Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 04:59:04 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tổng kết Lịch sử đấu tranh chống gián điệp 1945-2005  (Đọc 9189 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #50 vào lúc: 01 Tháng Giêng, 2022, 07:47:09 pm »

Khi Hiệp định Giơnevơ ký kết, Pháp đã huấn luyện hàng ngàn tên biệt kích hỗn hợp nhảy dù (GCMA) cài lại các tỉnh miền núi của ta hòng làm lực lượng nòng cốt cho các tổ chức phỉ, kích động nổi phỉ ở hầu khắp các tỉnh Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc. Chúng cài tay chân vào bọn phản động lợi dụng tôn giáo do Lương Huy Hân cầm đầu tại Nam Định, cài điệp viên vào các đoàn hội Thiên Chúa giáo ở Nhà thờ Nam Đồng, Nhà thờ Lớn Hà Nội, Nhà thờ xứ Đoài ở Nghệ An; kích động bọn phản động gây bạo loạn chống chính sách mới của Nhà nước; sử dụng bọn cầm đầu đảng Đại Việt tuyển mộ tay chân đưa ra nước ngoài đào tạo gián điệp để đánh trở lại; móc nối với các tổ chức phản động ở Nam Định, Ninh Bình, Hoà Bình,... vừa hoạt động tình báo vừa xây dựng lực lượng ngầm hòng thực hiện âm mưu bạo loạn khi có thời cơ. Với tinh thần thận trọng, kiên quyết và bền bỉ, từ năm 1954 đến năm 1960, lực lượng An ninh phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân và các lực lượng chức năng khác tiến hành trấn áp hàng chục tổ chức phỉ ở các tỉnh miền núi, bắt và diệt hàng trăm tên gián điệp nằm trong các tổ chức phỉ. Chỉ tính riêng ở Đồng Văn, khi trấn áp tổ chức phỉ do Vương Chí Thành cầm đầu, cơ quan An ninh đã bắt hơn 20 tên gián điệp là lực lượng nòng cốt của tổ chức phỉ. Đồng thời với trấn áp các tổ chức phỉ, lực lượng An ninh tiến hành trấn áp các tổ chức phản động là tàn dư của ngụy quân, ngụy quyền; tham mưu cho các cấp chính quyền tiến hành khoanh vùng trấn phản ở các vùng xung yếu. Đến năm 1960, đã căn bản kết thúc công tác khoanh vùng trấn phản và trấn áp các tổ chức phản động là tàn dư của ngụy quân, ngụy quyền. Trong quá trình trấn áp các tổ chức phản động, phát hiện được hàng trăm tên là điệp viên được cơ quan tình báo Pháp và Mỹ cài lại, nằm trong các tổ chức phản động cùng hàng trăm tên phản động đã nhận làm việc cho gián điệp, nằm chò bọn gián điệp móc nối.


Kết hợp với công tác chống phản động, từ năm 1954 đến năm 1965, lực lượng An ninh tập trung bóc gỡ toàn bộ mạng lưới gián điệp do Pháp, Mỹ và một số nước khác cài lại như các chuyên án gián điệp TN25, M1, C30, H07, GM65,... Hầu hết các chuyên án gián điệp khám phá ở giai đoạn này đều được bắt nguồn từ tin tức khi khám phá các tổ chức phản động hoặc quá trình điều tra các chuyên án gián điệp lại giúp ta phát hiện ra các nhen nhóm phản động. Trong chuyên án C30, lực lượng An ninh nắm số phản động trong Đại Việt, từ đó chuẩn bị chiến trường đón đợi bọn gián điệp được huấn luyện ở nước ngoài trở về móc nối, tạo điều kiện để Vụ Bảo vệ chính trị mở chiến dịch phản gián giành thắng lợi hoàn hảo. Trong chuyên án GM65, khi phá tổ chức phản động ở Phú Thọ, phát hiện đối tượng của tổ chức phản động đồng thời là điệp viên, giúp ta lập chuyên án gián điệp và đấu tranh thành công. Khám phá tổ chức phản động do Lương Huy Hân cầm đầu, ta thu được máy liên lạc VTĐ cùng một số phương tiện, tài liệu do cơ quan tình báo Mỹ cung cấp làm phương tiện hoạt động. Khi ta trấn áp tổ chức phản động do Nguyễn Viết Khai cầm đầu, Khai đã chạy trốn và được tàu chiến đợi sẵn ở cửa Ba Làng đón y chạy vào Nam... Đặc biệt là trong nhiều năm, lực lượng An ninh đấu tranh với đối tượng X70 và X77 đều phát hiện cơ quan đặc biệt của đối phương tận dụng triệt để quy luật trên, chúng không chỉ móc nối với số đối tượng có tư tưởng chống đối, bất mãn mà còn nhằm vào số cán bộ cao cấp có quan điểm sai trái hoặc bị kỷ luật, sử dụng số này để thu tin tình báo và phá hoại nội bộ ta với tham vọng tiến hành các cuộc đảo chính trên nghị trường.


Ở miền Nam, từ sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam đến năm 1985, tàn dư của ngụy quân, ngụy quyền và đảng phái chính trị phản động đã tập hợp, nhen nhóm tới 1.182 tổ chức phản động, manh động chống chính quyền. Trong quá trình điều tra và trấn áp các tổ chức phản động, lực lượng An ninh phát hiện hầu hết các tổ chức này đều có bàn tay của nhân viên tình báo đối phương ngụy trang dưới dạng “kẹt lại” hoặc cài lại chỉ đạo. Nhiều tổ chức phản động do nhân viên CIA trực tiếp tham gia và giữ vai trò chủ chốt. Do đó, lực lượng An ninh các tỉnh phía Nam đã triển khai đồng bộ công tác trấn áp các tổ chức phản động với tiến hành trục xuất số gián điệp đã tạo vỏ bọc, núp trong các tổ chức phi chính phủ hoặc tôn giáo; đồng thời tiến hành bóc gỡ mạng lưới gián điệp cài lại. Do chủ động kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chống phản động với đấu tranh chống gián điệp nên sau 10 năm đất nước thống nhất, lực lượng An ninh đã giải quyết căn bản các tổ chức phản động hoạt động manh động; đẩy đuổi hơn 100 điệp viên người nước ngoài khoác áo linh mục “kẹt lại”; bóc gỡ hàng trăm đầu mối nội gián, hàng chục ổ nhóm gián điệp cài lại; phá vỡ thế câu kết của chúng, đảm bảo an ninh chính trị ổn định trong bối cảnh đất nước ta đang gặp rất nhiều khó khăn.


Một trong những công tác được kết hợp nhuần nhuyễn và đạt kết quả mang tầm chiến lược là sau khi kết thúc chiến tranh, để chủ động chuẩn bị thế trận chống gián điệp, ta không chỉ trấn áp các tổ chức phản động hiện hành, tàn dư của chế độ cũ mà còn chú trọng công tác làm trong sạch địa bàn, loại trừ cơ sở bọn gián điệp có thể móc nối. Công tác này được thể hiện qua 3 mặt chính là: tổ chức trình diện, học tập cải tạo; khoanh vùng trấn phản; cải tạo tại chỗ và tập trung cải tạo đối với các phần tử nguy hại cho an ninh xã hội. Thực hiện đúng thời điểm và thực hiện tốt 3 mặt công tác cơ bản này không chỉ có giá trị loại trừ căn bản cơ sở xã hội của bọn gián điệp mà còn có ý nghĩa to lớn trên lĩnh vực cải tạo xã hội sau khi chiến tranh đã kết thúc. Thực tiễn thời kỳ lịch sử sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 có hiệu lực và sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nước ta hết sức phức tạp. Khắc phục hậu quả sau chiến tranh, cải tạo xã hội cũ để kiến tạo xã hội mới là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Trong đó, đấu tranh chống phản cách mạng, xoá bỏ hệ tư tưởng của xã hội cũ là nội dung công tác cơ bản nhất. Thông qua các cấp chính quyền, các đoàn thể quần chúng, Đảng huy động toàn xã hội tham gia với lực lượng nòng cốt làm tham mưu cho Đảng và trực tiếp thực hiện là Công an nhân dân nói chung, An ninh nhân dân nói riêng. Những mặt công tác trên được tiến hành liên tục nhiều năm, kết hợp giữa tài liệu điều tra của cơ quan chuyên môn với vận động quần chúng tham gia tố giác tội phạm nên ta không chỉ loại trừ căn bản cơ sở xã hội kẻ địch có thể móc nối mà còn nâng cao đáng kể nhận thức về chính trị và tinh thần cảnh giác cách mạng của quảng đại quần chúng nhân dân. Đây là một trong những mặt công tác mang tầm chiến lược, giữ vị trí hết sức quan trọng, không chỉ chặt đứt sự câu móc của gián điệp với phản động mà còn là nhân tố tích cực góp phần xây dựng nền tảng của xã hội mới, xây dựng nền an ninh nhân dân vững chắc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #51 vào lúc: 02 Tháng Giêng, 2022, 06:03:21 pm »

Từ năm 1980 đến nay, bọn phản động quốc tế và các thế lực thù địch càng tận dụng triệt để và đa dạng hoá quy luật trên bằng việc thực hiện chiến lược “trong nổi dậy ngoài đánh vào” và “diễn biến hoà bình” hòng thực hiện dã tâm xoá bỏ tư tưởng cộng sản, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ năm 1980 đến năm 1989, bọn phản động quốc tế chỉ đạo và tài trợ cho các tổ chức phản động người Việt lưu vong, biến chúng thành những tên lính xung kích, bí mật xâm nhập về nước cùng với hàng trăm tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh để xây dựng mật cứ trong rừng. Từ đây bọn gián điệp biệt kích móc nối, liên kết với các tổ chức phản động trong nội địa, tổ chức huấn luyện, trang bị vũ khí cho chúng để bạo loạn cướp chính quyền. Từ năm 1981 đến năm 1989, lực lượng An ninh đã đấu tranh các chuyên án gián điệp biệt kích lớn, xâm nhập về nước do: Võ Đại Tôn, Lê Quốc Tuý, Hoàng Cơ Minh, Trần Quang Đô, Đặng Văn Thanh cầm đầu, bắt và diệt gần 600 tên, thu hàng trăm tấn vũ khí và các loại phương tiện chiến tranh. Trong quá trình triển khai các kế hoạch đấu tranh, ta đã làm rõ âm mưu, sự liên kết của chúng với các tổ chức phản động trong nước: Võ Đại Tôn hoạch định kế hoạch bạo loạn gồm 5 giai đoạn với “mật kế Z”, âm mưu hợp lực với các tổ chức phản động ở miền Trung để phát triển ra toàn quốc. Hoàng Cơ Minh, Trần Quang Đô thực hiện các cuộc hành quân “Đông tiến” hòng chiếm vùng Tây Nguyên và một phần địa bàn Trung Trung Bộ, xây dựng căn cứ kháng chiến quân, sử dụng lực lượng gián điệp biệt kích làm nòng cốt cho các tổ chức phản động trên địa bàn này để phát triển lực lượng gây bạo loạn. Tổ chức tình báo gián điệp do Lê Quốc Tuý, Mai Văn Hạnh cầm đầu đã móc nối, thoả thuận với các tổ chức phản động trong nội địa trước khi chúng công khai thành lập tổ chức tại Pháp. Tuý còn sử dụng tổ chức gián điệp cài lại do Huỳnh Vĩnh Sanh cầm đầu cùng một số đầu mối gián điệp cài lại, móc nối với các tổ chức phản động ở miền Trung và thành phố Hồ Chí Minh, thâm nhập vào lực lượng vũ trang Quân khu V, dụ dỗ số cán bộ thoái hoá biến chất tham gia tổ chức. “Tương kế tựu kế’, lực lượng An ninh khéo tác động, làm cho các tổ chức phản động trong nội địa, các đầu mối gián điệp phải bộc lộ để trấn áp. Trong 3 năm đầu triển khai KHCM12, lực lượng An ninh lần lượt trấn áp 10 tổ chức phản động đã móc nối với CM12, bắt và gọi hàng gần 10.000 tên; có tổ chức đã hình thành bộ khung chính quyền ở 17 tỉnh thành phố phía Nam; có tổ chức gồm hầu hết là bọn ngụy quàn, ngụy quyền hết sức manh động.


Có thể khẳng định công tác đấu tranh chống gián điệp ở giai đoạn này đă kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống phản động và thu được những thắng lợi to lớn; là hệ thống liên tục những đòn đánh hiểm, đúng và trúng do đó đã phá vỡ thế liên minh, hợp lực giữa thế lực bên ngoài với bọn phản động trong nội địa, bẻ gẫy “kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của bọn phản động quốc tế. Đây là một trong những thành tựu quan trọng góp phần giữ vững, giữ ổn định an ninh chính trị trong bối cảnh đất nước ta đang gặp nhiều khó khăn trước sức tấn công từ nhiều phía của bọn phản động quốc tế.


Từ khi Đảng và Nhà nước tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng thì mặt trận đấu tranh chống phản cách mạng càng diễn biến phức tạp hơn bao giờ hết; mối quan hệ giữa gián điệp với phản động càng nguy hiểm hơn, chúng không chỉ dựa dẫm vào nhau mà còn tạo thành thế liên minh, hợp lực trong ngoài hết sức nguy hiểm. Bọn bên ngoài giữ vai trò cung cấp kinh tài và chỉ huy, chỉ đạo bọn bên trong để bọn bên trong thực hiện. Bọn bên trong tạo cớ, tạo thời cơ để bọn bên ngoài công khai hoá các chiến dịch chống phá ta. Thế lực thù địch không chỉ khai thác triệt để những vấn đề nhạy cảm, những mâu thuẫn phát sinh của xã hội trong quá trình đổi mới và hội nhập để chống phá mà chúng còn tìm mọi cách tác động, xúi giục, thúc đẩy bọn bên trong châm ngòi hoặc làm sâu sắc thêm, diễn biến phức tạp hơn để bọn bên ngoài lợi dụng. Các vấn đề về nông dân và nông thôn, dân chủ, nhân quyền, văn hoá tư tưởng, xuất bản báo chí, tôn giáo, dân tộc, biên giới, biển đảo,... trong lịch sử vốn đã luôn phức tạp và nhạy cảm thì nay càng diễn biến phức tạp hơn bởi sự tác động đa dạng và nhiều chiều của các thế lực thù địch có sự liên kết giữa bọn bên trong với bọn bên ngoài. Trần Tam Tiệp cùng các đối tượng ở nước ngoài, móc nối với số văn nghệ sĩ cũ, bất mãn, tài trợ tiền và hàng hoá, chỉ đạo chúng thu tin tình báo, viết bài xuyên tạc tình hình trong nước, chuyển ra cho Trung tâm “Văn bút Hải ngoại” và 6 Trung tâm phá hoại tư tưởng lớn ở một số quốc gia sản xuất các chương trình nghe, nhìn để thực hiện chiến dịch “chuyển lửa về quê nhà”, “chuyển ngọn nến dân chủ về quê hương”, "góp gió thành bão"... Các đối tượng Miriam, Manoli, Morow, Đoàn Văn Toại,... lợi dụng chính sách mở cửa hội nhập quốc tế, nhập cảnh vào nước ta với danh nghĩa khác nhau nhưng thực chất là móc nối với số đối tượng bất mãn, quá khích đổ vừa thu tin tình báo vừa kích động biểu tình chống đối. Nguyễn Sĩ Bình thành lập “Đảng nhân dân cách mạng hành động” ở nước ngoài, cử tay chân về nước móc nối và thành lập các chi bộ ở trong nước, liên tục tuyên truyền chống phá cách mạng từ năm 1982 đến nay. Tổ chức “Việt Tân” không chỉ phát triển tổ chức ở ngoài nước mà còn liên kết với bọn bên trong âm mưu cho ra công khai tổ chức đảng “Việt Tân" ở trong nước. Cơ quan đặc biệt của thế lực thù địch đã sử dụng Ksokok và số Fulro ra hàng UNTAC năm 1992 cùng một số Fulro lưu vong khác chuyển tiền về nước, chỉ đạo bọn phản động lợi dụng dân tộc, kích động đồng bào Tây Nguyên biểu tình, bạo động chính trị vào năm 2001 và nám 2004 hòng thực hiện âm mưu cát cứ. Chúng còn sử dụng, xúi giục, kích động một số phần tử quá khích trong tôn giáo như Lê Quang Liêm, Nguyễn Văn Lý, Thích Quảng Độ,... xuyên tạc chính sách tự do tôn giáo, tổ chức truyền đạo trái phép, dụ dỗ tín đồ trốn ra nước ngoài và tụ tập khiếu kiện đông người... Vấn đề an ninh ở địa bàn Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Bắc ngày càng diễn biến phức tạp do tác động, xúi giục của cơ quan đặc biệt của thế lực thù địch đối với cộng đồng các dân tộc trên các lĩnh vực dân tộc, tôn giáo và hoạt động phỉ. Nghiêm trọng hơn, chúng còn cung cấp tiền, chỉ đạo một số đối tượng bất mãn, quá khích hoặc có quan điểm sai trái không phù hợp với quyền lợi của quốc gia dân tộc; biến số này thành những kẻ cầm đầu, lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền tổ chức khiếu kiện tập thể, sản xuất chương trình nghe nhìn xuyên tạc sự thật chuyển ra nước ngoài để bôi nhọ Việt Nam trên diễn đàn quốc tế.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #52 vào lúc: 08 Tháng Giêng, 2022, 05:34:37 pm »

Các thế lực thù địch sử dụng bọn Hoàng Việt Cương Nguyễn Hữu Chánh, Nguyễn Sĩ Bằng,... thành lập các tổ chức phản động lưu vong, tiến hành gây nổ, khủng bố. Từ năm 1993 đến nay, các tổ chức phản động lưu vong liên tục tiến hành hàng chục chiến dịch gây nổ mang tên “Chiến dịch Đông Xuân", “Chiến dịch Hoa Lan", “Chiến dịch Hoa Phượng", “Chiến dịch nở hoa trong lòng địch”,... Hàng trăm lượt tay chân của chúng đã về nước dưới nhiều danh nghĩa khác nhau, móc nối với số đối tượng có tư tưởng chống đối ở trong nước để thực hiện các chiến dịch phá hoại. Gần đây chúng thay đổi thủ đoạn nhằm đánh lạc hướng cơ quan An ninh bằng việc dùng tiền thuê những người hành nghề xe ôm, buôn bán lẻ, gái mại dâm thường qua lại biên giới, vận chuyển tài liệu, thu gom thuốc nổ, tổ chức phá hoại, tổ chức rải truyền đơn, kích động biểu tình, bạo loạn.


Có thể nói đây là giai đoạn cơ quan đặc biệt của các thế lực thù địch đã sử dụng triệt để quy luật câu móc giữa gián điệp với phản động; lợi dụng triệt để các điều kiện xã hội để thực hiện âm mưu chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Không những thế, chúng đã nâng tầm quy luật trên thành sự liên kết và hợp lực giữa bọn bên trong với thế lực bên ngoài; lợi dụng tiến độ phát triển khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế tiến hành chỉ đạo và tài trợ cho bọn bên trong nhanh chóng, đa dạng và hiệu quả.


Những năm gần đây hoạt động của bọn phản động mới đang có xu hướng thay đổi: chúng vẫn ra sức liên kết, hợp lực với các thế lực bên ngoài để chống phá ta nhưng giảm thiểu quan hệ trực tiếp với các cơ quan tình báo hoặc tìm mọi cách che đậy quan hệ đó. Trên thực tế, bản chất quy luật câu móc giữa gián điệp với phản động không thay đổi nhưng do những diễn biến về quan hệ hội nhập giữa các quốc gia trên trường quốc tế ngày càng phát triển, xu hướng dẫn chủ ở trong nước ngày càng được đề cao, dân trí của các tầng lớp nhân dân ta được nâng lên rõ rệt và đặc biệt là chức năng chuyên chính của Đảng ta ngày càng vững mạnh. Đây là những nhân tố cơ bản tác động, làm cho bọn phản động bên trong hợp lực với bọn bên ngoài, núp dưới nhưng chiêu bài “dân chủ", “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo để hoạt động với bộ mặt “sạch sẽ” hơn, dễ loè bịp hơn. Đây là những thách thức mang yếu tố thời đại đối với lực lượng An ninh nhân dân.


Bằng những kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh chống phản cách mạng trong chiến tranh cũng như khi đất nước đã hoà bình, lực lượng An ninh quán triệt sâu sắc phương châm “trừng trị kết hợp với khoan hồng”, “nghiêm trị kết hợp với giáo dục cải tạo”, nhằm hạn chế tối đa những điều kiện xã hội phát sinh, không để trở thành điều kiện cho bọn gián điệp lợi dụng; kiềm toả những phần tử bất mãn, quá khích, không để chúng có cơ hội thực hiện âm mưu câu móc với thế lực bên ngoài. Đồng thời thông qua biện pháp “nắm địch từ xa, đánh địch từ căn cứ xuất phát”, để nắm âm mưu, thủ đoạn và hướng tấn công của địch nên đã đẩy lùi, vô hiệu hoá và đập tan các chiến dịch phá hoại cực kỳ nguy hiểm của kẻ thù.


Trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến phức tạp và khó lường; trong bối cảnh đất nước đang hội nhập sâu rộng nhưng từ năm 1990 đến nay, lực lượng An ninh đã đấu tranh thắng lợi nhiều chuyên án gián điệp, trong đó có hàng chục chuyên án lớn, điển hình như: chuyên án LĐ88, MA90, MB90, LH90, HC96, SB36, HM26,... là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chống gián điệp với đấu tranh chống phản động; xoá bỏ cơ sở xã hội bọn gián điệp có thể lợi dụng. Quá trình đấu tranh lực lượng An ninh từng bước làm rõ những đặc điểm và điều kiện để hình thành mối liên minh, hợp lực của chúng trong bối cảnh lịch sử mới để xây dựng đối sách vô hiệu hoá. Có thể xem đây như là diễn biến mới, cách thức mới trong quy luật câu móc giữa gián điệp với phản động cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết hết sức sáng tạo trong quá trình đấu tranh mới có thể giành được thắng lợi trọn vẹn.


Thắng lợi trong đấu tranh chống gián điệp nói riêng, chống phản cách mạng nói chung những năm qua là đóng góp đặc biệt có ý nghĩa đối với yêu cầu giữ vững, giữ ổn định an ninh chính trị, làm tiền đề cho việc triển khai thắng lợi chương trình phát triển kinh tế xã hội trong những bước đi trên con đường đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng của cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn lịch sử đấu tranh, chống gián điệp hơn nửa thế kỷ qua, chúng ta thấy rõ: đấu tranh chống gián điệp cần phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống phản động, xoá bỏ cơ sở xã hội và điều kiện kẻ địch có thể lợi dụng mới có thể giành thắng lợi trọn vẹn. Giá trị lịch sử của bài học này được thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất: Phải chủ động trấn áp các tổ chức phản động hiện hành, trước hết là các tổ chức phản động manh động chống chính quyền. Trong quá trình trấn áp phải quán triệt phương châm “nghiêm trị bọn chủ mưu, thủ ác; khoan hồng với những kẻ bị ép buộc, lầm đường và những kẻ hối cải”; “giảm hoặc miễn tội cho những kẻ lập công, thưởng cho kẻ lập công lớn”. Có như vậy, mới tạo điều kiện cho những người có tội thật thà khai báo, thành tâm hối cải và cộng tác với cơ quan An ninh giúp ta triển khai các biện pháp nghiệp vụ, dụ bọn gián điệp móc nối để đấu tranh. Đây cũng là nội dung quan trọng nhất của chuyên chính vô sản. Có như vậy chúng ta mới giáo dục thuyết phục giúp cho số người có tư tưởng chống đối từ bỏ tư tưởng chống đối, trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong quá trình đấu tranh các chuyên án gián điệp phải làm rõ âm mưu, ý đồ và mối quan hệ của chúng với số đối tượng phản động, là điều kiện để ta thực hiện đối sách và triển khai các miếng đòn, thúc đẩy các tổ chức phản động còn đang giấu mình, đang nhen nhóm phải bộc lộ để trấn áp. Đích đến của đấu tranh chống gián điệp kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống phản động là phải chặt đứt quy luật câu móc của chúng, phá vỡ mối liên minh hợp lực giữa bọn bên trong với bọn bên ngoài, đẩy chúng vào tình thế hoang mang, cô lập. Muốn vậy phải xây dựng được thế trận “phòng - chống” hoàn chỉnh; đánh đúng, đánh trúng, đánh hiểm. Nội dung trên thể hiện tư tưởng “tích cực bảo vệ minh, chủ động tiêu diệt địch” đã hình thành và ngày càng hoàn thiện từ thực tiễn lịch sử đấu tranh chống gián điệp nói riêng, chống phản cách mạng nói chung trên chiến trường Việt Nam, của Việt Nam.


Thứ hai: Song song với trấn áp các tổ chức phản động phải xoá bỏ cơ sở xã hội và điều kiện bọn gián điệp có thể lợi dụng. Quá trình xây dựng xã hội mới là quá trình đấu tranh giữa cái mới với cái cũ nên tất yếu xuất hiện những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân do nhận thức của từng cá nhân hoặc ảnh hưởng quyền lợi đối với một bộ phận trong xã hội. Giải quyết mâu thuẫn để đi đến thống nhất là một quá trình đấu tranh gian khổ và phức tạp, mang đặc điểm của cuộc đấu tranh giai cấp, giải quyết mâu thuẫn giai cấp. Đây là yếu tố khách quan. Nhưng cách thức giải quyết mâu thuẫn, thời gian và hiệu quả của việc giải quyết mâu thuẫn là do ý chí chủ quan của giai cấp lãnh đạo cách mạng. Giải quyết tốt các mâu thuẫn phát sinh, làm giảm thiểu số người có tư tưởng trái chiều, thực hiện công bằng dân chủ thực sự tức là loại trừ căn bản điều kiện chống đối và những vấn đề bức xúc trong các giai tầng của xã hội. Làm được như vậy có nghĩa là đã từng bước loại trừ dần cơ sở xã hội bọn gián điệp có thể lợi dụng.


Khi xã hội càng phát triển, nhất là mỗi khi cách mạng chuyển sang bước ngoặt mới, lại phát sinh những mâu thuẫn mới, biểu hiện với những hình thức mới. Từ khi Đảng và Nhà nước thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa hợp tác quốc tế sâu rộng, phát huy dân chủ, nhân quyền thì những vấn đề về quản lý, sử dụng đất đai, vấn đề nông thôn và nông dân, quản lý và sử dụng tài sản công, giáo dục và sử dụng nguồn lực là con người, hình thành tư tưởng trái chiều, tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng,... đã có những diễn biến phức tạp và nảy sinh mâu thuẫn. Cách thức bày tỏ nguyện vọng cũng ngày càng thay đổi như khiếu kiện tập thể, khiếu kiện kéo dài đến tụ tập biểu tình; thậm chí khủng bố đe dọa,... vô hình dung đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng làm nguyên cớ can thiệp vào nội bộ ta.


Vì vậy, việc xoá bỏ những điều kiện kẻ địch có thể lợi dụng phải là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; là một quá trình thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp từ hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, các cấp các ngành trong hệ thống chính trị của Đảng phải thực hiện đúng đường lối của Đảng, đúng pháp luật, đúng chính sách. Cán bộ thừa hành nhiệm vụ phải thực sự là công bộc của dân. Như vậy chưa đủ mà cần có chiến lược tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn các tầng lớp nhân dân, nâng cao nhận thức chính trị, nâng cao hiểu biết xã hội, phát huy lòng tự trọng, tự hào dân tộc để hành động thực tiễn không chỉ đúng mà còn vì quyền lợi của quốc gia dân tộc. Bởi vậy, nhận thức và hành động thực tiễn phải được thực hiện từ hai phía tức là từ phía hệ thống lãnh đạo và từ phía hệ thống chịu sự lãnh đạo. Chỉ có như vậy thì chủ trương, đường lối, chính sách, biện pháp của Đảng và Nhà nước mới thực sự đi vào cuộc sống và cuộc sống thực sự cần phải có. Tóm lại, chỉ khi nào thực sự “lấy dân làm gốc” và dân thực sự “coi mình là gốc” thì mới loại trừ được những điều kiện kẻ địch có thể lợi dụng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #53 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2022, 01:50:20 pm »

Thứ ba: Tiến hành quản lý đặc biệt đối với những người gây nguy hại cho an ninh xã hội, có nhân thân được dư luận quan tâm và số đối tượng cơ hội chính trị là biện pháp hiệu quả ngăn chặn bọn gián điệp lợi dụng. Để tổ chức đấu tranh chống gián điệp thắng lợi, cơ quan An ninh phải đặc biệt chú trọng công tác điều tra cơ bản, nắm diễn biến tư tưởng và di biến động của các loại đối tượng gây nguy hại cho an ninh quốc gia. Từ đó phân loại và đề ra đối sách thích hợp trong công tác “phòng” và “chống” với mục đích bảo vệ ta an toàn nhưng không gây xáo động về chính trị. Đối với số đối tượng có tư tưởng và hành vi chống đối, gây nguy hại cho an ninh, xã hội đồng thời là mục tiêu để bọn gián điệp và các thế lực thù địch lợi dụng nhưng nhân thân lại được xã hội quan tâm (cán bộ cao cấp, nhân vật nổi tiêng, có yếu tố nhạy cảm về chính trị trên trường quốc tế,...) việc bắt giam, truy tố họ theo luật định có thể gây bất lợi trong dư luận xã hội, tạo cớ cho các thế lực thù địch can thiệp hoặc xét công lao cống hiến, có thể chiếu cố, tạo điều kiện cho họ có cơ hội phục thiện. Nhằm đảm bảo yêu cầu chính trị và yêu cầu nghiệp vụ, ta đã thực hiện đối sách bằng việc tiến hành quản lý đặc biệt. Thời kỳ sau cách mạng tháng 8-1945, để chủ động tiến hành kháng chiến, ta áp dụng biện pháp "đưa đi an trí"; tập trung họ đến một địa điểm an toàn, cho phép họ tổ chức cuộc sống bình thường, được học tập, sinh hoạt để tự họ đình chỉ hành vi chống đối, chuyển đổi tư tưởng, có sự giám sát của lực lượng An ninh. Trong kháng chiến chống Mỹ và những năm gần đây, ta thực hiện đối sách bằng việc sử dụng “nhà an toàn" để quản lý đối tượng. Hiện nay ta thực hiện đối sách “kiềm toả”, “vô hiệu hóa". Từ bối cảnh lịch sử của nước ta, xét các khía cạnh đạo lý, truyền thống thì việc thực hiện đối sách trên là sự sáng tạo, đạt yêu cầu cả về nghiệp vụ, cả về chính trị. Trong thời đại ngày nay, muốn thực hiện đối sách “kiềm tỏa" và “vô hiệu hóa" thành công đòi hỏi cơ quan chuyên môn phải giỏi về nghiệp vụ, nhạy bén về chính trị, vững về khoa học kỹ thuật, kiên trì và nhẫn nại.


Thứ tư: Vấn đề xây dựng các mô hình “tự quản” ở cộng đồng dân cư là một trong những giải pháp hiệu quả góp phần tích cực loại trừ điều kiện để bọn gián điệp có thể lợi dụng. Mô hình “tự quản” được hình thành và phát triền mạnh trong những năm gần đây là kết tinh của truyền thống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau của cư dân người Việt, được thể hiện trong bối cảnh lịch sử hiện đại. Đó là các hình thức “số nhà tự quản", “cụm dân cư văn hóa", “thanh niên xung kích”, “dòng họ kiểu mẫu”, “hội ngành nghề",... Hình thức tổ chức này vừa có ý nghĩa hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc sống, vừa liên kết bảo đảm cho cuộc sống được bình yên. Mỗi tổ chức đều có quy ước cụ thể về cung cách làm ăn, quan hệ cộng đồng, quyền lợi và nghĩa vụ,... và cái chính là được cộng đồng tự nguyện xây dựng. Vì vậy, mỗi thành viên trong cộng đồng đều tự nguyện tuân theo, có thái độ ứng xử tích cực trước mỗi vấn đề trong cuộc sống. Chính điều đó đã làm cho từng cộng đồng liên kết chặt chẽ hơn, cùng nhau gương mẫu thực hiện kỷ cương luật pháp. Đây là vấn đề cơ bản, quyết định để tạo ra sức đề kháng trước những tác động xấu. cần phát huy và nhân rộng hình thức này trong bối cảnh lịch sử mới để các “tổ chức tự nguyện” thực sự là cầu nối giữa cơ quan chuyên môn với cộng đồng trong nhiệm vụ phòng chống gián điệp cũng như xây dựng đời sống vật chất và tinh thần trong toàn xã hội.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta đã tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng và từng bước đưa đất nước tiến bước trên con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đấu tranh chống phản cách mạng nói chung, chống gián điệp nói riêng hơn nửa thế kỷ qua đã góp phần xứng đáng vào chiến công chung của dân tộc. Nhưng cuộc đấu tranh để bảo vệ thành quả cách mạng, phục vụ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập sâu rộng trong bối cảnh tình hình quốc tế đang diễn biến hết sức phức tạp và khó lường là nhiệm vụ vô cùng nặng nề. Sự nghiệp đổi mới đã và đang đạt được những thành tựu to lớn, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta đã và đang được cải thiện nhanh chóng; vị thế của đất nước ta đang được đề cao trên trường quốc tế. Song từ trong sự phát triển ấy cũng xuất hiện những mâu thuẫn xã hội, những vấn đề bức xúc và nhạy cảm phải được từng bước giải quyết. Các vấn đề về an ninh nông thôn, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, biên giới, biển đảo,... vẫn đang diễn biến phức tạp; có nơi, có lúc tình hình đã phát triển theo chiều hướng xấu. Trong khi đó, các thế lực thù địch lại ra sức lợi dụng, xúi giục, thúc đẩy làm cho tình hình phát triển nghiêm trọng hơn hòng can thiệp vào nội bộ ta, thực hiện âm mưu thôn tính và xâm lược. Chúng đã sử dụng bọn gián điệp thâm nhập vào các tổ chức phản động, móc nối, kích động những phần tử bất mãn, quá khích công khai chống đối chính quyền; lợi dụng những mặt hạn chế trong cộng đồng dân cư, trong tôn giáo và dân tộc để dụ dỗ, lừa phỉnh, mua chuộc hòng gây ra các điểm nóng. Hơn thế, chúng đã sử dụng thành tựu của khoa học công nghệ, vô tuyến viễn thông, giao thương quốc tế để tài trợ và chỉ đạo các thế lực chống đối ở bên trong tập hợp lực lượng, liên minh hợp lực ráo riết phá hoại. Các tổ chức phản động mới ngày càng ra sức lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, công khai tập hợp lực lượng ở trong nước, công khai liên kết với các thế lực bên ngoài và công khai chống phá ta. Hoạt động của các tổ chức phản động mới ở nước ta cũng mang xu hướng thời đại nên vô cùng nguy hiểm. Vì vậy, nhiệm vụ giữ vững, giữ ổn định an ninh chính trị của đất nước trong bối cảnh hiện nay không chỉ nặng nề mà còn là thách thức to lớn. Sự nghiệp đấu tranh phòng chống gián điệp, phòng chống phản cách mạng ngày nay không chỉ phức tạp, nặng nề mà còn vô cùng gian nan, luôn luôn xuất hiện những diễn biến đột xuất bất ngờ và có độ nhạy cảm cao. Do đó đòi hỏi chúng ta không chỉ vững vàng về chính trị, giỏi về nghiệp vụ mà còn cần phải luôn luôn tìm tòi, sáng tạo, nhạy bén thì mới có thể hoàn thành được sứ mạng lịch sử được Đảng và nhân dân tin cậy giao phó.


Vì vậy, vận dụng bài học lịch sử “đấu tranh chống gián điệp cần phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống phản động; xoá bỏ cơ sở xã hội kẻ địch có thể lợi dụng mới đảm bảo giành đươc thắng lợi trọn vẹn” là đòi hỏi khách quan của cuôc đấu tranh chống gián điệp nói riêng, chống phản cách mạng nói chung trong bối cảnh hiện nay.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #54 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2022, 08:24:57 pm »

BÀI HỌC THỨ TƯ
TRONG ĐẤU TRANH CHÓNG GIÁN ĐIỆP, CHIẾN THUẬT “DÙNG NGUỜI CỦA ĐỊCH, PHƯƠNG TIỆN CỦA ĐỊCH ĐỂ ĐÁNH LẠI ĐỊCH” ĐÃ ĐƯỢC NÂNG TẦM THÀNH NGHỆ THUẬT


Con đường cách mạng của nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh là con đường đấu tranh dựng nước và giữ nước; trong đó là những chặng đường dài đấu tranh chống giặc ngoại xâm và bảo vệ độc lập chủ quyền của quốc gia. Trên mặt trận đấu tranh chống phản cách mạng nói chung, chống gián điệp nói riêng, từ năm 1945 đến nay được phân định thành hai thời kỳ, đó là thời kỳ đất nước có chiến tranh và thời kỳ đất nước hoà bình.


Nhưng dù khi đất nước có chiến tranh hay khi đất nước đã hoà bình thì hoạt động gián điệp đối với nước ta vẫn rất quyết liệt, cuộc đấu tranh chống gián điệp luôn luôn là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go và vô cùng phức tạp. Đó là cuộc đấu mưu, đấu trí, đấu pháp, đấu lực giữa một bên là cơ quan tình báo của các quốc gia, bọn phản động quốc tế và các thế lực thù địch, tổ chức các hoạt động gián điệp phục vụ cho âm mưu thôn tính và xâm lược nước ta; một bên là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta với lực lượng nòng cốt là Công an nhân dân, đấu tranh chống lại các hoạt động gián điệp để giành, giữ độc lập cho dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Lịch sử đấu tranh chống gián điệp ở nước ta gắn liền với mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng và chi phối bởi đặc điểm của mỗi giai đoạn cách mạng đó. Thời kỳ chống pháp, đối tượng chính là gián điệp Pháp; thời kỳ chống Mỹ, đối tượng chính là gián điệp Mỹ; thời kỳ chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt, đối tượng chính là bọn phản động quốc tế; thời kỳ đấu tranh chống diễn biến hoà bình, đối tượng chính là các thế lực thù địch. Tuy đối tượng đấu tranh có khác nhau ở mỗi thời kỳ cách mạng, nhưng hoạt động gián điệp thì căn bản giống nhau về phương thức, thủ đoạn cũng như những miếng đòn. Nếu có khác, chủ yếu là ở chỗ mỗi thời kỳ lịch sử, với sự phát triển về khoa học kỹ thuật thì hoạt động gián điệp có sự đầu tư, trang bị tương ứng và mục đích của hoạt động gián điệp có sự thay đổi ít nhiều căn cứ vào xu hướng chính trị của mỗi bên, vào mục đích của mỗi bên đối với nước ta.


Quy luật chung của các hoạt động gián điệp là điệp viên phải thâm nhập vào mục tiêu mới có thể thực hiện được nhiệm vụ. Nhiệm vụ của điệp viên thường là: thu tin tình báo, xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng ngầm, gây chiến tranh tâm lý, phá hoại. Tuỳ thuộc ở phương thức hoạt động mà nhiệm vụ này hay nhiệm vụ khác là chủ yếu. Ví dụ: Nội gián thì nhiệm vụ chủ yếu là chui sâu leo cao, thu tin tình báo, làm khuynh đảo nội bộ; gián điệp cài cắm nhiệm vụ chủ yếu là tạo vỏ bọc chắc chắn, xây dựng cơ sở, thu tin tình báo, phá hoại; gián điệp biệt kích nhiệm vụ chủ yếu là tránh đụng đầu, xây dựng cơ sở, xây dựng lực lượng ngầm, thu tin tình báo, phá hoại... Song dù với phương thức nào thì hoạt động gián điệp đều phải tiến hành thâm nhập vào mục tiêu, móc nối cơ sở, tổ chức hoạt động và cuối cùng là thông tin liên lạc. Thiếu một trong bôn khâu đó thì hoạt động gián điệp không thành công. Ngược lại, nếu ta vô hiệu hoá được một trong bốn khâu đó thì có thể vô hiệu hoá điệp viên hoặc giảm thiểu hoạt động của điệp viên đối phương.


Những nội dung trên đã được phát triển thành phổ biến trong hoạt động gián điệp; cơ quan tình báo, phản gián các nước đều hiểu rõ, đều tìm mọi biện pháp để phát hiện và chống điệp viên của đối phương cũng như đảm bảo cho điệp viên của mình hoạt động có hiệu quả trên đất đối phương. Vì vậy, đối sách cũng như các thủ đoạn trong hoạt động gián điệp và chống lại hoạt động gián điệp không còn là điều bất ngờ và bí hiểm. Vấn đề thắng hay thua trong cuộc đấu mưu, đấu trí, đấu pháp, đấu lực trên lĩnh vực hoạt động gián điệp và chống gián điệp tuỳ thuộc vào bên nào “cao tay” hơn bên nào mà thôi.


Nhìn lại lịch sử đấu tranh chống gián điệp ở nước ta, đến nay có thể khẳng định rằng: Chúng ta luôn luôn phải đương đầu với các cơ quan tình báo, gián điệp sừng sỏ nhất đương thời; đối tượng đấu tranh của chúng ta đều có nhiều kinh nghiệm hoạt động và hoạt động thành công ở nhiều quốc gia trước khi tiến hành chiến tranh gián điệp ở nước ta. Đối phương tổ chức hoạt động gián điệp trên chiến trường Việt Nam thường nhằm mục đích mở đường và duy trì cho vũ trang xâm lược hoặc nhằm thực hiện âm mưu điều chỉnh đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, phục vụ cho âm mưu thôn tính nước ta. Nhưng lịch sử đã chứng minh, tại chiến trường Việt Nam, lực lượng An ninh luôn luôn giành thế chủ động và đánh bại hoạt động gián điệp của đối phương bằng nhiều cách khác nhau như vô hiệu hoá, đẩy đuổi, đẩy lùi, khám phá, bóc gỡ... và đi đến đánh bại âm mưu của địch. Có thể khẳng định, trong đấu tranh chống gián điệp, việc đánh bại âm mưu và hoạt động của đối phương đã là thành công. Nhưng cao hơn thế, chúng ta còn điều khiển cơ quan chỉ huy của đối phương phải hoạt động theo sự sắp đặt của mình thông qua "trò chơi nghiệp vụ” mà cốt lõi của “trò chơi nghiệp vụ là chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch". Tức là cơ quan An ninh Việt Nam khống chế, cảm hoá điệp viên của đối phương, sử dụng điệp viên cùng với phương tiện hoạt động của chính những điệp viên đó để triển khai các biện pháp nghiệp vụ theo kiểu “tương kế tựu kế", dẫn dụ đối phương hành động theo ý đồ của mình.


Trong lịch sử đấu tranh chống gián điệp hơn nửa thế kỷ qua, lực lượng An ninh Việt Nam đã áp dụng chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch” ngay từ thời kỳ đấu tranh chống gián điệp Pháp; được phát triển ở trình độ cao hơn, quy mô và phạm vi lớn hơn ở thời kỳ đấu tranh chống gián điệp Mỹ. Khi đất nước đã hoà bình, ta tiếp tục áp dụng chiến thuật này và lập nên nhiều chiến công vẻ vang.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #55 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2022, 03:57:28 pm »

Khi đất nước có chiến tranh, đối tượng đấu tranh chính của ta là cơ quan tình báo gián điệp của thế lực ngoại xâm. Trận tuyến đấu tranh tuy là hai chiến tuyến nhưng ta và đối phương đấu mưu đấu trí trên chiến trường chính diễn ra ngay tại lãnh thổ nước ta. Đấu tranh chống gián điệp, đấu tranh chống phản động đan xen, chồng chéo; trận tuyến bí mật gắn liền và là bộ phận quan trọng của chiến đấu vũ trang. Hoạt động gián điệp của đối phương tuy vô cùng ráo riết, nhưng giao thông liên lạc còn lạc hậu, nặng về phục vụ ý đồ quân sự. Đây là những đặc điểm giữ vai trò chi phối trong quá trình triển khai chiến thuật “Dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch”.


Khi đất nước đã hoà bình, đối tượng đấu tranh chính của ta là bọn phản động quốc tế, các thế lực thù địch, với hai chiến lược chủ yếu của chúng là “chiến tranh phá hoại nhiều mặt” và “diễn biến hoà bình”. Đặc điểm nổi bật của trận tuyến đấu tranh chống gián điệp giai đoạn này là bọn phản động quốc tế và các thế lực thù địch sử dụng các tổ chức phản động người Việt lưu vong; chỉ đạo, tài trợ, biến chúng thành lực lượng xung kích để triển khai âm mưu, ý đồ phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta. Mặt trận bí mật diễn ra trên địa bàn rộng cùng với kỹ năng ứng dụng khoa học công nghệ rất đa dạng. Dù quy mô, cách thức sử dụng lực lượng của các cơ quan tình báo đối phương ở giai đoạn này có thay đổi nhưng mục tiêu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của chúng căn bản không đổi. Chỉ đạo và sử dụng lực lượng của các cơ quan tình báo đối phương ở giai đoạn này còn cho thấy: chúng huy động lực lượng đông đảo, đa dạng hơn; thủ đoạn hoạt động đa chiều, tinh vi và nguy hiểm hơn; áp dụng khoa học công nghệ, trang bị phương tiện hoạt động tiên tiến hơn. Vì vậy, để triển khai thắng lợi chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch” ở giai đoạn này là thách thức lớn đối với lực lượng An ninh.


Vượt qua mọi khó khăn, thách thức, lực lượng An ninh luôn chủ động điều chỉnh, hoàn chỉnh và phát triển chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch” ngày một hoàn hảo hơn. Đồng hành với từng giai đoạn lịch sử, với sự phát triển của cuộc đấu tranh, lực lượng An ninh giành được những chiến thắng giòn giã, điều khiển trung tâm chỉ huy của đối phương ở trình độ cao hơn, nhuần nhuyễn hơn. Có thể điểm lại một số mốc lịch sử đế thấy rõ sự phát triển của chiến thuật này:


Thời kỳ kháng chiến chống pháp, cơ quan gián điệp biệt kích hỗn hợp nhảy dù (GCMA) tung toán gián điệp gồm 3 tên ra vùng Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Ta bắt, khống chế cả 3 điệp viên (Tân, Ngôn, Lan) và lập chuyên án bí số TN25. Đây là chuyên án đầu tiên lực lượng An ninh áp dụng chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch”. Sử dụng 3 điệp viên đã không chế, Ban chuyên án cung cấp cho địch tin giả, nêu yêu cầu tăng cường phương tiện và lực lượng. Mặc dù quá trình triển khai “trò chơi” ta còn bỡ ngỡ và nghiệp vụ còn đơn giản nhưng Ban chuyên án đã sử dụng 3 điệp viên dụ cơ quan GCMA tăng cường người, tăng cường máy thông tin VTĐ, bộc lộ đầu mối gián điệp cài cắm. Cơ quan GCMA không chỉ đáp ứng yêu cầu của 3 điệp viên và còn tặng thưởng cho chúng "Huân chương Thập tự sắt" vì những tin tình báo cung cấp. Khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ta tạo ra những tình huống nghiệp vụ thúc đẩy cơ quan GCMA điều toán gián điệp về Hà Nội, sau đó điều đi Hải Phòng để nhận bàn giao đầu mối cài lại, một số kho vũ khí chôn giấu bí mật. Sử dụng toán TN25 trong "trò chơi", ta nắm được một phần hệ thống gián điệp cài lại, một phần các kho vũ khí chúng đã chôn giấu ở Hà Nội và Hải Phòng. Cơ quan An ninh Việt Nam tiếp tục "trò chơi", cho đến năm 1958 mới chủ động kết thúc chuyên án nhưng cơ quan gián điệp Pháp vẫn không biết đã bị điều khiển.


Thời kỳ chuyển quân tập kết theo Hiệp định Giơnevơ, cơ quan gián điệp Mỹ (CIA) sử dụng Đại Việt, tuyển mộ, huấn luyện và cài lại miền Bắc hàng chục đầu mối gián điệp, trong đó có toán gián điệp do Trần Minh Châu (tức Cập) cầm đầu gồm 9 tên chia làm 3 tổ, cắm chốt trên địa bàn Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định. Chúng quản lý 8 kho vũ khí bí mật và hoạt động trên địa bàn hầu khắp các tỉnh miền Bắc. Để triển khai kế hoạch hoạt động, CIA lập Trung tâm chỉ huy tại Sài Gòn, lập Trạm đầu cầu tại bờ Nam sông Bến Hải và mở hướng liên lạc qua đường Hồng Kông.


Cơ quan An ninh dự đoán được âm mưu của đối phương nên đã đưa trinh sát xã hội thâm nhập vào hàng ngũ địch để "lót ổ", chuẩn bị chiến trường ngay từ khi chúng tuyển điệp viên đưa ra nước ngoài huấn luyện. Vì vậy, ta nắm chắc số điệp viên được tung trở lại và lập chuyên án đấu tranh (chuyên án C30) ngay khi toán điệp viên vừa được đánh trở lại. Trong quá trình đấu tranh, Ban chuyên án điều trinh sát xã hội hóa vào tổ chức địch, xây dựng 11 cơ sở tiếp cận từng điệp viên và kéo một số tên cầm đầu các toán ra để sử dụng. Từng giai đoạn của quá trình đấu trí với địch, lực lượng An ninh không chỉ điều cơ sở và trinh sát xã hội hóa thâm nhập vào trung tâm chỉ huy của CIA ở Sài Gòn một lần mà tới ba lần. Ban chuyên án thiết lập tuyến giao thông từ Hà Nội, Hải Phòng đến tận bờ Nam sông Bến Hải, đảm bảo cho điệp viên “vượt giới tuyến an toàn". Trong quá trình triển khai chiến dịch, ta không chỉ bí mật khai quật hết 8 kho vũ khí mà còn vô hiệu hoá hai lần chúng gài mìn gây nổ các mục tiêu kinh tế trọng điểm; bóc gỡ toàn bộ các đầu mối cài lại và lực lượng ngầm ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình, Hoà Bình, Hồng Quảng liên quan tới C30 nhưng Trung tâm chỉ huy của đối phương tại Sài Gòn vẫn không hay biết. Cho tới năm 1958, do mâu thuẫn các phe phái, đảng phái ở Sài Gòn lên tới cao điểm, toán gián điệp C30 có sự bế tắc đồng thời không còn tác dụng với ta nên Ban chuyên án kết thúc “trò chơi".


Từ năm 1961 đến năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra ngày càng quyết liệt, yêu cầu phải nắm được âm mưu của Mỹ cũng như quan điểm của một số nước đối với cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một đòi hỏi khách quan, có vị trí hết sức quan trọng để giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng hoạch định đường lối đối nội và đối ngoại. Cơ quan An ninh đã thực hiện xuất sắc yêu cầu trên bằng việc triển khai hai kế hoạch trinh sát tuyệt mật có bí số M1 và M2: khống chế đường giao thông ngoại giao và đột nhập vào bộ phận thiết yếu cơ mật của cơ quan cố định một nước tư bản đóng tại Hà Nội. Hai kế hoạch được tiến hành liên tục 16 năm, ta không chỉ sử dụng người của đối phương mà còn áp dụng các biện pháp trinh sát kỹ thuật tiên tiến nhất của ta lúc đó để thu được hàng ngàn tin tình báo vừa đặc biệt quan trọng vừa có tính thời sự cao. Khi đã đạt yêu cầu trinh sát, ta chủ động kết thúc kế hoạch nhưng cơ quan cố định của nước tư bản không hay biết.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #56 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2022, 03:58:19 pm »

Trên mặt trận đấu tranh chống gián điệp biệt kích (GĐBK), từ năm 1961 đến năm 1973, lực lượng An ninh đấu tranh thắng lợi 27 chuyên án theo chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch". Mở đầu là chuyên án PY27, xâm nhập bằng đường không, kéo dài hơn 5 năm trên địa bàn tỉnh Sơn La và chuyên án BK63, xâm nhập bằng đường biển, kéo dài hơn 10 năm, trên địa bàn tỉnh Hồng Quảng. Ban chuyên án sử dụng điệp viên của địch, phương tiện thông tin của địch để triển khai các miếng đòn thành công, đảm bảo hoàn toàn bí mật, khiến Trung tâm của địch tại Sài Gòn gồm liên minh các cơ quan tình báo CIA, DIA, MACVSOG - SOG, tình báo ngụy phải hoạt động dưới sự sắp đặt của ta liên, tục hơn 10 năm. Thông qua liên lạc bằng VTĐ, bưu thiếp, ám tín hiệu, ta cung cấp cho địch những “tin tình báo" mà chúng muốn tìm hiểu, xây dựng những “khu an toàn” mà chúng chỉ đạo, đồng thời khéo léo thúc đẩy chúng bộc lộ âm mưu, kế hoạch tung gián điệp ra miền Bắc; “cung cấp” cho ta về thời gian, địa điểm những toán biệt kích, kể cả tên tuổi, quê quán của những tên sẽ xâm nhập... Tin tức thu được qua các chuyên án giúp lực lượng An ninh tổ chức phòng chống biệt kích có hiệu quả trên địa bàn toàn miền Bắc, góp phần bắt và diệt 103 toán gồm 858 tên, thu hàng trăm tấn vũ khí, phương tiện thông tin liên lạc hiện đại và nhu yếu phẩm quý hiếm. Qua đấu tranh chuyên án, ta cung cấp cho địch những tin tức giả, cung cấp sai lệch tọa độ các mục tiêu chúng yêu cầu chỉ điểm để đánh phá; đẩy chúng mắc sai lầm trong việc hoạch định âm mưu, kế hoạch chiến tranh cũng như làm giảm thiểu thiệt hại do máy bay, tàu chiến đánh phá các mục tiêu. Có những chuyên án ta còn làm cho Trung tâm địch bộc lộ đầu mối gián điệp cài cắm ở một số tỉnh thành phố miền Bắc; bộc lộ lực lượng ngầm ở các địa bàn xung yếu, quan trọng; kể cả một số đầu mối nội gián đánh ra Bắc.


Hơn 10 năm lực lượng An ninh đấu mưu, đấu trí, đấu pháp, đấu lực với liên minh các cơ quan tình báo của Mỹ ngụy và đã giành thắng lợi trọn vẹn. Một vài chuyên án địch nghi ngờ điệp viên bị khống chế nhưng ta đều có đối sách hợp lý, xoá tan nghi ngờ của chúng. Trong đó Trung tâm chỉ huy địch (thuộc bộ phận tình báo ngụy) có chứng cứ nghi ngờ một vài toán đã bị ta khống chế, sử dụng nhưng không có điều kiện làm rõ, buộc chúng phải làm ngơ mà hành động theo thế đã bị ta sắp đặt.


Hơn 30 năm sau khi kết thúc chiến tranh, nhà nghiên cứu Mỹ, Giáo sư Richard H. Shultz khai thác hồ sơ tuyệt mật của CIA, Bộ Quốc phòng và Nhà Trắng mới được phép công bố, phỏng vấn những quan chức cao cấp trực tiẽp chỉ đạo, điều hành và trực tiếp thực hiện cuộc chiến tranh bí mật đã viết cuốn sách “Cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội", phân tích các nguyên nhân thất bại để rút ra những bài học cần thiết cho nước Mỹ. Cùng với ông, cựu điệp viên CIA, Sedgwick Tourison, làm việc tại chi nhánh Sài Gòn đã viết cuốn sách “Đội quân bí mật, cuộc chiến bí mật” với tham vọng lý giải vì sao cuộc chiến tranh gián điệp biệt kích của họ đối với miền Bắc Việt Nam lại thất bại cay đắng như thế. Nhưng họ vẫn không thể lý giải nổi và phải thú nhận: “Hình như những điệp viên của chúng ta đã bị đón lõng trước khi họ được tung vào miền Bắc. Bất cứ bằng đường không, đường biển, đường bộ, ở nơi hẻo lánh hoặc khu vực dân cư, dù vào ban đêm hay ban ngày,... họ luôn được những người trên đất liền chờ đón. Nếu có điệp viên nào đó ra vào may mắn trót, lọt, thì có thể đặt câu hỏi là: liệu đó có phải là họ thả lỏng do không cần phải làm gì nữa vì họ đã biết tất cả rồi". Thuật ngữ “trò chơi nghiệp vụ" hình thành trong quá trình áp dụng chiến thuật này, nó vừa biểu đạt tài nghệ, sự “cao tay”, sự nhuần nhuyễn của cơ quan An ninh Việt Nam, vừa khẳng định thất bại cả ở tầm chiến lược và chiến thuật; thất bại trong từng vụ việc của liên minh các cơ quan tình báo đối phương.


Thời kỳ chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt, bọn phản động quốc tế ráo riết huấn luyện hàng trăm tên biệt kích, bí mật cho xâm nhập về nước để xây dựng mật cứ, móc nối với các tổ chức phản động trong nước hòng thực hiện âm mưu “trong nổi dậy, ngoài đánh vào”. Lực lượng An ninh tổ chức đấu tranh nhiều chuyên án bằng chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch”; trong đó có 3 chuyên án lớn là KHCM12, KHĐN10 và HM29, dụ hết bọn gián điệp đã được huấn luyện ở nước ngoài về nước để đón bắt và tiêu diệt; các tổ chức tình báo gián điệp do Lê Quốc Tuý, Mai Văn Hạnh; Hoàng Cơ Minh, Trần Quang Đô cầm đầu đã mất hết lực lượng và bị xoá sổ; các tổ chức phản động trong nội địa đã móc nối với các tổ chức tình báo gián điệp trên đều bị trấn áp.


Quá trình triển khai đấu tranh, ta không chỉ khống chế điệp viên mà cao hơn là giáo dục, thuyết phục làm chuyển đổi tư tưởng của họ; họ trở thành những người cộng tác đắc lực và trung thành tuyệt đối với ta. Việc “dùng người” không chỉ được thực hiện với một hoặc vài điệp viên mà gồm hàng chục điệp viên, họ được sinh hoạt cùng nhau, cùng tham gia vào các công việc đánh án như một chiến sĩ trinh sát thực thụ. Những người cộng tác với ta không bị phân biệt đối xử, họ được hưởng chế độ khen thưởng kịp thời sau mỗi vụ việc; được trợ cấp khó khăn, được cấp vốn làm ăn,... Nhờ đó, khi ta chấp nhận cho những tên cầm đầu ở nước ngoài về “thị sát mật cứ’, chúng ăn ở nhiều ngày cùng với “điệp viên" nhưng không hề nghi ngờ người của chúng đã thành “người của ta". Tháng 12-1984, Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đưa hơn 100 tên tội phạm, trong đó có tới bốn tên cầm đầu trong CM12 ra toà xét xử với sự chứng kiến, đưa tin của phóng viên báo chí trong và ngoài nước nhưng những tên cầm đầu ở nước ngoài vẫn tin rằng chúng đang còn bộ phận an toàn và hoạt động có hiệu quả ở trong nước. Ban chuyên án đã khéo “tương kế tựu kế" tách một mảng trong CM12 để lập đài VTĐ tại Đồng Nai (ĐN10) từ năm 1982, hoạt động độc lập và song song với CM12. Vì vậy khi KHCM12 kết thúc ta tiếp tục sử dụng ĐN10 thực hiện trò chơi mà bọn Lê Quốc Tuý và quan thầy của chúng không hay biết. Qua ĐN10, Ban chuyên án tiếp tục điều đối phương đưa điệp viên về nước để bắt. Chúng mở hướng xâm nhập bằng đường bộ qua Cămpuchia nhưng ta đã điều chúng phải xâm nhập bằng đường biển để tổ chức đón bắt theo kế hoạch đã chuẩn bị sẵn. Cho đến tháng 5 năm 1988, chúng không còn lực lượng do xâm nhập về nước, ta kết thúc chuyên án.


Ngoài việc sử dụng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch, cơ quan An ninh còn phát triển cách đánh lên trình độ cao hơn, chủ đông hơn là: “nắm địch từ xa, đánh địch từ căn cứ bàn đạp". Đây là bước phát triển mới, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh trong bối cảnh Đảng và Nhà nước mở cửa, hợp tác quốc tế đa phương, đa chiều và hội nhập sâu rộng. Mặt trận chống gián điệp thời kỳ chống “diễn biến hoà bình" có những đặc điểm mới, không chỉ gay go, phức tạp mà còn xuất hiện nhiều yếu tố nhạy cảm và thách thức. Lực lượng An ninh đã đổi mới và tiếp tục nâng tầm cuộc đấu tranh lên bước cao hơn với các biện pháp “trinh sát ngoại biên”, “đánh địch từ nơi chúng xuất phát”, “đẩy lùi, vô hiệu hoá và đập tan".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #57 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2022, 12:59:46 pm »

Những thuật ngữ trên được hình thành trong quá trình đấu tranh các chuyên án LĐ88, LH90, HC96, SB36,... cơ quan An ninh đã đẩy lùi hàng chục chiến dịch gây nổ khủng bố, vô hiệu hoá hàng chục chiến dịch khác cũng như liên tục đập tan các chiến dịch gây nổ, khủng bố trên quy mô lớn của bọn phản động lưu vong dưới sự chỉ đạo và tài trợ của các thế lực thù địch. Trong chuyên án LH90, Pitơ Trần là Phó thủ tướng, chỉ huy Mặt trận tiền phương, thực hiện chiến dịch phá hoại tại 17 điểm ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận vào đêm mồng 6 rạng ngày mồng 7-3-1993. Ban chuyên án bí mật sử dụng Trần dụ tay chân của y đã xâm nhập về nước phải bộc lộ và bắt gọn toàn bộ gần 20 tên trực tiếp tham gia chiến dịch gây nổ nhưng Hoàng Việt Cương và “chính phủ” của chúng ở nước ngoài không hay biết, vẫn tin bọn trong nước thực hiện đúng kế hoạch. Đến khi ta ra lệnh cho Pitơ Trần thông báo kế hoạch đã bị phá sản chúng vẫn không tin mà còn căn vặn nhiều lần. Sau ngày 7 tháng 3, ta còn sử dụng Pitơ Trần lần lượt đẩy lùi 3 chiến dịch gây nổ khủng bố khác của Hoàng Việt Cương và đồng bọn. Trong chuyên án HC96, liên tục 10 năm, Ban chuyên án sử dụng chính những tên trong tổ chức để nắm âm mưu, hoạt động của Chánh và đồng bọn. Vì vậy, hàng chục chiến dịch gây nổ, khủng bố của Chánh và đồng bọn đều bị phá sản; kể cả khi chúng thay đổi thủ đoạn bằng việc thuê những người hành nghề tự do, xe ôm, gái làm tiền vận chuyển thuốc nổ và gây nổ.


Điểm lại những sự kiện mang tính điển hình của các giai đoạn lịch sử, ta có thể thấy rõ: chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch" đã được cơ quan An ninh thực hiện liên tục, suốt các giai đoạn lịch sử, với các loại đối tượng khác nhau và đều giành thắng lợi. Quá trình triển khai chiến thuật không chỉ được lặp đi lặp lại trong lịch sử mà cao hơn thế là giai đoạn lịch sử sau hoàn thiện hơn giai đoạn lịch sử trước. Hiển nhiên, đối phương của chúng ta càng ngày càng tinh vi hơn, được trang bị hiện đại hơn và họ cũng rút được kinh nghiệm từ thực tế của chính họ hoặc của các nước đồng minh của họ. Nhưng cuối cùng chúng vẫn thất bại trong cuộc đấu mưu, đấu trí, đấu pháp, đấu lực với cơ quan An ninh Việt Nam.


Lực lượng An ninh giành thắng lợi không phải chỉ một hoặc một số vụ mà liên tục, hàng chục năm; trong đó có nhiều vụ án kéo dài 10 năm, hơn 10 năm hoặc nhiều vụ án, nhiều chiến dịch diễn ra đồng thời, đồng bộ liên tục trong nhiều năm, phối hợp nhiều địa phương, nhiều lực lượng thành những chiến dịch phản gián nhưng vẫn đảm bảo được bí mật, vẫn giành chiến thắng to lớn. Do đó khẳng định lực lượng An ninh Việt Nam áp dụng chiến thuật “Sử dụng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch” đã nâng tầm thành nghệ thuật và giành được thắng lợi trọn vẹn. Chiến thắng từ áp dụng chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch” hoàn toàn không chỉ là bắt được điệp viên, thu được vũ khí, phương tiện hoạt động của đối phương mà chính là đánh bại âm mưu của địch đi đến điều khiển trung tâm chỉ huy của đối phương, buộc chúng phải bị động ứng phó, phải hoạt động theo sự sắp đặt của ta. Lực lượng An ninh đã đạt được trình độ đó. Và như vậy, chỉ có thể lý giải rằng cơ quan An ninh Việt Nam cao tay hơn đối phương.


Tuy vậy, nếu chúng ta tuyệt đối hoá chiến thắng là không phản ánh đúng thực tiễn khách quan, mà cần phải phản ánh trung thực lịch sử đã diễn ra rằng có vụ án, có khâu công tác, có đối tượng chúng ta chưa thành công; thậm chí phải mất nhiều công sức mới làm cho đối phương mắc mưu, mới giành được thế chủ động. Ví dụ: đối với chuyên án PY27, Ban chuyên án mất 8 tháng đấu mưu, đấu trí, giải quyết các yêu cầu về an ninh cá nhân, xoá lộ mới làm cho đối phương sập bẫy. Nguyên nhân để địch nghi ngờ là do sơ xuất trong khâu phối hợp với Quân đội nhân dân nên khi máy bay tiếp tế ra đến Ninh Bình thì bị bắn rơi. Ngoài ra còn do sơ suất khi thu giữ và quản lý tang vật của bọn biệt kích dẫn đến khi Trung tâm địch yêu cầu đọc số súng của từng tên ta không đáp ứng kịp thời. Trong chuyên án BK63, do công tác quản lý, giáo dục điệp viên còn cứng nhắc và còn bộc lộ khuyết điểm nên điệp viên “Hạ Long” liên tục chống đối, phá hoại phương tiện, tìm cách báo động cho Trung tâm địch bằng mật khẩu an ninh qua liên lạc VTĐ,... chỉ đến khi đồng chí Nguyễn Tài trực tiếp gặp, giáo dục thuyết phục, khơi dậy ở y lòng tự trọng bản thân, trách nhiệm với gia đình và xã hội thì điệp viên “Hạ Long" mới phục tùng theo sự điều khiển của ta. Trong chuyên án SM21, do áp dụng các biện pháp xử phạt quá mức, đối xử với điệp viên không công bằng; không nắm được diễn biến tư tưởng của điệp viên nên không biết được điệp viên nuôi ý đồ phản phúc đã lợi dụng sơ hở trong khâu canh phòng, cướp vũ khí tấn công Ban chuyên án, đốt phá lán trại gây thương vong rồi bỏ trốn. Trong chuyên án LH17, điệp viên là nhân viên ngoại giao, khi bị khống chế đã nhận cộng tác, khi còn ở miền Bắc, điệp viên này cộng tác tốt nhưng khi về nước y đã đầu thú. Những sự kiện trên phát sinh trong quá trình áp dụng chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch”. Tuy không gây tổn thất lớn nhưng đã để lại những bài học đắt giá và hơn hết là chính những tình huống đó đã cảnh tỉnh và giúp cho chúng ta phát triển chiến thuật “dùng người của địch phương tiện của địch để đánh lại địch" ngày càng hoàn thiện hơn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #58 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2022, 02:11:41 pm »

Dưới góc nhìn lịch sử, có thể rút ra những vấn đề cơ bản nhất quyết định đến sự tất thắng khi áp dụng chiến thuật này như sau:

Thứ nhất: Cônq tác chuẩn bị chiến trường là yếu tố cơ bản tạo ra tình thế và điều kiện để áp dụng chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch”.


Ta biết rằng điệp viên muốn thực hiện được nhiệm vụ phải xâm nhập vào mục tiêu, móc nối cơ sở, tiến hành hoạt động và tổ chức giao thông. Công tác chuẩn bị chiến trường của ta hoàn hảo tức là chúng ta đã đẩy điệp viên vào thế bị động, thậm chí bế tắc vì không có điều kiện móc nối cơ sở, không có khả năng tiếp cận mục tiêu và cũng không thể tổ chức giao thông. Có thể nói công tác chuẩn bị chiến trường của chúng ta đã được xác định là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Công tác đó gắn liền với các bước đi của cách mạng; được thể hiện trên các mặt sau:


- Xoá bỏ cơ sở xã hội và điều kiện kẻ địch có thể lợi dụng. Ngay sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng và Nhà nước khẩn trương thực hiện một số chính sách lớn là: Khoanh vùng trấn phản, được tiến hành trong thời kỳ phục hồi và cải tạo xã hội. Công tác điều tra cơ bản được tiến hành đồng bộ; xác định rõ địa bàn xung yếu, nơi có nhiều ngụy quân, ngụy quyền, nơi tập trung các hang ổ phỉ và các tổ chức phản động manh động chống chính quyền để tổ chức trấn áp mạnh. Nhờ đó, bước đầu cơ sở xã hội cũ của địch bị xoá bỏ căn bản mà số này là đối tượng chủ yếu cho gián điệp móc nối. Tiếp theo, từ năm 1961, ta triển khai chính sách cải tạo những phần tử nguy hại cho an ninh xã hội. Công tác này được tiến hành với sự tham gia của toàn dân, do các cấp chính quyền cơ sở chủ trì, Công an hướng dẫn. Vì vậy không những đối tượng nguy hại cho an ninh xã hội bị cải tạo tại chỗ hoặc tập trung cải tạo mà còn phát triển thành cuộc vận động chính trị trong mọi tầng lớp nhân dân cũng như cán bộ trong cơ quan đơn vị. Cuộc vận động chính trị kéo dài liên tục tới hơn 10 năm, ta không chỉ tiến hành cải tạo những đối tượng nguy hại cho an ninh xã hội, mà từ đó đã tác động mạnh đến số có tư tưởng chống đối nhưng chưa bộc lộ, làm cho số này không dám manh động hoặc trở thành cơ sở của gián điệp khi chúng móc nối.


- Song song với việc triển khai những chính sách trên, Đảng và Nhà nước chủ trương phát động sâu rộng phong trào “bảo vệ trị an” và “bảo mật phòng gian”. Giá trị của việc vận động, tổ chức, hướng dẫn phong trào là quá trình giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, ý thức cảnh giác và kỹ năng phòng chống phản cách mạng đối với quần chúng nhân dân, cán bộ công nhân viên chức. Với sự hướng dẫn chuyên môn của Công an, quần chúng biết được cách thức phân biệt kẻ gian người ngay, nhận biết các sự vật, hiện tượng khả nghi và tham gia tích cực vào công tác phòng chống gián điệp. Thực tiễn đã cho thấy hầu hết các chuyên án đều có vai trò to lớn và hiệu quả của quần chúng nhân dân. Có thể hiểu rằng công tác chuẩn bị chiến trường thực chất là biểu hiện sinh động của cuộc chiến tranh nhân dân, huy động sức mạnh của toàn dân trên mặt trận đấu tranh chống phản cách mạng nói chung, chống gián điệp nói riêng.


- Với trọng trách là cơ quan chuyên môn, là lực lượng chủ công trong tổ chức đấu tranh, lực lượng An ninh đã chủ động chuẩn bị thế trận, thiết kế những tình huống để đối phương theo đuổi và sa bẫy. Dưới góc độ này hay góc độ khác, hầu như chuyên án nào cơ quan An ninh cũng thiết kế thành công những chiếc bẫy nghiệp vụ và dẫn dụ được đối phương ngay từ những vụ xâm nhập đầu tiên. Trong chuyên án C30, ta điều trinh sát xã hội hoá (T31) thâm nhập vào hàng ngũ Đại Việt để lót ổ ngay từ khi cơ quan CIA và bọn Đặng Văn Sung tuyển mộ điệp viên đưa ra nước ngoài đào tạo gián điệp. Đối với gián điệp biệt kích, trước khi Mỹ, ngụy tung các toán ra miền Bắc, cơ quan An ninh đã phối hợp với Công an vũ trang, dân quân du kích kiểm tra, kiểm soát địa hình, hang động, điểm cao,... và tập dượt thành thục các phương án truy lùng trong các điều kiện khác nhau. Trong KHCM12, ta chủ động triển khai tốt công tác an ninh địa bàn; chủ động bố trí trinh sát xã hội hoá dụ địch móc nối; chủ động xây dựng mật cứ giả cho những tên cầm đầu đi thị sát, kiểm tra... Đấu tranh chuyên án LH90, HC96, ta tiến hành kiểm soát chặt biên giới, cửa khẩu, các mục tiêu trọng điểm điệp viên sẽ tiếp cận;... Công tác chuẩn bị chiến trường có chiều sâu như vậy không những giúp ta nắm chắc âm mưu của đối phương mà còn truy bắt nhanh gọn khi các toán gián điệp vừa xâm nhập vào đất ta từ lúc chúng chưa kịp liên lạc về trung tâm. Đây là những điều kiện cần và đủ để cơ quan An ninh lập chuyên án đấu tranh với chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch”.


Thứ hai: Sử dụng người của địch để đánh lại địch chỉ có thể thành công khi giáo dục, cảm hoá được điệp viên làm cho điệp viên tự nguyên cộng tác và trung thành với ta. Thông thường khi bị bắt điệp viên đều ngoan cố, xảo quyệt và khai báo không trung thực nhằm bảo vệ tính mạng của mình, bảo vệ mạng lưới không bị đổ bể, đặc biệt là giấu giếm hoặc khai báo gian dối về mật khẩu an ninh, cơ sở móc nối, ám tín hiệu liên lạc. Khi bị khống chế, bị đẩy vào tình thế phải cộng tác nếu không làm tốt công tác giáo dục, cảm hoá thì điệp viên vẫn nuôi ý đồ phản phúc và tìm mọi cơ hội phản phúc hoặc cho ta “leo cây”. Để làm cho điệp viên tự nguyện cộng tác, tuyệt đối trung thành với ta là cả một nghệ thuật với nhiều biện pháp khác nhau, được tiến hành liên tục trong suốt quá trình sử dụng điệp viên. Song có thể quy thành những nội dung cơ bản sau: Phải hiểu biết về điệp viên, đánh gục tư tưởng chống đối của điệp viên, đối xử với điệp viên bằng tình cảm trong sáng và vị tha; đặt lòng tin vào điệp viên; giao nhiệm vụ và thử thách.


Trong các chuyên án gián điệp biệt kích thời kỳ chống Mỹ, khi sử dụng hiệu thính viên và toán trưởng để đấu tranh chuyên án, có một số chuyên án ta nặng về đấu lý, đe dọa, đè bẹp tư tưởng chống đối của điệp viên, chưa làm tốt công tác giáo dục, cảm hoá. Tình trạng chung là phân biệt đối xử, coi họ như những tù binh; thậm chí khi hiệu thính viên lên máy nhưng đài đối không trả lời, ta đã kỷ luật hoặc đưa điệp viên vào biệt giam, thậm chí khoá chân điệp viên,... Những chuyên án này thường xuất hiện những tình huống đáng tiếc như đã dẫn ở trên và trở thành bài học quý cho các giai đoạn sau. Khi ta triển khai KHCM12 và ĐN10, ban đầu các điệp viên bị bắt, không tự nguyện cộng tác nhưng sau đó đều được cán bộ chiến sĩ ta cảm hoá bằng tình cảm trong sáng, chỉ vẽ cho họ thấy lẽ phải, thấy tương lai, giúp họ tự chuyển đổi nhận thức. Có nhiều trường hợp cán bộ cao cấp của lực lượng An ninh trực tiếp chăm sóc khi điệp viên đau ốm; kịp thời động viên, khen thưởng bằng vật chất và tinh thần khi lập thành tích; cho phép nhiều điệp viên ở cùng nhau, cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cho phép điệp viên hoàn toàn làm chủ máy móc khi tiến hành liên lạc với Trung tâm. Bằng tình cảm trong sáng và đặt niềm tin vào điệp viên nên họ tự nguyện cộng tác, trung thành với ta. Khi đã tự nguyện cộng tác, điệp viên không chỉ làm tốt nhiệm vụ được giao mà hơn thế, chính họ còn tham mưu cho Ban chuyên án về ứng xử và đối sách thích hợp với những tên chỉ huy ở nước ngoài, gợi ý cho Ban chuyên án xây dựng phương án đấu trí sát hợp. Có trường hợp, điệp viên được giao những trọng trách trong một chiến dịch. Vấn đề sử dụng người của địch để đánh lại địch là vấn đề then chốt trong “trò chơi nghiệp vụ”. Theo thời gian, lực lượng An ninh ngày càng củng cố và hoàn thiện nguyên tắc và biện pháp tiến hành. Vì vậy, chúng ta chủ động thực hiện những đòn hiểm, không chỉ dẫn dụ kẻ địch, điều hết số gián điệp đã được huấn luyện về nước để bắt mà còn điều cả những tên cầm đầu về nước nhiều lần mà chúng không hề biết những người thân tín nhất của chúng đã cộng tác với cơ quan an ninh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #59 vào lúc: 06 Tháng Hai, 2022, 03:34:55 pm »

Thứ ba: Sử dụng phương tiện của địch để đánh lại địch là yếu tố kỹ thuật quan trọng, không thể thiếu trong đấu tranh chuyên án và ngày càng được nhuần nhuyễn. Phương tiện của địch, trước hết và chủ yếu là phương tiện thông tin liên lạc; ngoài ra còn có các loại khác như vũ khí, trang bị cá nhân,... đối phương đều kiểm soát rất chặt chẽ nhằm đảm bảo thông suốt, an toàn trong quá trình hoạt động của điệp viên. Đối với phương thức gián điệp biệt kích, hầu như trung tâm chỉ biết được sự an toàn của toán, kết quả hoạt động của toán thông qua báo cáo và kiểm tra an ninh bằng phương tiện thông tin liên lạc vô tuyên điện - VTĐ (kiểm tra mật khẩu an ninh, kiểm tra loại thiết bị liên lạc do trung tâm chỉ định, kiểm tra trang thiết bị, vũ khí của cá nhân,...). Việc sử dụng gián điệp mặt đất để kiểm tra là rất hãn hữu. Do đó, việc sử dụng phương tiện của địch để đánh lại địch là yêu cầu bắt buộc trong quá trình đấu tranh chuyên án. Muốn sử dụng có hiệu quả, Ban chuyên án phải chuẩn bị những điều kiện cần thiết ngay từ khi bắt được điệp viên, thu được phương tiện hoạt động của điệp viên. Tất cả phải được thống kê chính xác, riêng biệt đối với từng điệp viên, phải bảo quản chu đáo nhất, thuận tiện nhất cho việc sử dụng trong suốt quá trình đấu tranh chuyên án. Có như vậy, khi trung tâm chỉ huy kiểm tra an ninh của toán, của từng tên ta mới ứng phó kịp (đọc số súng cá nhân, liên lạc VTĐ bằng loại máy gì,...).


Để sử dụng phương tiện của địch có hiệu quả và tuyệt đối an toàn, phải kết hợp chặt chẽ giữa sử dụng phương tiện với giáo dục thuyết phục điệp viên, đặc biệt là đối với toán trưởng và hiệu thính viên vì họ chính là người nắm toàn bộ mật khẩu an ninh và trực tiếp lên máy liên lạc. Chỉ có như vậy mới đảm bảo rằng khi giao cho điệp viên sử dụng phương tiện, họ phát huy hết khả năng của mình và không phản phúc bằng chính phương tiện đó. Ngoài ra, điệp viên sử dụng phương tiện phải được làm chủ phương tiện, không có sức ép thì mới không bộc lộ những dấu hiệu bất thường; nhất là đối với hiệu thính viên (thói quen khi gõ manip, khuyết tật khi sử dụng máy của hiệu thính viên, thói quen khi sử dụng ngôn ngữ mã hoá tin tức,...). Chỉ có kết hợp thật tốt việc sử dụng người với sử dụng phương tiện mới đảm bảo tuyệt đối an toàn ở khâu cuối cùng, quan trọng nhất của “trò chơi". Trong toàn bộ cuộc đấu tranh chống gián điệp, cơ quan An ninh đã làm tốt khâu công tác này và ngày càng hoàn thiện nên đã đảm bảo tuyệt đối an toàn trong khâu sử dụng phương tiện của địch để liên lạc. Trong KHCM12 và ĐN10, ta sử dụng tới 5 hiệu thính viên của địch cùng các bộ máy VTĐ, tiến hành hàng ngàn phiên liên lạc trong 7 năm nhưng vẫn đảm bảo tuyệt đối an toàn. Từ trung tâm chỉ huy ở nước ngoài, thầy dạy các hiệu thính viên là K36 làm Tổng đài trưởng, thường xuyên nhận tin của các học trò nhưng cũng không thể phát hiện ra những dấu hiệu bất thường của các học trò mình.


Thứ tư: Kết thúc chuyên án khi áp dụng chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch” phải được tính toán chu đáo, đảm bảo không để lộ nguồn, không để địch nghi ngờ đối với các chuyên án khác. Do Trung tâm chỉ huy của đối phương không biết việc các điệp viên đã bị khống chế, sử dụng nên khi kết thúc chuyên án nếu không tính toán kỹ sẽ tạo ra yếu tố nghi ngờ. Đặc biệt là qua các thời kỳ cách mạng, lực lượng An ninh thường đồng thời đấu tranh nhiều chuyên án một lúc hoặc tiến hành những chiến dịch phản gián đồng bộ, vừa đấu tranh với các toán gián điệp, vừa bóc gỡ cơ sở ngầm, thậm chí ta mở những chiến dịch trấn áp mạnh trên địa bàn rộng với nhiều tổ chức phản động liên quan đến chuyên án “trò chơi”. Lực lượng An ninh đã tính toán chi tiết, dự đoán đúng diễn biến tình hình địch và áp dụng nhuần nhuyễn nhiều hình thức kết thúc chuyên án khác nhau về thời gian kết thúc, địa điểm kết thúc, hình thức kết thúc,... đảm bảo bí mật không chỉ một chuyên án liên quan mà bí mật cho toàn bộ các chuyên án cùng thời điểm hoặc cả chiến dịch trên địa bàn rộng, nhiều đối tượng. Ví dụ, một số chuyên án gián điệp biệt kích, qua liên lạc VTĐ, ta hướng cho đối phương gọi toán gián điệp rút bằng đường bộ qua Lào. Khi có lệnh của Trung tâm, ta duy trì liên lạc đến đất Lào và đột ngột mất liên lạc; hoặc ta tuyên truyền công khai về việc lực lượng vũ trang đã truy quét một toán phỉ;... Trong KHCM12, ta thiết kế nhiều tình huống làm cho các tổ chức phản động liên quan với CM12 phải bộc lộ và trấn áp mạnh trên địa bàn rộng gồm hàng ngàn đối tượng; đưa ra truy tố hàng trăm tên gián điệp trong đó có cả những tên cầm đầu, nhưng Lê Quốc Tuý và số cầm đầu ở nước ngoài vẫn không biết hoạt động của chúng đã bị lực lượng An ninh điều khiển.


Nhìn lại lịch sử đấu tranh chống gián điệp ở nước ta hơn nửa thế kỷ qua, thấy rõ đối tượng đấu tranh của chúng ta đều là những đối tượng sừng sỏ nhất đương thời, dày dạn kinh nghiệm tổ chức hoạt động gián điệp ở nhiều quốc gia; nhưng trên chiến trường Việt Nam chúng đều bị thất bại. Ta không chỉ làm phá sản âm mưu của kẻ địch mà còn dụ chúng vào trận địa đã chuẩn bị sẵn hoặc điều khiển trung tâm chỉ huy của địch hoạt động theo sự sắp đặt của mình bằng chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch”.


Trong bối cảnh lịch sử ngày nay, trận tuyến đấu tranh chống gián điệp không chỉ gay go, quyết liệt mà đối phương thường sử dụng khoa học công nghệ cao, có điều kiện ngụy trang, tạo vỏ bọc chắc chắn vì “đối tượng cũng có thể là đối tác" của thời kỳ hội nhập sâu rộng. Vì vậy, vận dụng bài học lịch sử trên không chỉ là nguyên tắc mà còn phải tiếp tục bổ sung cho sát hợp với thực tiễn, nâng tầm ở trình độ cao hơn và nhuần nhuyễn hơn mới có thể giành thắng lợi trọn vẹn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM