Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 11:15:47 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Giải phóng quân Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà Chi đội 12 Trung đoàn 312  (Đọc 3471 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #20 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2021, 04:58:08 pm »

Nội dung kế hoạch đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam của thực dân Pháp gồm hai phần chính là “tách Nam Kỳ ra khỏi cuộc chiến tranh” và biến Bắc Bộ thành chiến trường chính. Để thực hiện ý định này, bộ tham mưu của tướng Valluy (Tổng tư lệnh các lực lượng Pháp ở Đông Dương từ tháng 6 năm 1946 đến tháng 5 năm 1948) vạch kế hoạch bình định Nam Bộ với tham vọng hoàn thành vào mùa thu năm 1947, coi đây là một khâu then chốt trong toàn bộ chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”. Kế hoạch được triển khai trên cả ba mặt chính trị, kinh tế, quân sự.


Về quân sự, ở Nam Bộ tướng Nyo (tư lệnh lực lượng Pháp ở Nam Đông Dương) bố trí lại chiến trường, bỏ bớt đồn bót lẻ, tập trung lực lượng chủ yếu xung quanh Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ1 (Lực lượng của Nyo tại Nam Bộ có 28.000 quân viễn chinh, 6.000 lính bảo an và khoảng 10.000 dân vệ), phát triển ngụy quân, phát triển chiến tranh gián điệp, mở các cuộc hành quân lớn vào các căn cứ kháng chiến và thường xuyên đánh phá vùng du kích, nhằm diệt các lực lượng cách mạng, dồn lực lượng kháng chiến vào một khu vực, từ đó dùng lực lượng lớn bao vây, tiêu diệt. Địch chia Nam Bộ làm ba tiểu khu và đặc khu Sài Gòn - Gia Định trực thuộc tổng hành dinh tướng Nyo. Sau đó Nyo lại chia ba tiểu khu thành sáu chi khu không theo ranh giới hành chánh mà theo yêu cầu quân sự, trong đó Chợ Lớn thuộc tiểu khu Vàm Cỏ, Gia Định thuộc tiểu khu Gia Định, trực thuộc bộ tư lệnh quân viễn chinh tại miền Nam Đông Dương.


Tháng 1 năm 1947, Khu trưởng Khu 7 triệu tập hội nghị quân sự toàn khu. Hội nghị đề ra nhiệm vụ quân sự năm 1947 với nội dung chủ yếu là: tiếp tục xây dựng, phát triển lực lượng võ trang đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh mạnh vào hậu phương địch, các cơ sở kinh tế của chúng ở nội thành Sài Gòn, vùng cao su và dọc các trục giao thông. Hội nghị cũng chủ trương thực hiện công tác dân vận, chống chính sách chia rẽ lựơng giáo của địch.


Trên chiến trường Khu 7, đặc biệt là chiến trường Tây Ninh, Gia Định (tập trung là khu vực Hóc Môn), một phần các tỉnh Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Tân An... từ cuối năm 1946 nổi lên vấn đề Cao Đài Tây Ninh, về vấn đề Cao Đài ở miền Đông cũng như vấn đề Hòa Hảo ở miền Tây và đối với tôn giáo nói chung, chính sách của Đảng và Chính phủ cách mạng là tôn trọng tín ngưỡng, đoàn kết dân tộc, chủ trương dùng biện pháp tuyên truyền, vận động quần chúng tín đồ, chỉ rõ âm mưu lợi dụng tôn giáo để thực hiện thủ đoạn dùng người Việt đánh người Việt của thực dân Pháp. Nhiều tín đồ Cao Đài nhận ra âm mưu của địch và các chức sắc cao cấp phản động, đã nhiệt tình ủng hộ kháng chiến. Tuy nhiên do nắm được tín đồ, chủ yếu là ở Tây Ninh, một số chức sắc cao cấp phản động đã cấu kết với thực dân Pháp tổ chức lực lượng võ trang Cao Đài, thực chất là một dạng ngụy quân, công cụ của thực dân Pháp, để chống phá cách mạng1 (Đầu năm 1946, Bazin, giám đốc sở mật thám liên bang được Pháp giao nhiệm vụ phục trách vấn đề Cao Đài, đã sử dụng con bài đầu tiên là Trần Quang Vinh, một chức sắc Cao cấp ở Tòa thánh Tây Ninh, để nắm tín đồ Cao Đài. Trong lúc đó chúng rước giáo chủ Phạm Công Tắc từ Madagasca trở về (28 tháng 8 năm 1946). Trong khi đại đa số đồng bào theo đạo Cao Đài yêu nước có quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm thì Phạm Công Tắc là một con người hết dựa vào Nhật đến dựa vào Pháp chống phá cách mạng đến cùng, nhưng khoác áo "chống Pháp, bảo vệ dạo”, “Vì Tổ quốc”, gây lẫn lộn trắng đen đối với tín đồ nhẹ dạ. Sau những cuộc mặc cả, Phạm Công Tắc đã bí mật ký kết với Pháp về việc xây dựng lực lượng võ trang Cao Đài dưới chiêu bài "Việt Nam phục quốc”, “bào sanh nhân nghĩa đại đồng”, ra “Thánh lệnh” (từ Tây Ninh) gấp rút tập hợp 5.000 thanh niên tín đồ để xây dựng quân đội Cao Đài-một dạng ngụy quân, đội lốt “tạm hòa hoãn với Tây đế chống Tây). Dưới chiêu bài “tạm hòa hoãn với Tây để chống Tây”, lực lượng này từ hoạt động thủ tiêu ngầm người kháng chiến đến công khai chống phá cách mạng từ Tây Ninh mở ra trên diện rộng hướng về phía ven Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn...


Bọn cầm đầu phản động trong Cao Đài đã vạch ra kế hoạch tạo phản gồm ba giai đoạn: chuẩn bị; ly gián đối phương (vừa chống Chính phủ cách mạng, chống Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 vừa tuyên bố “đánh lừa Tây để lấy súng Tây đánh Tây”, mua chuộc, lôi kéo người kháng chiến...); lật đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền của chúng. Thực dân Pháp tuy không hoàn toàn tin Cao Đài nhưng triệt để lợi dụng Cao Đài.


Trước tình hình này, cuối năm 1946, để dẹp loạn Cao Đài phản động, Bộ chỉ huy Khu 7 thành lập một liên quân gồm nhiều phân đội thuộc các chi đội 5, 6, 11, 15 và bộ đội Hoàng Thọ, gọi là “liên quân xung phong”, do Tham mưu trưởng Khu 7 Huỳnh Kim Trương chỉ huy. Liên quân mở đợt võ trang tuyên truyền lớn. Đêm 30 Tết đầu năm 1947 (ngày 24 tháng 1 dương lịch), thực dân Pháp làm lễ trao súng cho quân đội Cao Đài tại Tòa thánh Tây Ninh. Mấy ngày hôm sau, vào ban đêm liên quân xung phong bí mật đột nhập Tòa thánh, thực hiện võ trang tuyên truyền, vừa “thuyết pháp” tín đồ đừng nghe bọn phản động mà hại đạo, phản dân tộc, đồng thời cảnh cáo, phân hóa giới cầm đầu Cao Đài Tây Ninh.


Do tình trạng hoạt động rời rạc, Trịnh Khánh Vàng, Chi đội trưởng Chi đội 11 không chấp hành mệnh lệnh (sau đó Khu cử Nguyễn Văn Dung, Chi đội trưởng Chi đội 6 lên thay Trịnh Khánh Vàng), “liên quân xung phong” không ngăn được đà hoành hành ngày càng tăng của quân Cao Đài kể cả hành động cướp phá dân vùng kháng chiến và gây khó khăn lớn cho cách mạng. Chúng tràn qua đâu là ở đấy xơ xác, tiêu điều đến đó.


Vào khoảng thời gian này quân Pháp tổ chức cuộc càn lớn vào các làng Tân Xuân, Tân Thới Nhứt, Nhị Hòa, Vĩnh Lộc (ngày 24 tháng 1 năm 1947), Chi đội 12 phối hợp các chi đội 11, 6 chống càn giữ được các căn cứ.


Trước tình thế khẩn trương, Chính trị bộ ở Khu 7 chủ trương mở đợt tảo thanh nhằm loại trừ các phần tử, các thế lực phản động trong đạo Cao Đài. Để thực hiện việc này, đồng thời để tạo điều kiện rèn luyện tác chiến hiệp đồng trên chiến trường, Bộ chỉ huy Khu 7 quyết định thành lập các liên quân đặc nhiệm A, B.


Liên quân B lấy từ lực lượng các chi đội 1, 6, 11, 12, 15. Lực lượng Chi đội 12 tham gia liên quân B gồm đại đội 2 do Nguyễn Văn Bứa làm đại đội trưởng, Nguyễn Hồng Đào làm chính trị viên; đại đội 3 do Tư Đức làm đại đội trưởng, Nguyễn Văn Bâu làm chính trị viên.


Địa bàn hoạt động của liên quân B gồm khu vực Hóc Môn, Đức Hòa, Trảng Bàng, chủ yếu là dẹp loạn Cao Đài Tây Ninh, ngăn chặn quân phản động tràn xuống Gia Định (trong đó Chi đội 15 giữ phía bắc tỉnh Chợ Lớn)1 (Các đơn vị khác trong liên quân B: một đại đội của Chi đội 15 do đồng chí Hượt chỉ huy, Mạnh phó chỉ huy; một đại đội của Chi đội 11 do đồng chí Cao Hoài Sại chỉ huy; Minh chính trị viên; một đại đội của Chi đội 1 do Chung chỉ huy, Hình chính trị viên...)
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #21 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2021, 04:59:03 pm »

Khu trưởng Nguyễn Bình ra bản hiệu triệu kêu gọi cán bộ chiến sĩ đồng tâm nhất trí chống quân phản động, hãy vì nhiệm vụ chung mà bỏ qua mọi xích mích nội bộ,...

Khu trưởng ủy nhiệm Tham mưu trưởng Huỳnh Kim Trương vừa trực tiếp chỉ huy liên quân B vừa toàn quyền chỉ huy mặt trận Tây Ninh; chi đội trưởng Chi đội 11 Nguyễn Văn Dung (nguyên chi đội trưởng Chi đội 6, được bổ nhiệm thay Trịnh Khánh Vàng) chỉ huy liên quân A.


Tuy nhiên, trong khi quân phản động tiến công ta bằng đủ mọi mặt quân sự, chính trị, kinh tế, thì tổ chức liên quân mới lại hoạt động thiếu ăn khớp, đồng bộ. Giữa lúc bọn phản động tập trung toàn lực cố quét lực lượng của ta trong tỉnh Tây Ninh thì thay vì mọi biện pháp chống giữ phải tập trung vào mặt trận xung yếu ấy theo sự ủy nhiệm của Khu trưởng, lại phân tán liên quân B ra làm B1, B2, B3, chuyển sang hoạt động ở phía bắc tỉnh Thủ Dầu Một1 (Viết theo “Báo cáo vấn đề Cao Đài - Bình Xuyên” của Chính trị bộ Khu 7. Hồ sơ A59-LS / CCTQK7)...


Nắm được ý định của ta, quân phiến loạn Cao Đài ở Tòa thánh Tây Ninh kịp thời chuyển hướng về “kế hoạch ba giai đoạn”, cấp tốc kéo quân ra các vị trí tiền đồn của quân Pháp, tấn công các cơ quan kháng chiến, bủa lưới gián điệp khắp nơi, hợp tác với quân Pháp phản công, vây đánh quân ta... Thế là lợi dụng được những sai lầm của ta, “chúng đã từ thế liệt chuyển sang thế ưu mà ta từ thế ưu chuyển sang thế liệt”2 (Trích “Báo cáo vấn đề Cao Đài - Bình Xuyên” của Chính trị bộ Khu 7. Tài liệu đã dẫn). Bọn phản động đã phát huy mạnh mẽ sự quả quyết và thâm độc trong việc mê hoặc, lợi dụng tín đồ trong các hoạt động võ trang, tình báo, lấy quần chúng làm lá chắn, làm bia đỡ đạn, tấn công địch vận về phía lực lượng võ trang cách mạng dưới chiêu bài “lập trường chống Tây”...


Trước tình thế mới Bộ chỉ huy Khu 7 chủ trương một phương án mạnh mẽ mới: Giao nhiệm vụ cho liên quân A giữ mặt bắc và mặt tây tỉnh Tây Ninh, không cho quân phản động tiến lên liên kết với các sóc Cao Miên (Kông Pông Chàm, Svay-riêng do thế lực thân Pháp không chế); liên quân B giữ mặt đông nam tỉnh Tây Ninh, chặn không cho quân phản động tràn xuống tỉnh Gia Định, cùng quân từ Tòa thánh đánh lên; Chi đội 15 giữ phía bắc tỉnh Chợ Lớn, không cho phản động tràn xuống. Tổ chức thêm liên quân 15 hoạt động trong vùng Hóc Môn, dọc theo quốc lộ 1, là trục giao thông mà quân phản động định chiếm làm đường chiến lược nôi Tây Ninh với Sài Gòn.


Tổ chức thêm liên quân C chặn phía tây nam tỉnh Tây Ninh, không cho phản động nối thông theo sông Vàm Cỏ Đông tràn xuống tỉnh Tân An. Liên quân gồm các đơn vị thuộc các chi đội 5, 12, 13, bộ đội Bình Xuyên. Lực lựợng Chi đội 12 trong liên quân C là đại đội 1 do đồng chí Huỳnh Tấn Chùa chỉ huy.


Bộ chỉ huy Khu chỉ định đồng chí Tô Ký, Chi đội trưởng Chi đội 12 thay đồng chí Huỳnh Kim Trương chỉ huy liên quân B, kiêm chủ tịch Ủy ban hành chánh tỉnh Tây Ninh (tháng 5 năm 1947). Ngoài ra Khu còn tổ chức các liên quân 17, 18. Liên quân 17 lấy lực lượng từ các chi đội 1, 6, 10, do Đào Sơn Tây chỉ huy, hoạt động ở khu vực Thủ Đức, Dĩ An, Lái Thiêu, Châu Thành, Tân Uyên. Liên quân 18 lấy lực lượng từ các chi đội 12 (đại đội 3), 6, hoạt động ở Hóc Môn, Gò Vấp, Bến Cát, do Nguyễn Thược chỉ huy. Bộ phận Chi đội 12 trong liên quân do Lâm Thành Hổ và Nguyễn Văn Voi chỉ huy.


Tháng 4 năm 1947 Xứ ủy Nam Bộ chỉ thị cho Khu 7 và các tỉnh: hết sức bình tĩnh, tranh thủ sự ủng hộ và tham gia kháng chiến của các tín đồ Cao Đài, mặt khác kiên quyết trừng trị những tên manh tâm làm tay sai cho giặc Pháp, chống lại cuộc kháng chiến. Cùng trong tháng, Tỉnh ủy Gia Định mở hội nghị tại An Phú Đông, kiểm điểm, rút kinh nghiệm một năm xây dựng và củng cố lực lượng trên địa bàn tỉnh. Riêng vấn đề Cao Đài, hội nghị chủ trương bắt bọn cầm đầu phản động, cử một số cán bộ, chiến sĩ làm công tác Cao Đài vận, giải thích cho đồng bào hiểu chủ trương của ta, đồng thời vạch trần âm mưu nham hiểm của thực dân Pháp và bọn phản động gây chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên do không quán triệt đầy đủ chỉ thị trên, một số cán bộ trong “chính trị bộ” khu đã quá tả cả trong nhận thức và chỉ đạo. Do đó, trong hoạt động các liên quân đợt này có những trận đánh có hiệu quả tốt nhưng đồng thời phạm những sai sót về công tác quần chúng.


Ngày 22 tháng 4 năm 1947, giặc Pháp huy động trên 200 lính Âu Phi và một đại đội lính Cao Đài phản động, chia làm hai cánh tiến vào các khu vực Mây Sắc, Cầu Trắng, Hố Bò (xã Phú Mỹ Hưng). Lực lượng liền quân B đang có mặt các đơn vị của Chi đội 6, Chi đội 12, Chi đội 11, tổ chức phục kích, đánh địch từ 8 giờ sáng. Quân ta đẩy lùi giặc xuống đường hào cao su và tổ chức bắn tỉa diệt nhiều tên. Đến 16 giờ, giặc rút lui, ta thu một số đại liên và một số súng trường.


Liên tục từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1947, Chi đội 12 phối hợp với các đơn vị bạn thường xuyên đánh địch càn quét ở địa bàn nông thôn phía tây bắc thành phố Sài Gòn, đặc biệt ở các căn cứ Hố Bò - Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây (Khu 5 Hóc Môn) và căn cứ Long Phước Thôn, đông Thủ Đức.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #22 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2021, 05:00:40 pm »

Ngày 8 tháng 6 năm 1947, quân ta đánh trận chống càn 500 quân địch ở Gia Bẹ - Xóm Mới (xã Trung Lập, Khu 5 Hóc Môn) lập công xuất sắc. Lực lượng ta gồm liên quân B (đóng tại Gia Bẹ - Xồm Mới) và hai phân đội thuộc Chi đội 6 và Chi đội 12 (đóng tại Bàu Chứa). Mục tiêu càn của địch gồm Xóm Mới (Trung Lập), Ràng, Gò Nổi, Ba Sòng, Bầu Đưng, An Nhơn Tây Nhuận Đức, Bàu Chứa... có mặt đại đội 2 Chi đội 12, đại đội 3 Chi đội 11, một đại đội của Chi đội 1 và 1 đại đội của Chi đội 15.


Phán đoán đúng về địch, nắm chắc địa hình, từ 4 giờ liên quân B chia làm bốn cánh tổ chức bốn mặt trận (A, B, C, D) để đánh địch. 7 giờ pháo giặc từ Bến Cỏ bắn tới tấp vào Xóm Mới để nghi binh, hơn 200 quân Pháp từ Củ Chi, Suối Cụt, Trung Lập, chia làm hai mũi tiến vào Gia Bẹ. Chúng lọt vào vòng phục kích của ta. Ngay loạt súng đầu, quân ta đã hạ 10 lính Pháp. Chúng lùi lại bìa xóm rồi tổ chức tiến công nhiều đợt, nhưng đều bị bẻ gãy. Quân Pháp để lại một bộ phận bắn cầm chừng, còn đại đội bộ phận bí mật luồn qua phía phải, hợp với cánh quân thứ hai (khoảng 100 tên) vòng qua Gia Bẹ định đánh từ sau lưng ta. Chúng men theo suối, bị hai khẩu đại liên của ta phục sẵn, bắn hạ hàng chục tên Pháp. Chúng dàn hàng ngang dùng súng máy bắn xối xả vào trận địa ta. Vượt tình thế ác liệt, quân ta bốn mặt siết chặt vòng vây. Chúng hốt hoảng tháo chạy tán loạn. Ta truy kích diệt thêm nhiều tên. Trong suốt bảy giờ chiến đấu (từ 7 đến 14 giờ), liên quân B đã hành động linh hoạt, các phân đội Chi đội 6, Chi đội 12 chi viện kịp thời, gây bất ngờ cho địch, dồn chúng từ thế chủ động xuống thế bị động, rối loạn đội hình, cuối cùng bị truy kích. Chúng buộc phải bỏ lại trận địa 30 xác chết, ngoài ra còn số thương vong mang đi. Ta thu 11 súng (có 1 trung liên), 6 thùng đạn, một máy vô tuyến điện... Phía ta một chiến sĩ liên lạc hy sinh. Đồng bào hai bên đường số 1 hồ hởi chứng kiến cảnh những chiếc xe chở xác chết, chiến thương Pháp đang nối đuôi nhau về Sài Gòn.


Khoảng 14 giờ, cánh quân địch ở hướng Ràng, Xóm Mới chuẩn bị rút lui, nhưng cánh quân Pháp từ hướng Cây Xộp đang phát triển về hướng Bàu Chứa. Hướng lui quân duy nhất của các đơn vị liên quân B cũng là Bàu Chứa nhưng phải qua một cánh đồng bưng dài và rộng hơn một ki-lô-mét. Trong lúc đó có một đại đội của liên quân 18 do Lâm Thành Hổ và Nguyễn Văn Voi chỉ huy đóng ở khu vực Bàu Chứa, vẫn theo dõi chiến sự ở khu vực Xóm Mới, nhưng không rõ phía ta là đơn vị nào (vì liên quân B mới về đêm trước, chưa kịp liên lạc). Nghe tiếng súng hướng Xóm Mới đã lặng dần, nhưng ở hướng Cây Sộp địch đang kéo lên rất đông, đồng chí Lâm Thành Hổ định cho tạm lùi quân về Nhuận Đức. Đồng chí Nguyễn Văn Lai góp ý: “Bên Xóm Mới liên quân B đang đánh, anh Tô Ký ở bên đó... Lui quân từ Xóm Mới, ta chỉ có hướng duy nhứt là qua bưng về Bàu Chứa, nếu để địch lên làm chủ Bàu Chứa thì cả liên quân B hoàn toàn bị bao vây trên cánh đồng bưng này... Đề nghị anh cho đánh chặn địch từ Cây Sộp lên”. Đồng chí Lâm Thành Hổ đình ngay việc lui quân về Nhuận Đức và cho triển khai đội hình chiến đấu. Lấy ít chọi nhiều, các đồng chí Lâm Thành Hổ, Nguyễn Văn Voi đã chỉ huy đơn vị anh dũng chiến đấu, đạt được ý định không cho địch lên Bàu Chứa. 15 giờ cả hai phía lui quân.


Một số đơn vị thuộc liên quân B vừa chiến đấu từ Bàu Tròn rút về Gò Nổi lại đụng một lực lượng Cao Đài phản động từ cuối xóm Ba Sòng kéo đến chặn đánh. Mặc dù đã mệt, quân ta kiên quyết đánh trả, diệt nhiều tên Cao Đài phản động. Ta hy sinh thêm hai chiến sĩ.


Do lực lượng địch đã lên Bàu Chứa bị đánh chặn, liên quân B lui quân an toàn qua bưng về Nhuận Đức, đêm lại hành quân tiếp về Phú Mỹ Hưng, Hố Bò theo ý định phối hợp với liên quân A chuẩn bị đánh địch càn hôm sau, nhưng chúng đã bỏ dở kế hoạch càn quét.


Ở phía chiến khu Đông Thành, đại đội 1 Chi đội 12 do Nguyễn Bá Bội chỉ huy, Chi đội phó Huỳnh Tấn Chùa trực tiếp chỉ đạo đã tham gia hoạt động trấn áp Cao Đài phản động, chiến đấu chống giặc Pháp càn quét nhiều lần vào căn cứ, diệt nhiều tên.


Phối hợp với lực lượng Cao Đài phản động, quân Pháp mở những cuộc hành quân lớn vào các căn cứ kháng chiến.

Ngày 10 tháng 3 năm 1947, quân Pháp tiến công căn cứ Bộ chỉ huy Khu 7 ở chiến khu Đông Thành. Đoàn máy bay đa-kô-ta lượn qua căn cứ Giồng Dinh, bất ngờ tung ra từng tốp quân nhảy dù. Dưới đất cánh quân thủy theo sông Vàm Cỏ Đông đổ bộ, triển khai đội hình bao vây, chặn đường rút của quân ta. Lực lượng ta có mặt gồm đại đội 1 Chi đội 12 do Nguyễn Bá Bội chỉ huy, có mặt Chi đội phó Huỳnh Tấn Chùa, trung đội bảo vệ khu và Chi đội hải ngoại Trần Phú1 (Chi đội hải ngoại Trần Phú từ Thái Lan về đến vùng biên giới Quân khu Đông Thành chiều ngày 27 tháng 2 năm 1947 sau 2 tháng hành quân đầy gian khổ, tổng số quân 420 người. Ban chỉ huy chi đội gồm: Nguyễn Chánh, chi đội trưởng; Đỗ Huy Rừa và Lê Đuốc Sản chi đội phó; Nguyễn Văn Sáu chính trị viên, Lê Quán Trung và Dương Cự Tẩm, phó chính trị viên) do Nguyễn Chánh làm chỉ huy trưởng. Bộ phận Chi đội hải ngoại tại trận địa Giồng Dinh gồm một trung đội, được tăng cường trung đội bảo vệ khu. Tình huống bất ngờ, sau phút lúng túng ban đầu, quân ta nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu, kịp thời nổ súng khi nhiều tên địch còn lơ lửng trên không. Nhiều tên bị trúng đạn khi chưa chạm đất. Quân nhảy dù bị đánh bật ra đồng trống. Dù của chúng vướng vào đọt tre, lốm đốm trắng trên một vùng giồng. Ta diệt hai trung đội địch, thu nhiều súng đạn. Riêng trung đội hải ngoại thu 2 trung liên, 10 súng trường. Trung đội hải ngoại rút về giồng Thổ Địa, cách trận địa cứ khoảng 5 ki-lô-mét, tổ chức phòng ngự.


15 giờ ta tiếp tục nổ súng và đánh quân địch ở Thổ Địa. Đơn vị anh dũng chiến đấu, bẻ gãy các đợt tiến công của địch, thu 1 trung liên và 6 súng trường, đánh bại cuộc tiến công bất ngờ của địch vào căn cứ Bộ chỉ huy Khu 7.


Tin chiến thắng Giồng Dinh làm nức lòng đồng bào, chiến sĩ Đồng Tháp Mười và các tỉnh miền Đông. Riêng đối với Chi đội hải ngoại Trần Phú, đây là trận ra mắt đồng bào trong nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #23 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2021, 05:01:59 pm »

Để tạo thế bảo vệ căn cứ đầu não Khu 7, tháng 7 năm 1947, với phương án nội công ngoại kích, đồng chí Huỳnh Tấn Chùa tổ chức cho đại đội 1 tiến công căn cứ Hiệp Hòa, do nội ứng phản trắc nên tình huống chiến đấu ác liệt, ta diệt được một số tên, nhưng đơn vị bị thiệt hại nặng, hy sinh hơn một tiểu đội. Hoạt động, chiến đấu trong tình cảnh thiếu thốn, gian khổ, cán bộ, chiến sĩ ở đây ốm đau nhiều. Sau trận chiến đấu ác liệt ở chiến khu Đông Thành đồng chí Huỳnh Tấn Chùa lâm bệnh nặng và qua đời ngày 22 tháng 7 năm 1947 (nhằm ngày 5 tháng 6 âm lịch) tại Giồng Ông Hòa. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đồng chí trăn trối lại với đồng đội: “Chôn tôi chỉ cần một chiếc áo cũ. Áo tôi mặc còn mới, anh em cởi ra mà dùng...” Đồng chí Huỳnh Tấn Chùa mất đi, quê hương Mười Tám Thôn Vườn Trầu Hóc Môn - Bà Điểm, Chi đội 12 mất đi người con, người chiến sĩ trung dũng, kiên cường, giàu nghị lực và đầy nhiệt huyết, đã từ vào tù ra khám đế quốc, đã vào sinh ra tử từ mặt trận cầu Tham Lương và đóng góp nhiều công lao xây dựng Giải phóng quân liên quận, Chi đội 12, chiến khu Đông Thành.


Tháng 10 năm 1947, liên quân 18 giải thể. Đại đội 3 thuộc Chi đội 12 được lệnh hành quân về Gò Vấp bảo vệ dân thu hoạch lúa mùa. Đại đội đã mở đợt hoạt động bao vây tập kích đồn bót địch ở chợ Cây Xoài, chợ Cầu, Quán Tre... phục kích đánh địch tuần tiễu ruồng bố dọc đường giao thông và trong các thôn ấp.


Nam Bộ là chiến trường xa Trung ương, trong quá trình chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ, quân dân Nam Bộ luôn được sự quan tâm đặc biệt, tình cảm đặc biệt và sự động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tháng 2 năm 1946, Chủ tịch đã thay mặt Chính phủ tặng đồng bào Nam Bộ danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”. Ngày 23 tháng 9 năm 1947, kỷ niệm hai năm Nam Bộ kháng chiến, Người gửi thư cho đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ, Nam Trung Bộ:

“Hôm nay, cuộc kháng chiến oanh liệt ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ vừa đúng hai năm. Tôi trân trọng thay mặt Chính phủ và nhân dân toàn quốc, nghiêng mình trước linh hồn các chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh vì Tổ quốc.

Tôi gửi lời an ủi những chiến sĩ và đồng bào bị thương, bị địch bắt giam cầm hoặc đang bị khổ sở nơi địch đang chiếm đóng. Tôi gửi lời thân ái khen ngợi toàn thể đồng bào và chiến sĩ đang hăng hái chiến đấu.

Đã hai năm nay, chiến sĩ và đồng bào ta hy sinh nhiều tính mạng, tài sản, chịu nhiều cực khổ, gian nan. Song lòng yêu nước ngày càng nồng nàn, chí dũng cảm ngày càng bền chặt, sức chiến đấu ngày càng tăng gia, chí quyết thắng ngày càng vững chắc. Các bạn là dân xung phong của dân tộc, con yêu của nước nhà.”


Qua hai năm chiến đấu gian khổ, ác liệt, quân dân Nam Bộ nói chung, quân dân miền Đông nói riêng đã tạo được thế ổn định, đã phát triển lực lượng và phong trào chiến tranh nhân dân trên một chiến trường du kích. Sự quan tâm của Trung ương Đảng và Bác Hồ có sức cổ vũ lớn, nâng cao ý chí quyết chiến quyết thắng của toàn quân và toàn dân.


Tháng 11 năm 1947, Phòng Dân quân Nam Bộ được thành lập, hệ thống cơ quan dân quân lần lượt hình thành từ khu xuống tỉnh, huyện, xã. Lực lượng dân quân du kích và tự vệ phát triển mạnh ở xã ấp. Ở Hóc Môn, ở một trung đội dân quân được tổ chức với lực lượng gồm du kích do các xã cử lên và một số chiến sĩ Chi đội 12, do đồng chí Nguyễn Minh Đạt làm trung đội trưởng. Đồng chí Đạt trực tiếp huấn luyện chiến thuật du kích cho chiến sĩ tại Trảng Lắm. Ba tiểu đội dân quân được trang bị khá mạnh, linh hoạt phân tán, tập trung, vừa chống càn quét vừa làm nòng cốt xây dựng phong trào dân quân toàn huyện1 (Thực hiện Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 4 tháng 7 năm 1947 và quyết định của Ủy ban hành chính Nam Bộ về việc thống nhất tên gọi địa danh, địa giới hành chánh, tên cơ quan hành chánh và kháng chiến: - Làng đổi thành xã. - Quận đổi thành huyện. - Ủy ban hành chánh kiêm Ủy ban kháng chiến gọi là Ủy ban kháng chiến hành chánh). Hỗ trợ xây dựng lực lượng và phong trào dân quân du kích là một trong những nội dung hoạt động của các đơn vị võ trang tập trung nói chung, Chi đội 12 nói riêng.


Đến tháng 11 năm 1947, do bị tiến công liên tục, lực lượng phản động Cao Đài đã co về thế thủ, nội bộ rối ren. Chúng được Pháp xốc lại theo hướng ngụy binh Cao Đài. Đến tháng 4 năm 1948 tình hình mới ổn định dần.


Đến mùa thu năm 1947, quân viễn chinh Pháp ở Việt Nam được tăng viện 20.000 tên, phát triển được quân ngụy, tổng số binh lực của chúng lên 128.000 tên. Cao ủy pháp Bolaert tiếp tục thi hành chính sách xâm lược Đông Dương bằng vũ lực, tuyên bố không công nhận nước Việt Nam độc lập và đưa ra những quyết định nhằm thiết lập chế độ thực dân kiểu cũ ở Đông Dương. Salan được lệnh phải “bịt biên giới Việt-Trung, đè bẹp quân kháng chiến Việt Minh” ngay từ khi được cử sang phụ trách chiến trường Bắc Đông Dương. Thực hiện ý định trên, từ ngày 7 tháng 10 năm 1947, địch tập trung 12.000 quân mở cuộc tiến công lên Việt Bắc hòng diệt cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực của ta. Nắm được âm mưa địch, Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch Việt Bắc Thu Đông nhằm phá kế hoạch tiến công của chúng. Bộ Tổng Tư lệnh ra chỉ thị “các khu đánh mạnh để phối hợp với Việt Bắc”.


Hai tháng “chia lửa” với Việt Bắc, sự phối hợp của chiến trường Nam Bộ đã được Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh đánh giá là tích cực và có hiệu quả, góp phần đáng kể vào chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947.


Trên chiến trường Việt Bắc, quân ta đã bẻ gãy kế hoạch thu đông của Salan. Sự kiện này đánh dấu bước chuyển cuộc kháng chiến của nhân dân ta, từ “giữ vững và phát triển lực lượng ta, kềm chế, tiêu hao lực lượng địch” sang “phát triển chiến tranh du kích, chuẩn bị thế và lực để phản công”1 (Căn cứ thông báo kết luận ba vấn đề chỉ đạo chiến lược trong kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ủy quân sự Trung ương ngày 1 tháng 6 năm 1980 thì ba giai đoạn được xác định lại (trước gọi là phòng ngự, cầm cự, tổng phản công) mốc và tên như sau: - Giai đoạn 1 (từ ngày 23 tháng 9 năm 1945 đến sau chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947): “Giữ vững và phát triển lực lượng ta, kềm chế, tiêu hao lực lượng địch”; - Giai đoạn 2 (sau chiến thắng Thu Đông 1947 đến trước chiến dịch Biên Giới Thu Đông 1950): “Phát triển chiến tranh du kích, chuẩn bị thế và lực để phản công”; - Giai đoạn 3 (bắt đầu từ chiến dịch biên giới Thu Đông 1950 đến Đông - Xuân 1953-1954): “phản công và tiến công”) .
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #24 vào lúc: 12 Tháng Tám, 2021, 10:48:48 am »

Kế hoạch Việt Bắc Thu Đông bị bẻ gãy, thực dân Pháp buộc phải chuyển chiến lược từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang đánh kéo dài, nhưng riêng đối với Nam Bộ, với quan điểm coi Nam Bộ là vùng trọng điểm bình định để biến Nam Bộ thành nơi dự trữ chiến lược cho cuộc tái chiếm Đông Dương, thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, chúng tập trung lực lượng (kể cả việc rút bớt lực lượng từ phía Bắc vào), quyết “bình định xong Nam Bộ vào tháng 6 năm 1948”. Trên địa bàn Khu 7, đến đầu nàm 1948, địch đóng quân tất cả 491 cứ điểm chính (không kể đồn bốt nhỏ), tổng số quân lên 25.438 tên (Pháp và lê dương 5.574 tên, lính ngụy và Cao Đài 19.864 tên).


Chủ trương về quân sự của Đảng ta trong giai đoạn này là: “Chuyển sang giai đoạn thứ hai, giai đoạn cầm cự, đánh táo bạo, phản công bộ phận nếu nước Pháp có biến cố lớn”1 (Trích văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng ngày 15 tháng 1 năm 1948. “Văn kiện Đảng về kháng chiến chống Pháp”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1986, tr.169-170). Phương châm tác chiến được đề ra là "du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ”.


Thực hiện âm mưu mới, địch mở những cuộc hành quân lớn đánh các vùng căn cứ lớn, tăng cường càn quét vùng du kích, đánh phá rồi đóng đồn bót bao vây vùng căn cứ, tung biệt kích đột phá bất ngờ gây tổn thất cho lực lượng kháng chiến. Trên những vùng tranh chấp ta chỉ còn hoạt động ban đêm, nên thường bị động, bộ đội về đóng quân không được, đánh rồi phải rút ngay, do đó lực lượng kháng chiến tại chỗ phải có hầm bí mật. Hầm bí mật có nhiều kiểu, trong nhà, ngoài sân, ngoài vườn, ngay trong thị trấn... Ban công tác số 12 cũng phải có hầm bí mật. Đào hầm bí mật và đường hầm nối thông các hầm bí mật với nhau thành hệ thống địa đạo được triển khai thực hiện ở Phú Thọ Hòa, Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An... Địa đạo trở thành một loại kiến trúc quân sự đặc biệt, vừa làm căn cứ địa vừa làm công sự chiến đấu có hiệu quả cho lực lượng võ trang và nhân dân địa phương, trong đó có bộ đội Giải phóng quân, Chi đội 12.


Từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 1 năm 1948, địch mở cuộc hành quân “Vê-ga” đánh vào một số cơ quan Nam Bộ và đầu não Khu 7 ở Đồng Tháp Mười. Lực lượng được huy động gồm 11 tiểu đoàn bộ binh (trong đó có bán lữ đoàn lê dương số 13), 3 thiết đoàn xe bọc thép, 2 đội xe lội nước bánh xích, 9 khẩu 105 li, 13 máy bay... Sáng ngày 14 tháng 1, địch cho máy bay, pháo binh bắn dọn bãi các xóm giồng, sau đó nhảy dù xuống khu vực nam giồng A Rặc và Giồng Lớn. Một cánh quân khác dùng tàu LCI đổ bộ lên phía tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông.


Bộ đội ta nhanh chóng triển khai đội hình chiến đấu. Khi quân nhảy dù Pháp vừa chạm đất, đại đội 1 Chi đội 12 do đại đội trưởng Nguyễn Bá Bội chỉ huy và 1 đại đội của Chi đội 5 nổ súng, diệt khoảng 90 tên, thu hơn 100 chiếc dù. Sau đó lực lượng ta phân tán rút ra ngoài, lợi dụng những đám cỏ đưng, bàng, bí mật tiếp cận các khu vực đóng quân của địch, thực hiện bắn tỉa, quấy rối. Liên tục bị quấy rối, lực lượng bị tiêu hao, tinh thần căng thẳng, muốn tìm diệt lực lượng ta nhưng chỉ đánh vào chỗ trống, ngày 18 tháng 1, quân Pháp buộc phải rút quân, kết thúc thất bại cuộc hành quân quy mô lớn nhất của chúng ở Nam Bộ từ sau ngày Nam Bộ kháng chiến.


Tiếp sau những cuộc hành quân không đạt mục tiêu và bị tổn thất ở chiến khu Đ và ở vùng kênh Nguyễn Văn Tiếp (Đồng Tháp Mười), ngày 14 tháng 2 năm 1948, đích thân tướng De Latour1 (Thay tướng Nỵo làm tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở miền nam Đông Dương từ tháng 4 năm 1947 đến tháng 10 năm 1949) chỉ huy 6.000 quân tiến công lại vùng căn cứ đầu não Khu 7 ở Giồng Dinh, Giồng Kên Kên. Lực lượng bảo vệ căn cứ kết hợp với đại đội 1 Chi đội 12, Chi đội 5 đánh phục kích, diệt gọn một đại đội địch. Cuộc hành quân này của địch lại không đạt mục tiêu.


Trước sự tiến công, lấn chiếm ồ ạt của địch, một số vùng từ cuối năm 1947 còn là vùng căn cứ của ta, sang năm 1948 dần biến thành vùng du kích, trong đó có một phần Trung Huyện, phần lớn huyện Trảng Bàng, hầu hết huyện Thủ Đức, một nửa huyện Hóc Môn, một phần vùng Gò Vấp, Tân Bình... Tuy nhiên, nhìn trên tổng thể, Nam Bộ đã hình thành chiến trường du kích cầm chân địch với sự hình thành phong trào chiến tranh nhân dân và lực lượng võ trang ba cấp: dân quân du kích xã ấp, du kích tập trung huyện, bộ đội tập trung địa phương được phân chia địa bàn hoạt động theo tỉnh, vùng. Tình hình cho thấy kế hoạch "bình định xong Nam Bộ vào tháng 6 năm 1948” của địch sẽ hoàn toàn thất bại.


Qua hai năm xây dựng và chiến đấu, tiếp nối nhiệm vụ, truyền thống của Giải phóng quân liên quận, Chi đội 12 Vệ quốc đoàn đã cùng quân dân Nam Bộ đánh bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh và bình định Nam Bộ để biến Nam Bộ thành hậu phương dự trữ chiến lược của thực dân Pháp, góp phần tạo thế tạo lực hình thành chiến trường du kích cầm chân, tiêu hao địch, đồng thời giữ vững vai trò là một trong những đơn vị nòng cốt xây dựng lực lượng võ trang ở miền Đông, tiến đến hoàn chỉnh sự thống nhất, nâng cao chất lượng chính trị quân đội cách mạng do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những thành tích đó thể hiện trên các mặt chiến đấu, xây dựng lực lượng, quan hệ với dân, quá trình tự lực tự cường.


Về chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ quân sự nặng nề so với quy mô, tổ chức, chi đội đã cơ động trên một địa bàn tương đối rộng, liên tục chiến đấu, đặc biệt đánh địch càn quét, góp phần tạo thế, tạo lực cho sự hình thành chiến trường du kích trên một trong những vùng trọng điểm bình định của địch, đồng thời góp phần bảo Vệ căn cứ đầu não Khu 7.


Về mặt xây dựng lực lượng, chi đội luôn tự nâng cao chất lượng chính trị, tổ chức bằng những nội dung, việc làm cụ thể như xây dựng tổ chức Đảng từ chi đội, chi bộ, tổ đảng, hệ thống chính trị viên, chương trình giáo dục và huấn luyện chính trị, quân sự, đạt yêu cầu là một đơn vị của quân đội nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chi đội đóng góp một bộ phận cán bộ, chiến sĩ đáng kể với chất lượng cao, góp phần hồi phục và ổn định Khu 8, đồng thời cùng các đơn vị bạn giữ vai trò nòng cốt dẫn dắt xây dựng lực lượng và phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn hoạt động, thực hiện tốt chủ trương của Khu 7 là “ra sức xây dựng, phát triển lực lượng du kích rộng khắp, nhất là vùng địch hậu”. Bản thân các đồng chí Tô Ký, Hồ Thị Bi và nhiều cán bộ của chi đội nằm trong cấp ủy của huyện Hóc Môn. Chi đội cử nhiều cán bộ sang đảm trách công tác huyện đội (Võ Hồng Ưng, Ba Tới, Sáu Nâu...), cử hẳn một đại đội (sau này là đại đội 2806) xây dựng căn cứ Dương Minh Châu (ban đầu là huyện Chơn Bà Đen, sau đó là xã Chơn Bà Đen), cán bộ của đại đội này đảm nhiệm nhiệm vụ trong tất cả các tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận. Việc góp sức vô hiệu hóa, tước khí giới, phân hóa và làm tan rã các lực lượng cơ hội như đệ tam, đệ tứ sư đoàn cũng là một đóng góp đáng kể của chi đội vào quá trình thống nhất lực lượng võ trang ở miền Đông những năm đầu kháng chiến.


Về phát triển lực lượng, bên cạnh những đơn vị trong biên chế chính thức của chi đội như các đại đội 1, 2, 3, Ban công tác số 12, các đơn vị trực thuộc phục vụ, bảo đảm... còn lực lượng do chính một số cán bộ của chi đội xây dựng, hoạt động trên từng khu vực riêng, danh nghĩa là độc lập nhưng chịu sự chỉ đạo của chi đội (và sau này được thống nhất vào biên chế chính thức của Trung đoàn 312). Lực lượng này gồm ba đơn vị.


Đơn vị do các đồng chí Hồ Thị Bi, Đào Quang Xê, Huỳnh Văn Chỗ xây dựng bên cạnh Ban công tác số 12, hoạt động ở vùng Hóc Môn. Đơn vị này tương đương đại đội do Hồ Thị Bi làm chỉ huy trưởng, Đào Quang Xê làm chính trị viên, Huỳnh Văn Chỗ làm chỉ huy phó. Trong đơn vị có một tiểu đội nữ và một tiểu đội lê dương gồm những người lính lê dương bỏ hàng ngũ quân đội Pháp và vào khu tham gia kháng chiến. Trong số này có một người Đức, trong quá trình chiến đấu, lại sa vào tay giặc. Không chịu đầu hàng và bảo vệ lý tưởng chính nghĩa của mình, anh bị chúng quy tội “phản bội”, cho xe cán chết, bêu xác ở Hóc Môn.


Đơn vị do các đồng chí Nguyễn Thược, Lê Văn Dọn xây dựng (sau khi đi Khu 8 về) hoạt động vùng Phú Thọ Hòa, Bà Quẹo, Gò Vấp, Đức Hòa do Nguyễn Thược làm chỉ huy trưởng, Lê Văn Dọn làm chỉ huy phó.


Đơn vị các đồng chí Nguyễn Minh Sanh, Giáo Rõ, xây dựng hoạt động vùng An Phú Xã, dọc sông Sài Gòn lên Bến Súc, do Nguyễn Minh Sanh làm chỉ huy trưởng, Giáo Rõ làm chỉ huy phó.

Về mặt kỹ chiến thuật, chi đội đã hình thành sở trường vận động phục kích đánh địch càn quét và nâng cao một bước về tác chiến hiệp đồng qua hoạt động liên quân và hoạt động chống càn.

Cũng như Giải phóng quân liên quận, với bản chất là lực lượng do Đảng xây dựng, từ nhân dân mà ra, quá trình chiến đấu xây dựng, tự lực tự cường và gắn bó với dân có môi quan hệ tương hỗ nhau, từ đó mà tạo được căn cứ không xa địch và hậu phương tại chỗ từ vùng địch hậu ra vùng tranh chấp, vùng tự do, chính đó là điều quyết định để tồn tại và phát triển.


Trong khó khăn, thường xuyên giúp đỡ đơn vị bạn cũng là một đặc điểm của Chi đội 12. Trong tình thế tự lực là chủ yếu, chi đội đã giúp gạo, tiền, súng đạn hoặc nhiều hoặc ít cho các tỉnh Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bà Rịa, các chi đội 6, 1, bộ đội hải ngoại, đặc biệt là Chi đội 1. Có lần chi đội mới nhận 10 ngàn đồng tiền Đông Dương của chi đội giao ông Hòa đi miền Trung đổi mới về thì chị Chi, tài chính Chi đội 1 qua nói “Chi đội 1 không còn tiền mua gạo ăn”, đồng chí Tô Ký quyết định đưa hết số tiền này cho chị Chi mang về cho Chi đội 1.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #25 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2021, 07:21:41 pm »

Chương ba
TRUNG ĐOÀN 312 (3-1948 - 9-1949)


Năm 1948, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang đà phát triển “giai đoạn cầm cự” với phương châm “du kích chiến là chính, vận động chiến là phụ trợ, nhưng cần mạnh bạo đẩy mạnh vận động chiến đi tới, khi đủ điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng để chuyển sang giai đoạn phản công”1 (Trích Văn kiện Hội nghị cán bộ Trung ương từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 1 nam 1948) đặt ra yêu cầu đối với chiến trường Nam Bộ là trên cơ sở lực lượng võ trang ba cấp đông đảo, rộng khắp, cần tổ chức những đơn vị mạnh, xây dựng theo hướng tập trung, thống nhất, phát huy được vai trò nòng cốt lực lượng và phong trào chiến tranh nhân dân. Trong khi đó, trên chiến trường miền Đông lúc này, ngoài Trung đoàn Phạm Hồng Thái của Sài Gòn - Chợ Lớn (thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1947) và Trung đoàn 300 Dương Văn Dương ở Rừng Sác (thành lập tháng 2 năm 1948), các đơn vị võ trang tập trung đều mới tổ chức đến cấp chi đội, phát triển không đồng đều, thiếu sự thống nhất về tổ chức, biên chế, trang bị và khả năng hiệp đồng tác chiến. Sự chưa hoàn chỉnh về quá trình thống nhất còn biểu hiện ở tính địa phương, cục bộ ở nhiều đơn vị, đặc biệt là việc một bộ phận lực lượng Bình Xuyên bị bọn phòng nhì Pháp lũng đoạn, không chấp hành mệnh lệnh cấp trên, gây cản trở cho việc xây dựng lực lượng và hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu.


Trước tình hình đó, ngày 27 tháng 3 năm 1948, Khu ủy Khu 7 triệu tập hội nghị mở rộng toàn khu. Sau khi đánh giá tình hình, nhiệm vụ, tình hình và yêu cầu mới về xây dựng lực lượng võ trang, hội nghị quyết định nâng cao một bước quy mô tổ chức bộ đội trong toàn khu.


Từ tháng 4 năm 1948, Bộ chỉ huy Khu 7 xúc tiến việc thành lập các trung đoàn “Quân đội quốc gia Việt Nam”. Trung đoàn 312 được thành lập trên cơ sở phát triển Chi đội 12 Gia Định.


Ban chỉ Trung đoàn 312 gồm: Trung đoàn trưởng Tô Ký, Chính trị viên Ngô Thanh Khiết, các trung đoàn phó Nguyễn Văn Bứa, Nguyễn Văn Hâm.


Lực lượng trung đoàn được biên chế thành 3 tiểu đoàn gồm:

- Tiểu đoàn 934: tiểu đoàn trưởng Nguyền Văn Bâu, chính trị viên Nguyễn Hồng Đào, tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Tặng. Tiểu đoàn 934 gồm 3 đại đội 1, 2, 3, gốc từ 3 đại đội 1, 2, 3 của Chi đội 12.

- Tiểu đoàn 935: tiểu đoàn trưởng: Nguyễn Thược (Tư Thược), chính trị viên Nguyên Hữu Đang, các tiểu đoàn phó Nguyễn Minh Sanh và Hồ Thị Bi. Tiểu đoàn 935 gồm các đơn vị độc lập do các đồng chí Nguyễn Thược, Hồ Thị Bi, Nguyễn Minh Sanh xây dựng (hoạt động ở các khu vực Phú Thọ Hòa - Bà Quẹo, Hóc Môn, An Phú Xã), được biên chế thành các đại đội 2803, 2804, 2805. Đặc biệt đại đội 2804 có một tiểu đội nữ được trang bị 1 súng máy FM, 4 thôm-xơn, 3 mi mát, 1 mút tự động,...

- Tiểu đoàn 936: tiểu đoàn trưởng Nguyễn Bá Bội, chính trị viên Nguyễn Văn Bàng, sau là Huỳnh Văn Sai. Tiểu đoàn 936 thực chất là bộ phận của đại đội 2 Chi đội 12 ở Chà Dơ làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ Chơn Bà Đen, công binh xưởng, gồm một trung đội (do Nguyễn Thành Cánh chỉ huy trưởng, Nguyễn Văn Gấm chính trị viên); các bộ phận quân y, quân nhu, trinh sát, văn phòng (thứ hai) của đại đội 2 (do Nguyễn Văn Lai phụ trách). Các bộ phận này biên chế thành đại đội 2806 do Nguyễn Thành Cánh làm đại đội trưởng, Nguyễn Văn Gấm chính trị viên.


Giữa năm 1949, tiểu đoàn 936 được giao thêm nhiệm vụ chuẩn bị căn cứ cho Xứ ủy và Bộ Tư lệnh Nam Bộ ở vùng Chơn Bà Đen (chiến khu Dương Minh Châu sau này).

Các bộ phận trực thuộc trung đoàn gồm có:

Văn phòng: Nguyễn Ngọc Đôn, chánh văn phòng.

Ban tham mưu1 (Về ban tham mưu trung đoàn đến cuối năm 1948 mới thực sự hình thành theo chỉ thị số 46/LD của Khu ngày 18 tháng 11 năm 1948): Nguyễn Văn Bứa kiêm tham mưu trưởng và các đồng chí Trương Văn Ba (Ba Làng, tác chiến), Võ Thái Hòa (quân huấn).

Ban chính trị: Hoàng Đức Tường, sau là Phạm Bá Tường trưởng ban.

Ban quân nhu: Nguyễn Bá Khâm, trưởng ban.

Ban quân giới: Trần Văn Sáng trưởng ban.

Ban quân y: Trần Văn Sáng phụ trách.

Đoàn kinh tế: Võ Văn Hoa phụ trách.

Ban tài chính: Phạm Đăng Lâm phụ trách.

Ban quân lương: Đào Văn Phát phụ trách.

Quản lý binh công xưởng: Phan Văn Ngói phụ trách.

Ban quân trang: Huỳnh Văn Sai (trước khi được cử làm chính trị viên tiểu đoàn 936) phụ trách.

Ban nhân sự: Bảy Tùng và Bảy Thế phụ trách

Ban quân báo: Nguyễn Thanh Tùng, trưởng ban.

Ban thương binh: Trần Bá Thế phụ trách.

Quân y xá 3 sau đổi là quân y xá tiểu đoàn 934 Trung đoàn 312 do Nguyễn Ảnh Tường, kế đó là Trần Bửu Hên phụ trách, Lê Thị Ngà, chính trị hiệp lý viên.

Quân y xá 4 An Thành do Lê Trường Châu phụ trách, sau đổi là quân y xá tiểu đoàn 935 Trung đoàn 312 do Nguyễn Ảnh Tường phụ trách, Nguyễn Thị Phi Phụng, chính trị hiệp lý viên.

Dưới ban chính trị có các tiểu ban, tổ chuyên môn như: tiểu ban văn thư, tiểu ban cán bộ - kiểm tra Đảng, tiểu ban tuyên truyền lưu động, tiểu ban nghiên huấn và các tổ chuyên môn: điêu khắc, nghiên cứu, huấn luyện, ấn loát, tờ tin trung đoàn.


Trung đoàn ủy gồm các đồng chí: Ngô Thanh Khiết, Tô Ký, Nguyễn Văn Hâm, Nguyễn Hồng Đào, Nguyễn Hữu Đang.

Căn cứ đầu tiên của ban chỉ huy trung đoàn đặt tại Hố Bò - Phú Mỹ Hưng. Quân số toàn trung đoàn khoảng 2.500 (so với thời kỳ Chi đội 12 tăng 500).

Như vậy, trước yêu cầu "... đẩy mạnh vận động chiến đi tới, khi có đủ điều kiện thì kịp thời nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng để chuyển sang giai đoạn phản cộng”, về tổ chức, các chi đội ở Nam Bộ nói chung, Chi đội 12 nói riêng đã thực hiện biên chế cấp trung doàn theo quy định thống nhất của Quân đội quốc gia Việt Nam. Đây là một bước phát triển về quy mô tổ chức theo yêu cầu phát triển về trình độ chỉ huy, trình độ chiến thuật, kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chiến trường.


Khi thành lập trung đoàn, đồng chí Tô Ký viết một bức tâm thư kêu gọi cán bộ, chiến sĩ toàn đơn vị động viên ý chí, quyết tâm, đoàn kết, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ. Lòng thương nước thương dân, ý chí quyết chiến vì tự do độc lập đọng lại trong câu khắc ghi lòng người: “ngày không rơi lệ mà rơi lệ lúc đêm thâu!”.


Các tiểu đoàn được phân chia khu vực hoạt động:

Tiểu đoàn 934: Khu vực Hóc Môn, Trảng Bàng; chỉ huy sở đặt tại Xóm Trại, An Nhơn Tây.

Tiểu đoàn 935: khu vực An Thành, Bến Cát; chỉ huy sở đặt ở An Thành (Bến Cát).

Tiểu đoàn 936: khu vực Chơn Bà Đen; chỉ huy sở đặt ở Chà Dơ.


Tháng 8 năm 1948, địch lại đánh lớn vào căn cứ Tân Mỹ. Từ sáng sớm, chúng chia quân làm ba mũi từ các hướng Cầu Dừa, Nhị Bình và Hóc Môn tiến vào đến Bến Đá (xã Đông Thạnh), du kích nổ súng để dụ chúng vào sâu. Địch coi thường du kích, đuổi theo đến nhà thờ Bến Đá, nơi có một lực lượng bộ đội đang phục kích do Trương Văn Ngàn chỉ huy. Quân ta nổ súng diệt ngay từ đầu hàng chục tên giặc. Mũi thọc sâu thứ nhất bị bẻ gãy, địch lại củng cố lực lượng chia thành hai mũi tiếp tục tiến vào. Đợt này cuộc chiến đấu quyết liệt hơn, hai bên bắn nhau dữ dội. Đồng chí Trương Văn Ngàn, người chỉ huy dũng cảm, động viên bộ đội xung phong, diệt tiếp hàng chục tên giặc, nhưng đồng chí bị trúng đạn, hy sinh. Trong lúc đó, các đồng chí Nguyễn Thành Voi, Cường, Cảnh từ bên kia sông đã kịp đưa quân vượt sông, mở mũi xuyên hông, diệt nhiều tên, buộc địch tháo chạy. Cánh giặc ở phía cầu Bà Hồng cũng hoảng sợ, rút lui, không cứu đồng bọn. Kết quả: ta đã bẻ gãy trận càn vào căn cứ Tân Mỹ, diệt trên 20 tên Pháp và tay sai.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #26 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2021, 07:22:55 pm »

Những nữ chiến sĩ đơn vị 2804 là con em nông dân Hóc Môn, phần lớn ở các xã Tân Hiệp, Tân Mỹ, Bình Lý... tuổi mười tám, đôi mươi, cắt tóc ngắn gọn, đồng phục nhà binh, đầu đội mũ mềm (hình bánh tiêu), trang bị súng nhẹ (như tiểu liên, cạc-bin, mút mát) và lựu đạn; các chiến sĩ nam được trang bị vũ khí bén, gọn (như FM, thôm-xơn, mút tự động Mỹ, mút Anh, Pháp, súng phóng lựu đạn). Đơn vị hoạt động trên địa bàn Hóc Môn, Gò Vấp và các vùng xung quanh.


Cuộc càn quét lớn của giặc Pháp vào Giồng Ồng Hòa (xã Mỹ Hạnh) có xe lội nước và máy bay yểm trợ, nhằm tìm diệt các đơn vị võ trang ta. Đơn vị 2804 lâm vào thế bị bao vây, đã chiến đấu quyết liệt suốt một ngày để phá vây. Trong cuộc chiến đấu này các nữ chiến sĩ tỏ rõ bản lĩnh ngoan cường, cùng đơn vị mở được vòng vây, về đến Voi Đá (xã An Nhơn Tây) lúc nửa đêm. Đơn vị đến Xóm Trại, chưa kịp nghĩ ngơi thì một đơn vị lê dương lại đột kích, định bắt sống tiểu đội nữ. Chị em bình tĩnh nổ súng chống trả. Chị Võ Thị Lan, tiểu đội trương bị trúng đạn, gãy cánh tay, tự buộc lại rồi cùng chị em tiếp tục vừa chiến đấu vừa lui về căn cứ. Cuộc đột kích của quân lê dương thất bại. Trong quá trình chiến đấu ở Hóc Môn, Gò Vấp, tiểu đội nữ thuộc đại đội 2804 là đơn vị tiêu biểu cho lớp thanh niên đang nối tiếp truyền thống yêu nước, bất khuất của Mười Tám Thôn Vườn Trầu.


Trên chiến trường bắc, tây bắc Sài Gòn, bên cạnh vùng địch kiểm soát là vùng du kích rộng lớn, đan xen lõm căn cứ và vùng tự do trong thế tranh chấp. Đặc biệt căn cứ An Nhơn Tây, khoảng từ năm 1947 trớ đi là căn cứ của tỉnh Gia Định, có chợ rất sung túc. Cũng như ở các vùng tự do khác, chợ ở đây lưu hành đồng tiền kháng chiến (thường gọi là tiền Cụ Hồ). Giặc đánh giá “An Nhơn Tây còn là Sài Gòn mất”, nên tập trung càn quét, xuất phát từ các hướng Trảng Bàng, Củ Chi, Bến Cỏ, có tháng đánh gần chục lần. Trận nào chứng cũng gặp “nhà không vườn trống”, nhưng khi trở về thì bị đánh. Chi đội 12 trước kia, các đơn vị Trung đoàn 312 có mặt ở đây lập nhiều thành tích chống càn, tạo thế bám trụ. Quân dân ở các căn cứ trong khu vực ba xã Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng dựa lưng vào các xã Long Nguyên, Thanh Tuyền, An Thành, An Tây (huyện Bến Cát) nên mỗi khi giặc vào thì hoặc trụ lại trong rừng, hoặc sang sông (đến năm 1951, thế địch mạnh lên, chúng càn quét và đóng bót An Nhơn Tây, lực lượng ta mới bật sang sông).


Tháng 10 năm 1948, Bộ tư lệnh Nam Bộ được thành lập thay cho Ban quân sự Nam Bộ, Trung tướng Nguyễn Bình1 (Được phong hàm Trung tướng theo sắc lệnh số 115/SL ngày 25 tháng 1 năm 1948), Tư lệnh; đồng chí Phạm Ngọc Thuần, Chính ủy; đến tháng 6 năm 1949 đồng chí Dương Quốc Chính thay2 (Chức vụ của đồng chí Dương Quốc Chính viết theo Từ điển bách khoa quân sự Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996). Các bộ chỉ huy khu được đổi thành bộ tư lệnh khu. Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ được cử làm tư lệnh Khu 7, Nguyễn Văn Trí làm chính ủy. Nguyễn Văn Dung làm tư lệnh phó.


Tháng 8 năm 1948, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, tỉnh Gia Định và huyện Trảng Bàng (tỉnh Tây Ninh) được tách ra, thành lập Khu Sài Gòn - Chợ Lớn trực thuộc Bộ tư lệnh Nam Bộ. Đến tháng 4 năm 1949 tổ chức Khu Sài Gòn - Chợ Lớn tương đối hoàn chỉnh và có hiệu lực. Bộ tư lệnh đầu tiên của Khu Sài Gòn - Chợ Lớn gồm: Tô Ký, Tư lệnh; Phan Trọng Tuệ, Chính ủy; Huỳnh Văn Một, Phó tư lệnh. Đồng chí Nguyễn Văn Hâm thay đồng chí Tô Ký làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 312. Đồng chí Nguyễn Văn Bứa cũng được rút đi. Đồng chí Nguyễn Văn Bâu làm tham mưu trưởng.


Để tiếp tục hoàn chỉnh thế phối hợp nhịp nhàng hoạt động tác chiến trong và ngoài đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn, một mặt trận chung được thành lập, lấy tên là “Mặt trận quân sự thành Sài Gòn - Chợ Lớn”. Lực lượng mặt trận gồm 10 ban công tác thành ở nội đô và 4 tiểu đoàn tiếp cận xung quanh thành phố: một của Trung đoàn 306 ở Gò Vấp, một của Trung đoàn 312 ở Hóc Môn (tiểu đoàn 934), một của Trung đoàn 300 ở Cần Giuộc, một của Trung đoàn 306 ở Thủ Đức. Ban chỉ huy Mặt trận gồm: Nguyễn Văn Công, chỉ huy trưởng; Nguyễn Tứ Phương, chính trị viên.


Căn cứ của ban chỉ huy đặt bên cạnh căn cứ của Ủy ban kháng chiến - hành chánh thành Sài Gòn - Chợ Lớn, gần Thủ Thừa, bên bờ tả ngạn sông Vàm Cỏ Tây. Nhiệm vụ của ban chỉ huy là xây dựng kế hoạch tác chiến phối hợp trong và ngoài đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn rồi phân công các thành viên về các đơn vị phổ biến và tổ chức thực hiện. Đồng chí Nguyễn Văn Công về các trung đoàn 306, 312; đồng chí Nguyễn Tứ Phương về mười ban công tác thành.


Ở nội thành, để tăng cường khả năng chiến đấu, mười ban công tác được rút gọn về tổ chức, biên chế lại thành năm ban.

Ở ngoại thành, Khu cũng điều chỉnh lực lượng và phân công nhiệm vụ cho năm tiểu đoàn của các trung đoàn 300, 308, 306, 312 ở Nhà Bè, Cần Giuộc, Trung Huyên, Gò Vấp, Thủ Đức, Hóc Môn.

Các mặt quân giới, quân nhu, quân y, Trung đoàn 312 đã phát huy mạnh những cơ sở đã có từ Chi đội 12.

Xưởng quân giới tiếp tục phát triển cả về quy mô và kỹ thuật. Do được tăng cường trang bị hoặc tự chế, quy trình sản xuất của binh công xưởng được tổ chức lại theo dây chuyền, máy móc phần lớn thay cho sức người, chẳng hạn việc quay máy tiện bằng tay đã được thực hiện bằng sức thủy điện tự tạo, một sáng chế của Lâm Quang Son (con rể giám đốc Ngô Văn Năm). Xưởng tiếp tục cải tiến, hoàn thiện và sản xuất mới các loại vũ khí đòi hỏi kỹ thuật cao như súng cối, súng phóng đạn lõm, súng máy có nòng khương tuyến, sản xuất bazomin, bazoka, FT1, FT2, thủy lôi. Tuy nhiên, cùng tình trạng các xưởng của khu và các đơn vị lúc bấy giờ, xưởng Trung đoàn 312 vẫn rất khó khăn về tài chính, nguyên liệu, hóa chất. Thực tế trong chiến đấu, đạn “gốc” chỉ chiếm một số nhỏ, còn lại là đạn do xưởng “rờ-sạc”.


Về quân nhu, quân lương, Trung đoàn 312 tiếp tục tự mua, tự cấp một thời gian cho đến khi có chỉ thị của Xứ ủy xuống Tỉnh ủy Gia Định (...) mới bắt đầu có chế độ cung cấp, trực thuộc Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh tỉnh Gia Định. Mặc dù vậy, trước sau trung đoàn vẫn thực hiện phương châm tự lực, tự cường, tập trung vào vấn đề lương thực là chủ yếu. Các cơ sở làm kinh tế đều tiếp tục phát triền (trừ các hàng quán đã được đồng chí Tô Ký chỉ thị giải thể), đặc biệt là các cơ sở ruộng, rẫy từ bưng biền Đồng Tháp đến núi rừng Tây Ninh và Hóc Môn. Ngoài các bộ phận chuyên trách của trung đoàn, các đơn vị có điều kiện tăng gia tự túc đều phải khai thác triệt để. Đại đội 2806 ở căn cứ Chơn Bà Đen (căn cứ Dương Minh Châu sau này) có năm đốt cây làm rẫy đến 40 mẫu. Từ cán bộ đến chiến sĩ đều cầm dao, cầm cuốc khai hoang làm ra hạt gạo. Mồ hôi đổ, tay chai, rớm máu... mới có hạt gạo! Kết quả có lúc lúa gạo dồi dào, bắp khoai, bầu, bí... ăn không hết, một phần chế biến dự trữ. Ở Bàu Chanh, Trại Đèn anh em nuôi hàng trăm con gà. Có lúc trên giao trạm Trại Đèn của Chi đội 12 nuôi 12 tên “hàng binh” Au Phi với mức ăn cao hơn cả cán bộ, chiến sĩ Vệ quốc đoàn, chỉ trong một thời gian ngắn đàn gà Trại Đèn gần hết!


Có thể nói thời kỳ xây dựng Trung đoàn 312, bộ đội còn cực, nhưng không còn lo đói vì không có gạo. Súng đạn luôn phải thực hiện phương châm tiết kiệm, nhưng không còn phải quá dè sẻn như buổi đầu.

Các cơ sở quân y thời kỳ xây dựng trung đoàn đều phát triển về quy mô và trình độ bảo đảm với nhiệm vụ ngày càng phức tạp hơn. Ban quân y trung đoàn và các quân y xá đều có chính trị hiệp lý viên.

Dưỡng đường chuyển về Rừng Làng, xóm Trại, An Nhơn Tây đổi phiên hiệu là quân y xá 3 do Nguyên Anh Tường phụ trách, sau đổi thành quân y xá tiểu đoàn 934, do Trần Bửu Hên phụ trách, Lê Thị Ngà, chính trị hiệp lý viên và có thêm nhiều nhân viên.

Quân y xá 4 do Lê Trường Châu phụ trách, sau đối thành quân y xá tiểu đoàn 935 do Nguyễn Anh Tường phụ trách, Nguyễn Thị Phi Phụng làm chính trị hiệp lý viên và có thêm nhiều nhân viên.

Những năm 1948-1949, trung đoàn có một tổ bào chế do anh Bảy Ngà phụ trách, có các nhân viên A, Vĩnh... chuyên sản xuất, cung cấp nước dừa làm dịch truyền, pha chế thuốc tiêm quinacrin trị sốt rét, pha chế các loại thuốc thông thường: thuốc đỏ, thuốc tím, thuốc xanh, nước cất...


Tổ chức, nhiệm vụ, hoạt động các quân y xá đơn vị được nâng cao: dưới quân y xá trưởng, chính trị hiệp lý viên có bộ phận tiếp liệu, quan hệ với chính quyền địa phương về cơ sở vật chất, xây dựng lán trại cho thương, bệnh binh; có bộ phận nấu ăn, tải thương, liên lạc, số anh chị em chuyên môn chia làm ba tổ thay phiên nhau: tổ đi chợ, chăm sóc thương bệnh binh; tổ băng bó, rửa vết thương, giặt giũ băng, gạc; tổ tiêm thuốc cho thương, bệnh binh uống thuốc. Hàng đêm các tổ thay phiên nhau trực đúng giờ.


Về phẫu thuật (mổ, cưa, cắt) lúc đầu không có bác sĩ, chỉ có một y tá (ở thành ra) và một số cứu thương, phương tiện là dao mổ, kẹp, kéo, cưa thợ mộc và ê-te, cồn, i-ốt để khử trùng. Mặc dù vậy, nói chung các ca phẫu thuật vẫn an toàn, cứu được tính mạng cho thương, bệnh nhân. Điển hình như các trường hợp: Cưa bắp tay anh Phụ bị thương nát một phần cánh tay; cưa cổ tay anh Ba Hát, phía trong phần bàn tay bị nát; mổ cho một người dân ăn gùi bị kẹt nhiều hột trong ruột; mổ một ca sưng gan do lỵ a-míp; mổ cho một chị nông dân lấy thai chết trong bụng ra (do mụ vườn kéo đứt một cánh tay của thai lúc chị chuyển bụng)....


Với những cố gắng tận tình, anh chị em quân y xá đã được ban chỉ huy Trung đoàn 312 gửi giấy khen về thành tích những năm 1948 - 1949.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #27 vào lúc: 20 Tháng Tám, 2021, 07:24:18 pm »

Trung đoàn 312 có một định hướng căn cơ lâu dài về đào tạo cán bộ kế tiếp, trường thiếu sinh quân là một trong những chứng minh rõ nhất.

Cũng như các đơn vị khác trên chiến trường miền Đông, từ thời kỳ xây dựng chi đội cho đến sau khi thành lập trung đoàn, Chi đội 12, Trung đoàn 312 có một đội ngũ “chiến sĩ nhỏ”, gốc là những thiếu niên tự nguyện đầu quân, có trong danh sách biên chế, có số quân (chẳng hạn Cao Long Hỷ số 1431, Trương Văn Đa số 2125, Võ Hoàng Vân số 2128...), được giao các nhiệm vụ trinh sát, liên lạc ở các đại đội chiến đấu, các cơ quan chỉ huy, cơ quan quân báo chi đội, các đơn vị công tác thành... “Chiến sĩ nhỏ” thường rất dũng cảm, nhanh nhẹn, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, được khen thưởng, như các thiếu niên ở Ban công tác số 12 Nguyễn Thị Ky, Hồ Văn Xuân, Lê Văn Ê, Lê Văn Gáo, Nguyễn Văn Bé... Lê Văn Gáo là người đầu tiên ở Ban công tác số 12 lấy được súng giặc; Lê Văn Ê là người đã dùng thùng nước súp đổ lên mình Tây cướp súng Tây ngay trên xe,...


Khi đang làm chỉ huy trưởng Chi đội 12 kiêm chỉ huy trưởng liên quân B, đồng chí Tô Ký phát hiện riêng Chi đội 12 đã có trên 30 “chiến sĩ nhỏ”, có nhiều em ở các cánh liên quân B. Đồng chí đã bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề này: “Đây là việc đáng mừng mà cũng là việc đáng lo. Mừng vì các em tuy tuổi còn nhỏ, chữ nghĩa còn ít, nhưng biết yêu nước, theo lời kêu gọi của Cụ Hồ tòng quân diệt giặc... Còn lo là trong trận mạc, hòn tên mũi đạn thì các em làm sao tránh đổ máu, hy sinh”. Mừng và lo, đồng thời thấy đây là nguồn lực lâu dài, đồng chí nói tiếp: “Phải tập trung các em về một chỗ nào đó, lập trường cho học chữ, khó thì khó, ta phải đào tạo các em thành nhân tài giúp nước sau này”.


Thực hiện ý định này, ngày 10 tháng 6 năm 1948, Trung đoàn trưởng Tô Ký ký quyết định số 06/TĐ thành lập trường Thiếu sinh quân Trung đoàn 312.

Ngày 5 tháng 7 năm 1948 lớp học đầu tiên của trường Thiếu sinh quân Trung đoàn 312 khai mạc tại sở cao su ở ấp Hố Bò xã Phú Mỹ Hưng, huyện Hóc Môn tỉnh Gia Định với 32 học viên thiếu sinh quân gốc là 32 “chiến sĩ nhỏ” tuổi từ 10 đến 16, phần lớn mới biết đọc, biết viết. Với khẩu hiệu: “Một chữ cũng thầy, hai chữ cũng thầy, người biết chữ dạy người chưa biết chữ”, các thầy giáo là những chiến sĩ Vệ quốc đoàn của trung đoàn đang cầm súng hoặc công tác.


Ba đồng chí được trung đoàn giao nhiệm vụ phụ trách lớp học này:

Nguyễn Ngọc Đôn, chánh văn phòng Trung đoàn 312, làm trưởng ban quản trị lớp.

Nguyễn Thành Long, trưởng ban huấn luyện đồng thời là thầy dạy văn hóa.

Võ Thái Hòa, trưởng ban tác chiến trung đoàn phụ trách chung.

Các thầy giáo gồm: Nguyễn Tấn Hạng, Trương Thành Hỷ, Nguyễn Trường Lũy, Nguyễn Văn Dân, thầy Cao, thầy Na, cô giáo Lê Thị Mộng Thanh.

Hồ Thị Bi được giao nhiệm vụ phụ trách công tác đảm bảo (ăn, mặc, thuốc men, giấy mực, sách vở...). Nói chung cơ sở vật chất của trường rất thiếu thốn. Ban đầu mọi việc ăn học, ngủ, nghỉ đều trên nền đất. Học viên đồng phục quần ngắn vải xanh, áo thun trắng ba lỗ. Mỗi thiếu sinh quân được phát một chiếc nóp. Nhiều thiếu sinh quân tự trang bị thêm cho mình một thanh kiếm bằng gỗ để canh gác, tuần tra ban đêm.


Ngoài dạy văn hóa, trường còn huấn luyện quân sự, tổ chức thể thao, văn nghệ.

Tháng 8 năm 1948, sau một tháng khai giảng, số học viên thiếu sinh quân Trung đoàn 312 tăng từ 32 lên 42.

Trung đoàn 312 là một trong những đơn vị đầu tiên có sáng kiến và chủ trương đúng trong việc đào tạo mầm non đất nước, tổ chức trường lớp qui củ, tạo cơ sở phát triển sau này.

Thầy Long được cử ra trường tiểu học Gia Định nghiên cứu, thu thập tài liệu về ngữ pháp, văn phạm; cùng đi có trò Vân theo để phụ thầy ghi chép.

Trên chiến trường Nam Bộ lúc bây giờ, hầu hết các trung đoàn đều có trường thiếu sinh quân. Bộ tư lệnh Nam Bộ khuyến khích việc này. Để khích lệ, Trung tướng Tư lệnh Nam Bộ Nguyễn Bình cho mở trại Đồng tử quân Nam Bộ, thời gian một tháng, ở xã Đốc Binh Kiều (thuộc tỉnh Mỹ Tho) trên Đồng Tháp Mười.


Thiếu sinh quân Trung đoàn 312 - Trung đoàn 306 được vinh dự thay mặt thiếu sinh quân Khu 7 chọn 30 “chiến sĩ nhỏ” đi dự cắm trại Đồng tử quân Nam Bộ. Thầy Long, thầy Hỷ đại diện Trung đoàn 312, thầy Hinh đại diện Trung đoàn 306 được ban chỉ huy hai trung đoàn giao nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy đưa đoàn Thiếu sinh quân Khu 7 từ miền Đông xuống miền Trung Nam Bộ. Với cuộc hành trình hết sức gian truân, vất vả, qua bao làng mạc, sông ngòi, qua “cánh đồng chó ngáp” bắc Thủ Thừa... ba thầy giáo, đã hoàn thành nhiệm vụ đón các em học sinh thiếu sinh quân đi đến nơi về đến chốn an toàn.


Đầu năm 1949, trường thiếu sinh quân Trung đoàn 312 phát triển lên trên 120 học viên, chia thành ba lớp. Trường lớp đã khang trang hơn trước: học có bàn, ngủ có phản... Uy tín của trường ngày càng tăng, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn đưa con em đến xin được học, nhân dân nhiều xã cũng đưa con em đến xin được đầu quân và học. Tình hình đó đặt ra cho trường những khó khăn lớn về việc nuôi dưỡng, giảng dạy. Sau gần 2 năm, hơn 30 thiếu sinh quân lớn tuổi (lúc đầu từ 14 đến 16 tuổi) đã học từ tháng 7 tháng 8 năm 1948 đạt trình độ vàn hóa lớp nhì “cứng”, nhưng non lớp nhất (tương đương lớp cuối cấp 1 ngày nay), nhưng trường lại không có tài liệu để hoàn chỉnh chương trình lớp nhất. Trung đoàn vẫn quyết định tìm mọi cách dạy các em học thêm cho trọn cấp. Bằng sự hiểu biết của các thầy cô, đồng thời cho người đi sưu tầm tài liệu, nhà trường quyết tâm thực hiện.


Cuối cùng trường thiếu sinh quân đã tổ chức thi cấp bằng “Tương đương sơ cấp tiểu học”. Văn bằng do Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Hâm và chính trị viên Ngô Thanh Khiết ký ngày 31 tháng 3 năm 1949. Ngày 2 tháng 4 năm 1949, đồng chí Tô Ký với cương vị Tư lệnh Khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Quân đội quốc gia Việt Nam, ký xác nhận. Học viên sau khi nhận bằng trở về cơ quan, đơn vị công tác và chiến đấu.


Trường thiếu sinh quân Trung đoàn 312 tiếp tục tồn tại và phát triển sau khi thành lập Liên trung đoàn 306 - 312 (và cho đầu năm 1950 được lệnh di chuyển xuống miền Tây Nam Bộ để tiếp tục dạy và học trong điều kiện thuận lợi, an toàn hơn).


Trường thiếu sinh quân Trung đoàn 312 trở thành một trong những biểu tượng không chỉ về tình cảm, sự quan tâm mà còn là quan điểm căn cơ lâu dài trong xây dựng đội ngũ kế tiếp của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy lực lượng võ trang thế hệ những năm đầu cuộc kháng chiến ba mươi năm.


Năm 1949, địch tập trung nỗ lực bình định Nam Bộ1 (Theo chủ trương củ Cao ủy Pignon, được xác định tại hội nghị phòng vệ Đông Dương ngày 4 tháng 2 năm 1947 tại Sài Gòn) bằng biện pháp chiến thuật De Latour2 (De Latour des Moulins thay Nyo làm tư lệnh quân viễn chinh ở Nam Đông Dương từ tháng 4 năm 1947. Viên tướng này chủ trương thực hiện chiến lược "siết chặt" và "vết dầu loang" để bình định Nam Bộ. Nội dung của chiến thuật này là: xây dựng các đồn, tháp canh dày đặc theo các trục giao thông, các điểm hiểm yếu, gọi là chiến thuật "đường và điểm" hay "chiến thuật mạng nhện"). Thực hiện chiến thuật này, trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định - Tây Ninh, trước khi rút bớt quân ra Bắc, tổng quân số địch lên tới 46.000 tên, số đồn bót, tháp canh lên tới 707 (toàn Nam Bộ 3.972 chiếc).


Về nhiệm vụ quân sự năm 1949, Hội nghị quân sự mở rộng Nam Bộ (3-1-1949) xác định nhiệm vụ ra sức phát triển lực lượng và phong trào chiến tranh du kích... về bộ đội tập trung, cần “chấn chỉnh, rèn luyện quân đội, cấp bách xây dựng chủ lực để đáp ứng với yêu cầu tác chiến mới”.


Tiếp theo cuộc vận động “luyện quân đội, lập chiến công” (gọi tắt là cuộc vận động “luyện quân lập công”) đã được đề ra từ tháng 12 năm 1947, đến cuộc vận động “rèn luyện cán bộ, chấn chỉnh quân đội” (gọi tắt là “rèn cán chỉnh quân”) theo nghị quyết Hội nghị cán bộ quân sự toàn quốc tháng 8 năm 1948, Nghị quyết Hội nghị quân sự mở rộng Nam Bộ tháng 9 năm 1949 lần nữa đặt mạnh việc rèn luyện quân đội, rèn luyện cán bộ, chấn chỉnh quân đội để nâng cao chất lượng lực lượng võ trang về mọi mặt, kể cả quy mô tổ chức để bắt kịp tình hình nhiệm vụ. Suốt những năm 1948, 1949 và cả về sau, bên cạnh nhiệm vụ quân sự, đó là nhiệm vụ lớn trong hoạt động của các đơn vị tập trung trong đó có Chi đội 12, Trung đoàn 312. Nội dung tập trung vào mục tiêu thống nhất tư tưởng trong quân đội trước nhiệm vụ tích cực chuẩn bị tổng phản công, nâng cao trình độ tổ chức, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, năng lực chỉ huy, nền nếp kỷ luật.


Những yêu cầu về tình hình nhiệm vụ nói trên và những bước đã triển khai đang tiến đến một trong những quyết định quan trọng về quân sự ở Nam Bộ là tiếp tục nâng cấp lực lượng võ trang tập trung và xây dựng những đơn vị chủ lực, trên cơ sở các trung đoàn hiện có, thành lập các liên trung đoàn. Trung đoàn 312 cùng với Trung đoàn 306 hợp nhất lại thành liên trung đoàn 306-312.


Nhìn lại từ ngày thành lập Trung đoàn 312, cùng với việc giải quyết một cách cơ bản để cách mạng hóa những bộ phận Bình Xuyên (chủ yếu là Chi đội 9 của Lê Văn Viễn) còn bị gián điệp Pháp lũng đoạn, việc củng cố và phát triển tổ chức các đơn vị võ trang tập trung trên chiến trường miền Đông (cũng như trên toàn Nam Bộ) đã đánh dấu bước hoàn chỉnh quá trình thống nhất lực lượng võ trang trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Đây cũng là giai đoạn phát triển cao nhất của Trung đoàn 312 với tư cách là một tổ chức đơn vị độc lập. Trong năm 1948 và những tháng đầu năm 1949, với quy mô tổ chức mới về lực lượng võ trang tập trung, cùng với các đơn vị võ trang khác, Trung đoàn 312 đã đẩy mạnh các hoạt động chiến đấu và công tác, góp phần giữ được thế chiến trường du kích, đồng thời hoạt động mạnh vào hậu phương địch, gây cơ sở vùng địch hậu, bóp hẹp sự kiểm soát của địch, phá hoại kinh tế địch (đặc biệt là cao su), cắt đứt nhiều tuyến giao thông quan trọng, bảo vệ hành lang kháng chiến, về cơ bản bảo vệ được khu giải phóng, căn cứ địa, mùa màng, dự trữ của ta, mở rộng hoạt động sang chiến trường Cao Miên và thực hiện có hiệu quả công tác Cao Đài vận.
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Tám, 2021, 07:29:35 pm gửi bởi quansuvn » Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #28 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2021, 08:43:58 pm »

PHỤ LỤC


DANH SÁCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, CHỈ HUY GIẢI PHÓNG QUÂN
LIÊN QUẬN HÓC MÔN - BÀ ĐIỂM - ĐỨC HÒA,
CHI ĐỘI 12, TRUNG ĐOÀN 312


I- GIẢI PHÓNG QUÂN HÓC MÔN - BÀ ĐIỂM - ĐỨC HÒA (1-11-1945 -3-1946):

1- TÔ KÝ - Chỉ huy trưởng.
2- HOÀNG DƯ KHƯƠNG - Xứ ủy viên phụ trách - Ủy viên chính trị.
3- TRẦN VĂN TRÀ - Chính trị ủy viên (thay Hoàng Dư Khương).
4- HOÀNG TẾ THẾ - Ủy viên chính trị.
5- HUỲNH TẤN CHÙA - Ủy viên quân sự.
6- HUỲNH VĂN MỘT - Ủy viên quân sự.
7- CAO ĐỨC LUỐC - Ủy viên phụ trách vũ khí.


II- CHI ĐỘI 12 (3-1946 -3-1948):

A- Ban chỉ huy chi đội:

1- TÔ KÝ - Chi đội trưởng.

2- HUỲNH TẤN CHÙA - Chi đội phó.

3- HOÀNG TẾ THẾ - Chính trị ủy vièn (chính ủy).


B - Các đại đội

1- Đại đội 1:
1- NGUYỄN BÁ BỘI - Đại đội trưởng.
2- NGUYỄN VĂN TẶNG - Đại đội trưởng.
3- PHẠM BÁ TƯỜNG - Chính trị viên.
4- TRƯƠNG VĂN BA - Đại đội phó.

2- Đại đội 2:
1- NGUYỄN VĂN BÚA - Đại đội trưởng.
2- NGUYỀN HỒNG ĐÀO - Chính trị viên.

3- Đại đội 3:
1- NGUYỄN VĂN BÂU - Đại đội trưởng.
2. LÂM THÀNH HỔ - Đại đội phó.
3- NGUYỄN VĂN VOI - Đại đội phó.

C- Các đơn vị độc lập:

1- Đơn vị số 1:
1- NGUYỄN THƯỢC - Chỉ huy trưởng
2- LÊ VĂN DỌN - Chỉ huy phó.

2- Đơn vị số 2:
1- HỒ THỊ BI - Chỉ huy trưởng.
2- ĐÀO QUANG XÊ - Chính trị viên.
3- HUỲNH VĂN CHỖ - Chỉ huy phó.

3- Đơn vị số 3:
1- NGUYỄN MINH SANH - Chỉ huy trưởng.
2- GIÁO RÕ - Chỉ huy trưởng.

D- Cơ quan và đơn vị trực thuộc:
1- NGUYỄN THANH TÙNG - Trưởng ban tình báo
2- NGUYỄN HỮU ĐANG - Trưởng ban chính trị.
3- NGUYỄN VĂN NGHÉ - Phụ trách ban quân giới.
4- ĐÀO VĂN PHÁT - Trưởng ban liên lạc.
5- HUỲNH VĂN SAI - Trưởng ban quân trang.
6- TRẦN VĂN ĐẢO - Trưởng ban tài chính.
7- PHAN VĂN NGÓI - Trưởng ban quân lương tiếp liệu.
8- TRẦN VĂN SÁNG - Trưởng ban quân y.
9- VÕ VĂN HOA - Trưởng ban kinh tế tự túc 1.
10- HỒ THỊ BI - Trưởng ban kinh tế tự túc 2.
11- HOÀNG ĐỨC TƯỜNG - Trưởng ban kinh tế tự túc 10.
12- NGUYỄN VĂN HÂM - Trưởng ban công tác số 3 (công tác thành).
13- HỒ THỊ BI - Trưởng ban công tác số 12 (công tác thành).
14- NGÔ VĂN NĂM - Trưởng ban quân giới kiêm quản đốc binh công xưởng
15- NGUYỄN ẢNH TƯỜNG - Trưởng quân y xá 3.
16- NGUYỄN BÁ KHẢM - Chánh văn phòng chi đội.


III. - TRUNG ĐOÀN 312 (Từ tháng 3 năm 1948 đến tháng 11-1949):

A - Ban chỉ huy trung đoàn
1- TÔ KÝ - Trung đoàn trưởng.
2- NGÔ THANH KHIẾT - Chính trị viên.
3- NGUYỄN VĂN BỨA - Trung đoàn phó.
4- NGUYỄN VĂN HÂM - Trung đoàn phó, Trung đoàn trưởng.

B - Ban chỉ huy các tiểu đoàn.

1- Tiểu đoàn 934:
1- NGUYỄN VĂN BÂU - Tiểu đoàn trưởng.
2- NGUYỄN HỒNG ĐÀO - Chính trị viên.
3- NGUYỄN VĂN TẶNG - Tiểu đoàn phó.

2- Tiểu đoàn 935:
1- NGUYỄN VĂN THƯỢC - Tiểu đoàn trưởng.
2- NGUYỄN HỮU ĐANG - Chính trị viên.
3- NGUYỄN MINH SANH - Tiếu đoàn phó.
4- HỒ THỊ BI - Tiêu đoàn phó.

3- Tiểu đoàn 936 (thiếu, ở Tây Ninh):
1- NGUYỄN BÁ BỘI - Tiểu đoàn trưởng.
2- NGUYỄN VĂN BÀNG, - Chính trị viên.
      HUỲNH VĂN SAI - Chính trị viên.

C- Các cơ quan và đơn vị trực thuộc:
1- NGUYỄN NGỌC ĐÔN - Chánh văn phòng, Hiệu trưởng trường Thiếu sinh quân.
2- NGUYỄN VĂN BÚA - Trưởng ban tham mưu.
3- NGUYỄN TƯỜNG TRANG,
             PHẠM BÁ TƯỜNG - Trưởng ban chính trị.
4- NGUYỄN BÁ KHÂM - Trưởng ban quân nhu.
5- PHẠM ĐĂNG LÂM - Trưởng ban tài chính.
6- NGUYỄN THANH TÙNG - Trưởng ban tình báo.
7- NGUYỄN VĂN NGHÉ - Phụ trách ban quân giới.
8- ĐÀO VĂN PHÁT - Trưởng ban liên lạc.
9- TRẦN VĂN SÁNG - Trưởng ban quân y.
10- VÕ VĂN HOA - Trưởng ban Kinh tế tự túc 1.
11- HỒ THỊ BI - Trưởng ban Công tác số 12 kiêm trưởng ban Kinh tế tự túc 2.
12- NGÔ VĂN NĂM - Trưởng ban quân giới, kiêm quản đốc binh công xưởng.
13- NGUYỄN ẢNH TƯỜNG,
     TRẦN BỬU HÊN - Trưởng Quản y xá 3, trưởng quân y xá tiểu đoàn 934.
14- LÊ TRƯỜNG CHÂU,
      NGUYỄN ẢNH TƯỜNG - Trưởng quân y xá 4, trưởng quân y xá tiểu đoàn 935.
15- VÕ THÁI HÒA - Hiệu trưởng Trường quân chính.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #29 vào lúc: 27 Tháng Tám, 2021, 08:49:05 pm »

DANH SÁCH MỘT SỐ ĐỒNG CHÍ TIÊU BlỂU TRƯỞNG THÀNH
TỪ GIẢI PHÓNG QUÂN, CHI ĐỘI 12, TRUNG ĐOÀN 312


Tính đến tháng 12 năm 2000, mới chỉ lập được danh sách gồm 600 cán bộ chiến sĩ thuộc Giải phóng quân Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, Chi đội 12, Trung đoàn 312. Trong số 600 đồng chí đó có:
- 83 liệt sĩ.
- 26 đồng chỉ là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 đến trước năm 1945.
- 5 đồng chí được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động.
- 3 đồng chí được bầu là ủY viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
- 9 đồng chí được phong quân hàm sĩ quan cấp tướng.
- 34 đồng chí được phong quân hàm sĩ quan cấp đại tá và thượng tá.
- 10 đồng chí được giao chức vụ tư lệnh, chính ủy, phó tư lệnh cấp quân khu.
- 56 đồng chí được đào tạo qua các trường đại học, sau dại học, nhà văn, nhà báo, các đồng chí được giao nhiệm vụ giám đốc, cục, vụ, tổng cục, tổng giám đốc, thứ trưởng và tương đương.


1. CÁN Bộ CHIẾN SĨ THUỘC GIẢI PHÓNG QUẦN, CHI ĐỘI 12, TRUNG ĐOÀN 312 LÀ LIỆT SĨ:
1- HUỲNH TẤN CHÙA.
2- NGUYỄN VĂN HÂM.
3- NGÔ THANH KHIẾT.
4- NGUYỄN HỒNG ĐÀO.
5- NGUYỄN BÁ BỘI.
6- NGUYỄN VĂN CƯNG.
7- NGUYỄN VĂN LIÊM.
8- NGUYỄN HỮU THẠNH.
9- TRẦN BỬU HÊN.
10- ĐÀO QƯANG XÊ.
11- NGUYỄN ĐỨC PHƯỚC.
12- NGUYỄN VĂN ĐÚNG.
13- NGUYỄN VĂN TẶNG.
14- CAO TẤN PHAN.
15- VƯƠNG TRUNG SINH.
16- HỒ VĂN XUÂN.
17- NGUYỄN THÀNH KHUÔN.
18- NGUYỀN VĂN BÉ.
19- NGUYỄN VĂN ĐẠN.
20- NGUYỄN VĂN NHƯNG.
21- ĐỒNG CHÍ HIỂN.
22- ĐỒNG CHÍ NÔ.
23- ĐỒNG CHÍ CẢI.
24- ĐỒNG CHÍ TIỀU.
25- ĐỒNG CHÍ PHU.
26- PHẠM THỊ QUÝ.
27- LẠI VĂN THUẬN.
28- ĐỖ BÁ THÔNG.
29- PHAN THÀNH CHUNG.
30- LÊ VĂN CHỖ.
31- NGUYỄN VĂN SÁNG
32- LÊ VĂN GÁO.
33- LÊ THÀNH Ê.
34- ĐỒNG CHÍ LY.
35- NGUYỄN VĂN QUÝT.
36- LÊ VĂN VƯỜNG (CHỪNG).
37- HÀ VĂN THANH.
38- LÊ VĂN XƯỜNG.
39- NGUYỄN HỮU CÓ (XẾNH).
40- NGUYỄN THỊ KY.
41- LÊ THỊ KIM ANH.
42- HỒ THANH MÀNH.
43- TRẦN NGHĨA SỸ.
44- ĐỒNG CHÍ KIỂU.
45- ĐỒNG CHÍ ĐỒNG.
46- NGUYỄN VĂN TỐT.
47- TRẦN VĂN SẮT.
48- TRỊNH ĐÌNH BỐC.
49- NGUYỄN VĂN BAY.
50- BÙI VĂN LÙ.
51- ĐỒNG CHÍ BE.
52- PHAN VĂN LƯỢNG.
53- TRƯƠNG VĂN TRINH.
54- ĐỒNG CHÍ HƯỞNG.
55- PHẠM VĂN KHEN.
56- LÂM XUYÊN.
57- HUỲNH VĂN XƯỚNG.
58- GIÁP VĂN HA.
59- LÊ NGỌC NHÂN.
60- ĐỒNG CHÍ NGƯƠN.
61- TRƯƠNG VĂN NGÀN.
62- ĐỒNG CHÍ THIÊN.
63- ĐỒNG CHÍ NHIỀU.
64- HỒ VĂN TIỆN.
65- HOÀNG ĐẠI NAM.
66- ĐỖ CHÍ NHIỀU.
67- HỒ VĂN TIÊN.
68- NGUYỄN VĂN HƯƠNG.
69- NGUYỄN VĂN HỚN.
70- ĐỒNG CHÍ THÔNG.
71- TẠ THỊ RỒI.
72- NGHIÊM XUÂN KHUÊ.
73- LÊ LAI.
74- TRẦN VĂN CHÓI.
75- ĐỒNG CHÍ ĐÃI.
76- ĐỒNG CHÍ NHỚ.
77- ĐỒNG CHÍ HẠ.
78- ĐỒNG CHÍ GIÁM.
79- ĐỒNG CHÍ TÙNG.
80- LÊ MINH TIỀU.
81- LÊ VĂN GIÀU.
82- ĐỒNG CHÍ PHƯƠNG (PHÉP).
83- ĐỒNG CHÍ SINH.

2. CÁC ĐỒNG CHÍ LÀ ĐẢNG VIÊN TỪ NĂM 1930 ĐẾN TRƯỚC NĂM 1945:
1- HOÀNG DƯ KHƯƠNG vào Đảng năm 1930.
2- TÔ KÝ vào Đảng năm 1937.
3- TRẦN VĂN TRÀ vào Đảng năm 1938.
4- HUỲNH TẤN CHÙA vào Đảng năm 1936.
5- HUỲNH VĂN MỘT vào Đảng năm.
6- CAO ĐÚC LUỐC vào Đảng năm 1936.
7- HOÀNG TẾ THẾ vào Đảng năm 1930.
8- PHAN VĂN VOI vào Đảng năm ...
9- LÊ BÌNH ĐẮNG vào Đảng năm 1940.
10- NGUYỄN VĂN HÂM vào Đảng năm 1940
11- NGUYỄN THƯỢC vào Đảng năm 1936.
12- NGUYỀN HỒNG ĐÀO vào Đảng năm 1936.
13- NGUYỄN BÁ BỘI vào Đảng năm ...
14- NGUYỄN HỮU ĐANG vào Đảng năm 1930.
15- VÕ VĂN HOA vào Đảng năm 1939.
16- HỒ THỊ BI vào Đảng năm 1936.
17- NGUYỄN VĂN BÂU vào Đảng năm 1936.
18- NGUYỄN MINH SANH vào Đảng năm ...
19- LÝ CỦA vào Đảng năm ...   
20- ĐỨC SƠN vào Đảng năm
21- NGÔ THANH KHIẾT vào Đảng năm 1930.
22- TRƯƠNG THỊ MỪNG vào Đảng năm 1936.
23- NGUYỄN THỊ SAO vào Đảng năm 1930.
24- NGUYỄN VĂN MƯỜI (Mười Đói)vào Đảng năm 1930.
25- VÕ VĂN THỜI vào Đảng năm 1940.
26- NGUYỄN VĂN MỨC vào Đảng năm 1940.

3. CÁC ĐỒNG CHÍ ĐƯỢC BẦU VÀO BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG:
1- TRẦN VĂN TRÀ.
2- NGUYỄN THỚI BƯNG (Út Thới).
3- BÙI THANH VÂN (Út Liêm).

4. CÁC ĐỒNG CHÍ ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN, ANH HÙNG LAO ĐỘNG:
1- PHAN VĂN RI.
2- BÙI VĂN BA.
3- LÊ   VĂN THỌ (Núi).
4- HỒ THỊ BI.
5- NGÔ VĂN NĂM.

5. CÁC ĐỒNG CHÍ ĐƯỢC PHONG QUÂN HÀM SĨ QUAN CẤP TƯỚNG:
1- TRẦN VĂN TRÀ - Thượng tướng.
2- NGUYỄN THỚI BƯNG (Út Thới) - Trung tướng.
3- BÙI THANH VÂN (Út Liêm) - Trung tướng.
4- LÊ THANH - Trung tướng.
5- TÔ KÝ - Thiếu tướng.
6- VÕ VĂN THỜI - Thiếu tướng.
7- NGUYỄN VĂN BỨA (Hồng Lâm) - Thiếu tướng.
8- NGUYỄN VĂN ĐIỆP (Hai Dương)- Thiếu tướng.
9- CAO LONG HỶ - Thiếu tướng.

6. CÁC ĐỒNG CHÍ ĐƯỢC GIAO CHỨC VỤ TƯ LỆNH, PHÓ TƯ LỆNH VÀ CHÍNH ỦY CẤP QUÂN KHU:
1- TRẦN VĂN TRÀ.
2- TÔ KÝ.
3- HOÀNG DƯ KHƯƠNG.
4- HUỲNH VĂN MỘT.
5- NGUYỄN THƯỢC.
6- NGUYỄN THỚI BƯNG.
7- BÙI THANH VÂN.
8- NGUYỄN VĂN BÚA.
9- LÊ   THANH.
10- NGUYỄN HỒNG ĐÀO.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM