các thế lực thù địch bên ngoài hỗ trợ đã gây ra một vài vụ nổ, phục kích ở một số địa phương như: đánh cửa khẩu Văng Tầu (Chămpaxắc, tháng 7 năm 2000); gây rối mất trật tự an ninh ở Viêng Chăn (tháng 7 năm 2000); bạo loạn vũ trang ở Hủa Phăn (năm 2003); gây rối ở Bò Kẹo (tháng 7 năm 2007).

Để chia rẽ và phá hoại mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Lào, bọn phản động còn lôi kéo một số tù trưởng, tộc trưởng, cán bộ thoái hoá biến chất từ Việt Nam sang tham gia hoạt động chống phá cách mạng Lào (chúng đã lôi kéo được hơn 1.000 người Mông ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An di cư tự do sang Lào). Trước những hành động chống phá của các thế lực thù địch, lực lượng an ninh hai nước đã phối hợp hiệu quả, ngăn chặn kịp thời và làm thất bại mọi mưu đồ của chúng, giữ vững sự ổn định và an ninh quốc gia của mỗi nước .

Trong đào tạo cán bộ, Việt Nam đã cử chuyên gia giúp Lào biên soạn giáo trình, giáo án để giảng dạy. Trong 10 năm từ 1997 đến 2007, Bộ Công an Việt Nam đã cử hơn 60 cán bộ, chuyên gia và giảng viên giúp Đại học An ninh Lào. Hàng năm Việt Nam giúp Lào đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho nhiều cán bộ thuộc Bộ An ninh Lào và hàng chục nghiên cứu sinh, cao học của Lào. Trong lĩnh vực an ninh, hai bên còn hợp tác trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao kỹ thuật, cung cấp cho Lào nhiều máy móc, thiết bị phục vụ nghiên cứu, giảng dạy. Năm 2003, Trung tâm nghiên cứu khoa học thuộc Bộ An ninh Lào thăm và làm việc với các cơ quan nghiên cứu khoa học của Bộ Công an Việt Nam... Với sự phối hợp, hợp tác và giúp đỡ của Bộ Công an Việt Nam, lực lượng an ninh Lào đã từng bước trưởng thành và phát triển, vươn lên làm chủ tình hình, góp phần quan trọng cùng quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ gìn mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.

Với những kết quả to lớn trong sự hợp tác giữa lực lượng an ninh hai nước, năm 2005, Đảng và Nhà nước Lào đã trao tặng Bộ Công an Việt Nam Huân chương Ítxalạ hạng Nhất và Huân chương Ítxalạ hạng Nhì cho 11 đơn vị thuộc lực lượng an ninh Việt Nam.

Kết quả của sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa Việt Nam và Lào trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh là một trong những nhân tố quan trọng không chỉ tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh hai nước, mà còn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; đồng thời góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đổi mới ở mỗi nước. Đồng chí Chummaly Xaynhaxỏn, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đã khẳng định: “Mối quan hệ quốc phòng, an ninh giữa hai nước Việt - Lào, Lào - Việt được hình thành và phát triển không phải do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, mà là do yêu cầu khách quan của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do chống kẻ thù chung, từ yêu cầu xây dựng đất nước của hai dân tộc qua các giai đoạn lịch sử... Như vậy, chính do yêu cầu khách quan của hai dân tộc mà Việt Nam và Lào đã liên kết với nhau. Đó là quy luật cho sự tồn tại và phát triển của hai dân tộc, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào cũng như Việt Nam” .


Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #104 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2022, 05:12:15 pm »

* Hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật

Thực hiện thỏa thuận giữa Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tháng 10 năm 1991 và “Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước đến năm 2000” ngày 15 tháng 3 năm 1995, tháng 1 năm 1996, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000.

Quan điểm cơ bản hợp tác giữa hai nước trong giai đoạn này là:

- Bảo vệ tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt và tăng cường sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào như là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng và công cuộc xây dựng của hai nước.

- Hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền, pháp luật của nhau. Xoá bỏ cơ chế bao cấp, cải tiến cơ chế hợp tác trong giai đoạn mới phù hợp với cơ chế quản lý của mỗi nước và thông lệ quốc tế, vừa bảo đảm lợi ích chính đáng của mỗi bên, vừa ưu tiên giúp đỡ lẫn nhau. Phát huy thế mạnh tiềm năng của mỗi bên, kết hợp với việc thu hút nguồn lực của mỗi nước và tổ chức quốc tế. Mở rộng quan hệ hợp tác nhiều bên; đồng thời đề cao sự phối hợp bảo vệ lợi ích hai nước trước sự cạnh tranh của nước khác.

- Hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực, ngành, địa phương, mọi thành phần kinh tế. Thúc đẩy hợp tác kinh doanh phát triển để tạo cơ sở cho việc khai thác tiềm năng của mỗi bên, bảo đảm tính thiết thực, vững chắc và có hiệu quả. Gắn hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật với quốc phòng, an ninh.

Trên cơ sở quan điểm cơ bản, hai bên cam kết cùng nhau hợp tác toàn diện, đặc biệt tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn mới ở các huyện dọc biên giới Việt Nam - Lào và các vùng khác có điều kiện. Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực giao thông vận tải, tạo điều kiện thuận lợi cho Lào vận tải quá cảnh qua lãnh thổ và sử dụng các cảng biển của Việt Nam. Coi trọng hợp tác trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực cho Lào. Mở rộng hợp tác sản xuất hàng hoá (kể cả sản xuất điện năng) nhằm phát triển hợp tác lao động, du lịch, ngân hàng, tài chính, khoa học - công nghệ. Tạo điều kiện thầu xây dựng ở mỗi nước nhằm góp phần thúc đẩy đầu tư của nước ngoài vào Lào và Việt Nam.

Với truyền thống quan hệ hợp tác lâu đời của hai nước; đồng thời để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào, hai Đảng và hai Nhà nước đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo và tạo nhiều điều kiện thuận lợi, ưu đãi cả về cơ chế, chính sách. Nhờ vậy quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giai đoạn 1996 - 2000 không ngừng phát triển cả về quy mô và hình thức, thu được nhiều kết quả khả quan trên mọi lĩnh vực.

Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giai đoạn này đã có sự chuyển biến rõ rệt. Định hướng hợp tác kinh tế đã được điều chỉnh căn bản từ quan điểm “tài nguyên của Lào, kỹ thuật và lao động của Việt Nam và vốn của nước thứ ba” sang nguyên tắc “hợp tác bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thoả đáng tính chất quan hệ đặc biệt với thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau”, kết hợp giữa các hình thức hợp tác truyền thống với các hình thức hợp tác trong điều kiện hai nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường và bước đầu tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Quan hệ kinh tế từng bước tương xứng với quan hệ truyền thống đặc biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nước và tiềm năng của hai nước.

Về hợp tác phát triển (viện trợ không hoàn lại của Việt Nam dành cho Lào)

 Trong năm năm 1996 - 2000, Việt Nam đã dành cho Lào khoản viện trợ không hoàn lại là 346.570 triệu VNĐ (tương đương 26,6 triệu USD) để thực hiện 36 dự án trong các lĩnh vực như: giáo dục - đào tạo, nông nghiệp và phát triển nông thôn mới và một số lĩnh vực khác.

Đặc biệt, giai đoạn này hai bên đã có những chuyển hướng trong việc sử dụng nguồn vốn viện trợ vào công tác điều tra cơ bản và hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên các vùng lãnh thổ cũng như các ngành, lĩnh vực của Lào (chiếm 33,57% vốn viện trợ). Việc tập trung trên 1/3 vốn viện trợ vào các dự án này là rất cần thiết, là cơ sở giúp Lào phát triển các ngành, lĩnh vực cũng như các mục đích an ninh, quốc phòng và kinh tế; đồng thời tạo ra những tiền đề trong nhiều lĩnh vực hợp tác giữa hai bên.

Với sự nỗ lực của cả hai bên, bằng nguồn vốn viện trợ này, hợp tác hai nước đạt được những kết quả đáng khích lệ:

Hợp tác giáo dục - đào tạo là nội dung quan trọng có tính chiến lược vì lợi ích lâu dài của hai nước. Gần một nửa số viện trợ đã được dành cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Nhiều hình thức đào tạo mới đã được thực hiện và đạt kết quả tốt. Từ năm 1997, hai bên đã nhanh chóng chuyển hướng kết hợp đào tạo dài hạn, chính quy với tăng cường bồi dưỡng và đào tạo lại cán bộ hệ ngắn hạn trên các lĩnh vực quản lý; kết hợp cử chuyên gia đào tạo tại Lào với việc mở rộng hình thức đào tạo tại chức cho Lào tại Việt Nam. Số học sinh Lào được tiếp nhận hàng năm tăng từ 300 - 350 người (theo Hiệp định) lên tới 500 - 550 người năm 2000. Trong năm năm phía Việt Nam đã tiếp nhận 2.184 cán bộ, học sinh Lào. Số lượng cán bộ, học sinh Việt Nam được tiếp nhận sang học tập tại Lào cũng tăng từ 15 lên 25 người/năm.

Hai bên đã hoàn thành cam kết việc xây dựng hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú cấp vùng tại Uđômxay, Xavẳnakhệt, Chămpaxắc, trường dân tộc nội trú cấp tỉnh ở Xê Coong .

Hợp tác về nông nghiệp và thủy lợi giai đoạn 1996 - 2000 đã có những chuyển hướng cơ bản. Từ hình thức hợp tác hỗ trợ, phát triển nông nghiệp và nông thôn ở một số vùng cụ thể là chủ yếu đã chuyển sang kết hợp giữa hoạch định chiến lược phát triển nông nghiệp với quy hoạch sản xuất lương thực và thủy lợi trên các cánh đồng lớn của Lào, nhằm đảm bảo an ninh lương thực, hỗ trợ trực tiếp để phát triển nông thôn một số vùng biên giới Lào - Việt Nam.

Tiếp tục thực hiện thỏa thuận giữa hai bên về phối hợp xây dựng mô hình thí điểm phát triển nông nghiệp gắn với nông thôn mới tại ba vùng đặc trưng: Lắc Xao (miền núi), Phôn Sủng và Hạt Siều (bán sơn địa), và Chămpaxắc (đồng bằng). Trong ba năm 1996 - 1998, Việt Nam đã giúp Lào 14,1 tỷ VNĐ và đã hoàn thành dự án này trong năm 1998. Các chương trình, dự án này hoàn thành đã đóng góp đáng kể cho phát triển nông nghiệp của Lào, làm tăng diện tích canh tác và năng suất lúa. Ở Phôn Sủng, diện tích canh tác tăng 360 ha, năng suất lúa tăng từ 1,6 tấn/ha/năm lên 3,4 tấn/ha/năm vào năm 1998. Tại Lắc Xao, với 10 công trình thủy lợi nhỏ đã đảm bảo nước tưới tiêu cho 200 ha vụ mùa và 1.000 ha vụ chiêm, làm tăng gần 1.000 tấn thóc. Tại Chămpaxắc, diện tích tăng từ 12 ha lên 1.000 ha, năng suất lúa tăng 1,5 tấn/ha/năm (năm 1993) lên 4,5 tấn/ha/năm (năm 1998). Nhiều giống lúa có năng suất cao, các giống cây ăn quả và vật nuôi có giá trị cao đã được chuyển giao cho phía Lào (gà Tam Hoàng, nhãn Hưng Yên, vải thiều, mận...) .

Việt Nam đã giúp Lào quy hoạch sản xuất lương thực, quy hoạch thủy lợi các đồng bằng trọng điểm với tổng số viện trợ không hoàn lại là 36 tỷ VNĐ. Những quy hoạch này tập trung vào việc phát triển nông, lâm nghiệp một số huyện thuộc các tỉnh có chung biên giới với Việt Nam như: Noỏng Hét (Xiêng Khoảng), Xiêng Khọ (Hủa Phăn), Viêng Khăm (Luổng Phạbang); quy hoạch sản xuất lương thực bảy cánh đồng lớn: Viêng Chăn, Chămpaxắc, Khăm Muộn, Xavẳnnakhệt, Xê Đôn, Áttapư, Bolikhămxay; lập dự án khả thi hệ thống thủy lợi tả ngạn sông Nặm Ngừm (Viêng Chăn)...

Hợp tác trên lĩnh vực nông nghiệp và thủy lợi giai đoạn 1996 - 2000 được hai bên rất coi trọng, đã dành 22,35% tổng số vốn viện trợ tập trung cho lĩnh vực này. Các dự án nông nghiệp bước đầu phát huy tác dụng, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, góp phần tạo sự ổn định cuộc sống cho nông dân, giảm bớt tình trạng du canh, du cư, bảo đảm an ninh vùng biên giới hai nước. Các mô hình phát triển nông nghiệp và nông thôn được phía Lào đánh giá cao. Các dự án nông nghiệp đã góp phần giúp Bộ Nông -Lâm nghiệp Lào và một số địa phương hoạch định chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp của địa phương mình. Các chuyên gia Việt Nam đã thâm nhập từng làng, bản dân tộc của Lào để giúp nông dân canh tác, chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp, thuỷ nông, thủy lợi tiên tiến, phát triển kỹ thuật chăn nuôi khoa học... Sự hợp tác chân thành này chỉ có trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, khác hẳn với nội dung và hình thức của các loại hợp tác khác.

Tuy nhiên, hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp còn có những nội dung chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Đầu tư thiếu đồng bộ, còn mang nặng tính chất giải pháp tình thế; việc tổ chức quản lý các dự án còn hạn chế, việc đào tạo cán bộ tại chỗ để tiếp thu dự án còn chậm...

Trong việc sử dụng vốn viện trợ, ngoài hai lĩnh vực chủ yếu, hai bên cũng đã quan tâm hợp tác trên nhiều lĩnh vực khác thông qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật như:

- Hợp tác trong lĩnh vực bản đồ: Việt Nam giúp hiệu chỉnh hệ tọa độ bản đồ bốn tỉnh Nam Lào, xây dựng mạng lưới cao độ tám tỉnh Bắc Lào.

- Trong lĩnh vực khí tượng, thuỷ văn: Việt Nam giúp và chuyển giao công nghệ cho Lào hệ thống thông tin phục vụ khí tượng thủy văn giữa hai nước và phục vụ trực tiếp cho đời sống và phát triển kinh tế của nhân dân Lào. Kết quả hợp tác này đã tạo ra các tiền đề cho nhiều lĩnh vực hợp tác những năm sau như nông nghiệp, thủy lợi, hàng không...

- Hợp tác trong việc xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả nước Lào đến năm 2020 và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Khăm Muộn đến năm 2010.

Trong giai đoạn 1996 - 2000, các bộ, ngành và địa phương hai nước đã phối hợp chặt chẽ, tích cực triển khai đồng bộ các dự án viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào. Những ưu tiên dành cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo, nông nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn mới của Lào thời kỳ này đã để lại dấu ấn đậm nét cho mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Tuy nhiên, cũng còn những vấn đề cần phải xem xét, điều chỉnh: còn lúng túng trong cơ chế phối hợp, thủ tục xem xét, điều chỉnh nội dung; các dự án về điều tra cơ bản, về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chậm được thực hiện; nhiều dự án hỗ trợ kỹ thuật như phòng chống sốt rét cho các huyện biên giới, xây dựng mạng lưới lưu trữ quốc gia, hỗ trợ máy mã cơ yếu... triển khai chậm và hiệu quả thấp...

Hợp tác thực hiện các cam kết

Về giao thông vận tải giai đoạn 1996 - 2000, hai bên đã cùng nhau tìm nguồn đầu tư nâng cấp hệ thống đường thông thương nối liền hai nước, tạo điều kiện cho Lào thông thương qua lãnh thổ và cảng biển Việt Nam ra các nước. Hai bên đã đầu tư quốc lộ 43 (Mộc Châu - cửa khẩu Pa Háng), 6B (Hủa Phăn), chuẩn bị đầu tư cửa khẩu Chiềng Khương (Sơn La) phía Việt Nam và đầu tư quốc lộ 42 (Lai Châu - Tây Trang - Phôngxalỳ). Cải tạo nâng cấp quốc lộ 9A đi cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị) - Xavẳnnakhệt; quốc lộ 8 đi cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh) - Bolikhămxay; quốc lộ 7 đi cửa khẩu Nậm Cắn (Nghệ An) - Xiêng Khoảng; quốc lộ 217 đi cửa khẩu Na Mèo (Thanh Hóa) và 6A (Hủa Phăn); quốc lộ 12A đi cửa khẩu Chalo (Quảng Bình) - Khăm Muộn. Cải tạo nâng cấp cảng Đà Nẵng, cảng Xuân Hải và hoàn thành bến I cảng Vũng Áng để phía Lào sử dụng. Hai bên phối hợp hoàn thành xây dựng cửa khẩu Cầu Treo và Nặm Phạo. Hai bên đã ký thỏa thuận về nguyên tắc Việt Nam cho Lào vay ưu đãi xây dựng đường 18B phía Lào .

Kết quả đầu tư trong lĩnh vực giao thông vận tải không những tạo điều kiện thông thương giữa hai nước, tạo điều kiện cho Lào có đường ra biển mà còn làm thay đổi bộ mặt kinh tế của nhiều khu vực và góp phần nâng cao đời sống, trình độ dân trí của các xã vùng cao trên dọc các tuyến thông qua Lào. Nhiều khu kinh tế cửa khẩu đã được hình thành, giao lưu thương mại các chợ biên giới giữa hai nước ngày càng phát triển. Tuy nhiên, việc hợp tác xây dựng các tuyến giao thông qua hai nước còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu giao lưu kinh tế giữa hai nước.

Hợp tác về năng lượng - điện: tháng 7 năm 1998, Việt Nam và Lào đã ký Hiệp định hợp tác năng lượng - điện. Hai bên đã trao đổi, bổ sung và thống nhất dự án quy hoạch hệ thống đầu nối điện giữa hai nước. Hai bên xác định cụ thể công trình thủy điện hợp tác, phương thức mua, bán điện và giá điện làm cơ sở để phía Lào đưa vào tiến độ xây dựng và phía Việt Nam đưa vào tổng sơ đồ phát triển điện giai đoạn 2001 - 2005.

Đến năm 2000, quan hệ hợp tác về tài chính, tiền tệ Việt Nam -Lào đã có bước chuyển biến mới, đồng Việt Nam và kíp Lào đang từng bước trở thành đồng tiền chủ yếu trong thanh toán giữa hai nước, thay thế việc chuyển tiền tự do bằng ngoại tệ chuyển đổi tồn tại trong nhiều năm trước đây.

Thoả thuận về quy chế tài chính và quản lý dự án viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào ký ngày 9 tháng 2 năm 1998 và hoạt động của Ngân hàng liên doanh Lào - Việt (LVB) tại Viêng Chăn và chi nhánh tại Hà Nội đã khai thông mối quan hệ về tiền tệ và tạo cơ hội đầu tư, kinh doanh giữa hai bên, giải quyết được những khó khăn trong thanh toán và chuyển tiền giữa các doanh nghiệp hai nước. Ngân hàng liên doanh Lào - Việt đã không ngừng mở rộng hoạt động trên các lĩnh vực dịch vụ cung ứng tín dụng, chuyển tiền, thanh toán quốc tế, huy động vốn, thu đổi tiền và đã thu hút được 396 khách hàng mở tài khoản, trong đó có gần 100 tài khoản của Việt Nam.

Tháng 8 năm 2000, phía Việt Nam quyết định cho thực hiện thí điểm cơ chế thanh toán, chuyển tiền đối với các nguồn tài chính của các doanh nghiệp hoạt động tại Lào, các nguồn tiền bằng vốn vay và viện trợ dành cho Lào thực hiện tại Lào. Cũng trong thời kỳ này, hai bên đã phối hợp tốt để phía Lào giải quyết nhanh, dứt điểm khoản nợ 11,480 triệu USD chênh lệch mậu dịch nhập siêu của Lào từ thời kỳ 1976 - 1981.

Hợp tác chuyên gia giai đoạn 1996 - 2000 không ngừng được củng cố, đổi mới và hoàn thiện cả về cơ chế lẫn hình thức hợp tác. Trong năm năm, theo yêu cầu của phía Lào, Việt Nam đã cử 475 lượt chuyên gia, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế (63%), quốc phòng, an ninh (28%) và các lĩnh vực khác. Trong những năm này, nhiều đoàn chuyên gia vụ việc quan trọng của Việt Nam được cử sang Lào trao đổi và xử lý các vấn đề về quản lý vĩ mô (năm 1996), đổi mới doanh nghiệp (năm 1998), tiếp nhận viện trợ (năm 1999)... Đặc biệt là đoàn chuyên gia cao cấp Việt Nam giúp Lào chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 1999.

Từ cuối năm 1997, nền kinh tế Lào gặp rất nhiều khó khăn do lạm phát ngày càng trầm trọng không kiềm chế được (hậu quả của cuộc khủng hoàng tài chính, tiền tệ trong khu vực). Nếu năm 1997 lạm phát ở mức 26,6% thì đến năm 1998 tăng tới 142%, chín tháng đầu năm 1999 khoảng 150%; nền kinh tế lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Thể theo yêu cầu của phía Lào, tháng 8 năm 1999, Việt Nam đã cử đoàn chuyên gia cao cấp sang nghiên cứu và đề xuất giải pháp chống lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô tại Lào. Kết quả là đến cuối năm 1999 và các năm sau đó, lạm phát đã được đẩy lùi, kinh tế Lào phát triển trở lại với tốc độ tăng trưởng cao hơn những năm trước đó. Hoạt động của các đoàn chuyên gia Việt Nam đã thực sự mang lại hiệu quả và được phía Lào đánh giá cao.

Hiệp định hợp tác lao động Việt Nam - Lào được ký kết sửa đổi, bổ sung, ngày 8 tháng 4 năm 1999 đã tạo điều kiện thông thoáng, đơn giản hoá thủ tục cho các đơn vị cung ứng lao động cũng như tăng cường quyền hạn phân cấp quản lý cho các địa phương, nhất là các địa phương có chung biên giới. Trong “Thoả thuận Cửa Lò 1999” hai bên đã bàn và tháo gỡ nhiều vướng mắc về thủ tục xuất, nhập cảnh, cư trú cho người lao động, quá cảnh trang thiết bị... thực sự thúc đẩy sự hợp tác nói chung và hợp tác lao động nói riêng của hai nước, tạo điều kiện đáp ứng kịp thời cho nhau về nguồn lao động, quản lý được chặt chẽ hơn, giảm đáng kể lao động tự do sang Lào.

Với các chính sách khuyến khích thúc đẩy đầu tư, liên doanh, liên kết và ưu tiên, ưu đãi cho nhau trong xây dựng và thực tế nhu cầu hợp tác phát triển kinh tế của các địa phương có chung đường biên giới, hợp tác lao động giai đoạn 1996 - 2000 tăng nhanh về số lượng, phong phú về hình thức. Có khoảng 15 - 20 nghìn lao động Việt Nam được đưa sang Lào theo các hình thức: hợp đồng nhà nước; thỏa thuận của các địa phương; cung ứng của các công ty dịch vụ lao động của Việt Nam và lao động tự do.

Kết quả cho thấy cùng với những cơ chế, chính sách được tháo gỡ, phía Việt Nam đã thực hiện các biện pháp đơn giản hoá thủ tục hành chính, bỏ thủ tục cấp giấy phép thực hiện hợp đồng, tăng cường hỗ trợ và tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế, có chính sách hỗ trợ người lao động nghèo, người lao động thuộc diện chính sách.

Tuy nhiên, sự phối hợp giữa hai bên còn thiếu đồng bộ trong quá trình quản lý và cung ứng lao động; các thủ tục còn phiền hà, chậm sửa đổi. Vì vậy, những năm 1996 - 1998, lao động tự do còn chiếm tới 2/3 số lao động ở Lào và đã gây ảnh hưởng nhất định đến quan hệ hợp tác giữa hai bên và quyền lợi của người lao động Việt Nam tại Lào.

Hợp tác Việt Nam - Lào trong lĩnh vực thương mại, đầu tư

Hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, liên doanh liên kết sản xuất là đặc trưng của mối quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào trong điều kiện hai nước thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Cùng với chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, thúc đẩy đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế, trong năm năm (1996 - 2000) Chính phủ hai nước đã đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường hợp tác trong lĩnh vực này và đã đạt được những kết quả quan trọng.

Hợp tác về thương mại: nhờ có cơ chế phù hợp, kim ngạch xuất, nhập khẩu hai chiều giữa hai nước năm 1998 tăng 196% so với năm 1997. Trước ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực những năm 1998 - 1999, hai bên đã có chủ trương đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa hai nước, đưa nhanh hàng hoá của Việt Nam vào Lào, khuyến khích các doanh nghiệp hai nước buôn bán, trao đổi hàng hoá với nhau. Chính phủ hai nước đã giảm 50% thuế những mặt hàng nhập vào mỗi nước có xuất xứ từ Việt Nam và từ Lào (Văn bản số 1577/TT ngày 18 tháng 9 năm 1997 của Lào và Văn bản số 181/1998/QĐ-TTg ngày 21 tháng 9 năm 1998 của Việt Nam); đồng thời cho phép các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá sang Lào được thanh toán bằng hàng của Lào (Văn bản số 964/CP-KTTH ngày 17 tháng 8 năm 1998 và Văn bản số 01/CP-KTTH ngày 19 tháng 1 năm 1999). Hai Chính phủ đã có cuộc gặp và ký thỏa thuận tháo gỡ những khó khăn cho người và hàng hoá qua lại giữa hai nước (Thoả thuận Cửa Lò, tháng 8 năm 1999).

Nhờ có những chủ trương và chính sách kịp thời của hai Nhà nước, hàng hoá Việt Nam đã chiếm tới 25 - 30% thị phần tại một số tỉnh Trung và Nam Lào. Kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng từ 1,5 - 2 lần; hoạt động thương mại với Lào trở nên sôi động hơn, bốn siêu thị liên doanh tại Trung, Nam Lào và Viêng Chăn được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hợp tác thương mại còn nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh, bổ sung về chính sách và cơ chế hợp tác.

Từ khi có quy chế chợ biên giới, việc buôn bán của một số điểm chợ biên giới đã đi vào nền nếp (tính đến năm 2000 có 11 chợ biên giới của hai bên). Ước tính trao đổi hàng hoá hàng năm giữa dân cư hai nước khoảng 100 - 120 triệu USD.

Hợp tác về đầu tư: sau khi có Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương giữa hai nước (ký ngày 14 tháng 1 năm 1996) và các quy định về đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài (năm 1999), cùng các thỏa thuận của hai Đảng, hai Nhà nước, hai bên đã có nhiều cố gắng chỉ đạo triển khai tới các ngành, địa phương, cơ sở nhằm đẩy mạnh hợp tác đầu tư liên doanh trên lãnh thổ của nhau, tạo nhiều điều kiện để trao đổi tìm hiểu cơ hội đầu tư kinh doanh cho các doanh nghiệp hai bên. Những cuộc viếng thăm và làm việc của các đoàn cấp cao Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành hai nước, những cuộc hội thảo giữa các doanh nghiệp hai nước do phía Lào tổ chức (tháng 10 năm 1998) và Sứ quán Việt Nam tổ chức (tháng 6 năm 2000); các hội chợ hàng hoá tại Lào đã không ngừng thúc đẩy những cơ hội hợp tác trong lĩnh vực này. Về phía Việt Nam, Chính phủ đã ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Lào.

Đây cũng là giai đoạn hầu hết các cơ chế hợp tác đã được ký kết tạo ra khung pháp lý quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Các văn bản này thể hiện sự quyết tâm của hai bên nhằm nâng cao chất lượng hợp tác, dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau trên cơ sở thông lệ quốc tế và quan hệ đặc biệt giữa hai nước như: Thỏa thuận về tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện, hàng hoá qua lại giữa hai nước (Thỏa thuận Cửa Lò 1999), Quy chế tài chính và quản lý dự án sử dụng vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào.

Đến năm 2000, có trên 30 doanh nghiệp Việt Nam có trụ sở và đăng ký hoạt động tại Lào, với vốn đăng ký trên 100 triệu USD, gồm 13 doanh nghiệp đầu tư sản xuất và chuyển giao công nghệ như chăn nuôi, gốm, dược phẩm, thạch cao...; 10 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ (trong đó có bốn liên doanh thương mại); 12 doanh nghiệp trong lĩnh vực nhận thầu xây dựng các công trình. Nhiều doanh nghiệp đã trúng thầu quốc tế tại Lào, được phía Lào tin tưởng và đánh giá cao. Tổng công ty liên doanh 18 (CIE18) trúng thầu quốc tế sáu dự án về giao thông, tổng chiều dài 250km, với doanh số 82 triệu USD; thu hút hơn 3.000 lao động Việt Nam làm việc tại Lào .

Các hoạt động đầu tư liên doanh hai nước đã phát triển hơn hẳn những giai đoạn trước đây. Lào dần dần trở thành thị trường thu hút các doanh nghiệp Việt Nam sang khảo sát và đầu tư. Tuy nhiên, cũng mới có 22 dự án đầu tư vào Lào với số vốn đăng ký 13,9 triệu USD, Việt Nam là đối tác đứng thứ 14 trong tổng số 36 nước đầu tư vào Lào . Nguyên nhân cơ bản là thiếu vốn và công nghệ trong khi thị trường mỗi nước đang đòi hỏi các nhà đầu tư của nước mình khai thác triệt để những khả năng sẵn có. Bên cạnh đó, hệ thống luật và văn bản dưới luật của cả hai nước còn chưa đầy đủ và chưa đồng bộ. Sự hạn chế về thị trường và sức mua của Lào phần nào thiếu hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

Về cơ chế hợp tác: trên cơ sở quan điểm hợp tác mới là “Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, kết hợp thoả đáng tính chất quan hệ đặc biệt với thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau”, Chính phủ hai nước đã quan tâm đặc biệt đến việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách hợp tác giữa hai nước. Ngoài Hiệp định khung hợp tác thời kỳ 1996 - 2000 và Hiệp định hợp tác hàng năm, trên cơ sở thông lệ quốc tế và có tính tới mối quan hệ hợp tác đặc biệt giữa hai nước, hai Chính phủ đã ký 12 văn bản và sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản hợp tác khác, kịp thời đáp ứng yêu cầu hợp tác hai nước trong tình hình mới. Đó là: sửa đổi bổ sung Hiệp định về biên giới (năm 1997); bổ sung Hiệp định hợp tác lao động (năm 1999); sửa đổi, bổ sung Hiệp định quá cảnh hàng hoá (năm 2000)... .

Hai bên đã có các cuộc gặp trao đổi bất thường và ký kết những văn bản quan trọng, giải quyết nhiều vấn đề thực tế đặt ra, góp phần tăng cường thúc đẩy quan hệ giữa hai nước. Đó là: Thoả thuận về tài chính và quản lý dự án sử dụng vốn viện trợ của Việt Nam dành cho Lào (năm 1998), Hiệp định thanh toán (năm 1998), Thỏa thuận về việc tạo điều kiện cho người và hàng hoá qua lại biên giới hai nước (năm 1999)...

Cùng với các văn bản ký kết giữa Chính phủ hai nước, hệ thống các văn bản thỏa thuận giữa các bộ, ngành, địa phương về chương trình hợp tác song phương cũng đã đáp ứng kịp thời và góp phần quan trọng trong việc quản lý, định hướng, khuyến khích, tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy quan hệ hợp tác hai bên.

Tuy nhiên, các cơ chế, chính sách của cả hai bên còn nặng về thông lệ, ít tính tới những đặc thù riêng và những điều kiện bên ngoài tác động đến quan hệ hai nước. Việc phối hợp triển khai các cơ chế, chính sách hợp tác giữa hai bên còn chậm, thiếu đồng bộ.

Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000 về cơ bản đã thực hiện được mục tiêu chiến lược là ưu tiên cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo, nông nghiệp và phát triển nông thôn của Lào. Hợp tác trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo được chú trọng mở rộng cả về quy mô và hình thức. Hợp tác nông nghiệp đã tập trung vào việc triển khai quy hoạch phát triển lương thực và thủy lợi cho các cánh đồng lớn của Lào nhằm đảm bảo an ninh lương thực, đã hỗ trợ trực tiếp cho việc phát triển nông nghiệp và nông thôn một số vùng biên giới, góp phần đào tạo ngành nghề và định canh định cư, thực hiện tốt cam kết trong lĩnh vực giao thông, các tuyến đường nối hai nước và thông ra các cảng biển Việt Nam đã được đầu tư nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải quá cảnh của hai nước, đặc biệt là giúp Lào có điều kiện trao đổi hàng hoá với bên ngoài qua cảng biển Việt Nam. Hợp tác thương mại, đầu tư đã được đặc biệt quan tâm và được coi là mục tiêu quan trọng của hợp tác kinh tế giữa hai nước trong điều kiện hai nước đang tiến hành mở cửa nền kinh tế, hội nhập quốc tế và khu vực.

Những kết quả hợp tác kinh tế giai đoạn này đã đóng góp đáng kể cho nhu cầu phát triển kinh tế của hai nước, nâng cao đời sống nhân dân các bộ tộc Lào, thúc đẩy hai nước tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.

Kết thúc thế kỷ XX, công cuộc đổi mới ở Việt Nam và Lào đã giành được những thành quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tháng 4 năm 2001, Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với chủ trương thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đó là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về đường lối đối ngoại, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN... Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.

Đại hội lần thứ VII Đảng Nhân dân cách mạng Lào (tháng 3 năm 2001) tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tạo tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Lào. Tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại hoà bình, độc lập và hữu nghị, hợp tác với các nước, nhất là các nước trong khu vực. Củng cố và phát triển tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt với Việt Nam...

Trên cơ sở kết quả hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 1996 - 2000, xuất phát từ yêu cầu của hợp tác giữa hai nước trong giai đoạn mới, tại cuộc gặp ngày 6 tháng 2 năm 2001 tại Hà Nội, hai Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào chủ trương: dù trong hoàn cảnh nào cũng cần tiếp tục thực hiện những phương hướng và nguyên tắc lớn mà hai Bộ Chính trị đã thỏa thuận, nhằm củng cố và phát triển sâu rộng hơn nữa quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước.

Căn cứ vào thoả thuận của hai Bộ Chính trị và căn cứ vào nội dung Bản thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2001 - 2010, ngày 6 tháng 2 năm 2001, tại Hà Nội, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào giai đoạn 2001 - 2005.

Hiệp định hợp tác giai đoạn 2001 - 2005 được thực hiện trong bối cảnh hai nước đều có mức tăng trưởng khá và ổn định. Song, cả hai vẫn còn là những nước chậm phát triển so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Trong điều kiện hội nhập với những ảnh hưởng phức tạp về tình hình kinh tế, chính trị, an ninh trên thế giới và tiến trình thực hiện các cam kết ASEAN trong khu vực, các hoạt động liên kết và tăng cường hợp tác giữa một số nước đang được hình thành đã có những tác động tích cực thúc đẩy hợp tác song phương, gắn kết giữa hai nước và với các nước láng giềng và khu vực, nhưng cũng là những thách thức của quan hệ hợp tác giữa hai nước trong điều kiện cạnh tranh và tranh thủ ảnh hưởng giữa các nước. Các hoạt động gây rối của các thế lực thù địch ở vùng biên giới hai nước cũng là những thách thức và trực tiếp ảnh hưởng đến hợp tác kinh tế giữa hai nước.

Mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng hai bên đã có nhiều cố gắng thực hiện các nội dung đã thỏa thuận, cùng nhau điều chỉnh và giải quyết các vấn đề nảy sinh, tạo điều kiện hỗ trợ thiết thực trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Vì vậy, hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước giai đoạn 2001 - 2007 đã có bước phát triển mới, đạt được những mục tiêu cơ bản đã được thỏa thuận giữa hai bên.

Kết quả sử dụng vốn viện trợ

Vốn viện trợ không hoàn lại giai đoạn 2001 - 2005 được thực hiện là 590 tỷ VNĐ (Hiệp định khung là 560 tỷ VNĐ). Bao gồm các lĩnh vực dưới đây:

Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực: giáo dục, đào tạo là lĩnh vực hợp tác chiến lược lâu dài và được sự quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà nước hai bên, đáp ứng tích cực và kịp thời nhu cầu mỗi bên, chiếm 49,05% nguồn vốn viện trợ (289,4 tỷ VNĐ), để chi cho 1.884 cán bộ, học sinh Lào có mặt ở Việt Nam và đầu tư vào các cơ sở đào tạo tại Lào.

- Hai bên đã tập trung ưu tiên đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chính trị và quản lý của Đảng và Nhà nước Lào, với số lượng tăng từ 130 người năm 2001 lên 225 người năm 2005 và hàng nghìn cán bộ, học sinh tốt nghiệp các bậc đại học và cao đẳng trong năm năm 2001 - 2005. Kết quả này đã tạo cho Lào một nguồn nhân lực trên hầu hết các lĩnh vực quản lý, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật.

 - Về phía Lào, số cán bộ, học sinh Việt Nam học tại Lào có mặt 122 người, hai bên đã dành vốn viện trợ xây dựng ký túc xá học sinh nước ngoài tại Đại học Quốc gia Viêng Chăn để phục vụ cho cán bộ, học sinh Việt Nam học tập tại Lào.

Hai bên đã phối hợp hoàn thành Trung tâm bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế, kế hoạch Viêng Chăn; xây dựng Trường Năng khiếu và dự bị đại học Viêng Chăn, trị giá hơn 80 tỷ VNĐ; Khoa Tiếng Việt Trường Đại học Quốc gia Lào; nâng cấp, cải tạo Trường Chính trị - Hành chính quốc gia Thà Ngòn, để phục vụ tại chỗ cho Lào.

Tuy nhiên, chất lượng trong hợp tác đào tạo chưa được như mong muốn, nhiều vấn đề về cơ chế, chính sách, sự phối hợp giữa hai bên cần phải được bổ sung, điều chỉnh.

Thực hiện các chương trình hợp tác

Về nông nghiệp: gần 1/4 số vốn viện trợ đã được triển khai cho chương trình an ninh lương thực quốc gia của Lào, trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực trên bảy cánh đồng: Viêng Chăn, Chămpaxắc, Áttapư, Khăm Muộn, Bôlikhămxay, Xavẳnnakhệt, Xê Đôn. Đầu tư ba hệ thống thủy lợi lớn Đoông Phu Xỉ, Thà Phanoọng (Viêng Chăn) và Nặm Long (Hủa Phăn) với số vốn đầu tư trong 5 năm là hơn 87 tỷ VNĐ; cung cấp 26 tỷ VNĐ thiết bị bơm để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành hệ thống thủy lợi Đoông Phu Xỉ và Thà Phanoọng . Những công trình này đang được hoàn thành và đưa vào sử dụng, được phía Lào đánh giá cao trong việc góp phần tăng trưởng nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, phát triển nông thôn và sản xuất hàng hoá của Lào.

Hợp tác giao thông: các tuyến đường và cửa khẩu qua biên giới hai nước được đầu tư, nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc qua lại và phát triển kinh tế giữa hai nước. Một phần vốn viện trợ dành cho việc khảo sát lập báo cáo nghiên cứu khả thi và xây dựng một số tuyến đường và cầu lớn theo yêu cầu của phía Lào.

Lĩnh vực điều tra cơ bản: một số vốn viện trợ (11%) được dành cho các dự án: tăng cường năng lực cho Cục Đo đạc quốc gia Lào bằng công nghệ bản đồ kỹ thuật số. Khảo sát lập bản đồ địa chất 1/200.000 Bắc Lào; thăm dò muối mỏ Potát, thạch cao ở Trung Lào; điều tra khoáng sản và bôxít ở Nam Lào.

Một số vốn viện trợ còn được sử dụng cho việc duy trì hoạt động của dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Chămpaxắc, duy trì hoạt động của các trạm thủy văn...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #105 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2022, 05:15:41 pm »

Hợp tác trong lĩnh vực đầu tư, thương mại

Thương mại: kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2005 đạt 687,8 triệu USD, tuy có giảm so với giai đoạn 1996 - 2000, nhưng đã khai thác được các mặt hàng có thế mạnh và góp phần thúc đẩy sản xuất của mỗi nước.

Các chính sách kinh tế đã thực sự có tác động tích cực tới kim ngạch thương mại hai nước. Những điều chỉnh của thỏa thuận Viêng Chăn năm 2002 về giảm 50% thuế suất thuế nhập khẩu cho hàng hoá có xuất xứ từ mỗi nước như bổ sung 12 mặt hàng có xuất xứ từ Lào nhập khẩu vào Việt Nam năm 2003; xoá bỏ danh mục, số lượng, giá trị và mở rộng cho tất cả hàng hoá có xuất xứ từ mỗi nước năm 2004 và thống nhất danh mục hàng hoá giảm 0% thuế suất thuế nhập khẩu để áp dụng trong năm 2005..., kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước vào các năm 2004, 2005 đã được cải thiện, tăng bình quân 26%/năm .

Các hoạt động xúc tiến thương mại được tăng cường và duy trì thường xuyên nhân dịp các ngày lễ lớn hàng năm của hai nước, với cơ chế miễn thuế hàng hoá và hỗ trợ chi phí cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm. Việc thông quan hàng hoá và hoạt động của các chợ cửa khẩu trên tuyến biên giới Việt - Lào đã góp phần quan trọng tăng dần thị phần và uy tín của hàng hoá Việt Nam trên thị trường Lào, tăng cường giao lưu kinh tế, thương mại biên giới, nâng cao đời sống của cư dân vùng biên.

Hạn chế của quan hệ thương mại giữa hai nước giai đoạn 2001 - 2005 là tuy các chính sách được đưa ra điều chỉnh phù hợp với yêu cầu thực tế, nhưng việc triển khai của một số cơ quan chức năng còn chậm, các giải pháp chưa thông thoáng kịp thời, thiếu nhạy bén so với các nước láng giềng.

Hợp tác về đầu tư: từ sau Nghị định số 22/1999/NĐ-CP tháng 4 năm 1999 của Việt Nam về đầu tư ra nước ngoài được ban hành và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam có quy định về quản lý và triển khai các dự án hợp tác với Lào (ngày 16 tháng 7 năm 1999), số dự án đầu tư vào Lào tăng lên đáng kể. Từ năm 2001 đến 2005 có 18 dự án, chiếm 52,9% số dự án đầu tư vào Lào từ trước đến lúc này. Với sự quan tâm thích đáng của Chính phủ hai nước, công tác xúc tiến đầu tư giữa hai nước đã có những bước chuyển biến đáng kể.

Đầu tư trực tiếp của Lào vào Việt Nam tính đến năm 2005 có sáu dự án với số vốn đóng góp của Lào là 4,3 triệu USD, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực giao thông vận tải, bưu điện, tài chính, ngân hàng...

Nhiều dự án đầu tư sản xuất hàng hoá tiêu dùng bằng nhựa, dệt kim, bột giấy, vật liệu xây dựng nhằm tận dụng thế mạnh nguyên liệu và nhân lực sẵn có của Lào đã được đưa vào hoạt động. Các dự án với quy mô lớn được mở ra không những mang lại lợi ích kinh tế mà còn có ý nghĩa an ninh, quốc phòng, góp phần thực hiện chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nước như: Nhà máy thủy điện Xê Camản 3 (240MW), trồng và chế biến cao su, các cây công nghiệp khác tại các tỉnh Nam Lào, khai thác và sản xuất muối mỏ kali ở Trung Lào, tổ hợp than điện Nặm Ngân... đã và đang được các tổng công ty nhà nước và các địa phương của Việt Nam triển khai .

Hạn chế trong hoạt động đầu tư của hai nước là quy mô đầu tư còn nhỏ (bình quân 0,483 triệu USD/dự án), công nghệ đơn giản, chưa mang tầm chiến lược lâu dài về sản phẩm, tạo ra những hàng hoá có khả năng cạnh tranh ra thị trường bên ngoài thông qua các dự án đầu tư vào mỗi bên. Các cơ chế, chính sách và thủ tục trong cấp phép đầu tư, hỗ trợ vay vốn, thủ tục hải quan và chính sách thuế ưu đãi cần phải được bổ sung, điều chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước trong hoạt động đầu tư.

Thực hiện các cam kết hai bên

Giai đoạn 2001 - 2005, nhiều nội dung ưu tiên, ưu đãi cho nhau đã được thỏa thuận trong nhiều lĩnh vực.

Trong lĩnh vực giao thông vận tải: để tạo điều kiện cho hàng hoá của Lào quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt đối với cảng Vũng Áng, bốn loại cước phí đã được giảm; đồng thời tiếp tục nâng cấp đường 12 từ cửa khẩu Chalo (Quảng Bình) đi cảng Vũng Áng, đầu tư giai đoạn 2 cảng Vũng Áng để dành cho Lào sử dụng theo thỏa thuận.

Hiệp định tín dụng bổ sung đường 18B Nam Lào được ký ngày 16 tháng 7 năm 2004 và đang đẩy nhanh tiến độ đưa vào sử dụng vào đầu năm 2006 để thông thương với cửa khẩu Bờ Y của Việt Nam.

Thực hiện thỏa thuận về việc hai bên ưu tiên đầu tư mở các tuyến đường qua biên giới hai nước, bằng nguồn vốn ngân sách, từ năm 2001 đến 2005, phía Việt Nam đã đầu tư xây dựng các tuyến đường Nà Cài (Sơn La), Sơn Hồng, Vũ Quang (Hà Tĩnh), Thanh Thuỷ (Nghệ An) đi biên giới Việt - Lào. Hoàn thành các trạm liên kiểm cửa khẩu Chiềng Khương (Sơn La), Na Mèo (Thanh Hoá), Nậm Cắn (Nghệ An) và đang đầu tư xây dựng trạm liên kiểm cửa khẩu Tây Trang (Điện Biên) .

Trong lĩnh vực mua bán điện: thực hiện Hiệp định hợp tác năng lượng - điện (ngày 6 tháng 7 năm 1998), Việt Nam tiếp tục bán điện cho phía Lào tại Sầm Nưa (Hủa Phăn), Lắc Xao (Bôlikhămxay), Xê Pôn (Xavẳnnakhệt) và Samuội (Xalavăn) hàng năm khoảng 13.000 KW/h. Hiện mạng lưới điện đã đến các điểm biên giới Bờ Y (Kon Tum), Kak Tao (Quảng Nam), Hồng Vân (Thừa Thiên - Huế) và Cầu Treo (Hà Tĩnh), sẵn sàng bán điện khi phía Lào có nhu cầu.

Việt Nam hoàn thành việc giúp Lào quy hoạch đầu nối mạng điện hai nước các tuyến Nặm Mộ - Bạn Vẽ - Vinh (110 KV), Xê Camản - A Vương - Đà Nẵng (220 KV), Nam Lào - Trạm 500 KV Plâycu (500 KV) để chuẩn bị thực hiện thỏa thuận nối mạng năng lượng điện trong những năm tới.

Về cơ chế chính sách hợp tác

Để thúc đẩy và mở rộng quan hệ hợp tác giữa hai nước và nhằm điều chỉnh các cơ chế, chính sách hợp tác phù hợp với tình hình thực tế của mỗi nước giai đoạn 2001 - 2005, hai bên đã phối hợp nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế hợp tác . Các cơ chế chính sách này là cơ sở cho việc quản lý, hợp tác giữa hai bên, đóng góp tích cực vào việc phát triển quan hệ hợp tác giữa hai nước.

Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào những năm 2006 - 2007 tiếp tục được tăng cường. Trong cuộc gặp giữa hai Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào tại Viêng Chăn, ngày 3 tháng 1 năm 2006, hai bên tiếp tục khẳng định việc tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật và duy trì quan hệ truyền thống sẵn có, lâu đời là nhiệm vụ chiến lược lâu dài của hai Đảng và nhân dân hai nước. Hai bên thống nhất những định hướng lớn cho sự hợp tác toàn diện giữa hai nước giai đoạn 2006 - 2010.

Quán triệt tinh thần và nội dung cuộc hội đàm giữa hai Bộ Chính trị và nội dung bản thỏa thuận chiến lược về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2001 - 2010, ngày 4 tháng 1 năm 2006, tại Viêng Chăn, Chính phủ hai nước ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2006 - 2010.

Hiệp định được ký kết trong bối cảnh công cuộc đổi mới ở Việt Nam và ở Lào đang đạt được những thành tựu to lớn.

Ở Việt Nam, Đại hội lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành tổng kết 20 năm đổi mới, từ đó tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước năm năm 2006 - 2010 tầm nhìn đến năm 2020, thực hiện bằng được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.

Ở Lào, Đại hội lần thứ VIII Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng đã tiến hành tổng kết 20 năm đổi mới và khẳng định đất nước liên tục phát triển, từng bước tiến tới mục tiêu giàu mạnh và phồn vinh. Đại hội xác định mục tiêu xây dựng đất nước thời kỳ 2006 -2010 và hướng tới năm 2020 là tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp, tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đại hội chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế: tiếp tục củng cố, tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó tiếp tục củng cố và phát triển tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Việt Nam.

Sau kế hoạch năm năm 2001 - 2005, nền kinh tế của hai nước đều có mức tăng trưởng khá và ổn định; năng lực và trình độ sản xuất của nhiều ngành kinh tế của Lào đã tăng lên đáng kể. Hệ thống cơ sở hạ tầng các tuyến đường 9, đường 12, đường 18B, cầu Mụcđahán qua sông Mê Công... giữa hai nước với khu vực được hoàn thành đầu tư nâng cấp sẽ là cơ sở thuận lợi để phát triển giao lưu du lịch, thương mại giữa các nước và khu vực. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cũng còn nhiều hạn chế tác động đến quan hệ hợp tác, đó là: xuất phát điểm kinh tế của hai nước còn thấp; khả năng hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của các doanh ngiệp hai nước chưa đáp ứng so với yêu cầu, trong khi lộ trình thực hiện đầy đủ các cam kết AFTA, WTO và các hiệp định quốc tế khác đang và sẽ tạo ra những sức ép cạnh tranh rất lớn đối với doanh nghiệp hai nước.

Về khách quan, sự ảnh hưởng của các nước láng giềng trong khu vực thông qua viện trợ, đầu tư, hợp tác kinh tế vì lợi ích và quyền lợi của mỗi nước ngày càng rõ nét. Các thế lực phản động trong và ngoài nước vẫn còn ý đồ ngăn cản sự phát triển và hợp tác an ninh biên giới giữa hai nước...

Hai bên xác định quan điểm hợp tác trong giai đoạn 2006 -  2010 là tiếp tục phát huy quan hệ truyền thống tốt đẹp, có hiệu quả trong mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác kinh tế với chính trị, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Lấy mục tiêu chính trị làm cơ sở xem xét hiệu quả cho các hoạt động hợp tác kinh tế trên cơ sở phát huy và duy trì các kết quả hợp tác đã đạt được; sử dụng tốt tiềm năng, thế mạnh và bảo đảm sự phát triển bền vững môi trường sinh thái của mỗi nước; nâng cao hiệu quả và tăng cường ảnh hưởng thông qua hợp tác kinh tế; đồng thời có cơ chế hỗ trợ thông thoáng, tạo sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư, thương mại trên thị trường hai bên.

Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giai đoạn 2006 - 2010 tiếp tục hướng vào mục tiêu ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng đào tạo; tăng cường hợp tác phát triển bền vững vùng biên giới hai nước; quan tâm thích đáng hợp tác trên lĩnh vực văn hoá; khuyến khích và tạo điều kiện cho các địa phương hợp tác trên cơ sở quản lý thống nhất thông qua các chương trình hợp tác.

Nội dung của Hiệp định bao gồm sáu chương trình mục tiêu sau đây:

- Chương trình 1: Hợp tác giáo dục - đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
- Chương trình 2: Hợp tác phát triển bền vững vùng biên hai nước.
- Chương trình 3: Hợp tác thông tin, văn hoá, tư tưởng.
- Chương trình 4: Phát triển thương mại, đầu tư.
- Chương trình 5: Hợp tác kết nối mạng cơ sở hạ tầng, dịch vụ, du lịch giữa hai nước.
- Chương trình 6: Duy trì hoạt động và nâng cao năng lực các chương trình, dự án phục vụ hợp tác giữa hai nước.

Hai bên thống nhất cam kết cùng phối hợp với Campuchia đẩy mạnh hợp tác xây dựng Tam giác phát triển ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia (CLV), trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển đã được Thủ tướng ba nước thông qua tại Viêng Chăn, ngày 28 tháng 11 năm 2004. Cung cấp thông tin và tham khảo ý kiến lẫn nhau trong các chương trình hợp tác đa phương và hợp tác liên kết kinh tế bốn nước Campuchia - Lào - Mianma - Việt Nam (CLMV), chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mê Công (ACMECS) và hợp tác Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC). Tăng cường hợp tác chặt chẽ để phối hợp với các quốc gia khác trong lưu vực sông Mê Công nhằm phát triển và quản lý bền vững tài nguyên nước trong khu vực sông Mê Công và thực hiện tốt Hiệp định sông Mê Công năm 1995.

Trong hai năm 2006 - 2007, với sự nỗ lực của cả hai bên, quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước Việt Nam - Lào đã chuyển biến tốt.

Hợp tác giáo dục - đào tạo được mở rộng bằng nhiều hình thức, đáp ứng nhu cầu đào tạo của mỗi bên. Hai bên phối hợp xây dựng bộ từ điển Việt - Lào, Lào - Việt; đưa vào sử dụng Trường Năng khiếu và dự bị đại học Viêng Chăn; tiến hành xây dựng Trường Tài chính Đông Khăm Xạng; tiếp tục xây dựng Trường Dạy nghề tỉnh Bò Kẹo; cử giáo viên dạy tiếng Việt tại các trường dân tộc nội trú tại Lào.

Trong lĩnh vực kinh tế, hai bên đã khánh thành đường 18B từ tỉnh Áttapư đến biên giới hai nước; tiếp tục xây dựng Nhà máy thủy điện Xê Camản 3, chuẩn bị đầu tư cụm dự án thuỷ điện Xê Camản 1, bao gồm cả dự án Xê Camản Xanxay (Xê Camản 0) và các dự án thủy điện Nặm Cắn, Xê Camản 4, Đắc Ymơn, Xê Coong 3 (thượng lưu và hạ lưu) để phục vụ kết nối hệ thống điện giữa hai nước.

Hoạt động thương mại tiếp tục tăng, kim ngạch hai chiều năm 2006 đạt 240 triệu USD, tăng 48% so với năm 2005, năm 2007 (tính đến tháng 11) đạt 289 triệu USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm 2006.

Hoạt động đầu tư được duy trì và đạt những kết quả tốt. Năm 2006, hai bên đã cấp phép cho 52 dự án đầu tư vào Lào với số vốn đăng ký đạt 368,6 triệu USD. Năm 2007, phía Việt Nam có 87 dự án được cấp phép đầu tư vào Lào với tổng số vốn đăng ký là 1.020 triệu USD, xếp thứ ba trong tổng số 30 nước và khu vực đầu tư vào Lào.

Để thúc đẩy hợp tác đầu tư có hiệu quả trong những năm 2006 - 2008, hai bên đã tổ chức Hội nghị đánh giá, rút kinh nghiệm về hoạt động đầu tư giữa hai nước tại Lao Bảo (Quảng Trị) vào tháng 6 năm 2007, Hội nghị sửa đổi, bổ sung “Thoả thuận Viêng Chăn 2002” và thay bằng “Thoả thuận Hà Nội 2007”.

Với sự quan tâm của hai bên, hợp tác đầu tư ngày càng đạt được những kết quả cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ năm 2000 đến hết năm 2007 có 37 nước đầu tư vào Lào với tổng số vốn đầu tư đạt 6.461,6 triệu USD. Việt Nam đứng thứ ba với 129 dự án và tổng số vốn 574,7 triệu USD. Về thủy điện, theo kế hoạch phát triển điện dài hạn của Lào có 74 dự án, với tổng công suất 15.895 MW, Việt Nam đầu tư 30 dự án với tổng công suất 5.089 MW, chiếm 45,5% số dự án và 32% tổng công suất.

Trong lĩnh vực thăm dò khai thác khoáng sản, tính đến tháng 8 năm 2007, Lào đã cấp phép 100 dự án khai thác khoáng sản, trong đó Việt Nam có chín dự án với vốn đầu tư là 52 triệu USD. Tới cuối năm 2007, Việt Nam có 18 doanh nghiệp xin phép đầu tư thăm dò, khai thác khoáng sản tại Lào, bao gồm khai thác sắt (Hủa Phăn), thạch cao (Khăm Muộn), tìm kiếm muối mỏ kali (Khăm Muộn), sắt (Xê Coong), kẽm - chì (Hủa Phăn và Bolikhămxay) và 12 doanh nghiệp đang đề nghị khai thác bôxít, than, sắt, khoáng sản kim loại màu khác .

Trên diện tích 178.943 ha đã được phía Lào cấp phép để đầu tư trồng cao su trên 10 tỉnh với số vốn 245 triệu USD, Việt Nam đang đầu tư 21 dự án tại năm tỉnh Trung và Nam Lào là Xavẳnnakhệt, Chămpaxắc, Xalavăn, Xê Coong và Áttapư với diện tích 46.609 ha và vốn đầu tư 138,9 triệu USD, theo hình thức thuê dài hạn 10 - 50 năm. Tính đến cuối năm 2007, Việt Nam đã trồng được 21.200 ha, bằng 45,06% diện tích được cấp phép.

Bước vào giai đoạn 2006 - 2010, hai bên nhất trí thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác đầu tư, thương mại giữa hai nước trên tinh thần tôn trọng thông lệ quốc tế, có sự quan tâm, ưu tiên, ưu đãi cho nhau nhằm phát huy cao nhất khả năng, tiềm năng của mỗi nước, trên cơ sở quan hệ đặc biệt sẵn có. Tạo điều kiện cho nhau mở rộng thị trường ở mỗi bên và ra bên ngoài. Thúc đẩy nhanh và dành ưu tiên đầu tư một số dự án thủy điện, khai khoáng, trồng cây công nghiệp tại Lào, mang lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên và đáp ứng nhu cầu về các nguồn lực cho phát triển kinh tế của mỗi nước; đồng thời khuyến khích các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế của Lào và Việt Nam đầu tư kinh doanh ổn định và lâu dài vào mỗi bên.

Hợp tác về bưu chính viễn thông cũng được hai bên quan tâm, hai nước đã thoả thuận xây dựng tuyến cáp quang nối Việt Nam với Lào; đồng thời phối hợp lập dự án kinh doanh tuyến cáp quang quốc tế sáu nước.

Hợp tác du lịch ngày càng phát triển, số khách tham quan du lịch Lào và Việt Nam ngày một tăng. Năm 2006, số du khách Lào vào Việt Nam đạt 33.980 người và khách Việt Nam sang Lào là 141.653 người. Du lịch hai bên đã có những hợp tác hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo cán bộ du lịch Lào, cùng với Lào trao đổi kinh nghiệm, xây dựng Luật Du lịch, phân hạng khách sạn, quản lý hướng dẫn viên và quy hoạch du lịch.
Về văn hoá thông tin, hai năm 2006 - 2007, phía Việt Nam tiếp tục hoàn thành hệ thống các đài chuyển tiếp phát thanh, truyền hình Lào tại các điểm Chămpaxắc, Xavẳnnakhệt, Uđômxay và Luổng Phạbang. Duy trì và mở rộng nội dung phụ đề tiếng Lào trong các chương trình chuyển tiếp Đài Truyền hình Việt Nam tại Lào. Tiếp tục hỗ trợ củng cố, nâng cao năng lực chuyên môn cho các cán bộ thuộc lĩnh vực văn hoá thông tin, phát thanh, truyền hình, báo chí của Lào. Chia sẻ kinh nghiệm hoạt động của Bảo tàng Cayxỏn Phômvihản. Đặc biệt, trong lĩnh vực viễn thông, tháng 11 năm 2007, Tổng công ty Viễn thông quân đội Việt Nam (Viettel) và Công ty Viễn thông quân đội Lào đã ký kết hợp đồng liên doanh thành lập Công ty Star Telecom với vốn đầu tư 60 triệu USD để cung cấp dịch vụ viễn thông - công nghệ thông tin tại Lào, góp phần hiện đại hoá hạ tầng viễn thông - công nghệ thông tin, tăng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp viễn thông Lào.

Về khoa học, công nghệ, Việt Nam đang giúp Lào về công nghệ sinh học, công tác quản lý môi trường, lĩnh vực sở hữu trí tuệ, đo lường. Các cơ quan khoa học lớn của hai bên đã có những hoạt động phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau tiến hành nghiên cứu một số vấn đề hai bên cùng quan tâm. Từ năm 2004, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Lào nghiên cứu đề tài khoa học “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Lào hiện nay”. Hiện nay, hai bên đang phối hợp nghiên cứu đề tài “Xây dựng Đảng cầm quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và ở Lào”, tổ chức các hội thảo, phối hợp nghiên cứu lịch sử, địa lý... Hai bên bắt đầu phối hợp nghiên cứu biên soạn công trình lịch sử “Quan hệ đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007)”.

Trong lĩnh vực y tế, Bộ Y tế Việt Nam đang giúp Lào xây dựng đề án Trường Đại học Y - Dược Viêng Chăn. Đang triển khai xây dựng khu nhà chính, phòng thí nghiệm và một số phòng học với vốn viện trợ khoảng 5 triệu USD .

Các cơ chế, chính sách được xem xét điều chỉnh; các thỏa thuận hợp tác về thực hiện ưu đãi giảm 50% thuế suất và một số mặt hàng được hưởng 0% thuế suất thuế dịch vụ lao động và cấp thẻ theo thời hạn hợp đồng và cư trú của người lao động Việt Nam tại Lào đã và đang tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư, thương mại giữa hai nước.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #106 vào lúc: 11 Tháng Giêng, 2022, 05:16:44 pm »

* Hợp tác giữa các địa phương và hợp tác biên giới

Việt Nam và Lào có đường biên giới đi qua 10 tỉnh của Việt Nam và 10 tỉnh của Lào, ngoài ra còn có các tỉnh, thành phố kết nghĩa, vì vậy mà hợp tác giữa các địa phương hai bên Việt Nam - Lào phát triển rất nhanh và ngày càng có hiệu quả. Quan hệ hữu nghị truyền thống đã có từ lâu, nhưng quan hệ hợp tác toàn diện thì mới chỉ có từ khi hai nước giành được độc lập và xây dựng đất nước (1975). Riêng hợp tác về kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật chủ yếu là trong giai đoạn từ năm 1996 đến nay. Tại cuộc hội đàm đầu năm 1996, hai Bộ Chính trị đã đồng ý cho các địa phương có chung biên giới ký kết hợp tác trực tiếp với nhau. Đến cuộc gặp tháng 1 năm 1997, hai Bộ Chính trị chủ trương tăng cường quan hệ hợp tác giữa các tỉnh có chung biên giới và cho phép mở chợ đường biên, khuyến khích việc trao đổi hàng hoá, giao lưu buôn bán, hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng. Thực hiện miễn, giảm thuế đối với hàng hoá mua bán tại các vùng biên giới, sớm hoàn tất quy chế chợ đường biên và khu vực thương mại tự do Lao Bảo.

Trên cơ sở định hướng của hai Bộ Chính trị và thông qua các hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật Việt Nam - Lào qua từng giai đoạn và hàng năm, hai bên đã phối hợp triển khai việc hợp tác trực tiếp giữa các địa phương hai nước và ngày càng đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Giai đoạn 1996 - 2000, hợp tác giữa các địa phương, đặc biệt là các tỉnh biên giới hai nước đã được mở rộng và ngày càng có hiệu quả tốt, đã đóng góp vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc của cả hai bên. Nhiều tỉnh biên giới đã liên doanh liên kết phát triển các lĩnh vực kinh tế như: hợp tác liên doanh khai thác gỗ giữa Nam Định với Uđômxay, Nghệ An với Xiêng Khoảng, Quảng Nam với Xalavăn, Quảng Bình với Khăm Muộn, Lai Châu với Phôngxalỳ. Nhiều dự án hợp tác sản xuất hàng thủ công, sành sứ và thuốc chữa bệnh... giữa các tỉnh của hai nước đã đi vào hoạt động. Hầu hết các địa phương giáp biên giới phía Việt Nam đã sang điều tra, khảo sát giúp các địa phương phía Lào xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các huyện. Tỉnh Quảng Nam giúp huyện Samuội, tỉnh Xalavăn; Hà Tĩnh giúp huyện Khăm Cợt, tỉnh Bolikhămxay; Lai Châu giúp huyện Phôngxalỳ... Tỉnh Thanh Hoá đã đào tạo cho tỉnh Hủa Phăn giáo viên cao đẳng tiếng Anh, phiên dịch tiếng Việt... Quan hệ hợp tác giữa các tỉnh đã đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế của các địa phương dọc biên giới, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hợp tác giữa hai nước và củng cố vành đai biên giới hoà bình, hữu nghị.

Hợp tác trong lĩnh vực xây dựng quy hoạch phát triển ngành, lãnh thổ là một trong những nội dung được các tỉnh biên giới hai nước quan tâm. Những dự án hợp tác này cùng với các chương trình dự án quy hoạch chung giữa hai nước là những tiền đề quan trọng để phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển kinh tế, tạo điều kiện giúp đỡ nhau sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bảo vệ môi trường và tận dụng những cơ hội phát triển của các địa phương phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế giữa hai nước với khu vực. Tuy nhiên, quy hoạch của các tỉnh cũng còn chậm đi vào cuộc sống, do những khả năng hạn chế về vốn của cả hai bên.

Bước sang giai đoạn 2001 - 2007, các địa phương hai bên đã phát huy và duy trì thường xuyên mối quan hệ đoàn kết, hợp tác truyền thống láng giềng tốt đẹp, bảo đảm an ninh xã hội vùng biên, giải quyết tốt những việc phát sinh; đồng thời tiếp tục chủ động phối hợp tìm kiếm, cất bốc, quy tập hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào.

Các địa phương thường xuyên trao đổi đoàn, trao đổi kinh nghiệm, thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, du lịch, đầu tư, đào tạo, y tế. Đi đầu trong hợp tác giữa các địa phương là thành phố Hồ Chí Minh hợp tác với Thủ đô Viêng Chăn và tỉnh Chămpaxắc. Thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ kỹ thuật trồng giống ngô lai, kỹ thuật chăn nuôi, cung cấp bò giống, phân bón, thuốc trừ sâu; tổ chức nhiều đợt tập huấn cho cán bộ nông nghiệp và nông dân Thủ đô Viêng Chăn và tỉnh Chămpaxắc. Công ty Nhựa Sài Gòn đầu tư xây dựng nhà máy nhựa tại Viêng Chăn. Lực lượng thanh niên xung phong thành phố có dự án trồng cao su tại Nam Lào; chuẩn bị xây dựng siêu thị tại Viêng Chăn. Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo thành phố triển khai chương trình mổ mắt đem lại ánh sáng cho 3.000 bệnh nhân nghèo khiếm thị ở Viêng Chăn và Chămpaxắc. Về giáo dục, thành phố Hồ Chí Minh cung cấp cho hai địa phương kết nghĩa 100 suất học bổng đại học, xây dựng tặng thành phố Viêng Chăn Trường Hữu nghị Viêng Chăn - thành phố Hồ Chí Minh cùng các trang thiết bị và xây dựng tặng tỉnh Chămpaxắc một trung tâm văn hóa.

Một số địa phương đã triển khai hợp tác có hiệu quả tốt với các địa phương của Lào như: Sơn La hợp tác với sáu tỉnh Bắc Lào, đặc biệt là với hai tỉnh Hủa Phăn và Luổng Phạbang; Hà Tĩnh với tỉnh Bolikhămxay; Quảng Bình với tỉnh Khăm Muộn; Quảng Trị với Xavẳnnakhệt; Nghệ An với Xiêng Khoảng; Kon Tum với Áttapư...

Các địa phương không chỉ hỗ trợ giúp đỡ nhau một cách thiết thực bằng kinh nghiệm, khả năng sẵn có theo truyền thống trước đây, mà đã có sự chuyển hướng tích cực trong việc hợp tác cùng phát triển trên nhiều lĩnh vực kinh tế.

Hoạt động đầu tư thương mại của các doanh nghiệp có sự chỉ đạo của các cấp, ngành địa phương đã đi dần vào nền nếp, có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng được nhu cầu phát triển, khai thác được tiềm năng, thế mạnh sẵn có về đất đai và nguồn tài nguyên, nhân lực của mỗi bên.

Các chương trình hợp tác trên nhiều lĩnh vực có tác động trực tiếp tới phát triển kinh tế giữa các địa phương hai nước đã được quan tâm như: chuyển giao công nghệ sinh học, nuôi cấy mô tế bào thực vật, sản xuất giống cây có giá trị kinh tế cao, phối hợp hình thức gieo giống, cung cấp nguyên liệu chiết xuất cây trầm gió của tỉnh Hà Tĩnh; chuyển giao kỹ thuật và công nghệ chế biến thức ăn viên cho cá của thành phố Hồ Chí Minh; lập quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2010 - 2020 tỉnh Xiêng Khoảng của tỉnh Nghệ An; nâng cao năng lực các trạm thu phát truyền hình các huyện tỉnh Hủa Phăn của tỉnh Thanh Hóa... với số vốn hàng chục tỷ đồng.

Hợp tác giáo dục, đào tạo ở các địa phương được mở ra và tăng lên nhanh chóng. Tính đến cuối năm 2006, có 1.046 học sinh tại 12 tỉnh, thành phố của Việt Nam, trong đó có 383 cán bộ, học sinh ở các bậc học, được đào tạo bằng nguồn ngân sách của các địa phương.
Các địa phương cũng đã giúp Lào nhiều cơ sở đào tạo tại Lào như: Quảng Bình xây dựng Trường Phổ thông Khăm Muộn; Hà Nội xây dựng Trường Trung cấp kỹ thuật chăn nuôi ở Viêng Chăn; thành phố Hồ Chí Minh xây dựng Trường Trung học phổ thông Xìkhốt ở Viêng Chăn.
Thành phố Hà Nội, các tỉnh Hải Dương, Điện Biên... cũng có một số dự án hợp tác với phía Lào, từng bước đạt được kết quả tốt.

Trong những năm 2001 - 2007, hai bên đã phối hợp thực hiện tốt Hiệp định về quy chế biên giới, kịp thời phát hiện và giải quyết các vấn đề nảy sinh, đặc biệt là phối hợp hai bên trong việc phòng và chống vận chuyển và mua bán ma túy qua biên giới, góp phần xây dựng biên giới hai nước là đường biên giới hòa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển. Tổ chức khai trương cặp cửa khẩu quốc tế Na Mèo (Thanh Hóa) - Nặm Xôi (Hủa Phăn), ba cặp cửa khẩu phụ: Huội Puốc (Điện Biên) - Na Xon (Luổng Phạbang), Hồng Vân (Thừa Thiên - Huế) - Cutai (Xalavăn), AĐốt (Thừa Thiên - Huế) -  Tavang (Xê Coong). Hoàn thành các thủ tục cần thiết nâng cấp cửa khẩu Nam Giang (Quảng Nam)- Đắc Tà óc (Xê Coong) thành cửa khẩu chính. Xây dựng cầu Xả Ớt khu vực Lao Bảo (Quảng Trị) - Đen Xávẳn (Xavẳnnakhệt)... phục vụ đi lại thông thường, hợp tác thương mại, đầu tư giữa hai nước.

Để thúc đẩy hợp tác phát triển toàn diện và ổn định vùng biên giới hai nước, hai bên đã ký kết “Thỏa thuận Hà Nội 2007” nhằm cải tiến thủ tục kiểm tra, kiểm soát qua lại giữa hai bên, tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện và hàng hóa qua lại biên giới giữa hai nước; triển khai dự án tăng dày và tôn tạo cột mốc quốc giới Việt Nam - Lào để thực hiện vào năm 2008. Hai bên đã phối hợp và bố trí kinh phí đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng, giao thông, nông nghiệp, thủy lợi, y tế, các cụm bản nhằm đảm bảo ổn định an ninh, quốc phòng.

Tuy nhiên, hợp tác giữa các địa phương cũng còn nhiều khó khăn, tồn tại. Nhiều chương trình, dự án sau khi hoàn thành chậm được thanh toán gây nợ đọng kéo dài. Trong thương mại, việc thực hiện các cam kết tạo điều kiện cho người, hàng hóa qua lại chưa được thống nhất ở một số địa phương...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #107 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2022, 08:45:59 am »

*
*     *

Quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2007 đã trải qua nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với sự quyết tâm của hai Đảng, hai Nhà nước và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành, các địa phương và các doanh nghiệp hai nước, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào đã ngày càng được đẩy mạnh và khuyến khích phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, từ hợp tác về chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh đến hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, hợp tác giữa các địa phương và đạt được những kết quả ngày càng to lớn hơn, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới và phát triển của mỗi nước.

Trong chặng đường 10 năm đầu đổi mới (1986 - 1996) bao gồm hai giai đoạn phát triển rõ rệt trong quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào. Giai đoạn đầu (1986 - 1990) gắn với chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và quan hệ kinh tế đối ngoại, hai nước chuyển dần sang cơ chế và phương thức hợp tác mới nên hiệu quả hợp tác còn chưa cao. Thời kỳ mới chuyển đổi đánh dấu bằng việc giảm dần tính tập trung, bao cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh cùng có lợi, quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào vẫn mang tinh thần giúp đỡ lẫn nhau, giải quyết vấn đề tình thế theo vụ việc, đáp ứng yêu cầu cấp bách để ổn định và phát triển kinh tế. Trong giai đoạn này, công thức hợp tác của hai nước vẫn là 2 + 1, tức là tài nguyên Lào; lao động, kỹ thuật Việt Nam và vốn do hai nước góp chung hoặc từ một nước thứ ba. Tuy nhiên, cả hai nước mới tiến hành công cuộc đổi mới, tiềm lực ban đầu chưa có, do vậy sự hợp tác giữa hai nước chưa có những chuyển biến đáng kể. Thực tiễn đã chỉ ra rằng trong nền kinh tế thị trường không có nước thứ ba nào bỏ vốn ra cho hai nước Việt Nam - Lào xây dựng, phát triển mà lại không có những toan tính khác. Mặt khác, nếu chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế mà không tính đến lợi ích toàn diện của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào thì không tránh khỏi làm cho cả Việt Nam và Lào đều yếu đi.

Giai đoạn sau (kể từ năm 1992 trở đi), khi hai nước ký Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật thời kỳ 1992 - 1995 (còn gọi là Hiệp định hợp tác khung, ngày 15 tháng 2 năm 1992), hằng năm có Hội nghị Ủy ban liên Chính phủ giữa hai nước họp để đánh giá kết quả thực hiện Hiệp định trong năm và ký kết Hiệp định hợp tác cho năm sau; đồng thời, để sự hợp tác hai nước đi vào ổn định, Việt Nam - Lào đã đạt được thỏa thuận xây dựng cơ chế chung về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật bằng Hiệp định ký ngày 7 tháng 4 năm 1994. Trên cơ sở mục tiêu tổng quát và tư tưởng chỉ đạo của lãnh đạo cấp cao Đảng và Chính phủ hai nước, ngày 15 tháng 3 năm 1995, Việt Nam và Lào đã nâng quan hệ hợp tác toàn diện lên một tầm cao mới bằng việc ký kết Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giai đoạn 1996-2000, một sự chuẩn bị cho hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng hơn ở giai đoạn tiếp theo.

 Như vậy, trong những năm đầu của công cuộc đổi mới của cả hai nước, quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào cũng có sự đổi mới về mục tiêu, phương thức hợp tác nhằm đưa quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào theo tầm chiến lược, thực sự có hiệu quả cả về chiều rộng và chiều sâu. Phương thức hợp tác đã chuyển từ: hợp tác từng vụ việc theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước Lào sang hợp tác theo chương trình, kế hoạch hàng năm giữa hai Chính phủ và bước đầu nghiên cứu kế hoạch và xây dựng chiến lược hợp tác dài hạn giữa hai nước. Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào giảm dần tính bao cấp, tập trung chuyển sang sản xuất, kinh doanh cùng có lợi. Tất nhiên, hai nước vẫn tiếp tục dành cho nhau những ưu tiên, ưu đãi, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước. Từ công thức 2 + 1, hợp tác Việt Nam - Lào chuyển sang công thức 3 + 2, với nội dung là: vốn, công nghệ - kỹ thuật, thị trường của Việt Nam; lao động, tiềm năng thiên nhiên của Lào. Bằng công thức này, Việt Nam và Lào tỏ rõ quyết tâm hợp tác với nhau trên tất cả các lĩnh vực nhằm phát huy nội lực, tiềm năng và thế mạnh của mỗi bên để cùng nhau vượt qua khó khăn, thách thức trên con đường xóa bỏ khoảng cách phát triển, hướng đến phát triển đồng đều và bền vững ở mỗi nước.

Giai đoạn 1996 - 2000, hai bên đã quyết tâm xóa bỏ cơ chế bao cấp, cải tiến cơ chế hợp tác phù hợp với thông lệ quốc tế, với định hướng là “hợp tác bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất quan hệ đặc biệt với thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau”. Từ đây, hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước được đưa vào kế hoạch hàng năm, khuyến khích mở rộng hợp tác trao đổi giữa các ngành, các địa phương và giữa các cơ sở, doanh nghiệp; thay dần cơ chế hợp tác giữa Nhà nước với Nhà nước của những năm trước đây bằng nhiều hình thức mới như: hợp đồng, trao đổi hàng hóa hai bên cùng có lợi, mua và bán hộ, giao nhận đấu thầu xây dựng...

Trong giai đoạn này, hai nước đã quyết định tập trung vào việc thực hiện Thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giai đoạn 1996 - 2000. Lần đầu tiên các nội dung hợp tác mang tính chiến lược tạo tiền đề cho việc triển khai hợp tác những năm sau này đã được đặt ra. Nhiều chương trình, dự án hợp tác tạm đình hoãn của giai đoạn 1985 - 1990 được tiếp tục thực hiện trong giai đoạn này.
Từ năm 1999, sau khi có các quy định về đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh đầu tư vào Lào. Đây cũng là giai đoạn hầu hết các cơ chế hợp tác đã được ký kết, tạo ra khung pháp lý quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Trọng tâm hợp tác kinh tế của giai đoạn này là giáo dục, đào tạo, nông nghiệp và phát triển nông thôn, điều tra khảo sát xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tại Lào.

Từ năm 2001 đến 2007, hai nước đã xây dựng các thỏa thuận chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật cho các giai đoạn năm năm (2001 - 2005, 2006 - 2010), 10 năm (2001 - 2010), sau đó là hàng loạt các hiệp định, nghị định thư và các thỏa thuận hợp tác  cũng được ký kết, tạo thành một hệ thống các cơ chế hợp tác để các bộ, ngành hai bên áp dụng. Nhiều hội nghị xúc tiến đầu tư và thương mại vào Lào đã được tổ chức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (tháng 5 năm 2004), thành phố Vinh (tháng 12 năm 2004), Đắc Lắc và Đà Nẵng (tháng 6 năm 2005).

Do có chính sách ưu tiên, ưu đãi cho nhau, nên việc hợp tác kinh tế, đặc biệt là hợp tác trong lĩnh vực đầu tư, đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Đầu tư của Việt Nam vào Lào gia tăng nhanh chóng; đồng thời đầu tư của Lào vào Việt Nam cũng được ngày càng mở rộng, tập trung vào các lĩnh vực: giao thông vận tải, bưu điện, tài chính, ngân hàng... và đang thu được những kết quả bước đầu.

Cũng trong giai đoạn này, hai bên còn phối hợp tham gia có hiệu quả các chương trình, dự án quốc tế và khu vực như: hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), dự án kết nối giao thông khu vực trong dự án Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC)...

Với những thành quả to lớn của giai đoạn 1986 - 2007, quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước đang trở thành yếu tố quyết định trong việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào , tạo tiền đề cho việc tăng cường và mở rộng hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong giai đoạn mới.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #108 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2022, 09:16:28 am »

PHẦN THỨ TƯ
THÀNH QUẢ, BÀI HỌC VÀ TRIỂN VỌNG

 
 
Chương IX
THÀNH QUẢ, Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ
CỦA QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM



I. QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM - TÀI SẢN QUÝ GIÁ NHẤT VÀ QUY LUẬT GIÀNH THẮNG LỢI CỦA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM, LÀO TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG


1. Sự thành hình quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam - bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam, Lào

Vị trí địa - chiến lược của Việt Nam và Lào ở vùng Đông Nam Á  đặt ra yêu cầu tất yếu về sự hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa hai dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ đất nước. Yêu cầu đó càng trở nên cấp bách khi nhân dân hai nước đều bị đặt dưới ách thống trị của thực dân Pháp từ cuối thế kỷ XIX. Từ lúc bấy giờ, các phong trào yêu nước bùng nổ liên tục ở Việt Nam, Lào và xuất hiện nhiều hoạt động phối hợp giữa nghĩa quân và nhân dân hai bên đường biên giới kéo dài trong 20 năm đầu thế kỷ XX.

Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp đó, trong thập niên 20 thế kỷ trước, Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và luận điểm cách mạng của Người, đồng thời lãnh đạo xây dựng tổ chức cách mạng tại Việt Nam và Lào, mở đường tạo lập quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện trên các lĩnh vực sau:

a) Khẳng định con đường cách mạng vô sản là con đường giải phóng và phát triển của Đông Dương, là cơ sở bền vững của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam

Đáp ứng nguyện vọng thiết tha của nhân dân Đông Dương là trút bỏ gông cùm nô lệ của tư bản Pháp, được sống trong độc lập, tự do, Nguyễn Ái Quốc đưa ra luận điểm quan trọng nhất về giải phóng Đông Dương, đó là con đường cách mạng vô sản. Chỉ trên cơ sở đó hai dân tộc Việt Nam, Lào mới xây dựng được mối quan hệ bình đẳng, chân thành, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do.

Từ năm 1921, trong bài “Đông Dương” đăng trên La Revue Comuniste (Tạp chí Cộng sản), số 15, Nguyễn Ái Quốc dựa trên cứ liệu lịch sử để khẳng định rằng chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào châu Á hơn là châu Âu. Theo dòng tư duy đó, trong cụm bài viết về chủ đề Đông Dương (1923 - 1924), Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: sự nghiệp giải phóng các dân tộc ở Đông Dương gắn liền với giải phóng xã hội và giải phóng con người theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Nhưng lúc ấy, cách mạng Đông Dương chưa đến độ chín muồi để bùng nổ và giành thắng lợi.

Sự thật là tuy người Đông Dương chưa có những điều kiện cần thiết để hiểu biết lý luận, lại bị đầu độc và giam hãm trong tình trạng lạc hậu, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ sức sống mãnh liệt của người Đông Dương. Từ đó, Người đề nghị Quốc tế Cộng sản tăng cường giúp đỡ cách mạng Đông Dương về đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng.

b) Tuyên truyền, giảng giải lý luận cho dân hiểu, để dân đoàn kết và đấu tranh

Đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền để nhân dân Pháp hiểu rõ bản chất xấu xa của chế độ thuộc địa mà ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc bị áp bức; đồng thời, Người tham gia sáng lập và phát hành báo Le Paria  (Người cùng khổ), một công cụ tuyên truyền, giác ngộ nhân dân các nước thuộc địa Pháp. Đông Dương là một địa chỉ tiếp nhận và lưu hành tờ báo này.

Trước khi rời nước Pháp lên đường về nước, Người đặt câu hỏi cho các bạn cùng hoạt động và tự nêu câu trả lời cho riêng mình:

“Chúng ta phải làm gì?
Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc...
Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”  (BBS nhấn mạnh).

Ở thời điểm khơi nguồn cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng Nguyễn Ái Quốc đến với nhân dân Đông Dương, cuốn sách “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc (xuất bản năm 1925 tại Pari), được chuyển tới nhiều thuộc địa Pháp, giác ngộ dân chúng tư tưởng cách mạng giải phóng thuộc địa và xây dựng xã hội mới theo gương Cách mạng tháng Mười Nga.

Nguyễn Ái Quốc đưa ra luận điểm mới của mình về phương pháp đấu tranh, thủ tiêu chế độ tư bản bằng sự hợp lực giữa giai cấp vô sản ở chính quốc và giai cấp vô sản thuộc địa như muốn giết một con đỉa, thì phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó. Hình tượng trên giúp người đọc thấu hiểu cách mạng thuộc địa là một bộ phận hữu cơ của cách mạng vô sản thế giới, như Nguyễn Ái Quốc đã viết: “... khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” .

Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu (Trung Quốc), tháng 11 năm 1924. Đầu năm 1925, Người mở lớp huấn luyện cho những thanh niên Việt Nam yêu nước đang ham muốn tiếp nhận lý luận chính trị. Dựa trên cơ sở các bài giảng tại lớp huấn luyện, Nguyễn Ái Quốc viết tác phẩm “Đường cách mệnh” nêu bật giá trị của lý luận cách mạng đối với sự thành công của cách mạng.

Đường cách mệnh” rất xứng đáng là cuốn sách giáo khoa lý luận, chính trị và phương pháp hoạt động cách mạng; là tác phẩm giáo dục đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng, ý chí đấu tranh cho cán bộ và quần chúng nhân dân Việt Nam, Lào - những địa bàn mà Nguyễn Ái Quốc đang dốc lòng, dốc sức gieo mầm cách mạng .

Giữa năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và sáng lập báo Thanh niên - tờ báo cách mạng đầu tiên bằng chữ quốc ngữ, thực hiện chức năng giáo dục, tập hợp và thống nhất tư tưởng, hành động của các chiến sĩ cách mạng và trang bị kiến thức chính trị cho đội ngũ cán bộ vận động quần chúng.

Thời gian hoạt động tại Xiêm, Nguyễn Ái Quốc sinh sống, lao động chan hoà và giáo dục tinh thần yêu nước, cách mạng cho đồng bào Việt kiều tại các địa bàn này. Đặc biệt, Người đến Noỏng Khai gặp gỡ một số cán bộ hoạt động từ Viêng Chăn sang để nắm tình hình cách mạng Lào. Năm 1928, Người tới lãnh thổ Lào để tuyên truyền trong người Việt về chính trị, tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc...

Kết quả dân vận của Nguyễn Ái Quốc tại Xiêm và Lào là nhân tố quan trọng tạo dựng nền móng bền chắc của lực lượng hậu thuẫn cho cách mạng Việt Nam và Lào.

c) Đề xuất chủ trương cách mạng Đông Dương do nhân dân Đông Dương tự tiến hành, kết hợp với sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Đông Dương bị đầu độc và áp bức, bóc lột nặng nề nhưng không phải vì thế mà tiềm năng cách mạng của họ bị vơi cạn. Làm sáng tỏ vấn đề đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Không: người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi” .

Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: sức mạnh cách mạng to lớn của người Đông Dương hiện chưa bộc lộ, sẽ bùng nổ khi thời cơ xuất hiện. Trách nhiệm của bộ phận ưu tú phải thúc đẩy cho thời cơ chóng tới.

Ý thức rõ sức mạnh của thế hệ thanh niên đối với sự thay đổi vận mệnh các dân tộc Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”.

Để khắc phục sự biệt lập và khơi dậy tình đoàn kết của các nước châu Á, tháng 7 năm 1925, nối tiếp nhiều hoạt động của Hội Liên hiệp thuộc địa (1921 - 1926), Nguyễn Ái Quốc chủ động phối hợp với một số nhà cách mạng Trung Quốc thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức, một tổ chức quốc tế đoàn kết nhiều dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa như Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Inđônêxia. Tuyên ngôn của Đại hội thành lập Hội nêu rõ: “con đường thoát duy nhất để xoá bỏ sự áp bức chỉ có thể là liên hiệp các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới áp dụng những phương pháp cách mạng để lật đổ về căn bản chủ nghĩa tư bản đế quốc cực kỳ hung ác” .

Về sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Đông Dương, tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản năm 1924, Nguyễn Ái Quốc nêu lên những thủ đoạn cướp đoạt ruộng đất và nhiều loại thuế đánh vào nông dân Việt Nam và các thuộc địa ở châu Phi, gây nên nạn bần cùng, nỗi phẫn uất cao độ và đương nhiên những phản ứng quyết liệt của họ với chế độ thuộc địa đã diễn ra. Song họ đều bị đàn áp khốc liệt. Đó là do nông dân thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Người đề nghị “Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng” .

Trên diễn đàn Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, ở Đông Dương, thực dân Pháp đã phục hồi chế độ nô lệ. Nhưng giai cấp vô sản Đông Dương chưa thể làm gì được để chống lại chế độ bóc lột đó, vì chưa xây dựng được tổ chức nào của họ. Người đã chỉ ra lối thoát: “... với sự giúp đỡ của các tổ chức cách mạng gần gũi với Quốc tế Công hội đỏ, chúng tôi quyết đập tan lực lượng của chủ nghĩa đế quốc châu Âu áp bức chúng tôi”3. Tiếp theo, Người kiến nghị: “... các đồng chí chúng ta trong các tổ chức công nhân cách mạng Pháp phải tích cực giúp đỡ chúng tôi trong cuộc đấu tranh giải phóng của chúng tôi”.

Một kết quả hoạt động kịp thời của Nguyễn Ái Quốc là Tổng Công hội thống nhất (Pháp) kiến nghị đưa vào Nghị quyết của Đại hội những nhiệm vụ trước mắt:

“1- Tổ chức những người Đông Dương hiện làm việc ở Pháp.
2- Tiến hành một chiến dịch mạnh mẽ vì quyền công đoàn của người bản xứ song song với chiến dịch cho công chức.
3- Cử những đại biểu thường trực (ít ra là 2) sang Đông Dương với sứ mệnh là tuyên truyền trong dân bản xứ và tổ chức họ” .

d) Chủ động sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thành hình

Nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng đã được Nguyễn Ái Quốc luận định sáng rõ trong tác phẩm “Đường cách mệnh”. Đó là đảng cách mạng phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể lãnh đạo dân chúng trong nước và đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới. Theo đó, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên với hy vọng: nó là quả trứng, sẽ nở ra con chim non cộng sản.

Tổ chức và hoạt động của Hội phát triển rộng khắp toàn Đông Dương. Riêng tại Lào, từ năm 1928 tổ chức Hội đã được thành lập tại Viêng Chăn, Thà Khẹc, Phôn Tịu, Xavẳnnakhệt, qua đó “Đường cách mệnh”, báo Thanh niên và nhiều tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc cũng được truyền bá tại Lào.

Những hoạt động trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, đào tạo cán bộ, xây dựng Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc tiến hành sâu rộng, đã tác động trực tiếp tới sự chuyển biến của cách mạng Việt Nam và Lào, đưa tới sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6 năm 1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng 11 năm 1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (cuối tháng 12 năm 1929), xuất hiện một yêu cầu cấp bách là thành lập một Đảng Cộng sản.

Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc chủ động tổ chức Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hồng Công vào đầu năm 1930 và đến tháng 10 cùng năm, đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Những sự kiện trên đánh dấu năm 1930 quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thành hình. Từ đây, cách mạng Việt Nam và Lào mở ra hướng đi mới dẫn tới thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của hai dân tộc Việt Nam, Lào.

Nội dung văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo thể hiện rõ bản chất của Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành cách mạng ruộng đất giải phóng nông dân khỏi ách bóc lột phong kiến... để đi tới xã hội cộng sản. Trong hai nhiệm vụ đó, cách mạng giải phóng dân tộc giữ vai trò quan trọng nhất và được tiến hành bằng sức mạnh đại đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các đảng phái yêu nước. Những luận điểm trên có giá trị phổ biến đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào.

Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trải qua quá trình đoàn kết đấu tranh của hai dân tộc đã tích tụ, toả sáng nhiều giá trị và công tích giàu ý nghĩa cách mạng và văn hoá, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản nhất trí đặt tên là quan hệ đặc biệt. Trong bài trả lời phóng viên báo Nhân dân, ngày 4 tháng 7 năm 1989, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản cho biết:

“Khi thảo luận về mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và giữa nhân dân hai nước, Bác Hồ và chúng tôi đều thấy rằng, ngoài mối quan hệ giữa hai Đảng cùng chung lý tưởng cộng sản, giữa hai nước xã hội chủ nghĩa láng giềng thì mối quan hệ giữa hai Đảng Cộng sản, giữa nhân dân hai nước chúng ta còn có sự gắn bó thân thiết không giống bất cứ nước nào. Bác Hồ và chúng tôi cùng suy nghĩ.

Bác Hồ tay gõ lên trán và nói: “chúng ta phải gọi là quan hệ đặc biệt”.

Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với Bác vì đó là sự thật lịch sử”.

Lịch sử đấu tranh lâu dài, anh dũng và sáng tạo của hai dân tộc Việt Nam, Lào trải qua các chặng đường cách mạng giành độc lập dân tộc, kháng chiến đánh thắng các cuộc xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tìm đường đổi mới và hội nhập quốc tế, thu được nhiều thành quả quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Tất cả đều hiện rõ nét đặc sắc nhất của nó, đó là quy luật giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Lào.

Bằng cách nhìn tổng quát cuộc kháng chiến của ba dân tộc Việt, Miên, Lào chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên nhận xét về tác động khách quan, tất yếu giữa các cuộc kháng chiến của ba dân tộc: “kháng chiến Việt - Miên - Lào là chung của chúng ta, là bổn phận của chúng ta”  không một nước nào tách khỏi hai nước kia mà giành được thắng lợi. Luận điểm này cũng khẳng định quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào là quy luật giành thắng lợi của cách mạng hai nước Việt Nam, Lào.

Xuất phát từ quan điểm chung đó, Người tuyên bố: “Chính phủ, Mặt trận và nhân dân Việt Nam ra sức hết lòng thành thực giúp Mặt trận, nhân dân Lào một cách không có điều kiện” (BBS nhấn mạnh).

Về quy luật của quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản dựa trên thực tiễn lịch sử cách mạng của hai dân tộc Lào, Việt Nam đã nhận định: “Trong quá trình vận động cách mạng của hai nước anh em, mối quan hệ đặc biệt đã được xây dựng và không ngừng được vun đắp.

Qua những thử thách trong sóng gió quyết liệt của thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ hung ác nhất của nhân loại, mối quan hệ đặc biệt giữa Lào và Việt Nam chẳng những không ngừng được củng cố, tăng cường mà còn tạo thành sức mạnh không gì lay chuyển được.

Trong thực tiễn đấu tranh lâu dài ấy, Đảng ta đã xác định điều đó như một quy luật của cách mạng nước ta”  (BBS nhấn mạnh).

Quy luật của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào do Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Cayxỏn Phômvihản phát hiện là kết quả vận dụng sáng tạo sức mạnh to lớn của cách mạng vô sản, bao gồm trong đó cách mạng giải phóng dân tộc, mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã tổng kết trong khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!” vào điều kiện cụ thể của hai dân tộc Việt Nam, Lào. Đồng thời, theo dòng tư duy của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao khẩu hiệu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” dành cho dân tộc Việt Nam và quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Tinh thần ấy được thể hiện trong nhiều tác phẩm và hoạt động thực tiễn của Người.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #109 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2022, 09:37:59 am »

2. Quan điểm, nguyên tắc và phương pháp xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam

Trong quá trình xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hai dân tộc Việt Nam, Lào đều quán triệt và thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là mình tự giúp mình”, một quan điểm thể hiện cô đọng, hài hoà, đúng đắn lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế trong hành động của mỗi người, mỗi tổ chức được giao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đó.

Quan điểm “giúp bạn là mình tự giúp mình” có tác dụng giáo dục tư tưởng, cổ vũ, khích lệ và tạo động lực cho hai dân tộc Việt Nam, Lào giúp nhau giành thắng lợi trong mọi chặng đường cách mạng dù phải hy sinh tài sản và tính mạng. Mặt khác, nó bác bỏ ý nghĩ sai lầm cho rằng giúp bạn là ban ơn.

Quan điểm “giúp bạn là mình tự giúp mình” còn bao hàm ý thức tự giác, tự nguyện của nhân dân hai nước dành cho nhau ở mức độ tối đa về tinh thần và lực lượng, tính mạng và tài sản, được thấm sâu vào ý nghĩ và hành động từ các cơ quan lãnh đạo tối cao đến quần chúng nhân dân các địa phương; từ cán bộ, chiến sĩ hoạt động trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hoá, giáo dục; từ nhiều gia đình đến các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội trên các chặng đường cách mạng.

Nhiệm vụ giúp bạn cần phải tiến hành theo phương pháp giúp bạn để nâng cao năng lực từ thấp lên cao, tiến tới tự giải quyết các nhiệm vụ cách mạng của dân tộc mình, vì cách mạng nước nào phải do nhân dân nước ấy tự làm, kết hợp với sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế.

Thực hiện nhiệm vụ vun đắp quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đều rất coi trọng thực hiện nguyên tắc tôn trọng quyền độc lập, tự chủ, bình đẳng và dân chủ của hai bên, được thể hiện rất rõ ràng trong các lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản.

Tháng 9 năm 1952, tại Hội nghị cán bộ Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Cán bộ Việt Nam sang công tác ở Lào phải hoàn toàn ở dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Trung ương Lào, nhất là của Thủ tướng Xuphanuvông. Tuyệt đối không được tự cao, tự đại, không được bao biện. Bất kỳ việc gì phải nghe Chính phủ Lào, cán bộ Việt Nam phải đoàn kết tinh thần, đoàn kết công tác với cán bộ và nhân dân Lào. Đây là mệnh lệnh của Chính phủ Trung ương Việt Nam cho cán bộ tình nguyện Việt Nam đi công tác ở Lào .

Giải thích rõ nguyên tắc độc lập, tự chủ và giá trị của nó, trong bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc (Lào), ngày 13 tháng 5 năm 1974, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản nói: “Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta phải do nhân dân ta tự làm lấy.

Đảng ta là một đảng lãnh đạo cách mạng thực sự, do đó phải giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, mỗi một dân tộc có độc lập tự chủ, mỗi một đảng có độc lập, tự chủ thì mới chứng minh một cách đầy đủ chủ nghĩa yêu nước nồng nàn kết hợp với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng” .

Trong quan hệ công tác giữa hai Đảng, cần coi trọng thực hành dân chủ và thành khẩn tự phê bình và phê bình, coi đó là những biện pháp tăng cường đoàn kết chặt chẽ vì mục tiêu giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Lào và toàn Đông Dương mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: “Mong cán bộ Việt Nam làm việc ở Lào thành khẩn, thật thà tự phê bình và mong các đồng chí Lào cũng phê bình anh em Việt Nam thật thà không nể nả. Mục đích là thật thà với nhau, giúp nhau tiến bộ và do đó đoàn kết chặt chẽ hơn, nể nả là sai. Vì cách mạng, vì đoàn kết ba dân tộc mà phê bình”.

Gắn liền với phương pháp trên, Người còn nhấn mạnh lề lối làm việc dân chủ trong sự phối hợp hoạt động của hai Đảng và theo lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại cuộc hội đàm giữa cán bộ lãnh đạo của hai Đảng năm 1961: (Hai bên) nhất trí nhưng không miễn cưỡng, phải bàn bạc phân minh, nêu cho hết ý kiến nhưng quyết định là Đảng Lào, vì cách mạng Lào do người Lào làm lấy.

Tại cuộc hội đàm với Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Lào, ngày 9 tháng 7 năm 1961, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trình bày về một số nguyên tắc lớn và lề lối làm việc giữa hai Đảng, bao gồm những nội dung:
“Mọi công việc ở Lào đều do Đảng Lào phụ trách. Cách mạng Lào do đồng chí Lào lãnh đạo. Đường lối, chủ trương do Đảng Lào đề ra, Việt Nam góp ý kiến. Cũng có lúc Việt Nam thấy vấn đề trước thì Việt Nam sẽ đề xuất ý kiến trước nhưng quyền quyết định vẫn do Đảng Lào” .
Ở phạm vi quan hệ giữa Đảng Lào với các đảng anh em khác thì “Đảng Lào tự mình bàn bạc thương lượng với các đảng anh em trong mọi vấn đề có liên quan. Trong phạm vi nào đó, theo yêu cầu của các đảng anh em và với sự thoả thuận của Đảng Lào, Việt Nam có thể làm trung gian giúp đỡ”.

Về quan hệ giữa hai nước, hai Chính phủ, đồng chí Lê Duẩn cho rằng: “tất nhiên có những quan hệ khác hơn quan hệ hai Đảng. Những vấn đề lớn trong quan hệ giữa hai Chính phủ thì hai Đảng cũng cần có sự trao đổi ý kiến trước với nhau”.

Đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Lào, biểu thị sự nhất trí với những nguyên tắc và lề lối làm việc giữa hai Đảng do đồng chí Lê Duẩn nêu ra. Tiếp đó, đồng chí nói rõ những nhiệm vụ cần Việt Nam giúp đỡ: “Giúp về đường lối, chính sách, nhưng giúp đào tạo cán bộ là vấn đề mấu chốt.

Giúp củng cố và mở rộng cơ sở đảng. Trong lực lượng vũ trang cũng giúp bồi dưỡng cán bộ và phát triển cơ sở đảng. Kinh tế là vấn đề mới, cần có sự giúp đỡ, nhất là trong vùng căn cứ, cả trước mắt và lâu dài, làm thế nào để vùng căn cứ trở thành một tấm gương mẫu mực cho các vùng khác” .

Những quan điểm, nguyên tắc và phương pháp xây dựng, phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam do lãnh đạo của Việt Nam và Lào nhất trí đề ra, được cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang các ngành, các đoàn thể, doanh nghiệp, địa phương,... của hai nước quán triệt và thực hiện trong thời chiến và thời hoà bình xây dựng đất nước, nhờ vậy đã góp phần rất quan trọng vào sự thành công của cách mạng hai nước Việt Nam, Lào.

Tất cả giá trị của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đều hiển hiện đậm nét đặc trưng mẫu mực, thuỷ chung, trong sáng, bền vững, chưa từng có trong lịch sử quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM