Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:06:27 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007  (Đọc 5382 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« vào lúc: 10 Tháng Tám, 2021, 09:28:35 am »

Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 1930-2007

(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội 2011)


Nguồn: Tư liệu văn kiện Đảng







BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN VIỆT NAM

TÔ HUY RỨA   Trưởng Ban
PHÙNG HỮU PHÚ   Phó Trưởng ban
ĐÀO VIỆT TRUNG   Thành viên
NGUYỄN KHÁNH TOÀN   Thành viên
PHẠM XUÂN SƠN   Thành viên
PHÙNG TRẦN HƯƠNG   Thành viên
NGUYỄN VĂN THẠO   Thành viên
NGUYỄN HUY CƯỜNG   Thành viên
TRƯƠNG VĂN ĐOAN    Thành viên
TRẦN CHIẾN THẮNG   Thành viên
NGUYỄN THÀNH BIÊN   Thành viên
NGUYỄN ĐĂNG THÀNH   Thành viên
HOÀNG PHONG HÀ   Thành viên
NGUYỄN TUẤN DŨNG   Thành viên

BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN LÀO

XÁ MẢN VINHAKỆT   Trưởng Ban
PHĂN ĐUÔNG CHÍT VÔNGXẢ   Phó Trưởng ban
CHĂN XA MỎN CHĂNNHALẠT   Thành viên
BO SENG KHĂM VÔNGĐALA   Thành viên
THOONG SỈ INTHAPHÔN   Thành viên
SU VĂN ĐI SIXÁVẮT   Thành viên
THONG SẢ PĂNNHAXÍT   Thành viên



HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN VIỆT NAM

PGS. TS. TÔ HUY RỨA   Chủ tịch
GS.TS. PHÙNG HỮU PHÚ   Phó Chủ tịch
TS NGUYỄN DUY HÙNG   Phó Chủ tịch
PGS.TS. PHẠM VĂN LINH   ủy viên
TS. HOÀNG PHONG HÀ   ủy viên
TS. LÊ MINH NGHĨA   ủy viên


HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN LÀO

XÁ MẢN VINHAKỆT   Chủ tịch
TS. PHĂN ĐUÔNG CHÍT VÔNGXẢ   Phó Chủ tịch
Trung tướng CHĂN XA MỎN CHĂNNHALẠT   Ủy viên
GS. TS. BO SENG KHĂM VÔNGĐALA   Ủy viên
THOONG SỈ INTHAPHÔN   Ủy viên
SU VĂN ĐI SIXÁVẮT   Ủy viên
THONG SẢ PĂNNHAXÍT   Ủy viên
VIÊNG KẸO PHÔMMAHẢXÂY   Ủy viên
BAN BIÊN SOẠN VIỆT NAM

GS. TS. TRỊNH NHU   Trưởng Ban
TS. TRẦN TRỌNG THƠ   Thư ký khoa học
TS. Đại tá TRẦN VĂN THỨC   Thành viên
PGS. TS. Đại tá NGUYỄN MINH ĐỨC   Thành viên
Đại tá VŨ TRỌNG HOAN   Thành viên
Đại tá PHẠM HỮU THẮNG   Thành viên
PGS.TS. TRẦN THỊ THU HƯƠNG   Thành viên
Th.S. NGUYỄN XUÂN ỚT   Thành viên
ThS. NGUYỄN HÀO HÙNG   Thành viên

BAN BIÊN SOẠN LÀO

TS. PHĂN ĐUÔNG CHÍT VÔNGXẢ   Trưởng Ban
VIÊNG KẸO PHÔMMAHẢXÂY   Thư ký khoa học
THONG SẢ PĂNNHAXÍT   Thành viên
VI XẨY CHĂNTHAMẠT   Thành viên
SU LI VĂN SẺNGCHĂN   Thành viên
TS. SỈNG THOONG SỈNGHẢPĂNNHA   Thành viên
KHĂM PHON ĐUNNAĐI   Thành viên
VIÊNG XAY XỔMVICHÍT   Thành viên
BUA NGÂN ĐALAXẺN   Thành viên
« Sửa lần cuối: 23 Tháng Tám, 2021, 03:06:01 pm gửi bởi ptlinh » Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #1 vào lúc: 10 Tháng Tám, 2021, 09:42:18 am »

LỜI GIỚI THIỆU
CÔNG TRÌNH BIÊN SOẠN
"LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM (1930 - 2007)"


Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực hiếm có về sự gắn kết bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội.

Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Người cùng Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp; mối quan hệ ấy đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh, gian khổ vì độc 1ập, tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai nước, đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ diệu đưa tới những thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giành chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới đưa hai nước cùng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Đối với nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, quan hệ đặc biệt được coi là lẽ sống, là tình nghĩa ruột thịt thân thiết, trước sau như một, dù gian nan nguy hiểm đến chừng nào cũng không thể chia tách được. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Việt – Lào, hai nước chúng ta. Tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long". Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản cũng khẳng định: “Trong lịch sử cách mạng thế giới cũng đã có những tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài, toàn diện như vậy".

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế mà nhân dân hai nước đang tiến hành đã tạo ra những xung lượng mới, đồng thời đặt ra những yêu cầu khách quan tăng cường mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam với những phương thức mới và những nội dung mới.

Nhằm giữ gìn, vun đắp và phát huy vai trò của mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam trong hiện tại và tương lai vì sự trường tồn và phát triển của hai dân tộc, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã quyết định tổ chức hợp tác cùng biên soạn công trình “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007)".

Công trình gồm có sáu sản phẩm, sản phẩm chính “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 – 2007)” (gọi tắt là Sản phẩm chính); Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007) - Văn kiện , Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007) - Biên niên sự kiện; Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007) - Hồi ký (gồm Bài viết của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Hồi ký các chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào qua các thời kỳ), Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 – 2007) - Sách ảnh và bộ phim “Bản anh hùng ca quan hệ Việt - Lào”.

Sau hơn bốn năm khẩn trương triển khai thực hiện, được sự quan tâm sát sao của Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương của hai Đảng, cùng với sự lao động miệt mài, nghiêm túc của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và sự đóng góp tích cực của các thế hệ chuyên gia và quân tình nguyện Việt Nam giúp cách mạng Lào… trên tinh thần cộng đồng trách nhiệm, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau của cả hai bên, công trình đã hoàn thành. Trong quá trình thực hiện, Ban Chỉ đạo và các Ban Biên soạn đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, trong đó tổ chức sáu sự kiện lịch sử quan trọng về hai cuộc kháng chiến của nước Lào trên các địa danh từ Sầm Nưa - căn cứ địa cách mạng đầu tiên của Lào, đến các chiến khu cách mạng quan trọng như Áttapư và các tỉnh Nam Lào; Xaynhabuli và các tỉnh Bắc Lào; đường 9 - Nam Lào và các tỉnh Trung Lào; căn cứ chiến lược Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng;… Mỗi sự kiện đều tổ chức hội thảo khoa học gặp gỡ nhân chứng và thăm lại chiến trường xưa, góp phần làm sinh động, phong phú thêm nguồn tư liệu lịch sử phục vụ cho công tác biên soạn. Công trình đã dược Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào phê duyệt, cho phép xuất bản, phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống đoàn kết, đấu tranh cách mạng, gìn giữ hòa bình của hai nước và phục vụ bạn đọc trên thế giới.

Với tinh thần và phương pháp nghiên cứu, biên soạn công phu, nghiêm túc, khoa học nguồn tư liệu, tài liệu lịch sử phong phú, đa dạng, có độ tin cậy cao, trong đó có những tư liệu lần đầu được công bố, các sản phẩm đã trình bày có hệ thống, sâu sắc, toàn diện và khách quan quá trình xây dựng và phát triển của mối quan hệ đặc biệt, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, trên các lĩnh vực từ năm 1930 đến 2007; nêu bật được nhưng thành quả, vai trò to lớn của mối quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc đối với tiến trình cách mạng mỗi nước; tổng kết phân tích và đánh giá những đặc điểm của mối quan hệ đặc biệt, những thắng lợi, thành tựu nhân dân hai nước đã đạt được trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay dưới sự lãnh dạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào.

Các sản phẩm đã nêu bật những nhân tố tạo nên mối quan hệ đặc biệt, liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam; đặc biệt là vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước, những hy sinh cao cả của nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân hai nước. Đồng thời, cũng thể hiện tinh thần nhất quán, xuyên suốt tư tưởng hai nước cùng tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc, tiến lên xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau, hợp tác giúp đỡ nhau một cách trong sáng về mọi mặt, từ cấp Trung ương đến các địa phương.

Các sản phẩm đã làm sáng tỏ quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thủy chung, son sắt, là tài sản vô giá, là nguồn sức mạnh, nhân tố bảo đảm thắng lợi sự nghiệp cách mạng của mỗi nước; đồng thời đúc kết các bài học kinh nghiệm, gợi mở những vấn đề vận dụng vào hiện tại và tương lai.

Sản phẩm chính được thu thập xử lý qua 645 đầu mục tài liệu tiếng Việt, tiếng Lào và các tiếng nước ngoài khác, trong đó phần lớn là các tài liệu, tư liệu gốc có độ tin cậy cao. Số tư liệu, tài liệu trên được xử lý, thẩm định, sử dụng vào việc biên soạn tác phẩm với tinh thần cẩn trọng. Ban Biên soạn đã tổ chức trên 30 cuộc hội thảo, bao gồm hội thảo đề cương, hội thảo nội dung từng chương và toàn bộ bản thảo, hội thảo những vấn đề tồn đọng, hội thảo xin ý kiến chuyên gia, nhân chứng. Ban Biên soạn phía Việt Nam và Ban Biên soạn phía Lào thường xuyên trao đổi thống nhất với nhau về nguồn tư liệu khi đánh giá, nhận định các nhân vật, sự kiện dược trình bày trong Sản phẩm chính. Đặc biệt, hai bên đã tiến hành ba cuộc hội thảo quốc tế: tổ chức tại Thanh Hóa (tháng 11 năm 2009), Viêng Chăn (tháng 8 năm 2010) và Vinh – Nghệ An (tháng 8 năm 2010) để thu thập tài liệu và cùng nhau đóng góp ý kiến vào các chương bản thảo. Các nhà khoa học hai bên trao đổi trên tinh thần tôn trọng sự thật lịch sử, đồng thời tuân thủ nghiêm túc những quy định của hai Ban Chỉ đạo Việt Nam và Lào về hợp tác nghiên cứu, biên soạn Sản phẩm chính. Tất cả các vấn đề nêu ra đều được hai bên thảo luận thẳng thắn, tôn trọng ý kiến của nhau và đi đến nhất trí cao, được văn bản hoá thành Biên bản ghi nhớ đã trình hai Ban Chỉ đạo.

Sản phẩm được Hội đồng nghiệm thu quốc tế do hai Bộ Chính trị của hai Đảng quyết định, các đồng chí Thường trực Ban Bí thư Trung ương của hai Đảng là đồng chủ tịch, đã đánh giá cao chất lượng nội dung sản phẩm.

Sau hội nghị nghiệm thu, tập thể Ban Biên soạn đã nghiêm túc tiếp thu các ý kiến đóng góp của Hội đồng và tích cực sửa chữa, hoàn thiện bản thảo. Kết quả bản thảo cuốn cùng gồm 4 phần, 10 chương:

Phần thứ nhất: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân hai nước Việt Nam và Lào phát huy truyền thống đoàn kết đặc biệt, đấu tranh giành độc lập, tự do (1930 – 1945).

Phần thứ hai: Liên minh Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 – 1975).

Phần thứ ba: Quan hệ đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam từ năm 1976 đến 2007.

Phần thứ tư: Thành quả, bài học và triển vọng.

Sản phẩm có giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai Đảng, nhân dân hai nước Việt Nam và Lào.

Bộ Văn kiện là bộ sách mang ý nghĩa lý luận chính trị sâu sắc, thể hiện mối quan hệ đặc biệt, thủy chung, son sắt giữa hai Đảng, hai Nhà nước, hai Mặt trận, hai quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam và Lào. Cả hai dân tộc đều cùng chiến đấu kiên cường, bất khuất, chống kẻ thù chung giành độc lập, tự do cho mỗi nước. Hai Đảng đều có chung một đường lối bắt nguồn từ đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương - đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ  tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quá trình đấu tranh cách mạng hai nước đã trải qua nhiều chặng đường với biết bao hy sinh, gian khổ, vượt qua mọi thử thách, trước nhiều biến động và thay đổi to lớn, kề vai, sát cánh bên nhau chiến đấu và giành thắng lợi vẻ vang.

Bộ Văn kiện gồm 5 tập:

- Tập I: 1930 - 1945

- Tập II: 1946 - 1955

- Tập III: 1956 - 1975

- Tập IV: 1976 – 1985

- Tập V: 1986 - 2007

Bộ Biên niên sự kiện có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt, nhằm làm sáng tỏ những sự kiện lịch sử về tình đoàn kết giữa hai nước trong tháng năm đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Hàng ngàn sự kiện được trình bày trong Biên niên sự kiện đã khái quát, phục dựng lại tiến trình lịch sử của tình đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, giúp độc giả hiểu rõ thêm một giai đoạn lịch sử hào hùng nhất của hai dân tộc Việt - Lào anh em. Tình đoàn kết đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ tịch Cayxỏn Phômvihản, Chủ tịch Xuphanuvông đặt nền móng, được các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước dày công vun đắp trong gần một thế kỷ đã lập nên kỳ tích, đem lại độc lập, hòa bình, ấm no hạnh phúc cho nhân dân hai nước.

Để phù hợp với phân kỳ lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, bộ Biên niên sự kiện được kết cấu thành hai tập:

- Tập I bao gồm những sự kiện diễn ra từ năm 1930 đến 1975

- Tập II bao gồm những sự kiện diễn ra từ năm 1976 đến 2007.

Bộ Hồi ký trong quá trình thực hiện, Ban Biên soạn phía Việt Nam và Ban Biên soạn phía Lào đã phối hợp chặt chẽ với nhau, liên hệ với tác giả đặt bài theo yêu cầu đã được thông qua trong đề cương do Ban Chỉ đạo phê duyệt tổ chức các để khảo sát tại Lào và Việt Nam để sưu tầm tư liệu. Hai Ban Biên soạn cũng tổ chức hai cuộc hội thảo chính thức tại Viêng Chăn và Hà Nội để thống nhất nội dung sản phẩm và giải quyết những vấn đề còn vướng mắc; tổ chức các hội thảo chuyên gia, xin ý kiến các nhà khoa học và cựu chuyên gia quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào.

Nội dung các bài viết đã phản ánh chân thực, sinh động, sâu sắc về mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nước, hai Mặt trận cùng các tổ chức đoàn thể nhân dân, các ngành các địa phương của Việt Nam và Lào; phản ánh những tình cảm sâu sắc của các cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam, các chuyên gia Việt Nam tại Lào và cán bộ, chiến sĩ vào cùng kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ...

Bộ sản phẩm gồm:

Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam (1930 – 2007) - Hồi ký Tập I (Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược).

- Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam (1930 – 2007) - Hồi ký, Tập II (Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước).

Ngoài ra trong bộ sách này còn có cuốn sách Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007) - Bài viết của lãnh đạo Đảng, Nhà nước bao gồm những bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các tổ chức đoàn thể và một số địa phương của Việt Nam và Lào. Các bài viết đều toát lên tầm tư tưởng lớn về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thể hiện quan điểm, đường lối và hoạt động thực tiễn rất hiệu quả của hai Đảng, hai Nhà nước, hai Mặt trận và nhân dân hai nước trong mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam.

Tập Sách ảnh là sản phẩm chung, công trình hợp tác đầu tay về sách ảnh giữa Việt Nam và Lào. Thông qua các hình ảnh và tư liệu được chọn lựa kỹ, sách ảnh đã phản ánh một cách khách quan, có hệ thống và tiêu biểu về mối quan hệ đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam và Lào qua tác thời kỳ lịch sử. Cuốn sách gồm hơn 300 ảnh, được chú thích bằng ba thứ tiếng: tiếng Việt Nam, tiếng Lào và tiếng Anh, có ba phần chính:

- Phần thứ nhất: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân hai nước Việt Nam và Lào đoàn kết giúp đỡ nhau đấu tranh giành độc lập tự do (1930 - 1945)

- Phần thứ hai: Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào Chống thực dân, đế quốc xâm lược (1945 - 1975).

- Phần thứ ba: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ Nhân dân Lào (1975 – 2007).

Trong quá trình biên soạn, Ban Biên soạn Sách ảnh đã cố gắng kế thừa những thành quả của công trình sách ảnh “Quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào được xuất bản vào dịp kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Lào (5-9-1962 - 5-9- 2007) và 30 năm ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào (18-7-1977 - 18-7-2007). Tập Sách ảnh được đánh giá cao, phản ánh trực quan, khoa học là tài liệu tuyên truyền, giáo dục sâu rộng cho nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ trẻ về mối quan hệ và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trên mọi lĩnh vực.

Ngoài năm sản phẩm bằng cho viết và hình ảnh, công trình còn có bộ phim tài liệu "Bản anh hùng ca quan hệ Việt - Lào gồm 10 tập (100 phút). Nội dung, độ dài và bố cục của phim phù hợp với các sự kiện lịch sử phản ánh khá toàn diện, phong phú và sinh động những hoạt động trong tiến trình phát triển quan hệ đặc biệt của hai nước Việt Nam - Lào từ liên minh đến đấu chống kẻ thù chung, nhằm giải phóng dân tộc của một nước đến quan hệ hợp tác toàn diện nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai nước, hai Nhà nước và nhân dân hai nước.

Công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 – 2007) là công trình quy mô lớn nhất từ trước tới nay về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, được nghiên cứu, biên soạn công phu, tương xứng với tầm vóc lớn lao của mối quan hệ đúng tinh thần mà Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã thỏa thuận. Công trình cũng có ý nghĩa to lớn khi hoàn thành và xuất bản đúng dịp Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam và Đại hội lần thứ IX Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Công trình có giá trị khoa học, chính trị, tư tưởng cao, góp phần tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân và thế hệ trẻ hai nước về mối quan hệ hữu nghĩ đặc biệt, thủy chung, trong sáng giữa hai nước về mối quan hệ hữu nghị đặc biệt, thủy chung, trong sáng giữa hai nước. Trên cơ sở đó nâng cao ý thức giữ gìn, củng cố, vun đắp và phát triển mãi mãi mối quan hệ tốt đẹp, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam và Lào; đồng thời, giới thiệu với bạn bè quốc tế về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, đấu tranh chống lại sự bóp méo, xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch chia rẽ tình đoàn kết của nhân dân hai nước.

Nhân dịp công trình ra mắt bạn đọc hai nước, Ban Chỉ đạo xin chân thành cảm ơn Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào, xiN chân thành cám ơn và đánh giá cao các Ban Biên soạn, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu Việt Nam và Lào đã hết sức cố gắng dành nhiều thời gian và công sức hoàn thành công trình theo đúng kế hoạch và bảo đảm chất lượng; chân thành cảm ơn các cựu chuyên gia, quân tình nguyện Việt Nam giúp cách mạng Lào, các cựu chiến binh và các nhân chứng lịch sử, các cơ quan và địa phương hai nước Việt Nam, Lào đã có nhiều đóng góp quý báu cho sự thành công của công trình đặc biệt này.

Hà Nội – Viêng Chăn, tháng 5 năm 2011

BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN CHƯƠNG TRÌNH
“LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT LÀO – VIỆT NAM, VIỆT NAM – LÀO (1930 – 2007)

BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN CÔNG TRÌNH
“LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO – VIỆT NAM (1930 – 2007)
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #2 vào lúc: 10 Tháng Tám, 2021, 09:59:11 am »

PHẦN THỨ NHẤT

DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG,
NHÂN DÂN HAI NƯỚC VIỆT NAM VÀ LÀO
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT ĐẶC BIỆT,
ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP, TỰ DO (1930 - 1945)





Chương I

NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ ĐOÀN KẾT ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM


Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng gần gũi trên bán đảo Đông Dương, có truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau lâu đời. Quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hình thành nên không phải do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, cũng không phải là một hiện tượng nhất thời, mà bắt nguồn từ vị trí địa - chiến lược của hai nước, từ bản chất nhân văn, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc, được nâng lên thành quan hệ đặc biệt từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 và đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10 năm 1930.

I. CÁC ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, ĐỊA - CHIẾN LƯỢC, ĐỊA - QUÂN SỰ CHI PHỐI QUAN HỆ VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM

Việt Nam và Lào nằm ở trung tâm bán đảo Ấn - Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Trong phạm vi của bán đảo Đông Dương, Việt Nam nằm ở phía đông dãy Trường Sơn, như một bao lơn nhìn ra biển; Lào nằm ở sườn tây dãy Trường Sơn, lọt sâu vào đất liền của bán đảo. Như vậy, dãy Trường Sơn có thể ví như cột sống của hai nước, tạo thành biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào.

Địa hình tự nhiên này đã quy định hệ thống giao thông ở Việt Nam và Lào cùng chạy dài theo trục Bắc - Nam: ở Việt Nam là trục quốc lộ 1A và ở Lào là trục quốc lộ 13. Về mặt tự nhiên, bên cạnh con đường 13 nối Pạc Xê1  - Cratié (Campuchia) - thành phố Hồ Chí Minh, Lào có thể thông thương ra biển gần nhất bằng hệ thống các đường xương cá chạy ngang trên lãnh thổ hai nước như: đường 6 Sầm Nưa2  - Thanh Hoá, đường 7 Xiêng Khoảng - Nghệ An, đường 8 Khăm Muộn - Hà Tĩnh, đường 9 Xavẳnnakhệt3  - Đông Hà, đường 12 Khăm Muộn - Quảng Bình...

Cùng nằm trong vùng nhiệt đới châu Á gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, lượng bức xạ mặt trời lớn, nhưng khí hậu hai nước cũng có điểm khác biệt, bởi Việt Nam chịu sự điều tiết của biển nên ít khô hanh như khí hậu Lào ở sâu trong đất liền, trong khi địa hình Lào, nhờ dãy Trường Sơn che chắn, lại hầu như không bị những cơn bão biển tàn phá. Lãnh thổ Việt Nam trải dài theo chiều dọc của bán đảo, mặt hướng ra biển Đông với bờ biển dài trên 3.400 km, tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, biển Đông và vịnh Thái Lan, có nhiều cảng biển lớn, nhất là các cảng nước sâu ở miền Trung.

Việt Nam và Lào là những nước thuộc loại “vừa” và “tương đối nhỏ” sống bên cạnh nhau, chiếm vị trí địa - chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á do nằm kề con đường giao thương hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Về quốc phòng, do bờ biển Việt Nam ở phía đông tương đối dài, nên việc bố phòng về mặt biển gặp không ít trở ngại. Trong khi đó, dựa vào địa thế hiểm trở, nhất là với dãy Trường Sơn - một “lá chắn chiến tranh” hùng vĩ, một lợi thế tự nhiên che chở cho cả Việt Nam và Lào, nên chẳng những hai nước có thể khắc phục được những điểm yếu “hở sườn” ở phía đông, mà còn phát huy được sự cần thiết phải dựa lưng vào nhau, tạo ra vô vàn cách đánh của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân hai nước có thể lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh, giành thắng lợi từng bước, tiến lên đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Về địa - quân sự, Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng; hay cao nguyên Bôlavên của Lào và Tây Nguyên của Việt Nam; vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Đông Bắc Lào... đều là những vị trí có tầm chiến lược hàng đầu trên bán đảo Đông Dương. Nhiều nhà chiến lược và quân sự cho rằng: ai nắm được những địa bàn chiến lược trên, người đó sẽ làm chủ toàn bộ chiến trường Đông Dương.




------------------------------------------------------------------
1. Pạc Xê (còn gọi là Pắc Xế): tỉnh lỵ của tỉnh Chămpaxắc. Pạc có nghĩa là cửa, là sông: thành phố cửa sông (BT).

2. Sầm Nưa: thị xã của tỉnh Hủa Phăn. Sầm Nưa đọc đúng âm Lào là Sâm Nửa: Sâm là tên của sông Sâm, Nặm Sâm, Nửa là phía trên hoặc phía thượng nguồn của sông. Sâm Nửa là vùng đất nằm ở thượng nguồn  của (sông) Nặm Sâm (BT).

3. Xavẳnnakhệt: tỉnh lỵ của tỉnh Xavẳnnakhệt. Xavẳnnakhệt: đọc đúng là Xávẳnnákhệt có nghĩa là thiên đường (BT).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #3 vào lúc: 10 Tháng Tám, 2021, 10:14:12 am »

II. CÁC NHÂN TỐ DÂN CƯ, XÃ HỘI, VĂN HOÁ VÀ LỊCH SỬ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM


1. Nhân tố dân cư và xã hội

Trước hết, về mặt phân bố tộc người, Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc. Việt Nam có 54 dân tộc chia thành tám nhóm ngôn ngữ. Lào có 49 tộc người (phầu) xếp theo bốn nhóm ngôn ng . Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia của hai nước hay nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người ở khu vực Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm địa - tộc người này đến nay vẫn tiếp tục chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ khác trên đường biên giới quốc gia Việt Nam - Lào.

Quá trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài của những cư dân Việt Nam và cư dân Lào trên địa bàn biên giới hai nước xuất phát từ nhiều lý do, liên quan đến việc cùng khai thác và chia sẻ nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thuỷ, có thể do tập quán sản xuất du canh du cư, có thể do xung đột cộng đồng, tranh giành quyền lực, cũng có thể do tránh dịch bệnh, thiên tai... Như vậy, các quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc đã là những điều kiện lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo ra những mối dây liên hệ khó phai mờ và sự giao thoa văn hoá nhiều tầng nấc giữa cư dân hai nước. Điều này được phản ánh khá sâu đậm trong những ký ức và tâm thức dân gian, cũng như được lưu giữ trong các nguồn tài liệu bia ký và sử sách của cả Việt Nam và Lào.

Huyền thoại khởi nguyên nổi tiếng của người Lào còn nhắc đến nguồn gốc chung từ một quả bầu của các nhóm dân cư Lào, Thái, Khơmú, Việt và điều độc đáo kỳ diệu là lời dặn dò giàu tính nhân bản của Khún Bulôm với các con cháu của Người: “Các con phải luôn luôn giữ tình thân ái với nhau, không bao giờ được chia rẽ nhau. Các con phải làm cho mọi người noi gương các con và coi nhau như anh em một nhà, người giàu phải giúp đỡ kẻ nghèo, người mạnh giúp kẻ yếu. Các con phải bàn bạc kỹ trước khi hành động và đừng bao giờ gây hấn xâm lăng lẫn nhau”. Dưới dạng lời căn dặn của thế hệ trước cho thế hệ sau, di chúc huyền thoại của Khún Bulôm truyền tải nét đẹp chung về một loại hình văn hoá pháp lý có tính chất luật tục, ngày nay còn thấy khá phổ biến trong các cư dân Lào và Việt Nam sống ở hai bên dãy Trường Sơn. Đặc trưng của nền văn hoá này là toàn thể cộng đồng được điều hành theo phong tục tập quán (Hít Khoóng Pạ Phê Ni) để duy trì những nền tảng đạo đức và quan hệ xã hội tích cực, coi đó là các giá trị thiêng liêng do “ông bà xưa để lại” .

Cùng một môtíp quả bầu mẹ, người B’ru thuộc ngữ hệ Môn - Khơme ở miền tây Quảng Bình và miền tây Quảng Trị của Việt Nam cũng có huyền thoại khởi nguyên giải thích một cách tự nhiên nguồn gốc anh em giữa các dân tộc Tà Ôi, Êđê, Xơđăng, Bana, Khùa, Sách, Mông, Dao, Tày, Khơme, Lào, Thái, Kinh (Việt)... . Hình tượng quả bầu mẹ hay quan niệm đồng nhất về nguồn gốc loài người, phổ biến trong cư dân hai nước đã phản ánh một nền tảng chung về môi trường địa - sinh thái, điều kiện phân bố dân cư xen kẽ, cũng như cơ tầng chung của một nền sản xuất nông nghiệp lúa nước ở cả Việt Nam và Lào.

2. Nhân tố văn hóa

Do quan hệ gần gũi và lâu đời, đặc biệt trên các vùng biên giới, người Việt và người Lào đã am hiểu về nhau khá tường tận. “Dư địa chí” là một trong những sách địa lý cổ nhất của Việt Nam (thế kỷ XV), khi giới thiệu các tộc người sống ở vùng biên giới Cao, Lạng (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc) đã đưa ra những nét mô tả khá ấn tượng về nền văn hoá độc đáo và phong tục thuần phác của dân tộc Lào, cũng như hiện tượng giao thoa văn hoá nở rộ giữa Đại Việt với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có Lào Lạn Xạng.

Dưới thời Trần (thế kỷ XIII), các sản vật như gấm, chim ưng, cá sấu, da dê, ngà voi, trầm hương, gỗ bạch đàn của Lào và Campuchia đã có mặt trên thị trường Việt Nam qua cảng biển Vân Đồn: “không thiếu thứ gì, đều là những thứ đời sau ít có” . Phủ Ninh Biên (vùng Tây Bắc Việt Nam) được thành lập từ năm 1775, dưới thời chúa Trịnh, đã từng là địa điểm giao thương sầm uất. Những đoàn lái thương từ Lào, Mianma, các miền Síp Loỏngphằnna, Mương La, miền Khai Hoá, Vĩnh Xương (Vân Nam, Trung Quốc) kéo về buôn bán rất đông. Phiên chợ ở đây có đến hàng chục đoàn voi và hai, ba nghìn bò, ngựa, tải hàng đến bán: muối, chè, cánh kiến, đồ trang sức, vật dụng hàng ngày; mua lại những sản phẩm địa phương như: sa nhân, mật ong, cao thú, mộc nhĩ, nấm hương,... Sử của người Thái (Tây Bắc Việt Nam) chép đây là thời kỳ thịnh vượng nhất ở miền này . Lê Quý Đôn dưới thời Lê mạt (thế kỷ XVIII) và Phan Huy Chú dưới thời Nguyễn (thế kỷ XIX) đều ca ngợi sự buôn bán thịnh đạt với Lào ở phủ Triệu Phong (Quảng Trị), một khu vực “trao đổi hàng hoá, nguồn lợi và sản vật thường được thừa thãi”.

Điều đáng chú ý là trong quan hệ giao thương với Đại Việt, Lào Lạn Xạng đã không ít lần bộc lộ mối quan tâm hướng ra biển của mình, trong khi Đại Việt lại tìm được không ít cơ hội để mở rộng buôn bán vào sâu lục địa. Chỉ riêng những hoạt động ở cửa khẩu Quy Hợp (Hương Khê, Hà Tĩnh) 1 đã cung cấp những bằng chứng rõ rệt cho việc: “cách đây 200 năm, nhiều đặc sản của Vương quốc Viêng Chăn đã xuất khẩu ra thị trường quốc tế phía biển Đông qua cửa khẩu Quy Hợp. Về phía tây, Quy Hợp thông thương dễ dàng bằng đường bộ và đường voi với Thà Khẹc, Viêng Chăn, rồi từ đó với Xiêm và xa hơn nữa. Hàng đặc sản của Việt Nam, của Trung Quốc bằng con đường ấy đi sang Lào và các nước phía tây sông Mê Công” . Người tiêu dùng Việt Nam cũng từng bày tỏ mối thiện cảm với chất lượng cao của mặt hàng vải dệt tài hoa từ xứ sở Lào: “Nay nước Ai Lao bán các thứ phạ2  Lào ấy, phạ Lào dệt bằng các sợi ngũ sắc sặc sỡ rất khéo, rất đẹp, một tấm dài đến hơn 20 thước, giá tiền 6-7 quan, dùng may màn rất tốt, còn thứ vải không có hoa cũng rất tốt (vải trắng)”.

Chiêng đồng Lào rất nổi tiếng và được coi là đồ triều cống dùng trong quan hệ bang giao, cũng có khi dùng để trao đổi các vật phẩm quý khác. Nhiều dân tộc ít người ở Tây Nguyên (Việt Nam) còn giữ được những chiếc chiêng Lào chuyên dùng đánh trong các ngày hội của buôn làng . Ghi chép về những đặc sản quý của nước Lào, nhà bác học Lê Quý Đôn của Việt Nam nhận xét: “thật là một nước đã giàu lại khéo”.

Có thể khẳng định rằng, sự hài hoà giữa tình cảm nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc của triết lý nhân sinh người Việt Nam cũng như người Lào. Chính trong cuộc sống chan hoà này, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào đã ngày càng hiểu nhau hơn và bày tỏ những tình cảm rất đỗi chân thành với nhau. Ngạn ngữ Lào có câu: “Nói hợp lòng thì xin, cho cũng chả tiếc, nói trái lý thì dẫu xin, mua cũng chẳng bán” (Vầu thức khỏ, khỏ kin bò thi (bò khỉ thi), vầu bò thức khỏ kho xử cò bò khai). Chẳng khác nào với những cảm xúc bình dị, nhưng đầy tinh tế mà người dân nước Việt dành nhận xét về người bạn láng giềng của mình: “người Lào thuần hậu chất phác”, trong giao dịch buôn bán thì “họ vui lòng đổi chác”. Chứng kiến hiện tượng giao thoa văn hoá Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, ngay từ thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã kịp ghi nhận những chi tiết khá sát thực về những người khác với mình: “tiếng Lào nói trong họng”, còn y phục thì “người Lào lấy vải lông quấn vào mình như áo cà sa nhà Phật”. Nhờ vào tinh thần khoan hoà văn hoá, đó là sự tôn trọng những khác biệt của người khác, để người khác tôn trọng những khác biệt của mình, mà người Việt Nam và người Lào đã dễ dàng hoà đồng, ngày thêm xích lại gần nhau trong quá trình lịch sử, để cùng tồn tại và phát triển.

Giống như nhiều nước trong khu vực lịch sử - văn hoá Đông Nam Á khác, sở dĩ có sự tương đồng giữa văn hoá Việt Nam và văn hoá Lào, là vì hai nước đều có chung một cơ tầng của nền văn minh lúa nước Đông Nam Á.. Mô hình tổ chức xã hội cổ truyền của người Việt là làng - nước có nhiều nét tương đồng với mô hình tổ chức xã hội cổ truyền bản - mường của nhân dân Lào anh em.

Ở Lào, văn hoá chùa từng là nền tảng cơ bản của văn hoá truyền thống Lào với giáo lý của Đạo Phật: Ở hiền gặp lành, chăm lo bố thí và hạn chế sát sinh, thấm đẫm tinh thần nhân ái, hướng con người tới phép xử thế nhún nhường, từ bi bác ái, lấy từ thiện tu thân để khi qua đời được hưởng một cuộc sống sung sướng hơn ở kiếp sau. Ở Việt Nam, vào đầu thời kỳ tự chủ (thế kỷ XI - XIII), văn hoá Phật giáo cũng từng giữ vai trò chủ đạo và sau này, khi Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến Việt Nam (từ cuối thế kỷ XIV trở đi), Phật giáo vẫn cùng Nho (Khổng), Đạo (Lão) đồng hành trong đời sống văn hoá “tam giáo đồng nguyên” của dân tộc. Nhờ lòng nhân ái bao la và đời sống tâm linh phong phú của người Việt cũng như của người Lào, nhân dân hai nước đã biết thực hành chuyển hoá những giận hờn, oán hận đời thường thành hoà giải, yêu thương, thiện hạnh. Lịch sử cho thấy: hoà hiếu, hoà giải, khoan dung, yêu thương đã trở thành những truyền thống cao quý nhất của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân dân Lào.

Trong quá trình phát triển lịch sử, Việt Nam và Lào có tiếng nói, văn tự không giống nhau, mô phỏng và xây đắp nên các nền văn hoá, cũng như mô thức tổ chức chính trị - xã hội khác nhau: Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều của văn hoá Khổng giáo Trung Hoa, trong khi Lào chịu tác động nhiều của văn hoá Phật giáo và Bàlamôn giáo Ấn Độ. Đứng trên bình diện so sánh loại hình, người ta dễ dàng nhận ra những nét tương đồng và khác biệt giữa văn hoá Lào với văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong muôn mặt đời sống văn hoá dân gian phong phú của cư dân Việt Nam và Lào. Vì về bản chất, các nền văn hoá nghệ thuật truyền thống này mang nhiều nét tương đồng, thích đề cao các giá trị cộng đồng, tôn trọng luật tục và thượng tôn người già...




------------------------------------------------------------------
1. Nay là cửa khẩu Bản Giàng (Hà Tĩnh) - Mắtca (Khăm Muộn).

2. Phạ: tiếng Lào có nghĩa là vải, thư tịch cổ Việt Nam đã dùng nguyên từ Lào này chứ không dịch ra, một bằng chứng về sự giao thoa văn hoá Việt - Lào trên lĩnh vực ngôn ngữ.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #4 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2021, 03:52:19 pm »

3. Nhân tố lịch sử

Nếu dãy Trường Sơn như bức rào thiên nhiên chắn ngang khiến Việt Nam và Lào hầu như ít có va chạm, xung đột, thì không vì thế, hai nước không nhận ra những giá trị phòng thủ an ninh đích thực của bức trường thành này, mà ngược lại, không có thời nào, Việt Nam và Lào lại bỏ lỡ các cơ hội để tìm gặp nhau, nương tựa vào nhau và giúp đỡ lẫn nhau như anh em.

Các thư tịch cổ nổi tiếng của Việt Nam như “Việt điện u linh”, “Lịch triều hiến chương loại chí”, đều ghi chép sự kiện đầu tiên về quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là rất sớm: vào năm 550, dưới thời nước Vạn Xuân của nhà tiền Lý. Lúc đó bị quân Lương ở phương Bắc đàn áp, Lý Nam Đế buộc phải lánh nạn và anh ruột của vua là Lý Thiên Bảo đã chạy sang đất Lào lập căn cứ chống giặc ngoại xâm . Còn hai bộ chính sử khác là “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” thì ghi nhận sự kiện quan hệ ngoại giao, thông hiếu đầu tiên giữa nước Đại Việt và Lào là vào năm 1067.

Về phía Đại Việt, việc đề xuất phương hướng dựa lâu dài vào Lào ở phía tây, để ngăn cản sức ép của phương Bắc là một thành tựu đỉnh cao về mặt nhận thức đối ngoại của vương triều Trần trong việc xác lập quan hệ với các nước láng giềng, một hệ quả tất yếu của những yêu cầu tập hợp lực lượng chung vượt ra ngoài biên giới từ nhiều thế kỷ trước đó. Vả chăng, “Đại Việt sử ký toàn thư” đã tổng kết rất rõ ý kiến khẳng định sự cần thiết phải liên kết lực lượng đồng minh phía tây tại triều đình Trần vào năm 1335 bằng một câu hỏi chứa đầy sức nặng của thực tiễn lịch sử: “Lỡ ra giặc phương Bắc xâm lấn thì ta nhờ cậy vào đâu?”.

Vào giữa thế kỷ XIV (năm 1353), Chạu Phạ Ngừm lần lượt chinh phục các mường Lào, lập nên Vương quốc Lạn Xạng thống nhất đầu tiên của người Lào, dường như ngay lập tức, những quy ước hoà bình đầu tiên về biên giới quốc gia đã được xác lập giữa Đại Việt và Lạn Xạng.
 
Bàn về quan hệ giữa nhà Lê sơ với Lạn Xạng dưới thời Chạu Xảmxẻnthai (1373 - 1416) và Lạn Khăm Đeng (1416 - 1428), sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” nhắc lại: “Thời Lê Thái Tổ mới khởi nghĩa thường cùng nước này kết hảo”. Trong suốt quá trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427), nghĩa quân Lê Lợi luôn nhận được sự tiếp sức của các tộc trưởng và nhân dân Lào vùng biên giới như truy đuổi quân Minh trốn sang Lào, giúp đỡ lương thực, voi chiến...

Tinh thần lấy hoà hiếu làm trọng xuyên suốt thế kỷ XIV và XV trong quan hệ bang giao Đại Việt - Lạn Xạng, Lạn Xạng - Đại Việt, cho dù không phải không có những thời khắc gặp nguy nan khi xảy ra biến cố đụng chạm lợi ích giữa các tập đoàn phong kiến dưới thời Vua Lê Thánh Tông. Đó là sự kiện nhà Lê tiến hành cuộc chinh phạt Lạn Xạng vào năm 1479. Nhưng hai nước thật sáng suốt và công bằng khi cả Lào và Việt đều có ý thức đề cao không thù hận, biết chủ động vun đắp tình thân ái và hữu nghị lâu dài giữa hai dân tộc. Phôngxavađan (dã sử) Lạn Xạng đã kể lại những cử chỉ cao đẹp của nhân dân và các nhà sư Lạn Xạng khi băng bó và chăm sóc vết thương cho binh lính người Việt. Được cảm hoá trước những hành vi độ lượng và đầy lòng vị tha của nhân dân Lạn Xạng mà nhiều người Việt đã xin ở lại đất Lào làm ăn kể từ đó. Phôngxavađan Lạn Xạng còn nhấn mạnh rằng, sau cuộc chiến tranh trên: “nhà vua nước Việt đã hối hận sâu sắc vì làm sai lời giáo huấn của Khún Bulôm và cam kết rằng từ nay về sau sẽ không bao giờ gây chiến tranh với những người anh em của mình nữa”.

Có thể nói, tinh thần hoà bình, nhân bản dựa trên nền tảng cao đẹp của một nền văn hoá pháp lý có tính chất luật tục để duy trì đạo đức và quan hệ xã hội cộng đồng khá phổ biến của nhân dân Lào, gắn với những ảnh hưởng khoan dung, bác ái sâu rộng của Đạo Phật dân gian Lào đã làm nên âm hưởng chủ đạo, chi phối quan hệ Lạn Xạng - Đại Việt, Đại Việt - Lạn Xạng trong suốt thời kỳ cổ, trung đại. Vượt qua hậu quả của một cuộc chiến tranh thông thường, nền văn hoá yêu chuộng hoà bình của nhân dân Lạn Xạng thật sự đã đạt đến tầm cao của phép xử thế tinh tế, thấm đẫm tính nhân văn qua việc khắc phục tận gốc nguyên nhân và hậu quả của những va chạm trong quan hệ hai nước. Đây không những là bài học lịch sử mẫu mực trong việc tháo gỡ xung đột quốc gia, thực hiện hoà giải, khoan dung giữa Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, mà trên hết còn là ý thức chung sống hoà bình hiếm thấy trong lịch sử quan hệ bang giao giữa các quốc gia trong thời kỳ cổ, trung đại1.

Sang thế kỷ XVII là thời kỳ toàn thịnh của Lạn Xạng dưới Vương triều Xulinhavôngsả (1637 - 1694). Nhà vua Lào cũng đích thân cầu hôn công chúa con Vua Lê Duy Kỳ. Tuy nhiên, đây cũng là lúc chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng, với việc phân tranh Nam - Bắc kéo dài suốt hơn hai thế kỷ (1533 - 1788), nên quan hệ giữa hai vương triều hậu Lê và Lạn Xạng không phát triển được nhiều. Cuối thế kỷ XVII, nội bộ hoàng tộc Lào rối ren, cháu nội của Xulinhavôngsả là Say Ông Vẽ (có vương hiệu là Xâynha Xệtthảthilạt 2, “Biên niên sử” Việt Nam chép là Sài Ông Huế), năm 1696 sang Huế cư trú để xin trợ giúp của triều đình Việt Nam. Năm 1707, Say Ông Vẽ lại sang cầu cứu quân đội Ayuthaya nhằm chống lại các phe phái đối lập trong hoàng tộc. Phong kiến cầm quyền Ayuthaya đã không bỏ qua cơ hội này để thực hiện ý đồ bành trướng và thôn tính sang phía đông. Đến năm 1713, khi kinh đô Chămpaxắc tuyên bố tách ra thì nước Lạn Xạng bị chia thành ba tiểu vương quốc: Viêng Chăn, Luổng Phạbang và Chămpaxắc.

Bất chấp hoàn cảnh bất lợi của chế độ phong kiến ở Đại Việt và Lạn Xạng, quan hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng. Nửa cuối thế kỷ XVIII, khu vực Mương Phuôn (Xiêng Khoảng) đã trở thành một căn cứ đề kháng quan trọng của nghĩa quân Tây Sơn chống lại thế lực Nguyễn Ánh được phong kiến Xiêm trợ giúp. “Biên niên sử” Lào còn dành một đoạn trình bày cuộc tấn công năm 1788 của hai viên tướng Tây Sơn là Chiêng Ba (?) và Chiêng Viên (?). Trong trận này, 3.000 quân Tây Sơn đã phối hợp với 3.000 quân Xiêng Khoảng đánh thẳng vào thành Viêng Chăn, buộc chính quyền do Xiêm dựng nên phải thả Chạu Xủmphu và thừa nhận chức Chạu mương Xiêng Khoảng của ông.

Sang thế kỷ XIX, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam đã có bước trưởng thành sâu hơn về phương diện nhận thức chủ quyền quốc gia, quan điểm bạn thù cũng như phương cách xây dựng đồng minh giữa nhân dân hai nước. Ngoài các cuộc kết hôn thường thấy giữa các tầng lớp vua chúa và các thủ lĩnh địa phương với nhau, quan hệ bang giao giữa các nhà nước phong kiến Việt Nam và Lào, trong mọi hoàn cảnh, luôn được duy trì và được đặt ở vị trí ưu tiên đối với nhau. Quốc sử quán triều Nguyễn còn ghi lại những quy định ngoại giao cụ thể như: sứ giả của Vạn Tượng (Viêng Chăn), Nam Chưởng (Luổng Phạbang) được phép đến thẳng kinh đô Huế theo đường trạm Nghệ An; trong nghi lễ yến tiệc ngoại giao, sứ Nam Chưởng được xếp ở vị trí cao nhất. Ngay tại hoàng cung, nhà Nguyễn còn cho mở nhiều lớp phiên dịch tiếng Lào, Thái để phục vụ cho quan hệ bang giao. Vua Chạu Anúvông (1766 - 1828), vị anh hùng kiệt xuất của Lào, đã chủ trương dựa hẳn vào Việt Nam để xây dựng lực lượng kháng chiến chống Xiêm. Sự kiện này được kể lại trân trọng trong “Phưn Viêng”, một truyện thơ khuyết danh nổi tiếng của Lào ở thế kỷ XIX.

Biên niên sử triều Nguyễn cũng dành nhiều trang phản ánh mối quan hệ đồng minh giữa Nhà vua Lào Chạu Anúvông (thư tịch cổ Việt Nam ghi phiên âm là Chiêu A Nỗ) với triều đình Việt Nam vào những năm 1827 - 1828 . Có thể nói rằng: nhận thức phải nương tựa vào nhau và cùng nhau tồn tại bắt nguồn từ yêu cầu sống còn của hai dân tộc, hai quốc gia. Chính việc nương tựa vào nhau, cùng nhau đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mình là nội dung cơ bản của quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong suốt thời kỳ cổ, trung đại.




------------------------------------------------------------------
1. Nghiên cứu những sự kiện quan hệ Việt - Lào trong thời kỳ này, chính ngòi bút của học giả thực dân cũng phải công nhận rằng: “Quan hệ giữa hai dân tộc được nổi bật hẳn lên sau cuộc va chạm dữ dội năm 1479, và nhiều người An Nam đã ở lại Lạn Xạng sau khi quân đội Vua Lê Thánh Tông rút lui. Hai vị quốc vương đã trao đổi lễ vật và quan hệ láng giềng giữa hai nước đượm một tình thân mật hữu nghị từ trước đến nay chưa từng có, ngay cả trước thời Lê Lợi và Lạn Khăm Đeng cũng vậy”. (Xem Paul Le Boulanger: Histoire du Laos franỗais, (Lịch sử Lào thuộc Pháp), Librairie Plon, Paris, 1931, tr.75).
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #5 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2021, 03:54:23 pm »

III. TRUYỀN THỐNG CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM VÀ SỰ TỰ NGUYỆN PHỐI HỢP CỦA NHÂN DÂN HAI NƯỚC VIỆT NAM VÀ LÀO TRONG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC


Trong khi chế độ phong kiến phương Đông đang rơi vào khủng hoảng thì chủ nghĩa tư bản phương Tây bước vào giai đoạn phát triển, đang tích cực bành trướng thế lực, tìm kiếm thị trường và thuộc địa. Từ thế kỷ XVI, các nước tư bản phương Tây đã dùng vũ lực trắng trợn xâm lược nhiều nước châu Á.

Bán đảo Đông Dương nằm ở ngã ba đường giao thông qua lại từ đông sang tây, từ bắc xuống nam của khu vực, lại trấn giữ bao lơn Thái Bình Dương, nên có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng trong thời kỳ phát triển cạnh tranh tư bản và đế quốc chủ nghĩa thế giới. Chiếm được bán đảo Đông Dương sẽ có khả năng khống chế được sự đi lại cũng như việc giao lưu kinh tế, văn hoá với thị trường Trung Quốc rộng lớn. Ngoài ra, bán đảo Đông Dương còn là bàn đạp để tiến sâu vào lục địa Đông Nam Á, một vùng tài nguyên nhiệt đới dồi dào.

Để xâm lược bán đảo Đông Dương, đế quốc Pháp đã tiến đánh Việt Nam đầu tiên. Đây là một quốc gia mặt hướng ra biển Đông, nên được coi là “lá chắn” án ngữ hướng tiến vào lục địa từ phía biển. Thôn tính xong Việt Nam (1883) và Campuchia (1863), Pháp không muốn dừng lại mà tiếp tục bành trướng đến tận bờ đông sông Mê Công để cạnh tranh ảnh hưởng với đế quốc Anh, đẩy lùi quyền lực của phong kiến Xiêm, thôn tính nốt Vương quốc Lào Lạn Xạng (1893).

Thực hiện chính sách “chia để trị”, đế quốc Pháp đã chia Việt Nam thành ba xứ (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ) cùng với Cao Miên (Campuchia) lập thành Liên bang Đông Dương theo sắc lệnh ngày 17 tháng 10 năm 1887 của Tổng thống Pháp và tiếp đến là sắc lệnh ký ngày 19 tháng 4 năm 1899, có thêm Lào. Bộ máy cai trị thực dân được tạo lập trên cơ sở có sự câu kết chặt chẽ giữa bọn thống trị tư bản Pháp với giai cấp phong kiến bản xứ, chủ yếu nhằm xây dựng các công cụ đàn áp, bóc lột và chia rẽ nhân dân các nước Đông Dương. Việc sáp nhập cưỡng bức ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia vốn có nền văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán khác nhau thành một thực thể “Đông Dương thuộc Pháp”, chẳng những đã huỷ bỏ tính chất quốc gia của mỗi nước, mà còn biến Đông Dương thực sự trở thành một nhà tù của các dân tộc.

 Trên thực tế, chủ nghĩa tư bản Pháp đã duy trì những tàn tích lạc hậu của nền văn minh nông nghiệp ở thuộc địa Đông Dương để nuôi dưỡng tâm lý biệt lập với thế giới bên ngoài và thực hiện triệt để chính sách “chia để trị”. Mặt khác, bọn thực dân đế quốc còn triệt để lợi dụng đặc trưng của khu vực này đều là các quốc gia đa dân tộc và một tộc người lại sống trên nhiều lãnh thổ quốc gia, để từ đó khoét sâu vào những vấn đề biên giới do lịch sử để lại.

Do cùng chung một kẻ thù và chung cảnh ngộ bị xâm lược và đô hộ, nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia dễ dàng đồng cảm, liên kết tự nhiên với nhau và tự nguyện phối hợp với nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Ở Việt Nam, phong trào hưởng ứng chiếu Cần Vương chống Pháp của Vua Hàm Nghi (1885 - 1895) lan rộng và sôi sục. Nhiều căn cứ và đơn vị nghĩa quân của Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Cao Đạt, Hà Văn Mao, Tống Duy Tân... đã dựa vào các vùng rừng núi giáp biên giới Việt Nam - Lào để hoạt động, được nhân dân Lào và Việt Nam ở đây đùm bọc, nuôi dưỡng.

Cũng như ở Việt Nam, phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm, phong trào chống Pháp ở Áttapư do ông Khi Volảlạt lãnh đạo (1900 - 1901) hoà chung với phong trào Phùmibun ở Trung Lào của Phò Càđuột (1901 - 1902) và cuộc khởi nghĩa Hạ Lào do ông Kẹo, ông Cômmađăm lãnh đạo (1901 - 1937), đã có sự liên kết với các cuộc nổi dậy chống Pháp của bộ tộc Xơđăng ở Kon Tum (Việt Nam). Đặc biệt, năm 1918, phong trào chống Pháp của người Mông ở Tây Bắc Việt Nam do Chạu Phạpắtchây lãnh đạo, lan rộng trên địa bàn nhiều tỉnh Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam, kéo dài đến tận năm 1922, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Tuy nhiên, các cuộc đấu tranh trên còn nặng tính cục bộ, chưa liên kết được rộng rãi tất cả các địa phương nên đã bị kẻ địch đàn áp đẫm máu.

Trong thập niên đầu của thế kỷ XX, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều văn thân, sĩ phu phong kiến yêu nước đã anh dũng, mưu lược trong việc tập hợp lực lượng ở trong nước để đấu tranh chống Pháp và đi ra nước ngoài cầu viện, tìm chỗ dựa. Các xu hướng giải phóng dân tộc theo lập trường dân chủ tư sản, tiêu biểu là Phan Châu Trinh, hoặc theo xu hướng quân chủ lập hiến, tiêu biểu là Phan Bội Châu, hay theo con đường cách mạng vô sản đã xuất hiện. Song, cứu nước và giải phóng dân tộc theo con đường nào thì vẫn chưa được định đoạt rõ ràng, trong quan hệ với Lào thì chưa chú ý đầy đủ, trong hoạt động thực tiễn thì chưa xây dựng được mối liên kết lực lượng.

Đặc trưng của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp là vơ vét nguyên liệu và bóc lột nhân công rẻ mạt, đồng thời duy trì tình trạng lạc hậu, trì trệ, chia cắt các xứ Đông Dương thuộc Pháp. Chúng luôn luôn nhấn mạnh: “Một chính sách hướng tới công nghiệp hoá xứ này (tức Đông Dương) sẽ là một sai lầm và là một tội lỗi!” . Tuy nhiên, hệ quả khách quan về mặt kinh tế - xã hội qua hai đợt khai thác thuộc địa (trước và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 - 1918) của thực dân Pháp ở Đông Dương là việc thương mại hoá nền nông nghiệp. Sự phân hoá giai cấp, xã hội diễn ra ngày một sâu sắc ở Việt Nam, còn Lào và Campuchia mới có sự phân hoá xã hội. Tất nhiên, đối đầu với chế độ thuộc địa, dù là người Lào hay người Việt Nam ở Đông Dương đều là đồng minh tự nhiên của nhau và cái cần thiết đối với họ là tìm kiếm, xây dựng khối đoàn kết các lực lượng đấu tranh và chướng ngại lớn cần vượt qua của họ là sự chia rẽ, phân tán và những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #6 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2021, 04:07:37 pm »

IV. NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH ĐẶT NỀN MÓNG CHO QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM


Tháng 6 năm 1911, Nguyễn Ái Quốc rời Đông Dương đi tìm đường cứu nước giữa lúc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở cả Việt Nam, Lào, Campuchia đang lâm vào cuộc khủng hoảng bế tắc về đường lối, ngọn cờ lãnh đạo phong trào yêu nước chưa tìm được đại diện xứng đáng.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) đã mở ra một cao trào cách mạng mới trên thế giới, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, điều có sức cổ vũ lớn lao là việc Quốc tế III do lãnh tụ thiên tài V.I. Lênin thành lập (ngày 4 tháng 3 năm 1919) đã bổ sung vào khẩu hiệu nổi tiếng của phong trào cộng sản do Mác - Ăngghen đề ra trước đó trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” bằng khẩu hiệu chiến lược: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”.

Việc Quốc tế Cộng sản coi vấn đề dân tộc, thuộc địa, vấn đề tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo giúp đỡ toàn diện, phối hợp hành động giữa cách mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, đã định hướng cho các lực lượng yêu nước và cách mạng Việt Nam, đoàn kết họ lại với nhau để tìm ra một con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam, thoát khỏi tư tưởng đi tìm chỗ dựa từ bên ngoài của những người yêu nước đương thời.

Với tư cách là một nhà yêu nước Việt Nam và là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia sáng lập Hội Nông dân quốc tế - một tổ chức của nông dân quốc tế trực thuộc Quốc tế Cộng sản - trên cương vị là ủy viên Hội đồng và uỷ viên Đoàn Chủ tịch Hội đồng vào năm 1923. Tháng 7 năm 1924, tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc có dịp trình bày một cách súc tích những hoài bão sâu sắc của Người về con đường cứu nước và giải phóng dân tộc: “Trong tất cả các thuộc địa của Pháp, nạn nghèo đói đều tăng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy, nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”.

Trong quá trình nghiên cứu lý luận, hoạch định con đường giải phóng dân tộc theo học thuyết khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc nhận thức rất sớm sức mạnh dân tộc, nhưng Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ với cách mạng thế giới, với các dân tộc bị áp bức, nhất là đối với hai nước Lào, Campuchia trên bán đảo Đông Dương. Chính vì thế, ngay trong những bài báo đầu tiên viết về Đông Dương vào năm 1921, Người luôn đặt niềm tin vào sức mạnh quật khởi tiềm tàng của quần chúng nhân dân: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” . Người nhận thức rất rõ những điều kiện vật chất khách quan do thời đại tư bản chủ nghĩa đem lại so với bất cứ thời đại nào trước đó: “Đời sống xã hội hiện nay phụ thuộc trước hết vào những trung tâm công nghiệp lớn mạnh và vào những đường giao thông” . Điều dự báo này dường như trùng hợp với hoàn cảnh xã hội của Việt Nam và Lào khi Pháp mở cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918). Kể từ đó, Người bắt tay vào quá trình chuẩn bị công phu cho việc xây dựng, bồi đắp những nhân tố chủ quan cho công cuộc giải phóng nhân loại bị áp bức nói chung, nhân dân các nước Đông Dương nói riêng.

Nhưng Nguyễn Ái Quốc không chỉ là con người hiệu triệu mà trước hết và trên hết là con người hành động. Người chỉ ra: “Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là SỰ BIỆT LẬP. Không giống như các dân tộc phương Tây, các dân tộc phương Đông không có những quan hệ và tiếp xúc giữa các lục địa với nhau. Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ THIẾU SỰ TIN CẬY LẪN NHAU, SỰ PHỐI HỢP HÀNH ĐỘNG VÀ SỰ CỔ VŨ LẪN NHAU”. Người rút ra kết luận: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng thế giới đều là đồng chí của cách mạng Việt Nam. Đã là đồng chí thì sung sướng và cực khổ phải có nhau. Đây là những nhận thức đặt tiền đề cho sự nghiệp xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nói chung, trong đó có tình đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương, tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp.

Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Trung Quốc và tại Quảng Châu, Người mở các lớp huấn luyện chính trị để đào tạo cán bộ cách mạng nhằm chuẩn bị cho việc thành lập một đảng vô sản ở Việt Nam. Cũng tại đây, tháng 6 năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước có xu hướng cộng sản và dùng tổ chức này để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước. Do nắm chắc được hoạt động của Việt kiều yêu nước ở Xiêm, Lào, Nguyễn Ái Quốc đã thông qua Việt kiều yêu nước ở đây để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu nước mới vào Lào và Việt Nam từ phía tây . Từ Xiêm qua Lào vào Việt Nam, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tổ chức một đường dây liên lạc nhằm vận chuyển tài liệu, sách báo cách mạng và đưa thanh niên yêu nước ra nước ngoài học tập và huấn luyện. Điều này cho thấy, ngay từ buổi đầu của cuộc vận động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã sớm xác định Lào là một bộ phận của cách mạng Đông Dương.

Với các hình thức truyền bá rất sáng tạo, đa dạng và hiệu quả, Nguyễn Ái Quốc và những lớp học trò xuất sắc của Người đã vượt qua mọi sự kiểm duyệt gắt gao bằng lưỡi lê và song sắt nhà tù của chính quyền thực dân, từng bước vũ trang cho các tầng lớp nhân dân lao động ở Việt Nam, ở Lào một hệ thống khá hoàn chỉnh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới. Hệ thống lý luận đó bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:

Trước hết, bằng những cứ liệu xác thực và tiêu biểu, Nguyễn Ái Quốc đã bóc trần luận điệu lừa bịp của bọn thực dân, đế quốc về cái gọi là “sứ mệnh khai hoá văn minh” của các đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tập trung tố cáo chủ nghĩa thực dân bằng những lý lẽ rất đanh thép, Nguyễn Ái Quốc đã khơi dậy trong nhân dân lao động bị áp bức lòng căm thù giặc sâu sắc, khích lệ lòng yêu nước, thương nòi, ý chí độc lập tự cường và từng bước hình thành trong họ lập trường quan điểm về bạn, thù... để từ đó có quyết tâm và biện pháp cụ thể nhằm mục tiêu cứu nước, giải phóng dân tộc. Tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân là cơ sở thực tiễn quan trọng của lý luận cách mạng giải phóng dân tộc Hồ Chí Minh.

Hai là, trong thời đại mới được mở đầu bằng thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại thì cách mạng giải phóng dân tộc trở thành bộ phận khăng khít, hữu cơ của cách mạng vô sản; giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Tư tưởng này trở thành nền tảng và nội dung đường lối chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam và Lào đang thực hiện.

Ba là, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cuộc cách mạng vô sản ở các nước “chính quốc” có mối quan hệ hữu cơ, thúc đẩy lẫn nhau. Một mặt, Người phê phán suy nghĩ cho rằng: cách mạng của các nước thuộc địa và các nước chậm tiến phải phụ thuộc vào cuộc cách mạng của các nước tiên tiến. Mặt khác, Người đưa ra nhận định: người châu Á có thể sẽ giúp đỡ người anh em châu Âu trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn nhân loại. Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ đặt ngang hàng cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cuộc cách mạng vô sản ở “chính quốc”, mà Người còn chỉ rõ tính năng động tích cực của cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng vô sản ở “chính quốc”; nó có thể giành thắng lợi trước và tác động tích cực trở lại cách mạng vô sản ở “chính quốc”.

Bốn là, về đường lối chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc, trước hết phải tiến hành đấu tranh đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược và bọn phong kiến tay sai của chúng để giành lại độc lập cho dân tộc và các quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân.

“Đây chính là luận điểm ba cuộc giải phóng, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người quyện vào nhau, thống nhất với nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước khi gặp chủ nghĩa Mác - Lênin thì dần dần vươn tới ba cuộc giải phóng của loài người”.

Năm là, cách mạng là một sự nghiệp vĩ đại. Hoàn thành công việc ấy phải là kết quả công sức của cả một dân tộc, chứ không phải việc của một, hai người. Phải bền gan vững chí, phải có “mưu chước” mới làm được. Trước hết phải lấy công nông là gốc, là người chủ của cách mạng. Phải xây dựng khối liên minh chặt chẽ giữa hai giai cấp cơ bản và đông đảo ấy dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, vì công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến cùng.

Trên cơ sở khối liên minh công nông chặt chẽ, phải không ngừng củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm thu hút tất cả các tầng lớp nhân dân như “học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ vì họ là bầu bạn cách mạng của công nông”. Chỉ có sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân mới có thể hoàn thành được sự nghiệp “Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới”.

Sáu là, cách mạng của mỗi nước là một bộ phận hữu cơ, khăng khít của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng trên thế giới nhằm chống đế quốc, phong kiến, chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ hoà bình, xoá bỏ mọi ách áp bức bóc lột, bất công đều là bạn bè, đồng chí của nhau. Do đó phải đoàn kết và giúp đỡ nhau vì sự nghiệp giải phóng của dân tộc mình và sự nghiệp cách mạng của nhân dân lao động trên toàn thế giới. Song, muốn người ta giúp mình thì trước hết “mình phải tự giúp lấy mình”.

Bảy là, phải không ngừng củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin chân chính, nhân tố cơ bản hàng đầu bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng nói chung và cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn làm cách mệnh, “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công... Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.

Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng cách mạng chỉ bó hẹp phạm vi trong cộng đồng người Việt tại Lào, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho cách mạng Lào đã được Nguyễn Ái Quốc đặt ra rất sớm và niềm trăn trở này còn đi theo suốt cả cuộc đời hoạt động sau này của Người. Ngay trong những báo cáo đầu tiên gửi Quốc tế Cộng sản vào năm 1925, chúng ta bắt gặp hàng loạt những mối quan tâm của Người về đào tạo nguồn nhân lực cho cách mạng Lào.

Khoảng giữa năm 1925, chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên ở Xiêm được nhen nhóm tại Phi Chịt. Từ đông bắc Xiêm, các cơ sở cách mạng Việt kiều khác thuộc các tỉnh trên bờ sông Mê Công, đối diện với Lào, là những bàn đạp thuận lợi cho công tác truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Lào và Việt Nam. Tháng 2 năm 1927, tại bản Noỏng Bua, tỉnh Uđon (Xiêm) đã diễn ra Hội nghị đại biểu thanh niên Việt kiều yêu nước và chuẩn bị thành lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào. Sau đó, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào đã vận động tổ chức Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở lớp huấn luyện cách mạng.

Mùa Thu năm 1928, Nguyễn Ái Quốc đến Xiêm để hướng dẫn phong trào cách mạng. Theo lời kể của Nguyễn Tài, trong dịp này, Nguyễn Ái Quốc đã đến bản Xiêng Vảng, huyện Noỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn trực tiếp truyền bá cách mạng tại Lào1. Về những công tác ở Xiêm, Lào năm 1928 - 1929, Nguyễn Ái Quốc đã trình bày rõ trong “Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18 tháng 2 năm 1930”2.

Khoảng tháng 8 năm 1928, trong chuyến thị sát Noỏng Khai (Xiêm) sát với biên giới Lào, Người đã gặp một số cán bộ hoạt động ở Viêng Chăn sang để tìm hiểu phong trào Lào. Theo lời kể lại của một bậc lão thành cách mạng Lào, Người còn trực tiếp tới Viêng Chăn khảo sát và ẩn trú tại Chùa In Peng . Nhờ vậy, Người đã có điều kiện tìm hiểu tình hình Lào kỹ hơn, nhất là Viêng Chăn. Các sự kiện quan trọng trên khẳng định rõ mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng Lào và cách mạng Việt Nam, và Lào trở thành một trong những địa điểm đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc.

Năm 1928, một số chi bộ Tân Việt cũng ra đời ở Viêng Chăn, Thà Khẹc, Xavẳnnakhệt. Đảng viên phần lớn là công chức, giáo học, nhân viên sở dây thép, thư ký các hãng buôn và một số học sinh. Các chi bộ ở Lào trực thuộc sự lãnh đạo của Đảng bộ Tân Việt ở Huế. Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa các thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.

Như vậy, từ giữa thập niên 20 thế kỷ XX, hàng loạt những hoạt động sôi nổi chưa từng thấy trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cứu nước mới của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các vị cách mạng tiền bối trên đất Trung Quốc, Xiêm, Lào và Việt Nam, báo hiệu những điều kiện khách quan và chủ quan cho việc thành lập đảng của giai cấp công nhân ở khu vực này đã chín muồi.




------------------------------------------------------------------
1. Nguyễn Tài kể, Thế Tập ghi: “Nhớ lại ngày đưa Bác Hồ từ Thái Lan sang gây dựng cơ sở cách mạng ở Lào”, Tạp chí Cộng sản số 372, tháng 12 năm 1986, tr.80. Nguyễn Tài (1897 - 1989) tức đồng chí Lê Ngôn Vệ, hay Vệ - Tài Ngôn (Vệ là bí danh hoạt động ở Xiêm), năm 1927 được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, năm 1930 vào Đảng Cộng sản Xiêm, năm 1934: Ủy viên Đông Dương viện trợ Bộ đồng thời là thông tấn viên của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương ở nước ngoài. Cuốn “Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào” của Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, xuất bản năm 2005 cũng xác nhận sự kiện trên. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhân dịp kỷ niệm 120 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2010), đồng chí Bun Nhăng Volachít, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và đồng chí Hồ Đức Việt, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã dự lễ động thổ xây dựng Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại bản Xiêng Vảng, huyện Noỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn. Ngày 19 tháng 7 năm 2010, Ban biên soạn bộ “Lịch sử quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007)” đã có chuyến khảo sát thực địa tại bản Xiêng Vảng, huyện Noỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn. Đoàn chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với các nhân chứng địa phương, đặc biệt nghe cụ Đặng Văn Hồng, 78 tuổi, người Lào gốc Việt kể những hồi ức lịch sử mà các thế hệ trước đã truyền lại về hoạt động gây dựng cơ sở cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại bản Xiêng Vảng này (BBS).

2.Cố nhà văn Xuvănthon có kể lại cho con gái là bà Xuvănphêng, đại biểu Quốc hội Lào nghe về việc năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến giảng tại lớp học cho cán bộ chủ chốt Lào mà ông có vinh hạnh được tham dự ở Tuyên Quang (Việt Bắc) trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp cùng với Hoàng thân Xuphanuvông và các đồng chí Phumi Vôngvichít, Thạo Xột Phệtlaxỉ... Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng: Người đã đến Viêng Chăn, ngủ ở chùa In Peng. Ngôi chùa này nay thuộc bản Mixây, mường Chănthabuli, thành phố Viêng Chăn, cách Mè Nặm Khoỏng 200 m, cách chùa Phạ Kẹo 1 km về phía bắc.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #7 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2021, 04:09:31 pm »

*
*     *

Nhìn lại lịch sử, có thể rút ra một số nhận định cơ bản dưới đây về mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam:

 Do những điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử gần gũi, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hình thành từ rất sớm, có thể nói ngay từ khi xuất hiện những cư dân Việt Nam và Lào trên khu vực địa lý lịch sử này. Điều kiện địa - nhân văn hay sự gặp gỡ về những phẩm chất nhân văn cao quý của hai dân tộc Việt Nam và Lào, từ người cầm quyền đến người dân, đã là mảnh đất vô cùng màu mỡ để kết tinh thành quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Bởi vì quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam ấy, được nảy sinh trực tiếp từ trái tim đến với trái tim của cả hai dân tộc. Hợp lòng người là yếu tố căn cốt, quyết định tính trường tồn của mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.

Trong thời kỳ cổ, trung đại, quan hệ giữa hai nhà nước phong kiến Việt Nam và Lào về cơ bản là quan hệ bang giao láng giềng hoà hiếu. Trong lịch sử thế giới, hiếm có quan hệ láng giềng nào thánh thiện như hai dân tộc Việt Nam và Lào. Giữa hai nước không hề có cuộc chiến tranh nào nhằm thôn tính lẫn nhau, không có hiềm khích và thù hằn dân tộc, lại có cả ngàn năm giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau, là láng giềng tốt của nhau.

Trong thời kỳ cận, hiện đại, khi các nước Đông Dương còn chìm trong đêm tối của chủ nghĩa thực dân và phong kiến, với việc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc chẳng những có công đầu trong việc chấm dứt cuộc khủng hoảng về vai trò lãnh đạo sự nghiệp cứu nước ở Việt Nam, mà còn là người đầu tiên góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng đó ở Lào, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Việt Nam và Lào ngày càng hoà quyện vào nhau, nương tựa lẫn nhau, mở ra một trang mới trong quan hệ giữa nhân dân hai nước, cùng hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc và tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.

Quá trình chuẩn bị công phu về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức cho cách mạng Việt Nam, đồng thời với việc quan tâm xây dựng nhân tố bên trong cho cách mạng Lào, cả về phương diện tổ chức lẫn chỉ đạo thực tiễn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thật sự tạo ra nền tảng hoàn toàn mới về chất cho lớp người cộng sản Đông Dương đầu tiên, bất luận họ là người Việt Nam, người Lào hay người Campuchia. Đây chính là nền móng vững chắc của quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc là kiến trúc sư vĩ đại của tình đoàn kết đặc biệt đó.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #8 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2021, 04:18:40 pm »

Chương II

NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ NHÂN DÂN LÀO
NƯƠNG TỰA LẪN NHAU ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP, TỰ DO
(1930 - 1945)



I. ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ NHÂN DÂN LÀO ĐOÀN KẾT ĐẤU TRANH
CHỐNG CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA (1930 - 1939)



1. Đảng Cộng sản Việt Nam - tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương - thành lập, đánh dấu việc thiết lập quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam

Cuối những năm 20 thế kỷ XX, do kết quả trực tiếp của quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc, cùng với sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, những điều kiện khách quan và chủ quan cho việc thành lập Đảng của giai cấp công nhân ở Đông Dương, trước hết là ở Việt Nam, đã chín muồi. Cuối năm 1929 đầu năm 1930 ở Việt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản ĐảngĐông Dương Cộng sản Liên đoàn.

Sự ra đời và hoạt động của ba tổ chức cộng sản trên thể hiện sự phát triển của phong trào cách mạng, đặt ra yêu cầu bức thiết về việc thành lập một chính đảng cộng sản ở Việt Nam và Đông Dương.

Nắm bắt được yêu cầu bức thiết về thống nhất lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với tư cách là đại biểu của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập hội nghị hợp nhất các nhóm cộng sản thành chính đảng vô sản duy nhất ở Việt Nam.

Vào những ngày đầu năm 1930, Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã diễn ra tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Về vấn đề đặt tên Đảng, Hội nghị tán thành chủ trương của Nguyễn Ái Quốc và quyết định lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất thảo luận và thông qua các văn kiện “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, “Sách lược vắn tắt của Đảng”, “Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng” do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.

“Chánh cương vắn tắt” xác định rõ con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư sản dân quyền c.m (cách mạng - BBS) và thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản”. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa, tức cách mạng dân tộc dân chủ là thực hiện quyền độc lập dân tộc, quyền tự do, dân chủ, trong đó nông dân nghèo được chia ruộng đất, phát triển kinh tế của đất nước. Hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi tới xã hội cộng sản mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của nó.

“Sách lược vắn tắt”“Chương trình tóm tắt” xác định rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp đó. Đảng chủ trương “thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c.m đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến” . Đảng xây dựng khối đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ những lực lượng và đảng phái phản cách mạng. Sự đoàn kết rộng rãi đó vì mục tiêu thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào, không hề sa vào lý thuyết thoả hiệp giai cấp, bỏ rơi lợi ích của đại đa số nhân dân lao động là công nhân và nông dân: “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp”.

“Sách lược vắn tắt”“Chương trình tóm tắt” còn chứa đựng tinh thần yêu nước chân chính kết hợp với tinh thần quốc tế trong sáng, được thể hiện ở chỗ trong khi tuyên truyền khẩu hiệu nước An Nam độc lập, đồng thời Đảng cũng tuyên truyền và xây dựng quan hệ đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.

“Điều lệ vắn tắt” cũng nhấn mạnh: Cách mạng muốn giành thắng lợi, trước hết phải có sự lãnh đạo của Đảng, Đảng phải là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là lãnh tụ chính trị và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp và dân tộc, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể những người lao động bị áp bức thoát khỏi ách nô lệ. Nếu xa rời hoặc thiếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thì không thể có thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nói chung và cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về lý luận, đường lối và lực lượng lãnh đạo phong trào đấu tranh vì độc lập tự do và phát triển của dân tộc Việt Nam, đồng thời mở ra một thời kỳ mới, một sự chuyển biến về chất mối quan hệ vốn có giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào. Với chính cương cách mạng và khoa học, chứa đựng tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, thấm đượm tư tưởng Nguyễn Ái Quốc về mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo ra một xung lượng mới cho mối quan hệ của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào trên con đường đoàn kết đấu tranh, hoà mình và gắn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.

Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, cùng với sự bùng lan mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ (Việt Nam), bộ phận ưu tú trong các tổ chức cách mạng, như Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt được xây dựng trong cộng đồng Việt kiều ở Viêng Chăn, Phôn Tịu, Bò Nèng, Thà Khẹc, Na Pê, Xavẳnnakhệt, Pạc Xê (Lào) đã lần lượt tiếp nhận quan điểm, chủ trương và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua bộ phận này, chủ trương, đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập bắt đầu lan truyền trong bộ phận người Việt sống ở Lào.

Với hoàn cảnh lịch sử tương đồng, có cùng mục tiêu và khát vọng độc lập, tự do, con đường giải phóng của dân tộc Việt Nam theo tư tưởng Nguyễn Ái Quốc cũng là con đường phù hợp để giải phóng dân tộc Lào khỏi ách nô lệ. Tuân thủ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của một chính đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam (trong đó có một bộ phận hoạt động ở Lào) đã tác động mạnh mẽ, là một nhân tố quyết định sự chuyển biến của phong trào cách mạng Lào. Ngay từ tháng 4 năm 1930, ảnh hưởng mạnh mẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương, trong đó có nhân dân Lào, đã làm chính quyền thuộc địa quan ngại.

Được sự thôi thúc và tác động của phong trào cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, phong trào cách mạng Lào chuyển biến, đòi hỏi phải có ánh sáng mới soi đường, ngọn cờ mới dẫn dắt và một gắn kết mới với dân tộc láng giềng Việt Nam đồng hành trên con đường giành độc lập dân tộc, tự do và phát triển của mỗi nước.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở đầu cho những trang sử quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #9 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2021, 04:25:18 pm »

2. Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, xác định đường lối cách mạng Đông Dương

Tám tháng sau Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong khi phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam diễn ra mạnh mẽ và quyết liệt, nhất là ở Nghệ An, Hà Tĩnh, phong trào cách mạng Lào đang có những chuyển biến theo khuynh hướng cách mạng vô sản, thì một sự kiện lịch sử quan trọng đối với phong trào cách mạng Việt Nam, phong trào cách mạng Lào và mối quan hệ hai dân tộc diễn ra. Tháng 10 năm 1930, thực hành “Án nghị quyết và Thơ chỉ thị của Q.T.C.S”, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành tại Hương Cảng vào tháng 10 năm 1930 đã thảo luận và thông qua “Luận cương chánh trị” và nhiều văn kiện quan trọng như: “Án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng”, “Điều lệ Đảng”, “Công nhơn vận động”, “Nông dân vận động”, “Án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động của T.Ư toàn thể hội nghị”, ...

Với những văn kiện trên, nhất là “Luận cương chánh trị” của Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghị xác định cụ thể, toàn diện hơn về mặt lý luận cho mối quan hệ giữa phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng Lào.

Việt Nam, Lào và Cao Miên tuy là ba nước nhưng đều nằm trong một xứ, đều bị thực dân Pháp thống trị và áp bức. Giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức trong ba nước muốn đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp, giành lại độc lập, đánh đổ chế độ phong kiến để giải phóng cho mình thì không thể đấu tranh riêng lẻ được. Án nghị quyết của Hội nghị viết: “vô sản An Nam, Cao Miên và Lào tuy tiếng nói, phong tục và nòi giống khác nhau, nhưng về mặt chánh trị và kinh tế thì cần phải liên lạc mật thiết với nhau”.

Kẻ thù chung của phong trào cách mạng ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là “một thế lực tập trung, thống nhất”, do đó, Đảng Cộng sản, đội tiền phong của giai cấp công nhân và là tổ chức dẫn đường của tất cả quần chúng làm cách mạng không thể chỉ lãnh đạo riêng cho một xứ, mà phải là một Đảng Cộng sản tập trung lực lượng giai cấp cho toàn xứ Đông Dương. Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.

Phạm vi lãnh đạo của Đảng mở rộng ra toàn Đông Dương, Hội nghị đã xác lập các quan điểm chính trị, xác định đường lối và những nhiệm vụ cơ bản cho phong trào cách mạng của ba dân tộc ở Đông Dương với những nét chính yếu như sau:

- Cách mạng Đông Dương trong lúc đầu “là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền”  với tính chất thổ địa và phản đế. Khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự giúp đỡ của cách mạng thế giới sẽ “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
 
- Vấn đề căn cốt của cách mạng tư sản dân quyền là chống đế quốc và chống phong kiến, hai mặt đó quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động tích cực tới nhau trong một cuộc cách mạng.

- Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cuộc cách mạng ở Đông Dương là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp, phong kiến, địa chủ, lập chính quyền Xôviết công nông, lấy đó làm “khí cụ” thực hiện các quyền dân chủ cơ bản cho nhân dân lao động bằng cách tịch thu hết ruộng đất của địa chủ ngoại quốc và trong nước, giao cho trung nông và bần nông, quyền sở hữu ruộng đất thì thuộc chính phủ công nông; sung công những sản nghiệp lớn của tư bản ngoại quốc, công nhân lao động tám giờ một ngày, cải thiện đời sống cho thợ thuyền và quần chúng lao khổ, vô sản có pháp luật bảo hộ quyền lợi; thừa nhận quyền dân tộc tự quyết và quyền bình đẳng nam, nữ.

- Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương, giai cấp vô sản và giai cấp nông dân là hai động lực chính, trong đó, giai cấp công nhân vừa là động lực chính rất mạnh của cách mạng, vừa là giai cấp lãnh đạo nông dân và các tầng lớp nhân dân nghèo khổ làm cách mạng, “vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”.

- Muốn giành được thắng lợi, cách mạng Đông Dương phải liên hệ mật thiết với cách mạng vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và bán thuộc địa.

- Cách mạng Đông Dương muốn giành được thắng lợi “phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản” . Muốn làm tròn được nhiệm vụ của mình trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, Đảng cần phải dựa hẳn vào lực lượng quần chúng công nông, tổ chức ra những đoàn thể cách mạng như công hội, nông hội.

Về công tác xây dựng đảng, căn cứ vào nguyên tắc tổ chức của chính đảng vô sản và tình hình Đông Dương, Hội nghị thông qua Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương. Theo Điều lệ, toàn Đảng sẽ xây dựng tổ chức đều khắp ở Đông Dương, hình thành năm xứ bộ do năm xứ uỷ chỉ đạo. Ba xứ bộ ở Việt Nam sẽ do ba xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ phụ trách; Xứ bộ Ai Lao sẽ do Xứ uỷ Ai Lao chỉ đạo.

Hội nghị yêu cầu các cấp bộ đảng phải quán triệt Nghị quyết của Đảng và Quốc tế Cộng sản để nâng cao trình độ chính trị cho đảng viên, thực hiện nhiệm vụ theo đúng đường lối cách mạng của Đảng; phân công đảng viên về các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ... để tập hợp, lãnh đạo quần chúng; chú trọng xây dựng chi bộ ở nông thôn, quan tâm bồi dưỡng cán bộ nữ; thành lập hệ thống tổ chức đảng cấp xứ theo điều lệ mới của Đảng; các cấp bộ đảng liên hệ chặt chẽ với Trung ương Đảng trong mọi hoạt động. Quan hệ mật thiết với các đảng cộng sản trên thế giới (như Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc...), với Quốc tế Cộng sản. Lựa chọn những quần chúng giác ngộ giai cấp và hăng hái đấu tranh để kết nạp vào Đảng.

Về công tác quần chúng, Hội nghị thảo luận và thông qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên cộng sản, phụ nữ..., các Điều lệ Công hội, Tổng Công hội Đông Dương, Nông hội làng, Ban Chấp hành nông hội xã, Tổng Nông hội Đông Dương, Phụ nữ liên hiệp hội, Hội Cứu tế đỏ, Hội đồng minh phản đế... Hội nghị chỉ rõ Đảng phải tăng cường vận động công nhân, lãnh đạo công nhân đấu tranh; tổ chức công hội trong các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ..., tổ chức đội tự vệ công nhân; công hội phải tổ chức có hệ thống theo quy tắc Quốc tế Công hội đỏ; chuẩn bị lập Tổng Công hội Đông Dương; mở rộng phong trào đấu tranh của nông dân, tổ chức đội tự vệ nông dân, chỉnh đốn hệ thống tổ chức nông hội theo điều lệ mới, chuẩn bị lập Tổng Nông hội Đông Dương; phân công các đồng chí phụ trách Hội đồng minh phản đế, Hội Cứu tế và Thanh niên cộng sản Đoàn; lập Bộ quân sự của Đảng...

Hội nghị đã thông qua Điều lệ Tổng Công hội Đông Dương, Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương, Điều lệ Phụ nữ liên hiệp hội, Án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động, Điều lệ Hội Cứu tế đỏ,... Theo đó, cùng với các xứ khác ở Đông Dương, Xứ bộ Ai Lao sẽ tổ chức ra Tổng Công hội Ai Lao, Tổng Nông hội Ai Lao, Ban Xứ chấp uỷ Phụ nữ Hiệp hội Ai Lao, Uỷ hội Thanh niên cộng sản Đoàn Ai Lao, Phân hội Cứu tế đỏ Ai Lao.

 Hội nghị thông qua Điều lệ của Đại đồng minh phản đối đế quốc chủ nghĩa và mưu dân tộc độc lập - Phân bộ Đông Dương (gọi tắt là Đồng minh phản đế. Đảng bộ Ai Lao sẽ tổ chức một Phân hội Đồng minh phản đế xứ.

Với những chủ trương và công tác đề ra trên đây, Hội nghị đã quán triệt và vận dụng quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Đông Dương, làm cho các tầng lớp nhân nhân của hai dân tộc Việt Nam và Lào sát cánh bên nhau đấu tranh dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Hội nghị xác lập con đường phát triển của cách mạng Đông Dương khi chưa có tình thế cách mạng thì lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi quyền lợi hằng ngày để tập hợp dân chúng theo cách mạng. Khi có tình thế cách mạng, Đảng phải lãnh đạo quần chúng vũ trang nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Hội nghị đề ra nhiệm vụ cần kíp của Đảng là mở rộng phong trào đấu tranh khắp Đông Dương nhằm làm cho phong trào đấu tranh cách mạng ngày càng sâu rộng; đấu tranh chống khủng bố trắng, chống sưu, thuế và địa tô; chống các chính sách lừa bịp của đế quốc Pháp; chống những xu hướng bạo động non và manh động. Đảng phải tập hợp đông đảo lực lượng các tầng lớp nhân dân đấu tranh giành thắng lợi.

Hội nghị cử ra Trung ương Đảng Cộng sản chính thức gồm bảy đồng chí, đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Với việc thảo luận và thông qua Luận cương chính trị - cương lĩnh xác định các nguyên tắc, các phương hướng chính trị và đường lối cách mạng, Án nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng cùng các văn kiện quan trọng khác, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10 năm 1930 đã hoạch định những vấn đề căn bản và cốt lõi của cách mạng Đông Dương; đặt phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sau Hội nghị, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Thông cáo chỉ đạo tổ chức đảng trong các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao, Cao Miên tiến hành hội nghị, cử ra các xứ uỷ để lãnh đạo phong trào. Ngày 19 tháng 12 năm 1930, Ban Thường vụ Trung ương tiếp tục gửi thư cho các cấp bộ đảng kêu gọi: “Nhiệm vụ chánh của chúng ta bây giờ là phải khuếch trương phong trào cách mạng kịch liệt chống lại với khủng bố trắng để làm cho cách mạng mau thành công”.

Những chỉ đạo trên của Trung ương giúp cho các cấp bộ, đảng viên ở Việt Nam và Lào tuân thủ nghiêm túc chủ trương của Trung ương Đảng về việc đổi tên Đảng, nhận thức rõ trách nhiệm trong việc tăng cường đoàn kết thống nhất, giúp đỡ nhau trong nội bộ Đảng, cũng như trong phối hợp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào.

Trong suốt quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương còn bổ sung và đề ra những chỉ đạo cụ thể đối với các cấp bộ đảng và phong trào cách mạng Đông Dương, cũng như tăng cường quan hệ mật thiết, nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc Việt Nam và Lào trên tiến trình đấu tranh giành tự do, độc lập cho mỗi nước.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM