Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:16:32 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007  (Đọc 5389 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #80 vào lúc: 11 Tháng Mười Một, 2021, 10:00:00 am »

Thực hiện chủ trương của hai Đảng trong cuộc hội đàm tháng 12 năm 1973, Việt Nam từng bước rút chuyên gia ở tỉnh và huyện về nước (rút trước tháng 5 năm 1974), đồng thời điều chỉnh lại các lực lượng chuyên gia và quân tình nguyện còn lại để giúp Lào thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Đoàn chuyên gia quân sự 959 rút phần lớn cán bộ về nước, chỉ còn lại 100 đồng chí. Đoàn không còn hệ thống tổ chức giúp từ trung ương đến các đơn vị cơ sở nữa, mà chỉ hình thành các bộ phận nghiên cứu giúp Quân uỷ Trung ương và Bộ Chỉ huy tối cao Lào những vấn đề cơ bản về chủ trương, chính sách và sau đó giúp tổ chức thực hiện, rút kinh nghiệm để chỉ đạo chung.

Cũng trên tinh thần cuộc hội đàm giữa hai Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Đảng Lao động Việt Nam (tháng 12 năm 1973), tháng 4 năm 1974, tại Mương Viêng Xây (Sầm Nưa), Đoàn đại biểu Neo Lào Hắc Xạt và Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tiến hành hội đàm để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước. Hai bên đã thống nhất nhận định: do quyền lợi thiết thân trong đời sống hằng ngày, cán bộ, bộ đội và nhân dân ở dọc biên giới hai nước có khi còn hiểu lầm hoặc chưa hiểu sâu sắc về nhau. Trong lúc đó, một số kẻ có ý đồ xấu, nhất là do âm mưu chia rẽ của địch, nên đã có dư luận không tốt làm tổn thương đến tình đoàn kết đặc biệt giữa hai Đảng và nhân dân hai nước.

Hai bên nhất trí rằng việc giải quyết vấn đề biên giới nhằm mục đích: bảo vệ, củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị anh em đặc biệt vốn có từ lâu đời giữa nhân dân hai nước, để cùng nhau tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn nữa cho cách mạng của hai nước; để cho nhân dân dọc biên giới hai nước có trách nhiệm cùng nhau bảo vệ biên giới, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc qua lại, làm ăn của nhân dân dọc biên giới hai nước được ổn định, góp phần đập tan âm mưu chia rẽ và phá hoại của địch. Cuối cùng, hai bên thống nhất đề ra những nguyên tắc cần thiết để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước một cách công bằng và bình đẳng.

Tháng 2 năm 19741, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào tiến hành Hội nghị toàn thể lần thứ hai để xác định nhiệm vụ trong tình hình mới. Hội nghị đã cụ thể hoá đường lối của Đại hội Đảng lần thứ II (năm 1972), nhằm hoàn thành thắng lợi cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước. Hội nghị cũng phổ biến về nội dung cuộc hội đàm tháng 12 năm 1973 giữa hai Đảng và bàn những nội dung cần tiến hành để thực hiện các thoả thuận giữa hai Đảng.

Nhằm quán triệt Nghị quyết Trung ương tháng 2 năm 1974 và nội dung hội đàm giữa hai Đảng, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc từ ngày 18 tháng 3 đến 8 tháng 5 năm 1974  (có tài liệu nói ngày 13 tháng 5 năm 1974). Về dự Hội nghị có 145 đại biểu, gồm các đồng chí thường vụ tỉnh uỷ, trưởng, phó ban, ngành trung ương trở lên. Hội nghị đã dành nhiều thời gian để các đại biểu bộc lộ tâm tư nhằm củng cố tình cảm đặc biệt Việt Nam - Lào. Hội nghị đã thống nhất đánh giá những thành tích, ưu điểm to lớn của Việt Nam trong việc giúp đỡ cách mạng Lào, đồng thời cũng chỉ ra những thiếu sót cần khắc phục trong thời gian tới. Tại Hội nghị, đồng chí Cayxỏn Phômvihản phát biểu một số nội dung xoay quanh vấn đề quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về mối quan hệ Lào - Việt Nam.

Đồng chí khẳng định: mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam được hình thành, vun đắp và thử thách trong quá trình cách mạng. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gay go ác liệt chống đế quốc Mỹ, mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam không những được củng cố, tăng cường mà còn tạo một sức mạnh và niềm tin vào chiến thắng. Mỗi bước đi đến thắng lợi của cách mạng Lào đều kết hợp chặt chẽ giữa sự nỗ lực chủ quan của Đảng ta, dân tộc ta với sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng dân tộc dân chủ và hoà bình thế giới, trong đó liên minh chiến đấu giữa Đảng ta, nhân dân ta với Đảng Lao động Việt Nam, nhân dân Việt Nam là điều kiện cơ bản mà chúng ta coi trọng như một yếu tố của thắng lợi. Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào không những do yêu cầu khách quan, mà còn do lợi ích gắn bó với nhau bởi truyền thống tốt đẹp hiếm có trong lịch sử đấu tranh cách mạng lâu dài từ trước đến nay, cũng như từ nay về sau, vẫn còn là một yêu cầu thiết thân sống còn của mỗi nước. Thái độ của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đối với quan hệ Lào - Việt Nam là: chân thành, trung thực, không ích kỷ; tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau; thông cảm và thương yêu nhau; tự phê bình và phê bình đúng đắn; chủ động lãnh đạo quần chúng.

 Về mối quan hệ giữa tự lực cánh sinh với sự giúp đỡ của Việt Nam, phải tự lực cánh sinh như thế nào trước sự cải tiến cách giúp của chuyên gia Việt Nam, đồng chí nhấn mạnh mặt nhận thức tư tưởng: phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục hạn chế tư tưởng tự ty, ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước ngoài; có ý thức phấn đấu vươn lên, khắc phục mọi khó khăn, bi quan, dao động, đa nghi khi gặp khó khăn; nâng cao tinh thần chủ động, tích cực, tinh thần dám nghĩ dám làm...

Cuối cùng, đồng chí Cayxỏn Phômvihản đề ra một số công tác trước mắt cho các ngành, các địa phương phải tiến hành một cách khẩn trương trước tình hình đang thay đổi hiện nay.

Sau khi các tiểu đoàn quân giải phóng Lào vào hai thành phố trung lập bảo đảm an ninh, ngày 3 tháng 4 năm 1974, Hoàng thân Xuphanuvông, Chủ tịch Neo Lào Hắc Xạt và đoàn cán bộ Lào vào Viêng Chăn xúc tiến việc thành lập Chính phủ liên hiệp và Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp Lào. Ngày 5 tháng 4, Chính phủ liên hiệp do Hoàng thân Xuvănna Phuma làm thủ tướng, Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp do Hoàng thân Xuphanuvông làm chủ tịch chính thức ra mắt nhân dân cả nước. Các bộ chủ chốt được chia đều cho các bên, các thứ trưởng đều là người của phía bên kia tham gia. Quá trình thực hiện các điều khoản chủ yếu được diễn ra theo đúng tinh thần Hiệp định. Tháng 5 năm 1974, Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp thông qua báo cáo chính trị khẳng định: việc ký kết văn bản Hiệp định Viêng Chăn thành lập Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp và Chính phủ liên hiệp lâm thời là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử quan trọng, tạo ra bước ngoặt lớn trên con đường tiến lên của dân tộc Lào; phải tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ và những phần tử phản động... Tiếp đó, ngày 25 tháng 5 năm 1974, Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp thông qua Cương lĩnh chính trị 18 điểm do Neo Lào Hắc Xạt đưa ra nhằm xây dựng một nước Lào hoà bình, trung lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.

Trước sự đấu tranh kiên quyết và mạnh mẽ của nhân dân Lào, tháng 5 năm 1974, Mỹ và Thái Lan đã phải rút hết quân ra khỏi lãnh thổ Lào. Sự kiện này làm cho quân phái hữu vốn đã yếu nay lại càng suy yếu hơn. Trong khi đó, phong trào đấu tranh của nhân dân và sinh viên ngày càng phát triển, tạo thành cao trào trong toàn quốc. Ngày 9 tháng 7, học sinh, sinh viên và quần chúng cách mạng ở Thủ đô Viêng Chăn mít tinh trước trụ sở “Quốc hội Viêng Chăn”, đốt các biểu ngữ và áp phích phản động của bọn cực hữu. Sĩ quan và binh lính ở Phôn Khêng chống lại lệnh, không đi đàn áp cuộc biểu tình của nhân dân. Ngày 10 tháng 7, Chính phủ liên hiệp ra một quyết định quan trọng: giải tán “Quốc hội Viêng Chăn” - thành luỹ chính trị của giai cấp tư sản phản động thân Mỹ.

Ngoài việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại Lào về quân sự, chính trị, sau ngày ký kết các hiệp định hoà bình, Việt Nam đã tập trung cùng Lào giải quyết những yêu cầu cấp bách để mau chóng ổn định sản xuất, đời sống của nhân dân, đồng thời xúc tiến công tác điều tra cơ bản để chuẩn bị các mặt cho việc phát huy kinh tế của vùng giải phóng trong những năm tới.

Trong nông nghiệp, Việt Nam đã giúp đẩy mạnh sản xuất ở vùng giải phóng lên một bước. Ở Sầm Nưa, Phôngxalỳ, nhân dân Lào đã làm vụ chiêm, làm ruộng nương bậc thang, định canh định cư, giảm bớt tình trạng phá rừng. Chuyên gia Việt Nam giúp xây dựng được 20 tổ nông nghiệp cơ sở để xây dựng xã, bản có sản xuất khá và vững mạnh về các mặt; giúp tổ chức mạng lưới thú y, giúp một trại sản xuất tổng hợp nuôi lợn, bò, gà, cá và trồng rau, cây ăn quả; giúp khảo sát vùng cao nguyên Bôlavên...

Về thuỷ lợi, đã giúp phát triển mạng lưới thuỷ lợi nhỏ ở các địa phương, xây dựng 131 cơ sở thuỷ lợi nhỏ, tưới được 16.000 ha, trên tổng số 40.000 ha ruộng nước, xây dựng ba trạm thuỷ điện nhỏ.

Về lâm nghiệp, xây dựng một số lâm trường khai thác gỗ ở Sầm Nưa, mỗi năm khai thác từ 700 - 800 m3. Mở rộng cơ sở nghiên cứu kiến đỏ ở Sầm Nưa, xây dựng một cơ sở xẻ gỗ 1.000m3/năm ở Mương Xôi. Tiến hành nghiên cứu điều tra để tổ chức khai thác, chế biến gỗ ở Trung Lào.

Về công nghiệp và thủ công nghiệp, khôi phục một số nghề truyền thống trong nhân dân như dệt, rèn, gốm, cải tiến kỹ thuật nấu đường mía, nấu muối... Trong khu vực quốc doanh, giúp xây dựng được 26 cơ sở rèn, ba xưởng cơ khí thông dụng từ 20 - 50 tấn/năm, một xưởng trùng tu xe ôtô 50 xe/năm, một xưởng bảo dưỡng xe cấp ba, một xưởng mộc 300 m3/năm, một xưởng dệt có phân xưởng dệt kim (24 máy), 10 cơ sở dệt cải tiến (quy mô 10 - 20 khung cửi dệt), hai cơ sở may mặc (10 - 40 máy), tám cơ sở xay xát gạo (34 máy), ba cơ sở sản xuất bánh kẹo, một cơ sở sản xuất bánh mì nhỏ.

Về thăm dò địa chất, Việt Nam giúp điều tra phát hiện được 200 điểm báo quặng trong vùng giải phóng; giúp tìm nguồn nước ngầm phục vụ khu trung ương, điều tra quặng sắt vùng Xiêng Khoảng, fêrít sắt vùng Sầm Nưa, than đá vùng Xalavăn.

Về giao thông vận tải, phía Việt Nam giúp bảo đảm giao thông vận tải trên các đường chiến lược, giúp Lào thêm 1.240 km đường mới bảo đảm chạy vào mùa khô và đang giúp rải nhựa nâng cấp đường 6 và 17B. Ngoài ra, còn giúp công cụ, kỹ thuật để nhân dân vùng giải phóng tự làm khoảng 2.000 km đường nhỏ ngắn đi lại giữa các địa phương. Từ năm 1971 trở về trước, ngành vận tải Việt Nam vận chuyển khoảng 13 - 18 ngàn tấn hàng hoá, vũ khí đạn dược phục vụ kịp thời cho sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Lào. Sang năm 1972 - 1973, khối lượng vận chuyển được tăng dần. Riêng mùa khô 1972 - 1973 đã chuyển được 28.000 tấn, mùa khô 1973 - 1974 tăng lên 340 tấn và 300 tấn hàng theo yêu cầu đột xuất cho các tỉnh phía Bắc.

Về bưu điện, giúp xây dựng xong đường tải ba Na Mèo - Sầm Nưa - Hà Nội, giúp công tác bưu chính, điện báo bảo đảm liên lạc từ trung ương xuống các tỉnh, giữa tỉnh tới huyện, giữa Viêng Chăn tới trung ương.

Về xây dựng cơ bản, giúp xây cất được khoảng 57.400 m2 nhà các loại. Giúp cải tạo và xây dựng 7.000 m2 hang đá làm bệnh viện và cơ quan của Đảng, Mặt trận ở Sầm Nưa.

Về tài mậu, giúp xây dựng các ngành tài chính, ngân hàng, thương nghiệp từ trung ương xuống các tỉnh, hình thành mạng lưới thương nghiệp trong toàn vùng giải phóng. Giúp hình thành một số chế độ, thể lệ đưa dần công tác tài mậu vào nền nếp. Giúp phát hành đồng kíp mới (đồng kíp giải phóng), giữ vật giá tương đối ổn định, doanh số hàng năm đều tăng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.

Về văn hoá, giáo dục, y tế, dù trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt gặp nhiều khó khăn, ngành giáo dục Việt Nam vẫn giúp vùng giải phóng Lào duy trì và phát triển giáo dục cả ba hệ thống phổ thông, bổ túc và bình dân. Số học sinh chiếm 8% số dân trong vùng giải phóng. Ngoài ra, còn giúp xây dựng một số trường chuyên nghiệp trung cấp, sơ cấp như giao thông, bưu điện, nông nghiệp, thương nghiệp, y tế, sư phạm. Đặc biệt trong thời gian này, Việt Nam đã giúp Lào mở Trường Đại học Sư phạm Viêng Xây - trường đại học đầu tiên trong vùng giải phóng Lào. Một mạng lưới y tế được hình thành và hoạt động đều từ trung ương xuống đến xã. Trong toàn vùng giải phóng đã xây dựng 20 bệnh viện, 76 bệnh xá (với 1.949 giường bệnh), 2/3 số xã có trạm xá, 1/2 số bản có tủ thuốc, thành lập 11 trại chữa bệnh hủi, một xưởng sản xuất thuốc chữa bệnh ở trung ương.

Bộ Văn hoá nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giúp xây dựng Đoàn văn công ở trung ương và một số tỉnh, một đoàn xiếc trung ương, xây dựng ngành điện ảnh và đã quay được một số bộ phim thời sự, tài liệu phục vụ kịp thời cho công tác tuyên truyền, giáo dục; giúp công tác sáng tác văn học, âm nhạc, xuất bản, in các tài liệu tuyên truyền, giáo dục, sách giáo khoa... giúp xây dựng Đài Phát thanh Pathết Lào và đài trung lập, đảm bảo hoạt động liên tục trong mọi tình huống.

Công tác đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật: từ năm 1960, Lào bắt đầu gửi học sinh sang học tập ở Việt Nam. Các trường chuyên nghiệp Việt Nam (trừ các trường quân sự, công an) đã đào tạo hàng nghìn cán bộ thuộc đủ mọi ngành, nghề thuộc lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục. Số học sinh Lào đang học tập tại Việt Nam có 1.917 người thuộc các trường chuyên nghiệp, 4.318 học sinh phổ thông các cấp.
Ngoài ra, từ năm 1968, các tỉnh có biên giới với Lào cũng được Trung ương Đảng Lao động Việt Nam giao nhiệm vụ trực tiếp giúp các tỉnh thuộc vùng giải phóng Lào có chung biên giới với Việt Nam. Riêng Đoàn 559 có nhiệm vụ giúp đỡ toàn diện 14 huyện dọc tuyến đường miền Nam Lào.

Tại Việt Nam, cuối năm 1974, trước tình hình nhiệm vụ chuyên gia giúp Lào có sự thay đổi, từ ngày 5 đến 17 tháng 12, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã tổ chức Hội nghị chuyên gia chính trị, kinh tế, văn hoá để tổng kết, đánh giá sự đóng góp của chuyên gia Việt Nam trong 10 năm qua đối với cách mạng Lào (1964 - 1974), bàn phương hướng, nội dung giúp cách mạng Lào trong tình hình mới. Hơn 100 đại biểu thuộc các ngành công tác ở các địa phương của Lào đã về họp. Đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã đến thăm và nói chuyện với Hội nghị.

Hội nghị tập trung thảo luận các vấn đề như: cuộc chiến tranh xâm lược Lào của đế quốc Mỹ trong 10 năm qua (1964 - 1974); sự giúp đỡ của chuyên gia, ưu khuyết điểm và những bài học kinh nghiệm. Hội nghị thống nhất nhận định: trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua, ngoài sự nỗ lực vượt bậc của quân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Neo Lào Hắc Xạt, còn có lực lượng chuyên gia Việt Nam được Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, cử sang sát cánh cùng quân dân Lào trong cuộc đấu tranh kiên cường chống kẻ thù chung. Phong trào cách mạng Lào càng phát triển mạnh mẽ, do yêu cầu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, số lượng chuyên gia Việt Nam thuộc các ngành chính trị, kinh tế, văn hoá ngày càng tăng, nhất là từ năm 1964 đến 1972.

Đánh giá về thành tựu của chuyên gia, báo cáo tổng kết nhắc lại nhận định của đồng chí Cayxỏn tại cuộc hội đàm hai Đảng tháng 12 năm 1973: “Chuyên gia đã giúp tạo cho Lào những nhân tố quyết định để đảm bảo đi tới thắng lợi cuối cùng; giúp hình thành lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, mặt trận dân tộc thống nhất; giúp giành, giữ và xây dựng vùng giải phóng... Quan trọng và quyết định nhất là đã giúp xây dựng đảng Mác - Lênin chân chính, đội ngũ cán bộ, đảng viên từ ít đến nhiều, đã tiến bộ một bước khá dài, tự đảm đương được nhiều mặt công tác, tinh thần tự lực, tự cường tiến lên từng bước sâu hơn” .

Hội nghị xác định: có được những thành tựu trên của đội ngũ chuyên gia, trước hết là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng ta, sự tin cậy và giúp đỡ tận tình của các cấp ủy đảng, cán bộ và nhân dân Lào; đa số chuyên gia đã nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, kiên định lập trường chiến đấu, nhiệt tình cách mạng, chân thành, thuỷ chung, chí tình, chí nghĩa với bạn, coi sự nghiệp cách mạng của bạn như sự nghiệp của mình; có phẩm chất, năng lực và kinh nghiệm công tác, nhiều đồng chí lăn lộn nhiều năm với phong trào cách mạng Lào...

Hội nghị cũng thẳng thắn nêu ra các khuyết điểm của đội ngũ chuyên gia, đó là: trong giữ nguyên tắc, một số chuyên gia đã không thực hiện đúng lời dạy của Bác Hồ trong cuộc hội đàm giữa hai Đảng năm 1961 là “Chuyên gia phải đặt dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng bạn”, nên có đồng chí coi nhẹ sự chỉ đạo của cấp trên bạn, ít lắng nghe bạn, gò ép bạn theo ý định có sẵn của mình. Một số chuyên gia rập khuôn máy móc, thường đem kinh nghiệm, kiểu cách Việt Nam áp dụng máy móc vào Lào, không chịu khó nghiên cứu đặc điểm Lào, kể cả đặc điểm từng địa phương, từng dân tộc để vận dụng cho phù hợp; chưa làm tốt công tác điều tra, nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm.
Về bộ máy tổ chức, lẽ ra chuyên gia phải thu hẹp từng bước theo sự trưởng thành của bạn như đồng chí Lê Duẩn đã chỉ đạo: “Bộ máy của bạn càng được kiện toàn bao nhiêu thì bộ máy của ta càng phải nhỏ bấy nhiêu”, nhưng chúng ta đã tính toán chủ quan, theo ý muốn được việc, không ngừng tăng cường đội ngũ chuyên gia, bố trí còn dàn trải, chưa tập trung vào những khâu cơ bản...

Về nguyên nhân của những khuyết điểm trên, Hội nghị xác định: nguyên nhân cơ bản là một số chuyên gia chưa quán triệt đầy đủ tính chất đặc biệt và những nguyên tắc trong quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước. Nhiều đồng chí thường nhấn mạnh tính đặc biệt mà lãng quên mặt nguyên tắc của quan hệ.  

Cuối cùng, Hội nghị xác định: cách mạng Lào đã giành được thắng lợi to lớn, vượt bậc toàn diện, có cơ sở vững chắc, có ý nghĩa chiến lược, lịch sử và tính thời đại (năm 1973), nhiệm vụ của chuyên gia Việt Nam cũng góp phần kết thúc một giai đoạn lịch sử. Nhưng cuộc đấu tranh của nhân dân Lào còn đang tiếp diễn, ta còn phải tiếp tục giúp đỡ. Chúng ta cần khắc phục thiếu sót, tìm những hình thức mới cho phù hợp với bước ngoặt của cách mạng Lào nhằm đạt những thành tích cao hơn nữa.

Hội nghị chuyên gia chính trị, kinh tế, văn hoá là một dịp quan trọng để tổng kết, đánh giá sự đóng góp của chuyên gia Việt Nam trong 10 năm qua đối với cách mạng Lào. Tuy còn có những khuyết điểm, nhưng thành tích và ưu điểm của chuyên gia Việt Nam vẫn là mặt cơ bản. Đội ngũ chuyên gia đã không phụ lòng tin của Trung ương Đảng Nhân dân Lào, hoàn thành tốt nhiệm vụ của hai Đảng giao phó, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào, góp phần vun đắp tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #81 vào lúc: 11 Tháng Mười Một, 2021, 02:55:04 pm »

2. Phối hợp đẩy mạnh đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn năm 1975

Tại Lào, trước những thắng lợi cơ bản của cách mạng, tháng 11 năm 1974, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã họp đánh giá thắng lợi của hơn một năm thực hiện Hiệp định và đề ra nhiệm vụ của cách mạng Lào trong thời gian tới. Hội nghị đánh giá: phong trào cách mạng trong các tầng lớp nhân dân, công nhân, sinh viên, công chức và một bộ phận quân đội, cảnh sát thuộc phái hữu được cách mạng giác ngộ ngày càng lên cao. Phạm vi kiểm soát tạm thời của phái Viêng Chăn bị thu hẹp (chỉ còn dọc bờ sông Mê Công), nhưng lại bị chia thành hai khu (khu trung lập và khu chính quyền Viêng Chăn quản lý) và cả hai khu đều có cơ sở của cách mạng.

Trên cơ sở phân tích, nhận định, đánh giá đầy đủ tình hình, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào đề ra nhiệm vụ và mục tiêu trước mắt là: “Phải kiên quyết đấu tranh xoá bỏ sự thao túng và khống chế của đế quốc Mỹ; tranh thủ phân hoá lực lượng phái hữu làm cho chúng bị cô lập... kiên quyết không để cho bọn phản động lật đổ Chính phủ liên hiệp và gây lại xung đột vũ trang. Đấu tranh làm cho bộ máy chính quyền Viêng Chăn từ trung ương tới cơ sở bị tê liệt, không có điều kiện thực hiện các chủ trương phản động. Tranh thủ sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, từng bước cải tiến cơ cấu kinh tế, tài chính ngày càng có lợi cho sự phát triển kinh tế của cả nước...”.
Phương châm hành động trong giai đoạn tới được xác định là: giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập, dân chủ, hoà hợp dân tộc, thống nhất quốc gia. Tranh thủ tiến công địch nhưng phải biết nhân nhượng, nhằm tranh thủ mọi lực lượng (có thể được), trung lập hoá mọi lực lượng, kể cả tranh thủ Nhà vua và Hoàng tộc...

Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng lan rộng và sôi nổi. Từ cuộc đấu tranh vì sự công bằng, đòi quyền sống trong hoà bình, quyền dân chủ tiến tới cuộc nổi dậy giành chính quyền từng phần.
Ở Viêng Chăn, sau nhiều phiên họp, cuối tháng 12 năm 1974, Chính phủ liên hiệp và Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp buộc phải chấp nhận Cương lĩnh chính trị 18 điểm và Chương trình hành động 10 điểm của phía cách mạng đưa ra và coi Cương lĩnh 18 điểm là nguyên tắc hoạt động đối nội, đối ngoại của Chính phủ liên hiệp lần này.

Những thành công của Lào trên mặt trận đấu tranh pháp lý và sự có mặt của lực lượng vũ trang cách mạng ở hai thành phố trung lập đã làm hậu thuẫn cho nhân dân sôi nổi đứng lên đấu tranh. Ngụy quân, ngụy quyền hoang mang dao động và xuất hiện sự phân hoá sâu sắc. Nội bộ địch vốn đã có nhiều mâu thuẫn, nay những mẫu thuẫn đó lại càng sâu thêm, nhiều nơi chúng đã dùng lực lượng quân sự để tranh giành quyền lực, đem quân thanh toán lẫn nhau, như ở bắc và nam Thà Khẹc.

Tháng 12 năm 1974, binh lính và sĩ quan tiến bộ của Tiểu đoàn BC102 ở Huội Xài do Chăn Xúc chỉ huy đã nổi dậy đấu tranh chống các phần tử thân Mỹ, đòi thi hành Hiệp định và Nghị định thư, đòi trừng trị bọn phá hoại Hiệp định và bọn tham nhũng. Được sự phối hợp của lực lượng cách mạng, lực lượng này đã ly khai khỏi sự điều hành của Phân khu Huội Xài và xin được hợp tác với Neo Lào Hắc Xạt. Quân dân Huội Xài đã nhanh chóng kết hợp cùng lực lượng binh biến nổi dậy giành chính quyền huyện và tỉnh. Bọn địch ở đây bị bất ngờ, tháo chạy, lực lượng cách mạng làm chủ toàn bộ khu vực Huội Xài. Tại Quân khu 1, quân nguỵ đưa lực lượng từ Luổng Phạbang đến để phản kích. Neo Lao Hắc Xạt sử dụng thế hợp pháp của Chính phủ liên hiệp yêu cầu địch phải rút về, tình hình trở lại ổn định.

Từ thắng lợi Huội Xài, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào rút ra kết luận: với tình thế cách mạng hiện nay, chủ trương kết hợp tiến công địch bằng ba đòn chiến lược (nổi dậy của quần chúng, binh biến ly khai trong binh lính địch, áp lực quân sự của các lực lượng vũ trang cách mạng) và mũi đấu tranh pháp lý để giành chính quyền từng khu vực là đúng đắn và sáng tạo. Bộ Chính trị quyết định phổ biến kịp thời kinh nghiệm Huội Xài cho các địa phương trong cả nước, yêu cầu các địa phương học tập để đẩy mạnh đấu tranh.

Tại Việt Nam, vào nửa cuối năm 1974, thế và lực cách mạng ở miền Nam đã mạnh hơn hẳn, quân nguỵ ngày càng suy yếu rõ rệt, nội bộ nước Mỹ đang khủng hoảng nghiêm trọng. Tuy nhiên, về điều kiện quốc tế, Việt Nam có những khó khăn mới: cả Liên Xô và Trung Quốc đều chấm dứt viện trợ quân sự cho Việt Nam.

Căn cứ vào tình hình trong nước và quốc tế, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hạ quyết tâm: phải nhanh chóng giải phóng miền Nam với thời gian nhanh nhất có thể. Từ ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến 8 tháng 1 năm 1975, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã xác định: giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976 và nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Sau khi hoàn thành các mặt chuẩn bị cả về thế và lực, đầu tháng 3, Việt Nam bắt đầu tiến hành cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Mở đầu là chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 - Quân khu 2 nguỵ, giải phóng Tây Nguyên, tạo sự thay đổi cơ bản về so sánh lực lượng và thế chiến lược, dẫn tới sự sụp đổ về chiến lược và tinh thần của địch. Đồng thời với hướng Tây Nguyên, tại Quân khu Trị - Thiên và Quân khu 5, quân dân Việt Nam mở chiến dịch Trị - Thiên - Huế (từ ngày 5 đến 26 tháng 3), chiến dịch Đà Nẵng (từ ngày 26 đến 29 tháng 3), diệt và làm tan rã phần lớn Quân đoàn 1 - Quân khu 1, giải phóng năm tỉnh miền Trung, trong đó có hai thành phố lớn là Huế và Đà Nẵng, đập tan âm mưu co cụm chiến lược của địch, tạo bước phát triển nhảy vọt về cục diện chiến tranh. Tiếp đó, sau khi quét sạch địch ở Phan Rang (ngày 16 tháng 4), Xuân Lộc (ngày 21 tháng 4), các quân đoàn chủ lực Việt Nam từ nhiều hướng tiến về tập trung mở chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30 tháng 4), tiến công giải phóng Sài Gòn. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã tung bay trên nóc Dinh Độc lập. Chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam toàn thắng.

Trải qua cuộc trường chinh 30 năm với ba mốc son chói lọi: Cách mạng tháng Tám 1945, Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 và Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 toàn thắng, dân tộc Việt Nam đã hoàn thành vẻ vang sự nghiệp cứu nước. Ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới kéo dài hơn một thế kỷ trên đất nước Việt Nam đã vĩnh viễn chấm dứt. Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên thế giới, đây là lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc nhỏ, vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế kém phát triển đã vùng lên tự giải phóng và liên tiếp đánh thắng những cường quốc đế quốc chủ nghĩa, chủ yếu bằng sức của chính mình, nêu một tấm gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cụm từ “Việt Nam - Hồ Chí Minh” đi vào ngôn ngữ các dân tộc, đồng nghĩa với lương tri và phẩm giá con người, với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

   Tại Lào, bước sang năm 1975, khí thế đấu tranh chính trị của quần chúng ngày càng lên cao, mở đầu là cuộc biểu tình của 300 học sinh Pạc Xê diễn ra trong nhiều tuần lễ. Tiếp đến là cuộc đấu tranh của nhân dân mường Noỏng Bốc từ ngày 4 tháng 1 đến ngày 21 tháng 2 năm 1975, dưới sự lãnh đạo của chi bộ đảng ở địa phương. Trước sự đàn áp của địch, nhiều đảng viên đã anh dũng hy sinh, nhưng cuộc đấu tranh vẫn được giữ vững. Chính phủ liên hiệp phải chấp nhận giải quyết mọi yêu sách của quần chúng. Cuộc nổi dậy của nhân dân Noỏng Bốc đã châm ngòi nổ cho một cao trào mới của cách mạng Lào.

Trước thắng lợi dồn dập to lớn của nhân dân Việt Nam, Campuchia trong tháng 4 năm 1975 và tình hình thuận lợi của cách mạng Lào, sau khi tới Hà Nội trao đổi với đồng chí Lê Duẩn về vấn đề tiến hành khởi nghĩa ở Lào và hành động phối hợp của Việt Nam, đồng chí Cayxỏn Phômvihản triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị vào tháng 4 năm 1975, quyết định đẩy mạnh công tác chuẩn bị mọi mặt để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, dự kiến vào mùa khô 1975 - 1976.

   Thắng lợi của hai nước Việt Nam và Campuchia, đặc biệt là thắng lợi ngày 30 tháng 4 năm 1975 của nhân dân Việt Nam đã cổ vũ to lớn đối với quân, dân Lào, đồng thời làm cho bọn phái hữu ngày càng hoang mang lo sợ. Ngày 1 tháng 5, hàng vạn công nhân viên chức, học sinh, sinh viên cùng các tầng lớp nhân dân ở Viêng Chăn xuống đường biểu tình, thị uy đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, yêu cầu bọn cực hữu ra khỏi Chính phủ liên hiệp. Khí thế đấu tranh cách mạng sục sôi lan rộng khắp mọi miền đất nước Lào.

   Trước thời cơ cách mạng đang chín muồi, ngày 5 tháng 5 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào tổ chức Hội nghị mở rộng. Hội nghị đã nhất trí hoàn toàn với nhận định của đồng chí Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản: “Cách mạng Lào đang đứng trước thời cơ thuận lợi; vấn đề giành chính quyền về tay nhân dân cần được tiến hành gấp rút. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, chúng ta có đủ khả năng hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi toàn quốc chỉ trong thời gian ngắn”. Bộ Chính trị đã thống nhất kế hoạch giành chính quyền trên toàn quốc và kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên cả ba vùng chiến lược nắm vững thời cơ ngàn năm có một “nổi dậy đồng loạt và tiến công toàn diện, liên tục, mạnh mẽ giành chính quyền về tay nhân dân trong thời gian ngắn nhất bằng ba đòn chiến lược và một mũi đấu tranh pháp lý” .

   Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về việc giành chính quyền, các cấp uỷ đảng đã lãnh đạo các cuộc nổi dậy của quần chúng nhân dân dưới mọi hình thức, như: mít tinh, tuần hành biểu dương lực lượng, đưa kiến nghị... làm cho bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền bị uy hiếp. Về quân sự, ngày 6 tháng 5, một cánh quân lớn quân giải phóng nhân dân Lào, gồm các tiểu đoàn 1, 2, 13, 701 và 705 cùng các đại đội pháo binh, xe tăng do các đồng chí Chummaly Xaynhaxỏn và Khẻm Phon chỉ huy, đã đập tan cụm phòng ngự của Lữ đoàn 2 quân đặc biệt Vàng Pao ở ngã ba Xála Phu Khun, sau đó phát triển lực lượng về hai hướng Viêng Chăn và Luổng Phạbang. Nguỵ quyền Viêng Chăn lâm vào tình trạng hoang mang, dao động đến cực điểm.

   Đêm 7 tháng 5 năm 1975, Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào họp khẩn cấp xem xét tình hình, hạ quyết tâm: “đưa toàn bộ lực lượng vũ trang ở các hướng nhanh chóng tràn vào vùng đối phương đang kiểm soát”, kiềm chế địch, hỗ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng, phong trào binh biến của binh lính địch, giành chính quyền tại chỗ. Thường vụ Bộ Chính trị cũng có kế hoạch hiệp đồng với phía Việt Nam, nhờ Việt Nam làm hậu thuẫn bảo vệ vùng giải phóng và hỗ trợ khi cần thiết.

   Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 8 tháng 5, Bộ Chỉ huy tối cao Lào ra lệnh cho các hướng đưa bộ đội nhanh chóng áp sát địch, chiếm lĩnh các vị trí xung yếu trong thành phố, thị xã. Trên hướng đường 13 - Xála Phu Khun, sau khi chiếm Phôn Xỉ Đa, quân giải phóng nhân dân Lào thọc xuống thị trấn Ka Xỷ và ngày 8 tháng 5, chiếm Phả Hom, truy kích địch về Văng Viêng. Hướng lên Luổng Phạbang, Tiểu đoàn 13 chiếm Phả Đeng, Phả Khêm, sau đó phối hợp với lực lượng trong thành phố, vận động Tiểu đoàn (BI) 106 của nguỵ nổi dậy làm nội ứng, cùng bộ đội chiếm thị trấn Xiêng Ngân, cắt đứt con đường chiến lược nối hai thành phố lớn Viêng Chăn và Luổng Phạbang. Cánh quân thứ hai của Quân khu Xiêng Khoảng, gồm các tiểu đoàn 24, 15, 16, 48 và Pắtchây do đồng chí Koong Xỉ chỉ huy, tiến vào áp sát Xảm Thông - Loòng Chẹng, Xa Nu. Cánh quân thứ ba, gồm Tiểu đoàn 613 cùng đại đội đặc công và các đơn vị địa phương, do đồng chí Khăm Pha chỉ huy tiến qua khu du kích Phu Phalavẹc - Loọng Xan vào chiếm Phu Khẩu Khoai - một vị trí quan trọng trong tuyến phòng thủ vòng ngoài của Thủ đô Viêng Chăn. Cánh quân thứ tư gồm các đơn vị đặc công, một số đơn vị địa phương do đồng chí Xa Thiến chỉ huy tiến qua Thà Thôm, xuống Mương Cầu vào chiếm thị xã Pạc Xan (tỉnh lỵ Bolikhămxay và là sở chỉ huy Phân khu nam Viêng Chăn thuộc Quân khu 5 của địch).

   Sau khoảng hơn 10 ngày thực hiện mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy tối cao, các lực lượng vũ trang quân giải phóng nhân dân Lào đã triển khai xong lực lượng tạo thế bao vây, chia cắt trên chiến trường cả nước, từng khu vực và cả ở các thành phố, thị xã. Việc triển khai lực lượng vũ trang đã tạo ra sự áp đảo đối với địch ở vùng chúng kiểm soát, có tác dụng to lớn thúc đẩy khí thế của quần chúng thành cao trào cách mạng, làm chỗ dựa cho phong trào binh biến nổi dậy của binh lính địch.

Để đối phó với tình hình, đế quốc Mỹ âm mưu lùi một bước để bảo toàn lực lượng, chờ thời cơ phản kích lại bằng cách cho bọn tay sai đầu sỏ như Xỉ Xúc Ná Chămpaxắc, Ngồn Xánánicon, Vàng Pao xin từ chức, đồng thời cho bọn tay sai trong quân đội làm binh biến giả, tuyên bố ly khai, xin trực thuộc Chính phủ liên hiệp và hợp tác với các lực lượng Pathết Lào.

Nhưng trước cao trào đấu tranh sôi sục của quần chúng, sau thất bại của bọn tay sai ở Sài Gòn, Phnôm Pênh, bọn phái hữu vô cùng hoang mang, dao động. Từ ngày 9 tháng 5, nhiều tên phản động đầu sỏ trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền bỏ trốn sang Thái Lan, nên bọn phản động còn lại như rắn mất đầu, bị tan rã từng mảng.

Nắm vững thời cơ, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, một mặt, lãnh đạo nhân dân đưa kiến nghị yêu cầu quân giải phóng nhân dân Lào vào bảo vệ các thành phố, đồng thời ép Phuma chấp nhận yêu sách trên của quần chúng và giao cho tướng Khăm Uộn Búpphả (thuộc lực lượng Trung lập yêu nước, ở Phôngxalỳ) giữ chức quyền Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (bộ trưởng là Xixúc đã bỏ chạy) phụ trách trực tiếp và toàn diện quân đội phía Viêng Chăn.

   Ngày 13 tháng 5, Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 1 quân giải phóng nhân dân Lào chiếm trại lính Chinaimô, một trung tâm quân sự lớn nhất ở Viêng Chăn. Ngày 14 tháng 5, nhân dân, học sinh và binh lính cùng cảnh sát, gồm hơn 1 vạn người đã tuần hành lên án chính quyền phản động, đòi cơ quan USAID của Mỹ phải chấm dứt hoạt động. Cùng ngày, Tiểu đoàn 1 tiếp tục chiếm cơ quan và trường hiến binh ở Km 5.

    Ở Xavẳnnakhệt, trên 4.000 học sinh, sinh viên cùng nhân dân và binh lính đã biểu tình thị uy đòi cơ quan USAID của Mỹ phải cút về nước. Ngày 15 tháng 5, hàng ngàn nhân dân thị xã Văng Viêng, đã nổi dậy lật đổ chính quyền cũ. Bộ đội địa phương Viêng Chăn chiếm được thị trấn Phôn Hoộng. Cùng ngày, quân và dân Chămpaxắc nổi dậy làm chủ Pạc Xê, trung tâm của Quân khu 4.

   Đến giữa tháng 5, lực lượng vũ trang cách mạng Lào đã hình thành thế bao vây, chia cắt chiến lược đối với hai phân khu xung yếu của địch. Bọn đầu sỏ và bọn ác ôn tìm cách bỏ chạy sang Thái Lan. Ngày 16 tháng 5, các tiểu đoàn 24, 46, Pắtchây đánh chiếm căn cứ Xảm Thông - Loòng Chẹng sào huyệt cuối cùng của lực lượng đặc biệt Vàng Pao. Ngày 17 tháng 5, nhân dân, học sinh biểu tình thị uy ở thị xã Thà Khẹc và Noỏng Bốc... Cùng ngày, các tiểu đoàn 407, 406, 409 chiếm một số mục tiêu quan trọng ở Luổng Phạbang. Ngày 18 tháng 5, các tiểu đoàn 705, 701, 586, có pháo binh, xe tăng đi cùng đã tiến vào nội đô Viêng Chăn. Ngày 19, quân và dân Lào làm chủ Thà Khẹc; ngày 21, làm chủ Xavẳnnakhệt - trung tâm của Quân khu 3. Trước áp lực đang gia tăng của cách mạng, ngày 22 tháng 5, Chính phủ liên hiệp ra quyết định giải tán cơ quan USAID và ngày 27 tháng 5, đại diện Mỹ tại Lào phải ký Văn bản bảy điểm, chấp nhận rút toàn bộ cơ quan USAID ra khỏi Lào. Bộ máy thực dân kiểu mới của Mỹ ở Lào bị xoá bỏ hoàn toàn.

   Cũng trong thời gian này, trên hướng đường 23 (Hạ Lào), các đơn vị thuộc Mặt trận 23 gồm: ba tiểu đoàn chủ lực số 10, 11, 12; tiểu đoàn pháo binh, đại đội xe tăng và các đại đội địa phương của các tỉnh Chămpaxắc, Xalavăn, Áttapư... đã phối hợp với lực lượng thanh niên và hàng chục ngàn nhân dân địa phương nổi dậy giải phóng các tỉnh ở Hạ Lào.

   Dựa vào áp lực quân sự, cao trào đấu tranh giành chính quyền của quần chúng diễn ra bằng “ba đòn chiến lược” tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở nhiều nơi. Phong trào binh biến cũng diễn ra ở nhiều đơn vị, tính đến ngày 31 tháng 5, đã có 45 nơi có binh lính nguỵ nổi dậy ly khai quân đội Vương quốc, trở về hợp tác với chính quyền cách mạng. Làn sóng đấu tranh của quần chúng trong tháng 5 đã có tới hàng vạn lượt người tham gia. Tính đến 28 tháng 5, lực lượng cách mạng Lào đã thành lập chính quyền ở 15 tỉnh, thành và 67 huyện, thị.

   Phối hợp với phong trào nổi dậy của quần chúng, Neo Lào Hắc Xạt đã tận dụng cơ sở pháp lý, cách chức bọn chỉ huy phái hữu phản động, tạm giữ một số sĩ quan cao cấp, tập trung vũ khí, không cho địch điều động lực lượng, đồng thời mở phiên toà xét xử bọn phản động. Đến thời điểm này, lực lượng cảnh sát, quân đội Viêng Chăn gần như đã bị xoá bỏ, vũ khí, phương tiện kỹ thuật của chúng đã thuộc lực lượng yêu nước quản lý. Chính quyền Viêng Chăn cùng quan thầy Mỹ lâm vào tình thế bế tắc hoàn toàn.

 Ngày 7 và 8 tháng 7, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào ra chỉ thị xoá bỏ hoàn toàn chính quyền và quân đội của địch, đồng thời thành lập chính quyền cách mạng trong cả nước. Sau khi họp Bộ Chính trị, đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã có cuộc hội đàm với đồng chí Lê Duẩn tại thành phố Hồ Chí Minh, trong hai ngày 10 và 11 tháng 7 năm 1975. Đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã thông báo về diễn biến của cuộc nổi dậy đầy mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân Lào và một số chủ trương của Bộ Chính trị, như: sau khi cải tổ Chính phủ liên hiệp xong (tháng 10 năm 1975), Đảng Nhân dân cách mạng Lào dự định phát động một phong trào dân chủ trong cả nước để bầu ra các cơ quan chính quyền địa phương, rồi tiến tới tổ chức tổng tuyển cử vào năm 1976, lập một chính phủ chính thức do người của Đảng làm thủ tướng, Phuma thôi giữ chức thủ tướng; Trong Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào có một số đồng chí chủ trương duy trì Chính phủ liên hiệp vì cho rằng Phuma từ chức, Mỹ sẽ cắt viện trợ. Nhưng Bộ Chính trị đã họp thảo luận đi đến kết luận phải làm triệt để; Bộ Chính trị dự định khoảng từ tháng 3 hoặc tháng 4 năm 1976, sẽ tiến hành bầu cử quốc hội và lập chính phủ do cách mạng nắm hoàn toàn.

Đồng chí Lê Duẩn thay mặt Đoàn đại biểu Việt Nam nhất trí với chủ trương của Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Đồng chí nêu một số vấn đề cần nghiên cứu quyết định cho phù hợp, đó là: ta nắm được chính quyền các tỉnh, quân đội phái hữu không còn nữa, vậy ta có thể không cần cải tổ chính phủ mà Hội đồng chính phủ do ta làm thủ tướng, còn ông Phuma làm chủ tịch hội đồng; dự định tiến hành tổng tuyển cử vào đầu năm 1976 có chậm không; phải đề phòng họ phản kích ta, phá ta.

   Sau cuộc hội đàm, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã đẩy nhanh tiến trình giành chính quyền ở Lào. Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1975, nhân dân ở các tỉnh Bolịkhăn (Bolikhămxay), Xiêng Khoảng, Chămpaxắc, Xaynhabuli, Luổng Phạbang dưới sự lãnh đạo của đảng bộ cơ sở đã lần lượt nổi dậy giành chính quyền. Ngày 23 tháng 8, hàng vạn nhân dân Thủ đô Viêng Chăn mít tinh trọng thể tại quảng trường Thạt Luổng đón nhận sự ra đời của chính quyền thủ đô. Ngay sau khi giành được chính quyền ở Viêng Chăn, Trung ương Đảng Lào chỉ đạo các địa phương tiến hành vận động bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #82 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2022, 03:12:32 pm »

   Trước sức mạnh đấu tranh của “ba đòn chiến lược”, ngày 25 tháng 11 năm 1975, tại Thủ đô Viêng Chăn, Hội đồng quốc gia chính trị liên hiệp đã họp và đi đến quyết định chấp nhận yêu cầu chính đáng của nhân dân là xoá bỏ chế độ quân chủ, giải tán Chính phủ liên hiệp, triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc, thành lập chính quyền dân chủ nhân dân. Ngày 29 tháng 11 năm 1975, Vua Xỉxávàng Vắtthana tuyên bố thoái vị, trao lại toàn bộ quyền hành cho nhân dân, chấm dứt chế độ quân chủ tồn tại hàng trăm năm ở nước Lào.

   Trong không khí tưng bừng của những ngày chiến thắng, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Lào được tổ chức tại Thủ đô Viêng Chăn (ngày 1 và 2 tháng 12 năm 1975), với sự tham gia của 264 đại biểu đại diện cho các tầng lớp của nhân dân các bộ tộc, các tôn giáo, các tổ chức quần chúng, các vị lão thành, trí thức và lực lượng vũ trang, trong đó phần lớn là đại biểu của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận Lào yêu nước và liên minh các lực lượng trung lập yêu nước. Đại hội đã quyết định xoá bỏ chế độ quân chủ và thiết lập chế độ cộng hoà dân chủ nhân dân. Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, Hoàng thân Xuphanuvông được cử giữ chức chủ tịch nước, đồng chí Cayxỏn Phômvihản được cử làm thủ tướng. Cuộc đấu tranh gian khổ, kéo dài suốt 30 năm liên tục của nhân dân các bộ tộc Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã giành thắng lợi trọn vẹn.

   Đây là thắng lợi trọn vẹn và triệt để nhất của dân tộc Lào từ trước đến nay, chẳng những đã khôi phục nền độc lập của Tổ quốc bị chà đạp trên hai thế kỷ, mà lần đầu tiên nhân dân Lào có một nền dân chủ thực sự. Chính quyền cách mạng được thiết lập trên phạm vi cả nước, chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân được xây dựng và kiện toàn, các quyền lợi cơ bản của người dân về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá được bảo đảm. Thắng lợi của 30 năm chiến tranh giải phóng thực sự “đã làm cho vận mệnh dân tộc và xã hội Lào thay đổi sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới cho công cuộc xây dựng Tổ quốc Lào muôn vàn yêu quý của chúng ta tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường độc lập, tự chủ, thống nhất và phồn vinh, bảo đảm vĩnh viễn cho nhân dân các dân tộc Lào cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” . Thắng lợi này còn nâng cao uy tín và vị trí của nước Lào trên trường quốc tế...

Sau khi Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (tháng 1 năm 1973) và Hiệp định Viêng Chăn về Lào (tháng 2 năm 1973) được ký kết, cục diện quân sự và chính trị trên chiến trường Đông Dương đã có sự thay đổi cơ bản. Xu thế tất thắng của cách mạng Đông Dương đã trở nên rõ rệt, không thể nào đảo ngược. Trước tình hình và vận hội mới, quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển. Vùng giải phóng hai nước, hành lang chiến lược Đông - Tây Trường Sơn tiếp tục mở rộng, hoàn chỉnh vẫn là cơ sở quan trọng giúp cho cách mạng hai nước đi tới ngày toàn thắng.

Một điểm nổi bật trong quan hệ của hai Đảng trong giai đoạn này là mặc dù trong điều kiện hoà bình nhưng hai Đảng vẫn thường xuyên có các cuộc hội đàm để thống nhất những chủ trương phương pháp giúp nhau hiệu quả, đưa cách mạng Lào ngày một phát triển. Hai Đảng đã có sự thống nhất về quan điểm chính trị, về phương thức giành thắng lợi của cách mạng mỗi nước. Hai Đảng cũng rất thẳng thắn nêu những ưu, khuyết điểm trong quá trình giúp nhau và cùng nhau bàn cách khắc phục để quan hệ Việt Nam - Lào ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn.
Mặc dù đất nước Lào chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, song âm mưu của Mỹ và phái hữu vẫn không thay đổi. Vì vậy, theo yêu cầu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, chuyên gia quân sự và lực lượng quân tình nguyện Việt Nam vẫn tiếp tục ở lại Lào giúp đỡ việc xây dựng, bảo vệ vùng giải phóng, đồng thời sẵn sàng đối phó với mọi tình huống khi có chiến tranh xảy ra. Tuy nhiên, khác với giai đoạn trước, việc bố trí chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam ở giai đoạn này đã giảm đi nhiều và đòi hỏi phải phù hợp với tình hình chính trị mới cũng như phù hợp với sự phát triển của Lào.

Quan hệ về kinh tế và văn hoá giữa hai nước cũng tiếp tục phát triển. Việt Nam vẫn tiếp tục chi viện về vật chất cho cách mạng Lào. Hai bên đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác trao đổi và tương trợ kinh tế, văn hoá. Nhiều đoàn chuyên gia kinh tế, văn hoá thuộc nhiều cấp bộ, ngành của Việt Nam sang Lào triển khai thực hiện các hiệp định, nghị định thư đã ký kết. Trong lĩnh vực đào tạo, giáo dục Việt Nam đã giúp Lào có hiệu quả hơn.

*
*     *

Giai đoạn 1963 - 1975, Việt Nam và Lào tiếp tục kháng chiến chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược. Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong giai đoạn này thực sự là liên minh chiến đấu toàn diện, vững chắc, đặc biệt trong sáng và đóng vai trò hết sức quan trọng và có tính quy luật trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của mỗi nước.

Hai Đảng đã xác định Đông Dương là một chiến trường thống nhất để phát huy sức mạnh đoàn kết liên minh, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với nhau trên mọi chủ trương, hành động chiến lược và trên tất cả các lĩnh vực nhằm tạo ra thế chiến lược tiến công chung cho cả ba nước, đánh bại từng kế hoạch, từng biện pháp chiến lược lớn của địch ở Đông Dương.

Trong lĩnh vực đấu tranh chính trị, ngoại giao, Lào và Việt Nam đã vạch mặt đế quốc Mỹ chính là kẻ thù xâm lược, là nguồn gốc gây ra chiến tranh ở Lào và Việt Nam, từ đó, động viên nhân dân hai nước Lào, Việt đoàn kết đứng lên đánh đuổi xâm lược, và thúc đẩy nhân dân tiến bộ thế giới đứng về phía cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân hai nước Lào, Việt Nam.

Trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, giao thông vận tải... nhân dân hai nước đã mang hết sức mình xây dựng hậu phương chiến lược của từng nước liên kết với nhau hình thành hậu phương chiến lược chung của cả Đông Dương. Dưới ánh sáng Nghị quyết Trung ương 13 Đảng Nhân dân Lào, quân dân Lào được sự giúp đỡ của Việt Nam đã ra sức xây dựng vùng giải phóng về mọi mặt với quy mô như một quốc gia, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân các bộ tộc Lào, tạo ra những biến đổi sâu sắc trong quan hệ xã hội và sức mạnh đoàn kết các bộ tộc Lào. Vùng giải phóng Lào ngày càng được mở rộng đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và hỗ trợ thiết thực cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và Campuchia.

Cách mạng Lào phát triển, vùng giải phóng Lào vững mạnh chính là những điều kiện tiên quyết để quân dân Lào tạo điều kiện và cùng góp công sức xây dựng tuyến đường chiến lược tây Trường Sơn và các căn cứ đứng chân của bộ đội chủ lực ở khu vực biên giới, góp phần quan trọng tạo điều kiện cho Việt Nam đánh thắng các chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc; đồng thời cũng góp phần trực tiếp cho việc xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng Lào và Campuchia. Nói về sự đóng góp của nhân dân các bộ tộc Lào đối với đường Trường Sơn và sự nghiệp chống Mỹ của dân tộc Việt Nam, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Cayxỏn Phômvihản khẳng định: “Do có đường mòn Hồ Chí Minh qua đất Lào và nhân dân Lào đã hy sinh chịu đựng với 3 triệu tấn bom của giặc Mỹ, đã góp phần làm cho Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong việc giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam” .

Có thể khẳng định: nhân dân Lào đã góp phần xứng đáng vào việc xây dựng, phát triển tuyến đường Hồ Chí Minh - tây Trường Sơn, một căn cứ kháng chiến hết sức quan trọng, một hậu phương chiến lược vĩ đại của ba nước Đông Dương. Tuyến đường đã trực tiếp gắn bó các chiến trường ba nước bằng hệ thống đường huyết mạch và hệ thống kho tàng, căn cứ vận chuyển từ hậu phương lớn miền Bắc Việt Nam vào. Trên tuyến đường Trường Sơn, bộ đội Lào cùng bộ đội Việt Nam liên minh chiến đấu, phân công phối hợp giữ vững vùng trời, vùng đất cho hệ thống giao thông thông suốt liên tục. “Tuyến đường vận tải chiến lược Trường Sơn là biểu tượng trong sáng mối tình đoàn kết, gắn bó liên minh giữa ba nước trong cuộc chiến đấu chung trên một chiến trường thống nhất. Ở đó vừa thể hiện sự chi viện giữa hậu phương lớn với các chiến trường, vừa biểu hiện sự hy sinh cao cả của ba dân tộc dựa lưng vào nhau chống kẻ thù chung” .

Trên lĩnh vực quân sự, Việt Nam với tinh thần quốc tế vô sản và phương châm “giúp bạn là mình tự giúp mình”, tiếp tục đáp ứng những yêu cầu cơ bản của Lào, mang hết khả năng giúp Lào xây dựng, phát triển lực lượng. Đặc biệt, trong xây dựng lực lượng vũ trang, đã giúp cả về cơ sở vật chất, về xây dựng tổ chức ba thứ quân và về nghệ thuật quân sự; giúp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Quân tình nguyện Việt Nam đã cùng quân giải phóng nhân dân Lào mở nhiều chiến dịch cùng hàng loạt trận chiến đấu đánh bại từng bước cuộc “Chiến tranh đặc biệt” rồi “Đặc biệt tăng cường” của Mỹ ở Lào, làm cho đế quốc Mỹ phải phân tán lực lượng đối phó, góp phần hỗ trợ đắc lực, tạo thời cơ thuận lợi cho các bước chuyển biến của chiến tranh cách mạng ở Việt Nam và tạo đà phát triển đi lên của cách mạng Campuchia.

Đúng như đồng chí Đại tướng Khăm Tày Xiphănđon, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lào đã khẳng định: Nhân dân Lào sẽ không bao giờ quên hình ảnh của các chiến sĩ quốc tế Việt Nam vượt qua sự vây chặn dày đặc của quân thù đến với Lào khi cách mạng hãy còn trong trứng nước, chịu đựng đói rét bệnh tật, âm thầm len lỏi đi sâu vào quần chúng giúp Lào xây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng vũ trang... Từ rừng núi đến đồng bằng, từ vùng giải phóng đến vùng địch hậu, biết bao chiến sĩ quốc tế Việt Nam đã đem máu xương của mình hoà với máu xương chiến sĩ và nhân dân Lào, trở thành những người con bất tử của dân tộc Lào, làm rạng rỡ thêm non sông đất nước Lào thân yêu .

Thành công của quân tình nguyện Việt Nam tại Lào là thành quả của sự giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng, hai quân đội Việt Nam - Lào. Đây là một điển hình mẫu mực về quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu và hợp tác giữa quân đội hai nước độc lập, có chủ quyền, tôn trọng, tin cậy lẫn nhau trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung. Quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu tại Lào đã góp phần quan trọng tạo nên mối quan hệ giữa hai dân tộc và thực sự là biểu tượng sinh động nhất cho tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào.

Như vậy, sau 30 năm đấu tranh đầy hy sinh gian khổ dưới sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin chân chính, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào đã cùng nhau đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành thắng lợi trọn vẹn cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của hai nước. Thắng lợi trọn vẹn của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào thực sự là thắng lợi của 30 năm liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #83 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2022, 03:30:04 pm »

PHẦN THỨ BA
QUAN HỆ ĐOÀN KẾT ĐẶC BIỆT, HỢP TÁC TOÀN DIỆN
VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM TỪ NĂM 1976 ĐẾN 2007

 

 
Chương VII
QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN KHẢO NGHIỆM,
MỞ ĐƯỜNG ĐỔI MỚI (1976 - 1986)



I. QUAN HỆ VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, ỔN ĐỊNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC (1976-1981)


1. Bối cảnh lịch sử và những yêu cầu mới đặt ra trong quan hệ giữa Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam sau năm 1975

Từ sau năm 1975, quan hệ giữa Việt Nam và Lào bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ từ quan hệ chủ yếu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước, chuyển sang quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Đảng cầm quyền, hai Nhà nước và hai quốc gia độc lập, có chủ quyền, cùng khảo nghiệm, tìm tòi từng bước đổi mới để đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là thời kỳ Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã lớn mạnh thật sự, vươn lên làm chủ sự nghiệp cách mạng và vận mệnh của đất nước mình. Do vậy, cả hai nước tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, xây dựng và tăng cường quan hệ liên minh, liên kết và hợp tác toàn diện cả chính trị, quốc phòng - an ninh, kinh tế, văn hoá, giáo dục... Đây là đặc điểm quan trọng nhất, chi phối dẫn tới sự thay đổi về chất trong nội dung, phương thức và các nguyên tắc quan hệ giữa hai quốc gia - dân tộc, nâng quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai nước lên tầm cao mới.

Nhân dân hai nước bước vào thời kỳ mới với hào khí của những người chiến thắng, nô nức phấn khởi bắt tay vào xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của hai Đảng cùng chung mục tiêu, lý tưởng, được rèn luyện qua quá trình đấu tranh cách mạng đầy cam go, thử thách chống giặc ngoại xâm, khối đoàn kết dân tộc thống nhất của hai nước ngày càng được củng cố và mở rộng. Đó là những tiền đề thuận lợi, mở đường cho hai nước thực hiện mục tiêu chiến lược tiếp theo: xây dựng và bảo vệ đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Với những thuận lợi cơ bản kể trên, từ năm 1975, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của cả Việt Nam và Lào cũng đứng trước những khó khăn, thách thức to lớn. Những năm tháng đầu tiên sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cùng với niềm hạnh phúc được sống trong hoà bình, độc lập, tự do, đất nước thống nhất, nhân dân hai nước Việt Nam và Lào đều phải đương đầu với hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh kéo dài. Ngoài ra, còn nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình khôi phục và phát triển đất nước sau chiến tranh đòi hỏi hai nước cần phải giải quyết kịp thời. Đặc biệt là nền kinh tế nông nghiệp của hai nước đều lạc hậu, trình độ canh tác, năng suất, sản lượng thấp...

Ở Việt Nam, hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh vô cùng ác liệt đã tác động sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội 1.

Việt Nam là một nước kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, nhưng từ sau năm 1975 đến giữa những năm 1980, sản xuất lương thực không đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu trong nước. Đời sống nhân dân rất khó khăn... Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cấp thiết đòi hỏi phải giải quyết.
Thêm vào đó, tuy bị thất bại hoàn toàn trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhưng đế quốc Mỹ và các thế lực phản động vẫn không từ bỏ chính sách chống phá cách mạng Việt Nam. Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố cấm vận đối với Việt Nam hòng ngăn cản quá trình khôi phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế và xây dựng đất nước của Việt Nam. Chúng sử dụng bọn phản động, lực lượng tham gia trong quân đội và chính quyền Sài Gòn còn ngoan cố, tiến hành các vụ khiêu khích phá hoại, tác động đến tâm lý người dân, hòng gây ra các cuộc bạo loạn phản cách mạng ở miền Nam...

Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào sau khi ra đời cũng phải đương đầu với bộn bề những khó khăn, thách thức to lớn. Cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm đã để lại hậu quả thật nặng nề 2.

Về kinh tế, thời gian này Lào vẫn là nước chậm phát triển, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đều lạc hậu. Một bộ phận không nhỏ dân cư sống du canh, du cư, làm nương rẫy. Hàng năm, Lào phải nhập 30 vạn tấn lương thực. Thu nhập bình quân đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới - khoảng 130 USD/người; 85% dân số Lào sản xuất tiểu nông, với nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên. Tỷ lệ người mù chữ cao...

 Sau năm 1975, Mỹ triển khai mạnh chiến lược diễn biến hòa bình, gây bạo loạn lật đổ ở Lào. Chúng sử dụng Thái Lan làm bàn đạp tập hợp các lực lượng phản động lưu vong Lào, nhằm nhanh chóng đảo ngược tình thế ở Lào bằng các biện pháp tổng hợp: đóng cửa biên giới, bao vây cấm vận, nuôi dưỡng và chỉ đạo lực lượng Vàng Pao từ đất Thái trở về xây dựng căn cứ phỉ, chuẩn bị lực lượng ngầm gây bạo loạn, lật đổ; đồng thời tăng cường câu kết với các thế lực phản động nằm vùng hoạt động chống phá cách mạng Lào. Tính đến năm 1976, lực lượng này có khoảng 25.000 tên, lập các đảng phái chính trị phản động như “Chính phủ hoàng gia Lào” do Phủi Xánánicon làm thủ tướng; lập Bộ Chỉ huy của “Mặt trận cứu quốc Lào” do Phumi Nòxavẳn và Vàng Pao đứng đầu; lập “Mặt trận cứu nước trung lập” do Koongle nắm. Chúng nhiều lần dùng tàn quân phái hữu kết hợp với các nhóm phản động nằm vùng gây bạo loạn ở những nơi chính quyền cách mạng còn non yếu; lôi kéo hàng vạn người Lào di tản, tổ chức mạng lưới gián điệp, lực lượng ngầm, xây dựng cơ sở chính trị phản động ở nội địa Lào, đưa lực lượng người Lào lưu vong tổ chức các đơn vị vũ trang vào hoạt động chiếm một số vùng quan trọng nhằm lật đổ chế độ mới ở Lào và ám hại cán bộ lãnh đạo ngay tại Thủ đô Viêng Chăn; mua chuộc, lôi kéo cán bộ, đảng viên, chia rẽ hàng ngũ Đảng Nhân dân cách mạng Lào, chia rẽ Lào với Việt Nam để tách Lào khỏi mối quan hệ với Việt Nam.

Chính quyền cách mạng Lào còn non trẻ, nhưng phải gánh vác nhiệm vụ nặng nề: củng cố độc lập, chủ quyền mới giành được, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất nước, cải thiện đời sống của nhân dân, tăng cường lực lượng cách mạng.

Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam từ sau năm 1975 được thực hiện trong tình hình mỗi nước đều có những khó khăn chồng chất và những thuận lợi cơ bản như đã đề cập ở phần trên, đồng thời mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cũng chịu tác động mạnh mẽ bởi những thay đổi của bối cảnh quốc tế và khu vực.

Trước hết, đó là quan hệ hợp tác của hai nước được mở rộng trong bối cảnh dư luận quốc tế và lực lượng tiến bộ trên thế giới ủng hộ các nước mới giành được độc lập, trong đó có Việt Nam và Lào; có hậu thuẫn là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ, chi viện. Vì thế, cũng như Việt Nam, Lào đưa ra quan điểm “Tranh thủ được sự viện trợ quốc tế to lớn, nhất là của các nước xã hội chủ nghĩa anh em” . Việt Nam và Lào ký với các nước xã hội chủ nghĩa nhiều hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác, nhiều hiệp định, hiệp nghị kinh tế, văn hoá để tăng cường, mở rộng quan hệ với các nước. Đồng thời trong bối cảnh trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão, đẩy nhanh xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam và Lào, có cơ hội và điều kiện để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ của thế giới để có thể đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Tuy nhiên, đi cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt dẫn tới nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, là sự lợi dụng việc đầu tư vào các nước đang phát triển để thực hiện mục tiêu chính trị, làm cho các nước này phụ thuộc về kinh tế, dẫn đến phụ thuộc về chính trị.

Sau năm 1975, cục diện mới trong khu vực đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước ASEAN có khả năng độc lập, tự chủ hơn trong chính sách, chiến lược đối ngoại. Từ tháng 2 năm 1976, tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ nhất của ASEAN, các nước ASEAN đã ký kết Hiệp ước thân thiện và hợp tác (Hiệp ước Bali) nhằm xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình, ổn định, thể hiện xu hướng mong muốn cải thiện quan hệ với các nước Đông Dương. Tháng 6 năm 1976, khối quân sự SEATO đã giải thể theo đề nghị của các nước ASEAN. Để góp phần giữ gìn hoà bình, ổn định xây dựng đất nước, Việt Nam chủ trương sẵn sàng thiết lập và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trong khu vực trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình 3. Ngày 5 tháng 7 năm 1976, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh công bố Chính sách 4 điểm của Việt Nam đối với khu vực, trong đó khẳng định những nguyên tắc cơ bản cho việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước Đông Nam Á. Quan hệ song phương được chính thức thiết lập giữa Việt Nam với Philíppin (tháng 7 năm 1976) và Thái Lan (tháng 8 năm 1976). Đến thời điểm này, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với năm nước thành viên ASEAN. Trong những năm 1977 - 1978, quan hệ Việt Nam với từng nước thành viên ASEAN phát triển mạnh mẽ, hàng loạt các hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại được ký kết. Thiện chí của Việt Nam cùng với những cố gắng của các nước ASEAN đã tạo ra những cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng một Đông Nam Á hoà bình, ổn định và hợp tác.

Trong khi đó, chính sách cấm vận của Mỹ cùng với những hoạt động của các lực lượng chống đối mặc dù bị thất bại nhưng vẫn nuôi dưỡng mưu đồ và tìm cách chống phá, lật đổ chính quyền mới, chia rẽ mối quan hệ Việt - Lào. Trong thời kỳ này, quan hệ hợp tác giữa hai nước gặp phải không ít khó khăn do sự tiếp tục chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, bị bao vây, cấm vận về kinh tế và những diễn biến phức tạp trong khu vực. Sự tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn đối với khu vực Đông Nam Á đã trở thành một trong những lý do để khu vực này lại trở thành điểm nóng vào cuối thập niên 70 và thập niên 80 thế kỷ XX. Các lực lượng thù địch trong khu vực và trên thế giới cũng tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Sau khi Campuchia giành được độc lập, lực lượng Khơme đỏ đã thực hiện chính sách diệt chủng đối với nhân dân trong nước và tiến hành khiêu khích, xâm phạm biên giới Việt Nam, Thái Lan và Lào, đặc biệt là biên giới Tây Nam Việt Nam. Hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, ngày 7 tháng 1 năm 1979, quân đội Việt Nam đã giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ lực lượng Khơme đỏ, giúp Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, xây dựng cuộc sống mới, hồi sinh đất nước. Trong bối cảnh đầy khó khăn phức tạp, Việt Nam vừa triển khai các hoạt động ngoại giao gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với xây dựng hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á, vừa thúc đẩy đối thoại giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN, đẩy lùi đối đầu, phân hoá liên minh chống Việt Nam, chia rẽ đoàn kết Việt - Lào.

Cùng với những diễn biến phức tạp trên, quan hệ Việt Nam - Lào sau năm 1975 diễn ra trong điều kiện chủ nghĩa xã hội thế giới, đặc biệt là ở Liên Xô và các nước Đông Âu dần lâm vào tình trạng trì trệ dẫn đến khủng hoảng vào những năm 1980. Trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc, cách mạng Việt Nam và Lào đã nhận được sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả về cả vật chất và tinh thần từ các nước xã hội chủ nghĩa. Bước vào công cuộc xây dựng đất nước, cả hai dân tộc đi lên từ điểm xuất phát thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy, sự trì trệ, khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới, đặc biệt là ở Liên Xô và Đông Âu, đã tác động không nhỏ tới sự phát triển của cả Việt Nam và Lào trong điều kiện lịch sử mới.




-----------------------------------------------------------------
1. Bom đạn Mỹ đã giết hại gần 2 triệu người, làm 2 triệu người bị tàn tật và 2 triệu người bị nhiễm chất độc hóa học, trong đó có khoảng 5 vạn trẻ em bị dị dạng. Sau ngày giải phóng, 3 triệu người ở thành thị và nông thôn miền Nam không có việc làm; hàng chục vạn dân nghèo, thiếu đói và 27 vạn thương, bệnh binh cần được giúp đỡ ổn định cuộc sống;...

2. Hầu hết các thị xã, thị trấn, 40% bản, mường trong vùng giải phóng cũ, các trường học, bệnh viện, nhiều tuyến đường giao thông, các kênh mương thuỷ lợi... bị tàn phá nặng nề. Số trâu, bò chỉ còn một nửa so với thời kỳ trước chiến tranh, 10 vạn ha trên tổng số 50 vạn ha ruộng bị bỏ hoang...

3. Ngay sau khi ký Hiệp định Pari (tháng 1 năm 1973), Việt Nam đã bắt đầu triển khai chính sách khu vực, đẩy mạnh quan hệ song ph¬ương với các nư¬ớc ASEAN. Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Malaixia vào tháng 3 năm 1973 và Xingapo vào tháng 8 năm 1973.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #84 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2022, 03:37:42 pm »

2. Việt Nam và Lào chủ trương từng bước mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện (1976 - 1981)

a) Quan hệ hai nước trong thời gian đầu khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định xây dựng đất nước (từ năm 1976 đến tháng 7 năm 1977)


Trong cuộc đấu tranh lâu dài chống kẻ thù chung là đế quốc Pháp, Mỹ và bọn phản động tay sai giành độc lập, tự do cho dân tộc, mối quan hệ giữa hai Đảng, quân đội và nhân dân hai nước dựa trên truyền thống đoàn kết giữa hai dân tộc, tinh thần quốc tế vô sản được hai Đảng và lãnh tụ hai nước dày công vun đắp, đã trở thành mối quan hệ đặc biệt thuỷ chung, trong sáng, mẫu mực, hiếm có và là nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng mỗi nước. Bước sang giai đoạn cách mạng mới, cả hai nước đều lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cùng thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng và củng cố chế độ mới, không ngừng cải thiện đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân, nhanh chóng đuổi kịp trình độ phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc điểm này chi phối mạnh mẽ, sâu sắc mối quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt Nam cũng như yêu cầu khách quan tất yếu đòi hỏi phải củng cố, mở rộng và phát triển một cách toàn diện mối quan hệ Việt - Lào trong thời kỳ mới.

Đảng và Nhà nước Việt Nam sau khi thống nhất đất nước, đã thực hiện chính sách đối ngoại nhằm góp phần cùng các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, củng cố khối đoàn kết, tăng cường giúp đỡ lẫn nhau. Ở Lào, ngay trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc của Lào ngày 1 tháng 12 năm 1975 tại Thủ đô Viêng Chăn, đồng chí Cayxỏn Phômvihản khẳng định: “Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, hòa bình, hữu nghị và không liên kết nhằm xây dựng thành công một nước Lào hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất, phồn vinh, tiến bộ xã hội”; “xây dựng mối quan hệ hoà bình, hữu nghị với các nước láng giềng”, “đoàn kết và hợp tác với nhân dân Việt Nam và Campuchia anh em để bảo vệ mọi thành quả của cách mạng và xây dựng đất nước cho phù hợp với nguyện vọng của nhân dân ta” .

 Hơn một tháng sau khi cách mạng Lào thắng lợi, ngày 5 tháng 2 năm 1976, Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào do đồng chí Cayxỏn Phômvihản - Tổng Bí thư Đảng, Thủ tướng Chính phủ dẫn đầu sang thăm chính thức Việt Nam. Thành viên của Đoàn gồm các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào nắm giữ các vị trí quan trọng trong Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào: hai Phó Thủ tướng và nhiều Bộ trưởng: Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thương nghiệp, Bộ trưởng Bộ Thông tin truyền thông, văn hoá và du lịch, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Đây là lần đầu tiên đoàn đại biểu cấp cao nhất của Lào đi thăm nước ngoài sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc.

Tiếp các đồng chí lãnh đạo Đảng và Chính phủ Lào, thay mặt Đảng và Chính phủ Việt Nam, đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam bày tỏ quan điểm rằng: nhân dân Việt Nam đời đời ghi lòng tạc dạ sự giúp đỡ vô giá, tình nghĩa thuỷ chung của cách mạng Lào, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi hoàn toàn của cách mạng Việt Nam. Đồng chí khẳng định, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam nguyện làm hết sức mình ủng hộ Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào xây dựng thành công một nước Lào hoà bình, độc lập, dân chủ, thống nhất, thịnh vượng và tiến lên chủ nghĩa xã hội, nguyện góp phần công sức cùng nhân dân Lào khắc phục hậu quả chiến tranh và xây dựng đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước sẽ gắng sức vun đắp cho tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác anh em mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, đưa Việt Nam và Lào vững bước tiến lên giành thắng lợi mới cho cách mạng hai nước. Trong dịp này, hai đoàn đại biểu lãnh đạo Đảng và Nhà nước của hai nước đã tiến hành hội đàm trao đổi các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm, ra Tuyên bố chung Việt Nam - Lào ngày 11 tháng 2 năm 1976. Tuyên bố chung khẳng định hai nước bước sang giai đoạn cách mạng mới, nhân dân hai nước quyết tâm phấn đấu củng cố độc lập dân tộc và xây dựng đất nước phồn vinh, phù hợp với điều kiện và đặc điểm riêng của mỗi nước.

Trên tinh thần đó, ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết số 251-NQ/TW về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu rõ: “Đảng ta khẳng định phương châm nỗ lực đáp ứng cao nhất các yêu cầu khách quan của cách mạng Lào với hết khả năng của mình và tiếp tục vận dụng tinh thần nghị quyết đã đề ra trước đây là giúp cơ bản, toàn diện, liên tục, lâu dài, một cách thích hợp với điều kiện mới và làm cho việc giúp đỡ có hiệu quả cao”. Nghị quyết khẳng định: trong tình hình mới, hai Đảng đều đã nắm chính quyền trong cả nước, mối quan hệ giữa Việt Nam với Lào có điều kiện phát triển và được triển khai toàn diện, giữa các tổ chức, các ngành và các cấp tương đương, thông qua các hình thức hoạt động đối ngoại giữa Đảng với Đảng, Nhà nước với Nhà nước và giữa các đoàn thể nhân dân với nhau...

Chính phủ Việt Nam sẽ hết sức giúp Lào về vốn, về chuyên gia, kỹ thuật và lực lượng lao động, tranh thủ hợp tác về kinh tế, văn hoá, quân sự, xây dựng đường sá, sân bay, cơ sở quốc phòng, khai thác tài nguyên đất nước, trao đổi hàng hoá, văn hoá phẩm... Phối hợp với Lào trong các hoạt động quốc tế, đấu tranh ngoại giao, bảo vệ độc lập chủ quyền của nhau: “Bộ Chính trị yêu cầu toàn thể cán bộ, đảng viên và quân, dân cả nước phải nâng cao tinh thần quốc tế vô sản, quán triệt sâu sắc và ra sức phấn đấu thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với cách mạng Lào, coi đó là một bộ phận khăng khít và hết sức quan trọng gắn chặt với nhiệm vụ đối với Tổ quốc và cách mạng nước ta” .

Ba tháng sau khi Nghị quyết của Bộ Chính trị về tăng cường quan hệ đặc biệt Việt - Lào ra đời, ngày 5 tháng 7 năm 1976, Việt Nam công bố chính sách 4 điểm đối với các nước Đông Nam Á, trong đó có Lào, khẳng định những nguyên tắc cơ bản cho việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước Đông Nam Á. Chính sách này có tác dụng tích cực đến tình hình Đông Nam Á.

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 251 của Bộ Chính trị, từ ngày 29 tháng 8 đến 1 tháng 9 năm 1976, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam do đồng chí Lê Thanh Nghị, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ dẫn đầu đã sang thăm chính thức Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Đây là đoàn đại biểu Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đầu tiên đến thăm Lào sau khi Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời. Trong quá trình thăm đất nước Lào, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam đã làm việc với Đoàn đại biểu Chính phủ Lào do đồng chí Nủhắc Phumxavẳn làm trưởng đoàn. Hai bên thông báo cho nhau rất nhiều vấn đề về tình hình hai nước. Những ý kiến mà Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam đưa ra được Lào đánh giá cao, thể hiện được quan điểm, lập trường rõ ràng của Việt Nam trong việc ủng hộ về chính trị, giúp đỡ về kinh tế một cách vô tư đối với cách mạng Lào. Trong chuyến làm việc này, Lào đã thể hiện sự tin tưởng đối với Việt Nam qua việc trao đổi bàn bạc với Việt Nam trước khi tuyên bố lập trường của Lào về vấn đề hợp tác với nước ngoài.

Kết quả đáng ghi nhận của chuyến làm việc này là một loạt hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã được ký kết (ngày 31 tháng 8 năm 1976): Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật; Hiệp định về thành lập Uỷ ban Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật; Hiệp định về liên vận và quá cảnh hàng hoá, hành khách, hành lý; Hiệp định về thương mại; Hiệp định viện trợ và cho vay 1976 - 1977 1. Các hiệp định được ký kết nhằm mục tiêu tăng cường mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào, phát triển sự hợp tác toàn diện về mọi mặt giữa hai nước.

Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả Hiệp định, hai Chính phủ đã ký Hiệp định thành lập Uỷ ban Hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật hoạt động thường xuyên giữa hai Chính phủ. Uỷ ban này có nhiệm vụ xem xét những vấn đề phát triển, mở rộng và làm tốt đẹp thêm các mối quan hệ kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa hai nước, đồng thời xem xét quá trình thực hiện và đề ra các biện pháp để thực hiện tốt Hiệp định... 2.

Chuyến thăm Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và việc hai nước ký một loạt các hiệp định đã tạo cơ sở pháp lý, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, tin cậy, hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa hai nước.

Cuối năm 1976, từ ngày 14 đến 20 tháng 12 năm 1976 diễn ra một sự kiện trọng đại đối với toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Việt Nam. Đó là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Lao động Việt Nam - Đại hội đầu tiên sau ngày đất nước Việt Nam thống nhất. Đại hội đã quyết định đưa cả nước tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

Về mối quan hệ với Lào và Campuchia, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội nêu rõ: “Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, làm cho ba nước vốn đã gắn bó với nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh của mỗi nước” .

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam được ghi trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IV của Đảng một lần nữa khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tiếp tục củng cố, tăng cường hơn nữa tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác với Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào.

Dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng Lào sang dự Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản trong bài phát biểu chào mừng Đại hội, đã nhấn mạnh: “... Tôi xin thành thật nói rằng, trong mọi thành công của cách mạng Lào đều có sự đóng góp trực tiếp của cách mạng Việt Nam; trên mọi chiến trường của Tổ quốc thân yêu của chúng tôi đều có xương máu của các chiến sĩ quốc tế Việt Nam hoà lẫn với xương máu của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc Lào chúng tôi. Trong sự trưởng thành mọi mặt nhanh chóng và vững chắc của cách mạng Lào hiện nay đều có sự giúp đỡ lớn lao, vô giá của cách mạng Việt Nam”.

Đồng chí khẳng định, Đảng Nhân dân cách mạng Lào và nhân dân các dân tộc Lào: “... nguyện ra sức củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt đó, bảo vệ tình đoàn kết Lào - Việt như bảo vệ con ngươi của mắt mình, đồng thời ra sức xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau một cách toàn diện, lâu dài mãi mãi, để cùng nhau bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng đất nước giàu mạnh...” .
Sự kiện Đoàn đại biểu Đảng Nhân dân cách mạng Lào sang dự Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với bài phát biểu của Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản đã có tác động tích cực trong việc tăng cường quan hệ Việt - Lào trong giai đoạn cách mạng mới. Từ tháng 5 năm 1976 đến tháng 12 năm 1976, diễn ra các cuộc gặp gỡ và hội đàm giữa Tổng Bí thư, Bộ Chính trị của hai Đảng.

Nhằm thực hiện tốt Nghị quyết 251 của Bộ Chính trị, căn cứ vào tình hình thực tế ở Lào và quan hệ Việt Nam - Lào, ngày 30 tháng 12 năm 1976, Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam ra Thông báo số 03-TB/TW: Quyết định của Bộ Chính trị về việc phân công trong nhiệm vụ tăng cường giúp đỡ cách mạng Lào đối với một số ban chuyên môn của Trung ương Đảng: Ban Đối ngoại, Ban Tuyên huấn, Ban Cán sự Đảng ngoài nước, Ban Công tác miền Tây. Theo đó, Ban Đối ngoại Trung ương có nhiệm vụ giúp Trung ương theo dõi tình hình mọi mặt ở Lào; nghiên cứu đề xuất các vấn đề thuộc về chủ trương, đường lối để Trung ương góp ý với Lào; trực tiếp nghiên cứu giúp Lào một số vấn đề về chính trị theo yêu cầu; giúp Trung ương theo dõi các ngành, các địa phương thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng Lào đảm bảo cho mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng, hai dân tộc ngày càng được củng cố và tăng cường.

Ban Tuyên huấn Trung ương trực tiếp quản lý và chỉ đạo các trường Đảng miền Tây đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng Lào. Ban Cán sự Đảng ngoài nước có nhiệm vụ quản lý toàn bộ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam giúp Lào trên đất Lào. Ban Công tác miền Tây sẽ tập trung tổng kết công tác giúp Lào trong hai cuộc kháng chiến và sẽ giải thể sau khi hoàn thành một số việc còn lại.

Ngày 10 tháng 5 năm 1977, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị về tăng cường quan hệ Việt Nam - Lào và công tác giúp Đảng Lào (1977 - 1980). Cùng ngày, Ban Bí thư ra Thông tư số 13-TT/TW về việc chọn cán bộ sang giúp Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Thông tư nêu rõ, theo yêu cầu của Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định cử một số cán bộ các ngành công tác Đảng và Chính phủ Việt Nam sang giúp các ngành của Trung ương và Chính phủ Lào, với tổng số khoảng 70 đồng chí và phải đảm bảo chất lượng và đủ số lượng. Theo đúng thời gian đã được thoả thuận, số cán bộ này sẽ sang nước Lào trước tháng 7 năm 1977.

Để đảm bảo thống nhất quản lý việc giúp đỡ, hợp tác các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá với Lào, ngày 16 tháng 5 năm 1977, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Quyết định số 02-QĐ/TW về tổ chức và nhân sự Ban Cán sự Đảng về công tác giúp Lào (Ban Cán sự Đảng về công tác C), do đồng chí Đặng Thí làm bí thư, đồng chí Nguyễn Chính Giao và đồng chí Phan Hiền, uỷ viên. Ban Cán sự Đảng về công tác giúp Lào có nhiệm vụ, theo yêu cầu của Lào, phối hợp với các ban của Trung ương Đảng và các cơ quan nhà nước tổ chức nghiên cứu các vấn đề thuộc đường lối, chủ trương để Trung ương gợi ý với Lào; hướng dẫn các ngành, địa phương trong công tác giúp đỡ và hợp tác với Lào, tổng hợp tình hình để báo cáo lên Trung ương; quản lý, chỉ đạo đội ngũ cán bộ được cử sang giúp các cơ quan lãnh đạo và cùng Ban Cán sự Đảng ngoài nước làm công tác chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên được cử sang giúp Lào.

Hợp tác quốc phòng, an ninh trong bối cảnh tình hình Lào có biến động, an ninh chính trị, chủ quyền lãnh thổ đứng trước sức ép từ phía các thế lực phản động trong nước, khu vực và quốc tế vào cuối năm 1976 đầu năm 1977.

 Là một nước có đường biên giới dài 1.650 km với Thái Lan, trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân các dân tộc Lào vì độc lập, tự do của dân tộc, Thái Lan luôn thi hành chính sách thù địch, cấu kết với các thế lực đế quốc phản động ngăn cản bước tiến của cách mạng Lào. Khi cách mạng Lào thắng lợi, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, Thái Lan lại mở cửa đón bọn phản động Lào. Thái Lan trở thành nơi chứa chấp, nuôi dưỡng, giúp chúng thành lập Chính phủ Lào lưu vong. Cùng với Mỹ, Thái Lan trực tiếp huấn luyện, trang bị vũ khí và đưa chúng trở lại phá Lào từ bên trong. Ngày 20 tháng 9 năm 1976, theo Đài BBC, một số lớn quân đội phái hữu Lào đã vượt sang Thái nay trở về mang theo súng, đạn mưu toan gây bạo loạn ở một số nơi như Luổng Phạbang, Viêng Phu Kha, Chămpaxắc. Phối hợp với hoạt động của bọn phản động Lào, Thái Lan tăng cường các hoạt động khiêu khích, cho máy bay, thuyền chiến xâm phạm lãnh thổ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào... Về kinh tế, cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 1976, Thái Lan đã chi hàng tỷ kíp để rút hàng hoá ở các thành phố mới giải phóng của Lào, ngăn không cho Lào xuất khẩu gỗ qua Thái Lan; ra lệnh ngừng chở dầu quá cảnh sang Lào; cấm đưa vào Lào các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân như thóc giống, sữa bột, thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế... .

Trước tình hình đó, đáp ứng yêu cầu của cách mạng Lào, quân tình nguyện Việt Nam trở lại Lào vào cuối năm 1976. Tháng 1 và tháng 4 năm 1977, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Lào gặp nhau ở Viêng Chăn để bàn việc đưa quân tình nguyện Việt Nam trở lại Lào. Hai bên nhất trí triển khai bố trí lực lượng cụ thể trên một số địa bàn trọng yếu. Cùng với quân tình nguyện, theo yêu cầu của bạn, các tổng cục tổ chức các đoàn chuyên gia chuyên ngành và một số đơn vị chuyên môn sang giúp bạn xây dựng cơ sở hạ tầng và dự trữ lương thực ở hai khu căn cứ hậu cần chiến lược (Cánh đồng Chum và Mương Phin). Đây không chỉ là biểu hiện của tinh thần sẵn sàng giúp đỡ cách mạng Lào của quân và dân Việt Nam, mà còn chính là sự tiếp tục thực hiện theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là mình tự giúp mình” trong điều kiện lịch sử mới, đầy khó khăn thách thức của cách mạng hai nước. Trong bối cảnh chịu nhiều tác động trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh, Việt Nam bị bao vây, cấm vận trên trường quốc tế, chính sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào đối với Việt Nam trong những năm tháng đầy khó khăn này, không chỉ góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực để cùng phát triển, mà còn góp phần rất quan trọng củng cố niềm tin vào con đường mà hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai quốc gia đã lựa chọn, động viên, khích lệ, giúp nhân dân Việt Nam vững tin vượt qua chặng đường gian nan sau chiến tranh để từng bước ổn định và phát triển.

Tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác toàn diện giữa hai nước, ngày 17 tháng 7 năm 1977, Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Hiệp định thị thực xuất nhập cảnh và quá cảnh cho công dân hai nước mang hộ chiếu công vụ và ngoại giao.

Căn cứ vào Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật và Hiệp định về liên vận quá cảnh hàng hoá, hành khách, hành lý giữa hai nước, để giúp Lào giải quyết vấn đề mà Thái Lan sử dụng để gây sức ép đối với Lào, đó là vấn đề hàng hoá của Lào xuất khẩu, nhập khẩu quá cảnh qua Thái Lan, ngày 13 tháng 7 năm 1977, Bộ Giao thông vận tải Việt Nam và Bộ Giao thông công chính vận tải Lào ký Thoả thuận về việc hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của Lào quá cảnh qua cảng Đà Nẵng của Việt Nam. Theo đó, phía Việt Nam cam kết hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của Lào quá cảnh qua cảng Đà Nẵng sẽ được tạo điều kiện dễ dàng và thuận lợi nhất, được ưu tiên bốc xếp, các tàu đến giao nhận hàng được hưởng quyền lợi như các tàu đến giao nhận hàng của Việt Nam, được dành riêng một khu vực kho bãi không phải trả tiền thuê và phía Lào tự quản lý, được miễn thuế hải quan. Thoả thuận có hiệu lực ngay sau khi hai bên ký kết.

Bước sang thời kỳ mới, công tác đối ngoại nhân dân được hai Đảng và hai Nhà nước quan tâm, coi trọng. Mục đích là tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, xây dựng quan hệ quần chúng, nền tảng nhân dân cho đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước trong bối cảnh lịch sử mới. Hoạt động của các tổ chức quần chúng ở hai nước thể hiện sinh động, dưới nhiều hình thức phong phú. Hội Hữu nghị Việt - Lào  có mối quan hệ gắn bó với Hội Hữu nghị Lào - Việt , Uỷ ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam  và Uỷ ban Hoà bình và đoàn kết Lào, cùng các tổ chức hoà bình, đoàn kết, hữu nghị của hai nước từng bước được củng cố, kiện toàn về tổ chức, bổ sung hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ cách mạng mới. Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Hữu nghị Việt - Lào cùng nhiều tổ chức như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Tổng Liên đoàn lao động... của Việt Nam và những tổ chức tương ứng của Lào tham gia tích cực vào việc củng cố, tăng cường quan hệ nhân dân hai nước.




------------------------------------------------------------------
1. Trước đó, ngày 25 tháng 1 năm 1976, Chính phủ hai n¬ước đã ký Hiệp định vận chuyển hàng không dân dụng.

2. Ngày 7 tháng 3 năm 1977, Uỷ ban Hợp tác kinh tế Lào - Việt Nam họp phiên thứ nhất. Trong phiên họp này hai đoàn thoả thuận ký kết một số vấn đề cụ thể về viện trợ cho Lào năm 1977, về hợp tác kinh tế, về khoa học - kỹ thuật, về việc Việt Nam để Lào sử dụng cảng Đà Nẵng.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #85 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2022, 03:42:17 pm »

b) Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (tháng 7 năm 1977) - cơ sở pháp lý vững chắc, lâu dài cho quan hệ hai nước trong thời kỳ mới

Trước yêu cầu khách quan của cách mạng hai nước trước tình hình mới, từ ngày 15 đến 18 tháng 7 năm 1977, Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiến hành hội đàm với Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào do đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư - Thủ tướng Chính phủ dẫn đầu. Trong bầu không khí hữu nghị, thắm thiết tình đồng chí anh em, hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế quan trọng, các vấn đề hai bên cùng quan tâm cũng như các vấn đề nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống còn của hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt vì lợi ích bảo vệ và xây dựng đất nước của nhân dân mỗi nước, đồng thời thúc đẩy xu thế độc lập, hoà bình và trung lập thật sự ở Đông Nam Á, góp phần xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa các Đảng, các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước đã thoả thuận ký kết các Hiệp ước và ra Tuyên bố chung, tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước: Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước về Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam viện trợ không hoàn lại và cho vay không lấy lãi trong ba năm (1978 - 1980).

Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (tháng 7 năm 1977)1 là Hiệp ước toàn diện đặc biệt quan trọng mang tính chiến lược lâu dài, là cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu dài tình đoàn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào. Hiệp ước nêu rõ: hai bên cam kết ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, không ngừng tăng cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Hiệp ước khẳng định mối quan hệ hữu nghị đặc biệt, liên minh đoàn kết chiến đấu và hợp tác toàn diện giữa hai dân tộc không chỉ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn cả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau chiến tranh. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước. Việc ký kết hiệp ước đó còn có ý nghĩa quốc tế quan trọng, nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng giữa hai nước đang cùng hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu vực.

 Theo tinh thần của nội dung Hiệp ước, Bộ trưởng Ngoại giao hai nước tăng cường phối hợp chặt chẽ về đường lối hoạt động đối ngoại. Các hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao cùng với những hoạt động ngoại giao phát huy hiệu quả công tác đối ngoại mỗi nước và sức mạnh của ba nước Đông Dương trên trường quốc tế, góp phần làm cho môi trường an ninh chính trị Đông Nam Á đi dần vào ổn định, thể hiện thiện chí của các nước Đông Dương xây dựng khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển.

Hai bên cam kết sẽ tăng cường quan hệ hợp tác xã hội chủ nghĩa, hai bên cùng có lợi về nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, khai thác tài nguyên thiên nhiên và về các lĩnh vực khác; hết lòng viện trợ cho nhau về kinh tế và kỹ thuật; giúp nhau đào tạo cán bộ; trao đổi chuyên gia các ngành kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật; mở rộng quan hệ mậu dịch theo chế độ ưu đãi đặc biệt.

Hai bên sẽ mở rộng trao đổi khoa học - kỹ thuật, hợp tác về văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, y tế, thông tấn, báo chí..., tăng cường tiếp xúc giữa các ngành hữu quan. Hai bên cam kết quyết tâm xây dựng biên giới Việt - Lào thành biên giới hữu nghị anh em trên cơ sở Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước; cam kết hoàn toàn tôn trọng và ủng hộ đường lối quốc tế độc lập, tự chủ của nhau....

Sau khi Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam và Lào được ký kết, Đảng và Nhà nước Việt Nam liên tục đẩy mạnh và mở rộng công tác tuyên truyền, giáo dục về quan hệ đặc biệt Việt - Lào, đấu tranh chống các quan điểm sai trái về mối quan hệ Việt - Lào, bảo vệ tình đoàn kết Việt - Lào. Đảng, Nhà nước Lào tổ chức nhiều đợt học tập, chỉnh huấn về tình hình nhiệm vụ và quan hệ Lào - Việt từ trung ương xuống tận cơ sở, tạo bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân các bộ tộc Lào về quan hệ đặc biệt Lào - Việt.

Về phía Việt Nam, để thực hiện tốt các hiệp ước vừa được ký kết giữa hai nước, đồng thời tiếp tục quán triệt Nghị quyết 251 của Bộ Chính trị, ngày 18 tháng 10 năm 1977, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 21-CT/TW về tăng cường quan hệ đặc biệt Việt - Lào. Chỉ thị nêu rõ, Đảng và Chính phủ Việt Nam coi việc ký kết và thực hiện Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước vừa là nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào, vừa là lợi ích thiết thực trước mắt và lâu dài của cách mạng Việt Nam. Độc lập, tự do và hạnh phúc của hai dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau. Thắng lợi và sự phát triển cách mạng hai nước hiện nay và sau này không thể tách rời nhau .

Về xây dựng biên giới hữu nghị lâu dài, Ban Bí thư giao cho Ban Biên giới Trung ương, các ngành, các địa phương có nhiệm vụ giúp Lào và cùng phía Lào thực hiện tốt việc phân định ranh giới trên thực địa, cắm mốc, xác định cửa khẩu qua lại giữa hai nước, sớm ban hành quy chế biên giới hữu nghị Việt - Lào, đồng thời tăng cường giáo dục cán bộ, chiến sĩ, nhân dân sống dọc biên giới tôn trọng và thực hiện nghiêm túc quy chế.

Để thực hiện Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia, ngày 11 tháng 11 năm 1977, Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Chỉ thị về công tác phân giới và cắm mốc đường biên giới Việt - Lào. Từ ngày 17 đến 19 tháng 11 năm 1977, Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức hội nghị đại biểu các ngành, các địa phương có liên quan đến công tác giúp đỡ và hợp tác với Lào để phổ biến Nghị quyết số 251 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 21 của Ban Bí thư. Tiếp đó, ngày 7 tháng 1 năm 1978, Phủ Thủ tướng ra Chỉ thị số 316-TTg về việc giải quyết một số vấn đề liên quan đến việc thực hiện Hiệp ước hoạch định biên giới Việt - Lào. Chỉ thị nêu phương hướng, biện pháp cần thiết để giải quyết tốt, đúng thời gian quy định công tác phân giới và cắm mốc đúng biên giới Việt - Lào; các vấn đề liên quan đến việc chuyển giao cho Lào một số vùng theo thoả thuận điều chỉnh đường biên giữa hai nước nhằm thực hiện nghiêm Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia Việt - Lào, góp phần củng cố, tăng cường hơn nữa quan hệ đoàn kết hữu nghị giữa hai nước.

Cuối năm 1978, Chính phủ hai nước ký Nghị định thư về trao đổi hàng hoá và trả tiền năm 1979. Hai bên thoả thuận sẽ trao đổi hàng hoá trị giá khoảng 10 triệu USD theo nguyên tắc cân bằng.

Vấn đề cử chuyên gia sang giúp Lào tiếp tục được Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo sát sao. Ngày 21 tháng 12 năm 1977, Ban Bí thư ra Thông tri số 25-TT/TW cho các đảng đoàn các bộ, ngành thi hành một số công việc cụ thể: nghiên cứu yêu cầu của Lào về chuyên gia, nhất là chuyên gia giúp cho lãnh đạo các ngành; lựa chọn những cán bộ có phẩm chất tốt, có khả năng phù hợp với yêu cầu cụ thể để cử sang Lào, bồi dưỡng trước khi cử sang để các chuyên gia nắm được tình hình, đường lối của Đảng, nắm được phương châm, thái độ, phương pháp giúp đỡ, Ban Bí thư giao cho Ban Cán sự Đảng về công tác giúp Lào phối hợp với cán bộ, ngành trao đổi ý kiến với lãnh đạo các ngành và trung ương của Lào về nội dung, chương trình công tác, thời gian.

Công tác tuyên huấn đóng vai trò rất quan trọng trong việc củng cố, tăng cường quan hệ đặc biệt Việt - Lào, căn cứ vào thoả thuận giữa Trung ương hai Đảng, căn cứ vào yêu cầu của Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, ngày 28 tháng 10 năm 1978, Ban Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam ra Quyết định số 30-QĐ/TW Thành lập Đoàn cán bộ tuyên huấn giúp Lào bên cạnh Trung ương Đảng Lào. Nhiệm vụ của Đoàn là nghiên cứu giúp Lào toàn diện về công tác tuyên truyền - huấn luyện, báo chí xuất bản, thông tin văn hoá, đề xuất kiến nghị với Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác tuyên truyền - huấn luyện, văn hoá nhằm tăng cường tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai Đảng và nhân dân hai nước. Đồng chí Phan Hiền, trợ lý đặc biệt công tác giúp Lào của Ban Tuyên huấn Trung ương được chỉ định làm trưởng đoàn.

Trực tiếp chỉ đạo thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, thực hiện các hiệp ước vừa được ký kết giữa hai nước, Chỉ thị 21-CT/TW (tháng 10 năm 1977) của Ban Bí thư về tăng cường quan hệ đặc biệt Việt - Lào, ngày 15 tháng 4 năm 1978, Ban Bí thư ra thông tư nêu một số nhiệm vụ cụ thể cần làm trong các công tác như công tác biên giới, công tác Việt kiều, công tác viện trợ và hợp tác kinh tế, công tác giúp Lào, công tác mở rộng quan hệ giữa các địa phương của hai nước.

Quan hệ Việt Nam và Lào được triển khai thông qua các tổ chức đoàn thể nhân dân và các ban, ngành, địa phương. Quán triệt Chỉ thị 21 (tháng 10 năm 1977) của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, các tổ chức đoàn thể nhân dân, các ngành, các cấp, các địa phương, các đơn vị đã chủ động phát triển những hình thức tổ chức và hoạt động đoàn kết hữu nghị với Lào. Thành lập các chi hội hữu nghị Việt - Lào ở các tỉnh, thành phố như: Lai Châu, Quảng Nam - Đà Nẵng, Hà Nội... Tổ chức kết nghĩa giữa một số tỉnh, thành phố của hai nước: Hà Nội - Viêng Chăn, Hà Nam Ninh - Uđômxay, Vĩnh Phúc - Luổng Nặm Thà, Hà Sơn Bình - Luổng Phạbang... Các bộ, ngành, địa phương mời các bộ, ngành, địa phương hai nước sang thăm, trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu tìm các hình thức, nội dung hợp tác phù hợp.

Ngành thông tin tuyên truyền, báo chí xuất bản của hai nước tăng cường các hoạt động tuyên truyền nhân những ngày lễ trọng đại của hai dân tộc như Quốc khánh, ngày thành lập Đảng, thành lập quân đội, kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; xuất bản tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước hai nước... Kỷ niệm lần thứ nhất ngày ký Tuyên bố chung Việt - Lào, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt - Lào (18 tháng 7 năm 1977 - 18 tháng 7 năm 1978, tại Việt Nam, thực hiện Thông tư số 47-TT/TW của Ban Bí thư với mục đích làm cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng, nội dung mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong giai đoạn mới của cách mạng, nhiều hình thức hoạt động được tổ chức: trao đổi điện mừng giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội hai nước, Hội Hữu nghị Việt - Lào và Hội Hữu nghị Lào - Việt; tổ chức mít tinh quần chúng ở thủ đô, ở các tỉnh biên giới với Lào, trao đổi các đoàn thăm hữu nghị giữa các tỉnh biên giới; mở đợt tuyên truyền rộng rãi về tình hữu nghị đặc biệt Việt - Lào trên các báo, đài phát thanh và truyền hình, trưng bày một số tranh ảnh về thành tựu xây dựng đất nước Lào...

Cùng với các hoạt động trên, một đợt sinh hoạt chính trị chủ đề “đoàn kết hữu nghị và hợp tác Việt - Lào” được tổ chức ở các cấp, các ngành, các đảng bộ nhằm quán triệt những văn kiện như Nghị quyết 251 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 21 của Ban Bí thư, Tuyên bố chung, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt - Lào nhằm tạo sự thông suốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quan hệ hữu nghị đoàn kết đặc biệt giữa hai nước Việt - Lào.

Trước thực tiễn sinh động một lần nữa chứng tỏ mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào, quan hệ đoàn kết giữa ba nước Đông Dương là sức mạnh vô địch, là quy luật phát triển của mỗi nước, lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam - Lào càng khẳng định mạnh mẽ hơn tầm quan trọng của việc củng cố, phát triển mối quan hệ đặc biệt đó trong bối cảnh phải đối phó với chiến tranh tâm lý, diễn biến hoà bình, những âm mưu của các thế lực thù địch phản động câu kết với nhau hòng chống phá, kìm hãm bước tiến của cách mạng mỗi nước. Trong điện mừng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định, Đảng Nhân dân cách mạng Lào sẽ tiếp tục truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Đông Dương, luôn luôn tăng cường bồi đắp cho tình đoàn kết vĩ đại giữa Đảng và nhân dân hai nước, coi đó là cột trụ bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc của mình, làm cho mối quan hệ hai nước mãi mãi phát triển tốt đẹp, không thế lực phản động nào có thể phá vỡ nổi.

Tháng 4 năm 1980, Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào ra Nghị quyết về kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; xác định đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong đời sống chính trị của nhân dân Lào nhằm mục tiêu nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân Lào về cuộc đời hoạt động, những cống hiến của Người với cách mạng Lào, rèn luyện học tập đạo đức cách mạng cao đẹp của Người, tinh thần yêu nước nồng nàn, chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để từ đó tiếp tục củng cố, tăng cường mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.

Trên các diễn đàn quốc tế, hai nước đoàn kết nhất trí, phối hợp đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc sự thật, những thủ đoạn chiến tranh tâm lý chia rẽ ba nước Đông Dương, chia rẽ Lào với Việt Nam, chia rẽ nội bộ mỗi nước, cô lập Việt Nam. Chính Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, bằng thực tế của đất nước mình, bằng những lý lẽ chân thành, có sức thuyết phục đã phản bác luận điệu vu cáo Việt Nam như “Việt Nam muốn lập Liên bang Đông Dương”, “Việt Nam thôn tính Lào, Campuchia”, “Việt Nam sẽ tiến công các nước ASEAN”..., làm cho thế giới thấy rõ những hy sinh to lớn của nhân dân Việt Nam, quân đội Việt Nam nhằm giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng, giúp Lào bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững hoà bình trong khu vực và thế giới bằng chủ nghĩa quốc tế chân chính, trong sáng.




-----------------------------------------------------------------
1. Hiệp ước có giá trị trong 25 năm và sẽ được mặc nhiên gia hạn thêm từng 10 năm nếu một trong hai bên không thông báo cho bên kia ý định huỷ bỏ Hiệp ước ít nhất là một năm trước khi hết hạn.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #86 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2022, 03:49:20 pm »

3. Triển khai quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trên các lĩnh vực (1976 - 1981)

Những năm 1976 - 1981, tuy Việt Nam cũng như Lào khó khăn còn chồng chất, nhưng hai nước luôn nhận thức rất rõ rằng tình đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước là quy luật tồn tại và phát triển của cách mạng mỗi nước, là sức mạnh vô địch giúp hai dân tộc Việt Nam, Lào chiến thắng mọi kẻ thù. Vì vậy bước vào giai đoạn cách mạng mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số 251-NQ/TW về việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới, đề ra phương hướng, nhiệm vụ đoàn kết, giúp đỡ và hợp tác với Lào trên tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, trên tinh thần “hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” với cách mạng Lào trong những năm tháng đầu tiên của chế độ xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Về phía Lào, Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng xác định rất rõ liên minh, đoàn kết hợp tác với Việt Nam là một quy luật phát triển của cách mạng Lào và nguyện ra sức củng cố, tăng cường mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt, bảo vệ tình đoàn kết Lào - Việt như bảo vệ con ngươi của mắt mình, đồng thời ra sức phát triển mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau một cách toàn diện, lâu dài, mãi mãi để cùng nhau bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng đất nước giàu mạnh.

Từ khi hoà bình lập lại, theo yêu cầu của Lào, Việt Nam đã giúp giải quyết một số yêu cầu cấp bách mau chóng ổn định sản xuất và đời sống. Đồng thời, xúc tiến điều tra cơ bản các mặt nhằm phát huy khả năng phát triển kinh tế sau giải phóng của Lào. Thời kỳ này mối quan hệ đoàn kết giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước được tăng cường và mở rộng toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Quan hệ hợp tác Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam được khẳng định là nhiệm vụ chiến lược, thiết thân phục vụ lợi ích, bảo đảm an ninh, chính trị, phát triển của mỗi nước.

Hợp tác chính trị: Trong những năm 1976 - 1981, quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước được tăng cường, gắn bó chặt chẽ, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau thông qua các chuyến thăm, làm việc giữa các đoàn đại biểu cấp cao của hai Đảng, Chính phủ hai nước; các cuộc hội đàm giữa hai Bộ Chính trị thường niên về những vấn đề trong nước và thế giới mà hai bên cùng quan tâm như các Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước.

Các cuộc trao đổi, gặp gỡ, hội đàm... giữa lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước góp phần rất quan trọng củng cố, tăng cường tình đoàn kết đặc biệt Việt - Lào và là cơ sở nền tảng để phát triển quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và nhân dân hai nước trong giai đoạn cách mạng mới.

Do có sự gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi thông báo thường xuyên cho nhau về tình hình mọi mặt giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội hai nước một cách thẳng thắn, chân thành như tình hình xung đột biên giới Tây Nam Việt Nam do tập đoàn Pôn Pốt - Iêngxari gây ra; những âm mưu, hành động đe doạ gây sức ép, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ ở vùng biên giới phía Bắc Lào, hai bên ngày càng hiểu, tin cậy lẫn nhau, nhất trí cao trong các vấn đề đối ngoại, ủng hộ nhau mạnh mẽ trên mặt trận đối ngoại, trên các diễn đàn quốc tế. Ngày 21 tháng 10 năm 1978, phát biểu tại khoá họp lần thứ 33 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, quyền Bộ trưởng Ngoại giao Lào lên tiếng ủng hộ đề nghị của Việt Nam nhằm tìm giải pháp cho cuộc xung đột biên giới Việt Nam - Campuchia bằng con đường thương lượng hoà bình, trên cơ sở thiện chí, chân thành, không có sự can thiệp của nước ngoài. Đồng thời lên án chính sách của các nước lớn can thiệp vào công việc nội bộ, gây chia rẽ giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á.

Những quan điểm của Đảng, Nhà nước Lào trong quan hệ đối ngoại thời gian này đã trực tiếp góp phần quan trọng giúp đỡ Việt Nam: ủng hộ, phối hợp với Việt Nam trong vấn đề Campuchia trên diễn đàn quốc tế, giúp Việt Nam trong quan hệ của Đảng Việt Nam với Đảng Campuchia, thông báo thông tin tình hình nội bộ Campuchia và nước ngoài ở Campuchia... Ngày 23 và 24 tháng 3 năm 1979, Bộ Chính trị của hai Đảng đã tiến hành hội đàm về nhiều vấn đề. Riêng đối với quan hệ Việt - Lào, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam - Lê Duẩn nói: “Thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, tôi xin nhiệt liệt cảm ơn Đảng, Chính phủ và nhân dân Lào anh em đã tận tình ủng hộ, giúp đỡ chúng tôi trong những cuộc chiến tranh vừa qua, thể hiện đầy đủ mối quan hệ đặc biệt giữa chúng ta mà trong lịch sử chưa từng có. Trong những khi có tình hình gay go ở Việt Nam thì các đồng chí Lào là người thông cảm với chúng tôi hơn ai hết. Các đồng chí vui mừng trước thắng lợi của Việt Nam, coi như thắng lợi của chính mình” . Đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã khẳng định quan điểm lập trường trước sau như một ủng hộ Việt Nam của Lào: Lào vững mạnh, độc lập thì Việt Nam ổn định, phồn vinh.

Nhằm tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng hòa Nhân dân Campuchia, từ năm 1980, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước thường xuyên được tổ chức. Hội nghị nhằm trao đổi tình hình ba nước và những vấn đề quốc tế mà các bên quan tâm, bàn những biện pháp tăng cường đoàn kết, hợp tác giữa ba nước. Hội nghị năm 1980 đã ra thông cáo chung chào mừng thành tích về mọi mặt của nhân dân ba nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, chào mừng sự hồi sinh nhanh chóng của nhân dân Campuchia trong hai năm 1979 - 1980 với những tiến bộ trong sản xuất, đẩy lùi nạn đói, ổn định đời sống, xoá bỏ hậu quả nặng nề của chế độ diệt chủng, xây dựng cuộc sống mới. Thông cáo nêu rõ sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước không liên kết và nhân dân thế giới. Nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia đang ra sức khắc phục mọi khó khăn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực thù địch phản động chống ba nước Đông Dương. Việt Nam, Lào, Campuchia ngày càng trở thành nhân tố quan trọng bảo đảm hoà bình, ổn định và hợp tác ở Đông Nam Á.

Các bộ trưởng đã trao đổi ý kiến về việc chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao ba nước sẽ họp vào những thời điểm thích hợp, với các biện pháp trước mắt nhằm tăng cường sự hợp tác mọi mặt giữa ba nước.

Trên tinh thần đó Hội nghị lần thứ IV Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Lào, Campuchia diễn ra từ ngày 13 đến 14 tháng 6 năm 1981. Ba bộ trưởng tiếp tục trao đổi với nhau về tình hình quốc tế và khu vực, bàn các biện pháp nhằm tăng cường tình đoàn kết và sự hợp tác về mọi mặt giữa ba nước; trao đổi ý kiến về việc chuẩn bị cho hội nghị cấp cao giữa ba nước. Ba bộ trưởng nhất trí nhận định tình đoàn kết chiến đấu hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa ba nước không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, các kế hoạch hợp tác kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học - kỹ thuật được thực hiện có hiệu quả góp phần nâng cao tiềm lực của mỗi nước. Việc tăng cường trao đổi các đoàn Đảng, Chính phủ và nhân dân ba nước cũng như phong trào kết nghĩa anh em giữa các địa phương của ba nước đã góp phần quan trọng làm sâu sắc thêm sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa ba dân tộc.

Song song với việc tăng cường quan hệ ba bên, quan hệ đặc biệt Việt - Lào tiếp tục được Đảng, Nhà nước hai nước quan tâm phát triển. Các hiệp định, nghị định thư, kế hoạch hợp tác được ký kết trước đây giữa hai Chính phủ, giữa các bộ, ngành tiếp tục được triển khai bằng nỗ lực quyết tâm của cả hai bên. Sự hợp tác Việt - Lào đã mở rộng sang một số lĩnh vực khác như hợp tác về vấn đề dân tộc giữa Ban Dân tộc Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Dân tộc Trung ương của Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Ngày 30 tháng 5 năm 1979, Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã ký Hiệp định về thanh toán phi mậu dịch.

Việc trao đổi các đoàn Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành để nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, bàn thảo các kế hoạch hợp tác, các hoạt động giao lưu giữa các địa phương, đơn vị kết nghĩa, các đoàn thể quần chúng diễn ra thường xuyên hơn. Năm 1979, Việt Nam đón một đoàn 250 cán bộ cao cấp, trung cấp đang học lý luận tại Trường Đảng cao cấp Lào sang tham quan thực tế, một số đoàn của Bộ Tài chính, của báo Tiếng nói nhân dân Lào... Phía Việt Nam cũng cử nhiều đoàn sang Lào trao đổi kinh nghiệm hợp tác như đoàn của Ban Tuyên huấn Trung ương, Ban Nông nghiệp Trung ương, báo Nhân dân, Tổng cục Khí tượng - Thuỷ văn, v.v..

Ghi nhận sự hợp tác giúp đỡ và tin cậy lẫn nhau giữa hai Đảng và hai Nhà nước trong tiến trình cách mạng, tháng 5 năm 1981, Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta do Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp dẫn đầu sang thăm Lào. Thay mặt Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó Thủ tướng đã trao Huân chương Sao vàng - huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam tặng Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Cayxỏn Phômvihản. Trong diễn văn đọc tại buổi lễ, Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: “Trao tặng đồng chí Huân chương cao quý nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chính phủ và nhân dân Việt Nam bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với đồng chí, đối với Đảng, Chính phủ và nhân dân các dân tộc Lào anh em đã hết lòng ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam”. Đồng chí Cayxỏn Phômvihản khẳng định: “Sự kiện này tượng trưng cho tình đoàn kết hữu nghị thắm thiết, sắt son, đồng cam cộng khổ, giúp đỡ lẫn nhau và động viên cổ vũ nhau cùng tiến lên trong lúc khó khăn cũng như khi thuận lợi”. Báo Xiểng Páxaxon, ngày 4 tháng 5 năm 1981, viết: “Nhân dân các dân tộc Lào vô cùng cảm kích thấy rằng trong năm năm qua, mặc dù nước Việt Nam phải trải qua biết bao thử thách lớn lao,... lại liên tiếp gặp phải thiên tai nghiêm trọng, nhưng nhân dân Việt Nam vẫn kiên quyết thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình, dành sự giúp đỡ to lớn, toàn diện cho Lào trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Nhân dịp này, nhân dân các dân tộc Lào xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam về sự giúp đỡ quý báu và đầy tình cảm anh em đó” . Tháng 11 năm 1981, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định nhân dịp Quốc khánh Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trao tặng Huân chương Sao vàng cho đồng chí Xuphanuvông - Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tối cao Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận xây dựng Tổ quốc Lào. Trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Phó Thủ tướng Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào: Nủhắc Phumxavẳn, Phumi Vôngvichít, Khăm Tày Xiphănđon, Phun Xipaxợt và đồng chí Xỉxổmphon Lòvănxay, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tối cao Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Ngày 2 tháng 12 năm 1981, thay mặt Đảng, Nhà nước, Quốc hội Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí Chu Huy Mân, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam sang Lào trao Huân chương Sao vàng - huân chương cao quý nhất của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng đồng chí Xuphanuvông.

 Nhân dịp kỷ niệm bốn năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Lào - Việt Nam, ngày 22 tháng 8 năm 1981, Đảng và Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào quyết định tặng đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam - Huân chương Vàng quốc gia. Trong buổi lễ, đồng chí Nủhắc Phumxavẳn, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã phát biểu: “Những người cách mạng Lào vô cùng tự hào và quý trọng đồng chí, đánh giá cao sự quan tâm đặc biệt của đồng chí đối với việc củng cố và tăng cường sự liên minh chiến đấu, sự đoàn kết và hợp tác giữa hai Đảng, hai nước và hai dân tộc chúng ta, sự cống hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp chung của nhân dân ba nước Đông Dương”.

Những sự kiện trên là biểu hiện rực rỡ của tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt, tình hữu nghị vĩ đại, sự hợp tác và mối quan hệ gắn bó chặt chẽ keo sơn giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt - Lào.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #87 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2022, 03:56:48 pm »

Hợp tác quốc phòng - an ninh: Bên cạnh quan hệ chặt chẽ về chính trị giữa hai nước, những năm 1976 - 1981, hợp tác quốc phòng - an ninh đi vào chiều sâu trên tinh thần mối quan hệ đoàn kết liên minh chiến đấu phù hợp với tình hình mới, góp phần tích cực bảo đảm củng cố quốc phòng - an ninh, ổn định xây dựng đất nước.

Do tình hình phức tạp trong nước và khu vực, trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ của Lào, tháng 12 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào ra quyết nghị: tiếp tục đề nghị Việt Nam đưa lực lượng quân đội sang hỗ trợ quân đội Lào nhằm ổn định tình hình, ngăn ngừa các nguy cơ chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Trước yêu cầu đề nghị của Lào, Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẩn trương thành lập các đơn vị sang giúp cách mạng Lào. Từ “giữa năm 1976, Việt Nam đã cử hàng trăm chuyên gia sang làm việc tại Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, các quân binh chủng, ở các tỉnh trọng điểm của Lào; đã đưa một sư đoàn quân tình nguyện Việt Nam đến các địa bàn xung yếu cùng với các đơn vị quân đội Lào đập tan các âm mưu, ý đồ chống phá, gây bạo loạn của Mỹ và các thế lực thù địch, thu hồi lại nhiều địa bàn quan trọng ở vùng rừng núi của Lào, nhất là ở các tỉnh: Xiêng Khoảng, Bolikhămxay, Luổng Phạbang, Viêng Chăn, khu vực biên giới giáp một số tỉnh miền Trung Việt Nam (Nghệ An, Thanh Hoá, Hà Tĩnh...); bảo đảm được an ninh trên các trục đường giao thông chiến lược như các đường 7, 9, 13...; hạn chế được các hoạt động thâm nhập từ bên ngoài, ngăn chặn kịp thời một số vụ âm mưu kích động bạo loạn ở vùng dân tộc, nhất là vùng đông người Mông, góp phần tích cực bảo đảm và củng cố an ninh, quốc phòng, ổn định cuộc sống của nhân dân, xây dựng đất nước Lào” .

Cùng với các bộ, ban, ngành khác của trung ương và địa phương, trên cơ sở pháp lý những hiệp định, hiệp ước đã ký kết với Chính phủ Lào, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hợp tác mọi mặt với Bộ Quốc phòng Lào. Ngày 22 tháng 7 năm 1977, ký Hiệp định hợp tác quân sự giữa Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tháng 7 năm 1977, hai đoàn đại biểu Bộ Tổng Tham mưu Việt Nam - Lào đã tổ chức hội đàm tại Viêng Chăn thống nhất kế hoạch hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong ba năm (1978 - 1980), bàn kế hoạch năm 1978 về xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng cơ sở quốc phòng và kế hoạch phòng thủ chung, thống nhất phân công trách nhiệm và mọi quan hệ hiệp đồng chiến đấu. Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam đã phối hợp về mặt tác chiến, giúp toàn diện theo những điều đã thoả thuận giữa hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng và hai Quân uỷ Trung ương.

Từ ngày 12 đến 22 tháng 9 năm 1977, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào do đồng chí Khăm Tày Xiphănđon, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chỉ huy tối cao Quân đội giải phóng nhân dân Lào sang thăm và làm việc với Bộ Quốc phòng Việt Nam, hai bên đã ký Hiệp ước phòng thủ (ngày 22 tháng 9 năm 1977).

 Ngày 28 tháng 6 năm 1978, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Sắc lệnh số 63/SCT thành lập Binh đoàn 678 trực thuộc Bộ Quốc phòng. Binh đoàn 678 do Trung tướng Trần Văn Quang làm tư lệnh kiêm chính uỷ, gồm ba sư đoàn bộ binh (324, 968, 337), một số phân đội binh chủng làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào. Binh đoàn 678 có nhiệm vụ cùng bạn xây dựng nền kinh tế và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong cả nước Lào. Tăng cường và bảo vệ khối liên minh Việt - Lào, không ngừng củng cố và phát triển tình hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc...

Khi cách mạng Lào bị lực lượng phỉ gây rối, Sư đoàn 324 thuộc Quân khu 4 Việt Nam đã cùng lực lượng vũ trang Lào tiến hành tiễu phỉ, giành dân. Trận tiễu phỉ điển hình nhất diễn ra tại Phu Bia. Lào có lực lượng của Mặt trận 1A, Tiểu đoàn 24, Tiểu đoàn 467, một phần lực lượng pháo binh và dân quân du kích trong khu vực. Phía Việt Nam, quân tình nguyện Việt Nam gồm có Trung đoàn bộ binh 335, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 3) và Tiểu đoàn thiết giáp thuộc Sư đoàn bộ binh 324 - Quân khu 4. Trong hơn một năm (tháng 8 năm 1977 đến ngày 13 tháng 11 năm 1978), hoạt động phối hợp với lực lượng quân sự Lào và Sư đoàn bộ binh 324 1, là đợt hoạt động giành thắng lợi lớn nhất kể từ sau năm 1975, thể hiện tính hiệp đồng tác chiến cao và chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang hai nước Lào - Việt, mở ra một địa bàn chiến lược cho cách mạng Lào, giải phóng nhiều dân bị kìm kẹp trở về với cách mạng. Đánh giá những thành tựu trong công cuộc bảo vệ đất nước, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ sáu khóa II (năm 1979) đã ghi rõ: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng quốc phòng - an ninh của ta đã cùng với nhân dân các bộ tộc và có sự hỗ trợ của lực lượng Lào (quân tình nguyện Việt Nam) ở một số địa bàn, đã liên tục chiến đấu, ngăn chặn và đập tan hầu hết các vụ gây rối, bạo loạn, phá được nhiều ổ thám báo và lực lượng của chúng, quét được nhiều cụm phỉ trong các vùng miền núi bộ tộc, nhất là đã phá tan cụm phỉ Phu Bia - căn cứ mà đế quốc Mỹ và bọn phản động hy vọng duy trì để chống phá cách mạng Lào lâu dài, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc, đồng thời các lực lượng quốc phòng - an ninh đã tích cực tham gia phát động quần chúng xây dựng cơ sở chính trị, làm cho tình hình an ninh, trật tự trong cả nước ngày càng tốt hơn” . Ghi nhận công lao to lớn của quân tình nguyện Việt Nam trong chiến thắng Phu Bia, Trung tướng Xámản Vinhakệt - Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào, thay mặt Đảng, Nhà nước và quân đội Lào long trọng gắn Huân chương Ítxalạ hạng Nhất lên Quân kỳ Quyết thắng của Sư đoàn 324.

Trong các năm 1980 - 1982, lực lượng tình nguyện Việt Nam cùng với Lào truy quét các toán biệt kích xâm nhập vũ trang nằm vùng, phá các ổ phản động ở Thủ đô Viêng Chăn, các thị xã, làm thất bại âm mưu bạo loạn lật đổ và gây phỉ của địch, bảo vệ được các mục tiêu trọng yếu 2. Tháng 2 năm 1980, Quân uỷ Trung ương họp ra Nghị quyết số 32/QUTƯ, nêu rõ: tiếp tục cùng bạn Lào đẩy mạnh các mặt công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, kịp thời đập tan mọi âm mưu gây bạo loạn và đánh trả có hiệu quả các cuộc tiến công của bọn phản động ở Lào hoặc quân xâm lược nước ngoài; đánh bại âm mưu diễn biến hoà bình và các hoạt động phá hoại gây rối ở Trung - Hạ Lào, đồng thời tiếp tục quét phỉ và các lực lượng phản động khác.

Với sự hoạt động tích cực của các đơn vị thuộc Binh đoàn 678 và một số quân khu có đường biên giới tiếp giáp với Lào, đã phá tan nhiều ổ nhóm phản động, làm cho an ninh chính trị của Lào ngày càng đi dần vào thế ổn định, góp phần bảo vệ Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương, diễn tập liên minh Việt - Lào (HN83) đạt kết quả tốt.

Ngoài việc hợp tác giúp đỡ nhau trong giữ gìn an ninh trật tự của mỗi nước, trong những năm này, quân đội hai nước Việt - Lào còn giúp nhau xây dựng kinh tế, cơ sở hậu cần kỹ thuật 3. Từ năm 1979, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam giao nhiệm vụ cho Binh đoàn 678 trực tiếp chỉ huy các lực lượng làm kinh tế trên đất Lào tăng cường hơn nữa sự giúp đỡ hợp tác giữa quân đội hai nước. Đầu năm 1980, theo đề nghị của Lào, Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia, cán bộ kỹ thuật và thành lập các đơn vị kinh tế chuyên nghiệp sang giúp Lào. Tiêu biểu như giúp xây dựng Nhà máy quốc phòng 7701 (Viêng Chăn); xưởng nấu thép, sửa xe các loại, sửa chữa súng...

Cùng với các đơn vị của Bộ Quốc phòng trực tiếp sang giúp Lào, các đơn vị trong toàn quân cũng đẩy mạnh việc hợp tác với các đơn vị Bộ Quốc phòng Lào. Quân khu 4 đã hỗ trợ phía Lào thực hiện nhiệm vụ Mở cửa ra hướng đông. Từ đó, các đơn vị kinh tế thuộc Quân đội nhân dân Lào đã có sự trưởng thành và phát triển nhanh chóng. Công ty Phát triển miền núi Bộ Quốc phòng Lào từ chỗ gặp nhiều khó khăn do thiếu phương tiện, kỹ thuật đã vươn lên làm chủ tình hình, đặc biệt là đã đưa Lắc Xao (Khăm Muộn) từ một vùng rừng núi hẻo lánh trở thành một trung tâm có nhiều xưởng máy, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân.

Về hợp tác trên lĩnh vực an ninh: Từ ngày 8 đến 17 tháng 3 năm 1977, Bộ Nội vụ Việt Nam tiếp Đoàn đại biểu Bộ Nội vụ - Thương binh và Xã hội Lào do đồng chí Bộ trưởng dẫn đầu sang thăm và làm việc. Trong quá trình hội đàm, Đoàn đã thông báo tình hình an ninh, trật tự xã hội, hoạt động của địch ở Lào; đề nghị Bộ Nội vụ Việt Nam cử chuyên gia (11 loại) sang giúp các ngành thuộc cơ quan và lực lượng an ninh của Lào, giúp đào tạo 150 sĩ quan an ninh, huấn luyện, bổ túc mỗi năm 150 cán bộ các ngành an ninh, cảnh sát, biên phòng. Theo thoả thuận giữa Ban Bí thư Trung ương của hai Đảng trong năm 1976, ngày 17 tháng 3 năm 1977, hai Bộ Nội vụ của Việt Nam và Lào ký Bản thoả thuận riêng về việc Bộ Nội vụ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giúp đỡ kỹ thuật Bộ Nội vụ - Thương binh và Xã hội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Trong Bản thoả thuận xác định: Bộ Nội vụ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ cố gắng hết sức đáp ứng yêu cầu của Bộ Nội vụ Lào, giúp Bộ Nội vụ Lào về mặt khoa học - kỹ thuật, nghiệp vụ theo hai hướng: Một là, đưa cán bộ, phương tiện sang trực tiếp làm các công việc kỹ thuật cần thiết tại chỗ để giúp Bộ Nội vụ Lào giải quyết các yêu cầu chiến đấu cấp thiết trước mắt. Hai là, Bộ Nội vụ Việt Nam sẽ đào tạo cán bộ kỹ thuật do Bộ Nội vụ Lào gửi sang và dần cung cấp thiết bị để Bộ Nội vụ Lào từng bước xây dựng và tự đảm nhiệm được các mặt công tác kỹ thuật.

Theo hai hướng đó, hai bên đã thoả thuận các vấn đề cụ thể về thông tin liên lạc và vô tuyến điện, về công tác thu tin đặc biệt, về công tác phát hiện và định hướng vô tuyến điện - là những vấn đề kỹ thuật quan trọng có tính chuyên sâu cao liên quan mật thiết đến bảo vệ an ninh quốc gia. Lực lượng an ninh Lào được xây dựng trưởng thành đã góp phần to lớn trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền non trẻ, giữ vững trật tự xã hội trên đất nước Lào.

Với sự hợp tác và giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng quân đội, an ninh của Lào đã làm thất bại những âm mưu của bọn phản động nhằm phục hồi lực lượng, chặn đứng được các cuộc phiến loạn của bọn phản động trong nước được các thế lực nước ngoài bảo trợ. Lào tăng cường quốc phòng, xây dựng một số cơ sở vật chất, kỹ thuật về quân sự, trang bị hậu cần, đào tạo cán bộ quân sự..., giữ vững và ổn định biên giới, giữ vững độc lập chủ quyền, bảo vệ vững chắc chính quyền cách mạng non trẻ, chế độ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Thành quả đó đã góp phần quan trọng ổn định an ninh, đảm bảo vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia cho Việt Nam khi mà các thế lực phản động trong khu vực và thế giới đang quyết liệt chống phá cách mạng Việt Nam sau năm 1975.




-----------------------------------------------------------------
1. Đánh 27 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 210 tên, bắt và gọi hàng 856 tên, làm bị thương 50 tên, thu 350 súng các loại và nhiều quân trang, quân dụng khác; đưa 31.913 người dân ra vùng giải phóng, mở rộng địa bàn chiến lược gần 750 km2.

2. Sáu tháng đầu năm 1983, đã tiêu diệt 258 tên địch, bắt 96 tên, bức hàng 126 tên, thu 123 súng. Cùng với Lào, lực lượng tình nguyện Việt Nam giúp củng cố chính quyền ở 258 bản, bồi dưỡng 3.158 cán bộ xã, huấn luyện 5.500 lượt dân quân du kích.

3. Trong năm 1976, Việt Nam đã giúp Lào 42 tấn đạn, 24 xe M113, lắp ráp một số máy bay và vận chuyển hàng từ Đà Nẵng sang Lào.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #88 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2022, 04:05:17 pm »

Hợp tác trên lĩnh vực kinh tế: Đây là những năm cực kỳ khó khăn của cả hai nước vừa thoát ra khỏi cuộc chiến tranh giữ nước, lại phải đối mặt với sự phá hoại trên nhiều lĩnh vực của các thế lực thù địch. Hai nước đã nỗ lực tiếp tục sát cánh bên nhau giúp nhau vượt qua khó khăn, thách thức, giữ vững chủ quyền lãnh thổ của mỗi nước, từng bước duy trì ổn định đời sống của nhân dân.

Khi Thủ đô Viêng Chăn vừa giải phóng, trước khó khăn do hậu quả chiến tranh, thiên tai, lụt lội mất mùa, lại bị Thái Lan cấm vận, Việt Nam mặc dù trước bộn bề khó khăn của tình hình trong nước, nhưng đã kịp thời viện trợ gạo cứu đói cho nhân dân Viêng Chăn ổn định cuộc sống.
 Nhu cầu hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau về kinh tế xuất phát từ những khó khăn và thuận lợi của cả hai nước. Ở Lào, kỹ thuật canh tác nông nghiệp còn lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên; giao thông chưa phát triển, chưa có đường sắt, không có biển để thông thương trực tiếp với bên ngoài; dân số ít, phân bố thưa; thiếu cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề... Ở Việt Nam, mật độ dân số đông, phân bố tập trung ở đồng bằng; đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật chưa mạnh; có những hạn chế, lúng túng trong vận dụng cách làm ăn mới... Bên cạnh đó, tiềm năng của Lào lớn, có hơn 70% đất đai là rừng núi, đất rộng, người thưa, tài nguyên thiên nhiên phong phú. Việt Nam có hàng ngàn kilômét bờ biển, có đường biên giới khá dài tiếp giáp với Lào, là nước có thể giúp Lào tiếp xúc với cảng biển một cách ngắn nhất. Đây là khả năng có thể hợp tác, bổ sung cho nhau nhằm phát huy ưu thế của ở từng nước.

Từ năm 1977, hợp tác kinh tế được thực hiện tập trung chủ yếu dưới hình thức viện trợ và cử chuyên gia giúp Lào thông qua các bộ, ngành theo từng vụ việc, từng công trình tiến lên phối hợp theo kế hoạch, thực hiện sự phân công, hợp tác toàn diện cùng có lợi.

 Thời kỳ này hợp tác kinh tế Việt - Lào tập trung vào các vấn đề như Việt Nam giúp Lào phát triển các vùng kinh tế mới sản xuất lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, chăn nuôi, khai thác lâm sản vùng cao nguyên Na Kay (Khăm Muộn), vùng lâm nghiệp Trung Lào, vùng cao nguyên Bôlavên. Khai thác quặng potasse ở Viêng Chăn, thạch cao ở Đồng Hến, thiếc ở Khăm Muộn, quặng sắt ở Xiêng Khoảng; tiến tới xây dựng các cơ sở luyện thép, luyện kim, xây dựng các công trình thuỷ điện Nặm Thơn.

Trong nông nghiệp, hai nước đã hợp tác giúp nhau cải tạo và xây dựng hệ thống thuỷ lợi, chăm sóc các loại giống mới, phòng dịch cho gia súc. Việt Nam giúp Lào khảo sát quy hoạch thuỷ lợi vùng Huội Xết, Xalavăn (năm 1977); khôi phục các công trình thuỷ lợi của tỉnh Hủa Phăn; xây dựng trại sản xuất Viêng Xây để chăn nuôi bò, lợn, gà, cá (năm 1977); xây dựng và giúp kỹ thuật cho xưởng cơ khí Sầm Nưa.

Về công nghiệp, Việt Nam giúp Lào khảo sát trữ lượng và lập kế hoạch khai thác các vùng có khoáng sản của Lào 1; khai thác lâm sản, chủ yếu là gỗ quý; năm 1980 hoàn thành lập bản đồ địa chất tỷ lệ 1/200.000 vùng Khăng Khay (Xiêng Khoảng), Sầm Nưa; khảo sát xây dựng cầu bêtông cốt thép trên đường 13 (năm 1977); khảo sát thiết kế tuyến đường 7 (Xiêng Khoảng) năm 1978; khảo sát thẩm tra trữ lượng gỗ đường 9 và lập quy hoạch thiết kế khai thác, chế biến với công suất từ 5 - 6 vạn m3/năm (năm 1977); nghiên cứu, điều tra khảo sát tuyến đường sắt từ Lào ra bờ biển Việt Nam; hoàn thành đường ống dẫn dầu từ Keo Nửa ra đường 13 (năm 1977) .

Thời kỳ này, Việt Nam còn giúp Lào xây dựng một số công trình thuỷ điện vừa và nhỏ, cung cấp điện cho sản xuất và sinh hoạt; giúp Lào xây dựng và trang bị xí nghiệp gạch ngói theo Hiệp định đã ký năm 1980. Cùng với hợp tác ở Trung ương, quan hệ hợp tác giữa các địa phương cũng được đẩy mạnh. Thành phố Hà Nội đã cử 7 chuyên gia và 70 công nhân xây dựng cùng 80 thanh niên Lào đến Na Hảy xây dựng xí nghiệp sản xuất gạch ngói với công suất 5 triệu viên gạch và 2 triệu viên ngói.

Trong công nghiệp nhẹ, hai nước hợp tác giúp nhau đóng khung dệt cải tiến, khung dệt vải hoa, giúp Lào sản xuất phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Trong ngành may mặc, Xí nghiệp may 20 thuộc Tổng cục Hậu cần Việt Nam đã sản xuất giúp quân đội Lào về trang phục; cử cán bộ kỹ thuật để đào tạo hàng trăm cán bộ, công nhân may cho quân đội nhân dân Lào. Việt Nam cũng giúp đỡ khôi phục đưa vào sản xuất một số máy ép nhựa, kỹ thuật làm lọ sành, chế biến rượu ở Viêng Chăn.

Nhiều chuyên gia Việt Nam đã được cử sang giúp Lào khảo sát, thiết kế các công trình hữu nghị Hà Nội - Viêng Chăn, được coi là trọng điểm của thành phố như Xí nghiệp sản xuất đường huyện Hạtxaiphoong. Một số công trình được xây dựng trong hai năm 1977 - 1978 phục vụ công cộng và cơ quan 2.

Về giao thông vận tải: Đặc điểm của Lào là không có đường ra biển, chưa có hệ thống đường sắt, đường sông và hàng không chỉ hoạt động ở một số vùng và trong điều kiện thời tiết cho phép, việc đi lại giữa các vùng khó khăn và chủ yếu là bằng đường bộ, nhưng ngay cả mùa khô hệ thống đường bộ nhiều nơi cũng không bảo đảm. Chính vì vậy, Lào rất quan tâm đến việc sửa chữa nâng cấp, xây dựng mới hệ thống giao thông, chú trọng hợp tác với Việt Nam trên lĩnh vực giao thông vận tải. Trong năm 1977 - 1978, Việt Nam giúp Lào xây dựng đường 7 từ Nặm Cắn đi Phiêng Luông; xây dựng đường 6 từ Nặm Nơn đi Bạn Ban với hệ thống cầu cống làm theo đường cấp 4, nền và mặt đường rải nhựa theo tiêu chuẩn đường cấp 5; giúp Lào bảo đảm giao thông trong suốt tháng 4 năm 1977 ở đường 42 từ Tây Trang đến Mương Khỏa, đường 7 từ Nặm Cắn đến Phôn Xávẳn, đường 8 từ Keo Nửa đến đường 13, đường 9 từ Lao Bảo đến Thà Khoổng; xây dựng cầu phao Nặm Thơn, Thà Khoổng . Đây cũng là thời điểm Lào “coi đường 9 là con đường chiến lược và coi tỉnh Quảng Trị, cảng Đà Nẵng là đường quá cảnh. Mối quan hệ tỉnh Xavẳnnakhệt - Quảng Trị giai đoạn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng” ...

Về xây dựng sửa chữa cầu đường, đã có sự phối hợp ngay từ thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, đảm bảo huyết mạch giao thông 3.

Trên lĩnh vực hàng không, từ năm 1974, hai nước hợp tác khôi phục duy trì đường bay Hà Nội - Viêng Chăn; từ năm 1977, Việt Nam giúp Lào sửa chữa, mở rộng sân bay dã chiến ở Bạn Áng (Cánh đồng Chum); hai bên nghiên cứu xây dựng sân bay ở Lào. Việt Nam giúp Lào xây dựng các sân bay Lắc Xao, Sầm Nưa.

Ngày 13 tháng 7 năm 1977, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính và vận tải Lào đã ký Bản thoả thuận về hàng xuất khẩu, nhập khẩu của Lào quá cảnh cảng Đà Nẵng của Việt Nam. Việt Nam dành cho Lào những điều kiện thuận lợi trong việc xuất nhập khẩu hàng hoá qua cảng: ưu tiên trong việc bốc xếp hàng hoá nhằm giải phóng tàu nhanh, dành cho Lào một khu kho bãi để chứa hàng không lấy tiền thuê do Lào quản lý, hàng hoá quá cảnh được miễn thuế hải quan.

Giai đoạn này Việt Nam viện trợ hàng hoá theo phương thức hàng đổi hàng một cách cân bằng giữa hai bên và có ưu đãi đặc biệt. Hàng hoá của Việt Nam chuyển sang Lào thường là những vật tư, vật liệu như sắt, thép, xi măng, xăng dầu; những mặt hàng nhu yếu phẩm như gạo, đường, sữa, thuốc chữa bệnh, vải vóc quần áo, hàng tiêu dùng. Việt Nam nhập của Lào các sản phẩm như cà phê, sa nhân, cánh kiến, gỗ tròn, gỗ dán, thạch cao. Quan hệ ngoại thương thời kỳ này là quan hệ kinh tế có hiệu quả, thiết thực vì nó đáp ứng yêu cầu khôi phục, ổn định và phát triển của Lào sau chiến tranh.

Nhằm giúp Lào khắc phục khó khăn do lụt lội lớn, Việt Nam đã cho Lào vay và viện trợ không hoàn lại 4.

Việt Nam còn giúp Lào trong công tác chuyên gia, xây dựng cơ bản, điều tra khảo sát tài nguyên. Đáp ứng kịp thời cho Lào những yêu cầu đột xuất cấp bách nhằm phục vụ quốc phòng, an ninh, kinh tế, Việt Nam đã đưa sang Lào hàng trăm xe vận tải suốt ngày đêm trên trục giao thông đi lại khó khăn, an ninh chưa bảo đảm để xây dựng vật chất kỹ thuật ban đầu cho Lào. Các công trình xây dựng thời kỳ này chủ yếu gồm cầu đường, công trình thuỷ lợi, trường học, bệnh viện, trụ sở cơ quan, cơ sở sản xuất, sửa chữa cơ khí, chế biến nông - lâm sản ở địa phương. Tính chất hợp tác thời kỳ này là vẫn nặng về bao cấp... Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể và khách quan, hai nước Việt Nam và Lào đều đã có sự nỗ lực cố gắng cao độ trong quá trình tiếp tục củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện khi bước sang giai đoạn chuyển đổi. Trong bộn bề khó khăn thách thức của cách mạng, Việt Nam đã chia sẻ với bạn Lào, phần nào giúp Lào giải quyết khó khăn trước mắt, từng bước ổn định để phát triển, đồng thời về phía Lào đã tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong môi trường đầu tư, mở rộng thị trường trao đổi, tạo thị trường lao động cho nguồn nhân lực dồi dào, góp phần giải quyết khó khăn của Việt Nam trong những năm đầu sau chiến tranh. Mặt khác, qua việc đội ngũ chuyên gia Việt Nam giúp Lào khảo sát, tư vấn... xây dựng kinh tế cũng là một phương thức góp phần nâng cao trình độ, nhận thức của đội ngũ cán bộ chuyên gia, cán bộ lãnh đạo và quản lý của Việt Nam sang giúp Lào học hỏi được những kinh nghiệm từ phía bạn Lào và được trải nghiệm qua thực tế với nhiều mô hình, phương thức linh hoạt khác nhau. Những nhận thức và trải nghiệm đó, không chỉ có hiệu quả trong giúp Lào mà còn có ý nghĩa đối với quá trình lãnh đạo, thực hiện công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam trong chặng đường Việt Nam đang tìm tòi khảo nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội khi đất nước hòa bình, thống nhất.

Đây cũng là giai đoạn cả Việt Nam và Lào đang đối mặt với muôn vàn khó khăn bởi tác động không thuận chiều của diễn biến phức tạp trong khu vực, cùng với sự trì trệ yếu kém của nền kinh tế vận hành theo cơ chế cũ, do vậy đang nỗ lực từng bước tìm tòi, khảo nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn của hai quốc gia dân tộc. Ở Lào, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng trong năm 1979 với tựa đề ý tưởng khởi đầu về sự đổi mới (nội dung chính là: chuyển sang cơ chế mới có hiệu quả hơn; nắm vững tính khách quan của quy luật kinh tế; có sự buôn bán và làm cho thương mại trở thành mắt xích cơ bản để mở rộng sản xuất; vận dụng kế hoạch để xây dựng - mở rộng thị trường và phối hợp giữa kế hoạch và thị trường...) đã trở thành nhân tố khởi điểm, cho thấy ý tưởng khởi đầu trong việc kiện toàn đường lối, chủ trương của Đảng . Cũng thời điểm đó, ở Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (khóa IV) của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 8 năm 1979) chủ trương tháo gỡ các vướng mắc, rào cản trong sản xuất, lưu thông hàng hóa trong nước, khuyến khích sản xuất để từng bước ổn định đời sống , được coi là tín hiệu đầu tiên của tư duy tìm tòi đổi mới về kinh tế. Đầu năm 1981, Nghị quyết đó được cụ thể hóa bằng Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán trong nông nghiệp và Quyết định số 25-CP và 26-CP trong công thương nghiệp làm biến chuyển từng bước về cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam. Những chuyển biến đó, đều có ý nghĩa tác động cả hai nước Việt Nam và Lào, được cán bộ và lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước thường xuyên trao đổi, bàn bạc thông qua những cuộc họp cấp cao của lãnh đạo hai nước, thông qua những cuộc hội thảo giữa các nhà khoa học, các giáo trình, bài giảng cho cán bộ của Đảng và Nhà nước Lào học tập ở Việt Nam trong thời gian này.




------------------------------------------------------------------
1. Như: mỏ ở Sầm Nưa (năm 1977); khảo sát trữ lượng và lập quy hoạch, hợp tác cùng khai thác mỏ thạch cao Đồng Hến, trữ lượng mỗi năm khoảng 40.000 tấn (Xavẳnnakhệt - từ năm 1977); khảo sát trữ lượng mỏ sắt Phu Nhôm và lập kế hoạch khai thác (năm 1980).

2. Như: Nhà làm việc của cơ quan tỉnh uỷ tại Sầm Nưa; cơ quan, cửa hàng mậu dịch, trường học của Xiêng Khoảng; cửa hàng thương nghiệp tại Phôngxalỳ, Xê Pôn; trường học, bệnh viện ở Xê Pôn; xây dựng kho xăng (Xiêng Khoảng, Xavẳnnakhệt), kho chứa hàng (Xiêng Khoảng, Mương Phin), các kho đầu mối, trạm trung chuyển phục vụ cho vận chuyển hàng như kho Đông Hà, Đà Nẵng, Diễn Châu, Thanh Hoá (trên đất Việt Nam). Theo: Khóa họp I Ủy ban Hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật giữa Việt Nam - Lào, hồ sơ Q9-6, phông Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

3. Đơn vị Việt Nam đầu tiên làm nghĩa vụ quốc tế tại Lào về giao thông đ¬ược thành lập từ ngày 23 tháng 7 năm 1965. Trong suốt giai đoạn 1965 - 1975, đơn vị bảo đảm giao thông cho hơn 600 km đường của Lào tại khu căn cứ cách mạng và vùng giải phóng, đã góp phần vào thắng lợi trọn vẹn của Lào năm 1975. Sau giải phóng, đơn vị này đã chuyển sang đảm trách nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng cầu đường phục vụ công cuộc xây dựng đất n¬ước và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Lào, đã trở thành Liên hiệp Các xí nghiệp giao thông 8, thuộc Bộ Giao thông vận tải.

4 . Năm 1976 là 132 triệu đồng Việt Nam, vay không lãi là 15 triệu đồng Việt Nam và 3 triệu USD; năm 1977 là 130 triệu đồng Việt Nam, trong đó 1/2 là viện trợ không hoàn lại và 1/2 là vay không lãi; năm 1978 khoảng 130 triệu, trong đó hàng viện trợ chủ yếu là tiêu dùng và nguyên vật liệu, trị giá khoảng 50 triệu đồng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #89 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2022, 10:22:18 am »

Hợp tác trong lĩnh vực văn hoá - giáo dục - y tế: Nhiệm vụ đặt ra đối với Việt Nam và Lào sau khi giải phóng là khắc phục hậu quả của chế độ cũ để lại, lĩnh vực văn hoá cần được coi trọng, sự nghiệp giáo dục đào tạo được chú ý hàng đầu, vấn đề y tế, chăm sóc nâng cao sức khoẻ nhân dân cần được quan tâm.

Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước Việt Nam - Lào ngày 18 tháng 7 năm 1977 nêu rõ: về hợp tác văn hoá, “Hai bên mở rộng trao đổi khoa học, kỹ thuật, hợp tác về văn hoá, nghệ thuật, giáo dục, y tế, thông tấn, báo chí, phát thanh, điện ảnh, thể dục thể thao và các lĩnh vực văn hoá khác”. Để triển khai nội dung Hiệp ước, hằng năm hai nước đã ký các “Nghị định thư về hợp tác và trao đổi văn hoá giữa Việt Nam và Lào”. Bộ Thông tin, Tuyên truyền, Văn hoá và Du lịch của Lào đã hợp tác với Bộ Văn hoá Việt Nam, trong năm 1982 - 1983 hoàn thành bộ phim truyện “Tiếng súng Cánh đồng Chum”. Kinh phí do Việt Nam giúp Lào. Để thực hiện bộ phim này, Việt Nam đã cử đoàn cán bộ khoảng 40 người sang Lào để tiến hành các công đoạn phần quay trên đất Lào. Quan hệ trong lĩnh vực hợp tác về thông tin tuyên truyền giữa hai nước được đẩy mạnh: ngày 23 tháng 4 năm 1977, Đoàn đại biểu Đài Phát thanh quốc gia Lào đã sang thăm, làm việc với Đài Tiếng nói Việt Nam. Trong quá trình làm việc tại Việt Nam, hai bên đã thoả thuận các vấn đề về việc Đài Tiếng nói Việt Nam giúp đỡ, hợp tác với Đài Phát thanh quốc gia Lào chuyển giao cho phía Lào máy phát sóng, các phương tiện, vật tư kỹ thuật; cử chuyên gia, cán bộ kỹ thuật sang nghiên cứu, khảo sát, thiết kế, lắp đặt các phương tiện kỹ thuật; đào tạo cán bộ cho Lào; cử chuyên gia biên tập sang giúp kinh nghiệm biên tập các vấn đề về đối ngoại... Việc hợp tác, giúp đỡ là rất cần thiết trong quá trình xây dựng và phát triển của Đài Phát thanh quốc gia Lào.

Về hợp tác y tế, với quan điểm thống nhất không ngừng hợp tác, chăm lo, nâng cao sức khoẻ cho nhân dân, ngăn chặn và phòng trừ dịch bệnh, hai bên giúp đỡ nhau tổ chức mạng lưới y tế từ trung ương đến cơ sở và trao đổi kinh nghiệm công tác vệ sinh phòng bệnh, nhất là chống các bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, phong, lao và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em. Lào là xứ nhiệt đới nóng ẩm, hơn 70% diện tích là rừng núi, vừa trải qua thời kỳ chiến tranh kéo dài, dễ phát sinh dịch bệnh lây truyền trong nhân dân. Do vậy, hàng năm Lào đã đề nghị Việt Nam giúp đỡ không hoàn lại vài chục tấn thuốc DDT303, máy bơm DDT, hàng triệu viên thuốc chống sốt rét, vài triệu liều tả TAB, đậu mùa, bại liệt. Phía Việt Nam còn cử nhiều đoàn cán bộ, chuyên gia sang Lào bồi dưỡng cán bộ y tế, tham gia công tác phòng chữa bệnh cho nhân dân các bộ tộc Lào. Phía Lào đã gửi nhiều cán bộ, học sinh sang đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về y dược tại Việt Nam để nâng cao công tác chuyên môn. Hai nước hợp tác phát triển các biện pháp chữa bệnh y học cổ truyền, giúp nhau trong xây dựng cơ sở vật chất, trong sản xuất dược phẩm như Xí nghiệp Dược phẩm II Hà Nội và Xí nghiệp Dược phẩm II Viêng Chăn.

Trên lĩnh vực giáo dục, đào tạo: Sau năm 1975, nhiệm vụ cấp bách của Đảng và Nhà nước Lào là thiết lập bộ máy chính quyền cách mạng, ổn định kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân và xây dựng nền giáo dục mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tại Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào họp tháng 12 năm 1978, đã xác định rõ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ lý luận chính trị của Đảng là một nhiệm vụ chiến lược cơ bản thường xuyên của Đảng, Nhà nước của cả hai nước. Đào tạo cán bộ chủ chốt cho Đảng và Nhà nước Lào ngày càng trở thành một lĩnh vực hợp tác quan trọng của hai nước Việt - Lào 1.

 Những năm đầu mới trở thành đảng cầm quyền, bộ máy nhà nước mới được thiết lập, cán bộ vừa thiếu vừa chưa kinh qua công tác lãnh đạo, quản lý là một khó khăn rất lớn đối với Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Trong điều kiện đó, một mặt, Việt Nam cử chuyên gia sang giúp theo yêu cầu của Lào; mặt khác, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ giúp Lào. Nhiệm vụ cách mạng mới đặt ra vấn đề cấp bách phải đào tạo gấp nguồn cán bộ lớn có trình độ lý luận chính trị cao cho bộ máy của Đảng và Nhà nước, các tổ chức quần chúng nhân dân từ trung ương tới địa phương. Theo yêu cầu của Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào về việc cử các đoàn cán bộ cao cấp sang nghiên cứu dài hạn về kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, tháng 4 năm 1978, Trung ương Đảng quyết định thành lập Trường Nguyễn Ái Quốc đặc biệt trực thuộc Ban Bí thư Trung ương và giao cho Ban Đối ngoại Trung ương, Ban Tuyên huấn Trung ương, Ban Cán sự Đảng về công tác C phối hợp phụ trách, chuyên bồi dưỡng cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước Lào từ cấp phó bí thư tỉnh uỷ trở lên. Khoá học đầu tiên của trường có khoảng 35 cán bộ lãnh đạo của Lào tham dự, thời hạn học tập trong hai năm và do đồng chí Xuân Thuỷ - Bí thư Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo.

Đối với số cán bộ Lào thời điểm này đang học tại Trường Nguyễn Ái Quốc, Ban Bí thư chỉ đạo nhà trường và các cơ quan hữu quan tăng cường chăm lo chu đáo việc học tập và mọi mặt sinh hoạt để cán bộ Lào hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Đối với số cán bộ, công nhân, sinh viên, học sinh Lào gửi sang đào tạo tại Việt Nam với số lượng ngày càng tăng, Thủ tướng có Chỉ thị 495-TTg về chấn chỉnh công tác nuôi dưỡng và giảng dạy đối với học sinh Lào, yêu cầu các bộ, tổng cục, chính quyền các địa phương nơi có các trường học được giao nhiệm vụ đào tạo, nuôi dưỡng học sinh Lào phải quan tâm hơn nữa đến công tác này; phải thực hiện đúng các chế độ, chính sách đối với học sinh Lào được quy định trong các văn bản của Nhà nước, phải cải tiến nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy cho sát hợp với yêu cầu của nước Lào, đảm bảo kết quả học tập của học sinh Lào ngày càng tốt hơn.

 Tính đến cuối năm 1975, Trường Nguyễn Ái Quốc 10 đã mở chín khoá bồi dưỡng lý luận cho khoảng 500 cán bộ trung và cao cấp của Lào, góp phần không nhỏ trong việc đào tạo nguồn cán bộ cho Lào, là lực lượng nòng cốt lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Lào đi đến thành công .

Từ năm 1980, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam giao cho Trường Nguyễn Ái Quốc mở lớp đào tạo 24 cán bộ lý luận chương trình cao cấp thời gian hai năm rưỡi. Trường Nguyễn Ái Quốc 10, đào tạo 120 cán bộ tuyên huấn theo chương trình trung cấp về lý luận cơ bản cũng trong thời gian hai năm rưỡi. Đồng thời, Việt Nam cử nhiều chuyên gia đầu ngành có kinh nghiệm sang giúp Lào xây dựng chương trình giảng dạy cho Trường Đảng cao cấp của Đảng và Nhà nước Lào ở Thà Ngòn; giúp Lào củng cố và phát triển hệ thống trường Đảng ở Trung ương và các tỉnh để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ tuyên huấn.

Công tác giúp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ những năm đầu sau khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng Lào.

Ghi nhận kết quả của sự hợp tác giúp Lào từ năm 1976 đến 1980, Đảng và Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã tặng thưởng Huân chương Tự do cho cán bộ các cơ quan trực tiếp hợp tác và giúp Lào.

Hợp tác giữa hai ngành giáo dục Việt - Lào thời kỳ này được phát triển theo hướng trao đổi chuyên gia, trao đổi các đoàn tham quan, nghiên cứu chuyên đề, đặc biệt là giúp nhau trong việc mở trường, biên soạn nội dung chương trình và công tác giảng dạy. Việt Nam cử các đoàn nghiên cứu về công tác giáo dục Lào trong giai đoạn mới, nghiên cứu chiến lược dài hạn, khảo sát, tổng kết hiệu quả công tác đào tạo lưu học sinh ở Việt Nam, nghiên cứu xây dựng các trường học dân tộc nội trú, chương trình học và vấn đề biên soạn sách giáo khoa các cấp. Về phía Lào, đưa các đoàn lãnh đạo giáo dục các tỉnh sang Việt Nam tham quan, trao đổi kinh nghiệm, đoàn trí thức Lào, đoàn Bộ Giáo dục Lào thăm các trường hữu nghị, đi sâu vào các ngành học, đào tạo học sinh giỏi. Hệ thống các trường đại học, trung cấp kỹ thuật của Việt Nam giúp đào tạo hàng nghìn kỹ sư, cán bộ, công nhân các ngành kinh tế kỹ thuật góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước Lào. Số cán bộ, học sinh Lào học tập tại Việt Nam tính đến năm 1976 lên tới 6.492 người.

Trong những năm 1976 - 1981, tuy cả hai nước còn phải đương đầu với nhiều khó khăn về đối nội và đối ngoại, nhưng với tinh thần và quyết tâm củng cố, tăng cường mối quan hệ đặc biệt, tình đoàn kết hữu nghị truyền thống giữa hai dân tộc. Về phía Việt Nam, với phương châm nỗ lực đáp ứng cao nhất các yêu cầu khách quan của cách mạng Lào, với hết khả năng của mình, giúp cơ bản, toàn diện, lâu dài, một cách thích hợp với điều kiện mới, sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước đã mở rộng, phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Về phía Lào, đã nỗ lực cố gắng phát huy nội lực, tự lập, tự cường để tiếp thu sự giúp đỡ của Việt Nam và một số nước anh em, vượt khó khăn, từng bước vươn lên tự đảm đương công việc của mình trong ổn định kinh tế - xã hội thời kỳ sau chiến tranh. Đồng thời Đảng Nhân dân cách mạng Lào và nhân dân các bộ tộc Lào đã tiếp tục kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết thuỷ chung giữa hai dân tộc, củng cố lòng tin vào Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam, từng bước làm thất bại âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của cả hai nước, thắt chặt thêm tình đoàn kết Lào - Việt Nam trong điều kiện mới.




------------------------------------------------------------------
1. Ngay từ năm 1962, theo đề nghị của Đảng Nhân dân Lào, hệ thống Trường Đảng ở Việt Nam được giao thêm nhiệm vụ quốc tế quan trọng là đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và cán bộ lý luận chính trị cho Đảng Nhân dân Lào.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM