Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 02:04:06 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 3  (Đọc 4046 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #70 vào lúc: 12 Tháng Sáu, 2021, 07:32:40 pm »

Về quyết tâm kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ cơ bản của cơ quan lãnh đạo kháng chiến, Người nêu rõ rằng, trước họa xâm lăng của chủ nghĩa phát xít, sứ mệnh lịch sử của cơ quan lãnh đạo kháng chiến là "đặt cơ sở vững chắc cho một nền dân chủ không thể thiếu được đối với việc động viên và tổ chức nhân dân. Nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân là kiên quyết tiến hành một cuộc kháng chiến lâu dài, phát triển và củng cố Mặt trận dân tộc, khắc phục mọi gian khổ khó khăn, tăng cường lực lượng chống xâm lược. Sự đoàn kết nhất trí giữa cơ quan lãnh đạo kháng chiến với nhân dân là điều cần thiết để thực hiện nhiệm vụ ấy. Muốn kháng chiến thắng lợi, nhân dân phải góp sức mạnh tinh thần và vật chất, tăng cường đoàn kết, tích cực đấu tranh và xây dựng đất nước. Phải kiên quyết đấu tranh loại trừ chủ nghĩa thất bại, chủ nghĩa bi quan, triệt để chống mọi khuynh hướng thỏa hiệp, đầu hàng.


Về chiến lược kháng chiến, Người viết rõ, chiến lược "đánh mạnh, thắng nhanh" của quân xâm lược đã bị thất bại trước chiến lược "kháng chiến lâu dài" của nhân dân; còn chiến lược "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" thì giống như "cái tham vọng muốn khai hoang một núi lửa! Làm sao chúng có thể khai thác được một nước mà ở hậu phương đang mọc lên tua tủa những giáo mác và súng trường của du kích, còn ở tiền phương thì bị súng trường và súng liên thanh của bộ đội chúng tôi chặn lại?"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.160). Đến lượt nó, chiến lược ấy cũng bị đập tan bởi sức mạnh đoàn kết của Mặt trận dân tộc chống Nhật.


Nêu bật địa vị chiến lược của chiến tranh du kích ở các vùng sau lưng địch, Nguyễn Ái Quốc đánh giá việc quân Nhật kiểm soát được một vùng rộng lớn là tổn thất của nhân dân Trung Quốc, nhưng về phía phát xít Nhật thì đó cũng không phải là thắng lợi. Người giải thích: trong tổng số 1.038 huyện ở 12 tỉnh bị chiếm, chỉ có 65 huyện hoàn toàn bị đặt dưới sự kiểm soát của quân đội Nhật, trên 900 huyện đang là căn cứ của du kích và hoàn toàn do nhân dân Trung Quốc làm chủ, còn ở những huyện khác, quân Nhật chỉ kiểm soát được từng phần hoặc chiếm đóng ở tỉnh lỵ, huyện lỵ và các con đường lớn, chúng không dám đi vào các làng mạc. Những nơi địch chiếm đóng, du kích đánh giặc bằng mưu mẹo và bất ngờ, chưa chắc thắng thì chưa đánh. Du kích tiến công khi kẻ địch bất ngờ nhất. Du kích tổ chức ở cả rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị. Du kích bao gồm công nhân, nông dân; đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, thậm chí thu hút cả những người nước ngoài có tinh thần chống phát xít.


Phân tích những chỗ yếu của phát xít Nhật, Người viết rằng, chiến tranh càng kéo dài, Nhật Bản càng gặp nhiều khó khăn. Tình hình càng tồi tệ, giá cả sinh hoạt tăng, công nhân thất nghiệp, tiểu chủ phá sản, binh lính ra trận chỉ thấy đưa về những bình nhỏ đựng di hài hoặc những phiếu nhỏ ghi "đã hy sinh ở chiến trường". Thêm vào đó, nỗi khốn khổ của những cuộc hành quân, các cuộc tiến công dồn dập của du kích khiến binh lính Nhật mất tinh thần, hoảng loạn. Lòng cuồng tín không còn nữa, nhiều cuộc binh biến trong quân xâm lược nối lên. Nếu nhìn về mặt quốc tế, sẽ thấy "chủ nghĩa phát xít Nhật - uy hiếp mọi người và gây chiến với mọi người - đang lâm vào tình trạng ngày càng bị cô lập"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.161).


Về những nhân tố thắng lợi của cuộc kháng chiến, Người nêu rõ "thiên thời, địa lợi, nhân hòa" là ba yếu tố cần thiết cho chiến thắng. Toàn dân đánh giặc, ai có tiền góp tiền, ai có sức góp sức, mỗi người dân là một chiến sĩ quyết tâm đánh giặc đến cùng, cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc chống quân xâm lược Nhật nhất định thắng lợi.


Với những bài báo viết từ Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời tổng kết và phổ biến về nước những vấn đề chiến lược, chiến thuật quân sự rút ra từ cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc chống phát xít Nhật. Điều đó phản ánh tầm nhìn của Người trong việc chuẩn bị cho cách mạng Việt Nam đối phó với kẻ thù mới - tức phát xít Nhật. Đây là một bước phát triển mới về nhận diện kẻ thù để chuẩn bị lực lượng đối phó thắng lợi với chúng. Nếu như trước đó 15 năm, nhận thấy dấu hiệu khác thường của các nước đế quốc tăng cường hoạt động quân sự ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Người đã viết một loạt bài báo nổi tiếng đăng trên tập san Inprekorr, lưu ý Quốc tế Cộng sản về nguy cơ khu vực này "tương lai có thể trở thành một lò lửa của chiến tranh thế giới mới"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.264), thì lần này, Người lưu ý cách mạng Việt Nam chuẩn bị đối phó với phát xít Nhật trong tương lai gần. Sau này, qua nhiều nguồn tài liệu, ta biết được kế hoạch quân sự của giới chóp bu Nhật trong ý đồ đánh chiếm khu vực Đông Nam Á và thực tế ở Đông Dương lúc đó, mạng lưới tình báo quân sự do Machưxita cầm đầu, sau 10 năm ráo riết hoạt động đã nắm được lực lượng phòng thủ của thực dân Pháp ở Đông Dương. Chỉ một thời gian rất ngắn sau các bài báo của Nguyễn Ái Quốc gửi về nước, giới quân phiệt Nhật quyết định hành động xâm lược Đông Dương (1940). Đến đây, kẻ thù mới của cách mạng Việt Nam đã lộ rõ nguyên hình.


Việc Người phân tích kẻ thù nguy hiểm, cung cấp thông tin về các thủ đoạn quân sự, nêu rõ nội tình và những khó khăn của quân đội Nhật trên đất Trung Quốc giúp cho các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở trong nước và quần chúng nhân dân nhận rõ tình hình, mượn kẻ thù để chuẩn bị lực lượng, khai thác mâu thuẫn giữa kẻ thù cũ và kẻ thù mới, tổ chức đấu tranh với các hình thức thích hợp, thúc đẩy cách mạng phát triển. Với những bài báo gửi về nước đăng trên tuần báo Notre Voix, Người đã phổ biến kinh nghiệm của nhiều nước trong việc chống chủ nghĩa Tờrốtxki nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; kinh nghiệm về tổ chức cơ quan lãnh đạo kháng chiến, cách thức động viên tổ chức nhân dân chống xâm lược và hoạt động tác chiến của bộ đội và du kích trên chiến trường - những vấn đề cơ bản về chiến lược, chiến thuật quân sự. Cùng với tác phẩm Tự chỉ trích của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, những bài viết từ Trung Quốc trong nửa đầu năm 1939 của Nguyễn Ái Quốc có giá trị lý luận và chỉ đạo thực tiễn to lớn ở thời điểm giao thời, trước khi Việt Nam bước vào tình thế cách mạng trực tiếp là chuẩn bị lực lượng và tiến hành khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền về tay nhân dân.


Như vậy, từ tháng 2-1930 đến tháng 10-1939, tuy chưa phải là thời kỳ trực tiếp đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc, nhưng để "dự bị điều kiện" cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi cả nước "chắc chắn sẽ nổ ra" - như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định từ năm 1924, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đấu tranh cách mạng sôi nổi. Từ trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939, lực lượng chính trị không ngừng phát triển và được tôi luyện trong đấu tranh, Đội Tự vệ đỏ - mầm mống lực lượng vũ trang cách mạng ra đời. Đồng thời, Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị, thư từ, v.v... đề cập đến nhiều nội dung trong lĩnh vực quân sự.


Trong thời kỳ 1930 - 1939, tư tưởng quân sự của Đảng bao gồm những quan điểm chủ yếu như: Khẳng định quan điểm cách mạng bạo lực "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến", làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; Phương thức cơ bản để giành chính quyền về tay nhân dân là khởi nghĩa vũ trang; Đấu tranh chính trị cũng như đấu tranh vũ trang là sự nghiệp của quần chúng; Nhiệm vụ chính trị quyết định nhiệm vụ quân sự, "tổ chức quân đội công nông", "bộ quân sự của Đảng", tổ chức lực lượng tự vệ rộng khắp là nhằm thực hiện các nhiệm vụ do Đảng xác định; Phản đối chiến tranh đế quốc, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc; Coi trọng công tác vận động binh lính trong hàng ngũ đối phương, ra sức tuyên truyền lôi kéo họ sang phe cách mạng; Phòng thủ Đông Dương một cách tích cực chủ động; Tăng cường khối đoàn kết dân tộc, tổ chức nhân dân chuẩn bị chổng phát xít Nhật xâm lược... Những quan điểm quân sự đó phản ánh sâu sắc quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng, quan điểm thực tiễn, phù hợp với hoàn cảnh đấu tranh cách mạng hồi đó. Đó là cơ sở tư tưởng lý luận soi sáng cho cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới, đồng thời là nền móng vững chắc để Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ai Quốc - Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung phát triển trong thời kỳ trực tiếp lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền về tay nhân dân trong cả nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #71 vào lúc: 13 Tháng Sáu, 2021, 07:20:04 pm »

Chương IV
TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ 1939-1945


I- CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC, ĐẶT NHIỆM VỤ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC LÊN TRÊN HẾT

Chiến lược chung của cách mạng Việt Nam như Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2-1930) vạch ra bao gồm hai nhiệm vụ: phản đế, phản phong. Hai nhiệm vụ chiến lược đó không thay đổi. Nhưng đến cuối năm 1939, do tình hình trên thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến mới nên cách mạng phải có chuyển hướng chỉ đạo chiến lược để giành thắng lợi.


1. Quan điểm chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong các văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (1939) và lần thứ bảy (1940)

Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Trong khi ở châu Âu phát xít Đức tiến công nước Pháp, thì ở châu Á, phát xít Nhật ráo riết chuẩn bị tiến quân xâm lược Đông Dương và khu vực Đông Nam Á, mở rộng chiến tranh ở châu Á - Thái Bình Dương. Tại Việt Nam, thực dân Pháp khủng bố trắng, bắt bớ, giam cầm, sát hại các chiến sĩ cách mạng. Đi đôi với việc đàn áp, khủng bố, thực dân Pháp ra sức vơ vét sức người, sức của khiến cho nhân dân Việt Nam vô cùng khốn khổ, bần cùng. Tình hình đó đòi hỏi cách mạng Việt Nam phải có những sáng tạo mới nhằm khắc phục những khó khăn cực kỳ to lớn do kẻ thù gây ra, đồng thời khai thác được những thuận lợi do tình thế mới đem lại.


Từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Bà Điểm (Gia Định) dưới sự chủ trì của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Hội nghị nhận định con đường sống còn duy nhất của các dân tộc Đông Dương lúc này là phải đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả bọn ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng, để giành lấy độc lập dân tộc. Sự bóc lột tàn bạo của đế quốc Pháp, ở Đông Dương để cung cấp cho chiến tranh sẽ làm cho nhân dân Đông Dương "ngày càng cách mệnh hóa". Cuộc đấu tranh đánh đổ thực dân Pháp của nhân dân Đông Dương nhất định sẽ bùng nổ. Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh: "Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không giải quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại không giải quyết được cách mệnh phản đế thì không giải quyết được cách mệnh điền địa - cái nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.538-539).


Để đoàn kết rộng rãi toàn dân, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (thay cho Mặt trận dân chủ) với nhiệm vụ mới gồm 14 điểm, về chính trị: Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa ở xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc. Về kinh tế, quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao cho thợ thuyền quản lý; tịch ký và quốc hữu hóa ruộng đất của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc, lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy (tức là mới thực hiện một phần nhiệm vụ phản phong), về quân sự, "đánh đuổi hải lục không quân của đế quốc Pháp ra khỏi xứ, lập quốc dân cách mệnh quân"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.542). Đi đôi với việc chuyển hướng về tổ chức, Hội nghị cũng đặt vấn đề chuyển hướng về tư tưởng. Hội nghị cho rằng, trong hoạt động thực tiễn, vừa phải xây dựng những tổ chức hợp pháp, đơn giản, rộng rãi, vừa phải xây dựng dựng các đoàn thể theo hướng bí mật. Phải chuyển từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật, chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa vũ trang, về tuyên truyền, các báo Giải phóng (Bắc Kỳ), Bẻ xiềng sắt (Trung Kỳ), Tiến lên (Nam Kỳ) phát hành bí mật, tuyên truyền, cổ vũ quần chúng đấu tranh.


Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược với các nội dung mà Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu đề ra là kịp thời và đúng hướng. Tuy nhiên, đây mới là sự chuyển hướng bước đầu, nên có nhiều điểm cần bổ sung và hoàn chỉnh thêm. Chẳng hạn, các khẩu hiệu hành động mà Hội nghị nêu ra vẫn là: "Chống đế quốc chiến tranh", "Chống sưu cao, thuế nặng", "Đòi hòa bình cơm áo"..., chứ chưa đề cập đến khẩu hiệu đấu tranh vũ trang.


Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu, phong trào quần chúng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy đảng bắt đầu phát triển mạnh. Số quần chúng có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam lên đến hàng chục vạn người. Ngoài ra, còn có nhiều quần chúng trong các hội tương tế, ái hữu công khai và các phường hội ở thôn quê chịu ảnh hưởng của Đảng. Các cơ sở của Đảng bị tổn thất do cuộc khủng bố tháng 9-1939 của thực dân Pháp đã được khôi phục lại, ngày càng có nhiều người gia nhập Đảng.


Giữa năm 1940, những chuyển biến dồn dập của cuộc chiến tranh ở châu Âu đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới và tình hình Đông Dương. Với chiến lược "chớp nhoáng", quân Đức chiếm đóng Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Lúcxămbua rồi đến ngày 14-6-1940 tiến quân vào Pari. Ngày 22-6-1940, Pháp đầu hàng không điều kiện. Tin đó đến khi Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Trung Quốc. Người họp Ban cán sự của Đảng ở nước ngoài, nhận định: Việc Pháp bại trận là một cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng1 (Xem Đầu nguồn, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr.234). Người báo cho đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp thôi không đi Diên An học chính trị và quân sự nữa, mà về nước để hoạt động. Trong khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng thì tình hình Đông Dương có chuyển biến lớn. Ngày 22-9-1940, quân Nhật vượt biên giới Trung - Việt đánh chiếm Lạng Sơn. Ngày 23-9-1940, thực dân Pháp ký hiệp định đầu hàng phát xít Nhật. Ngay sau khi quân Nhật vào Lạng Sơn, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân châu Bắc Sơn khởi nghĩa, xóa bỏ chính quyền đế quốc, lập ra đội du kích Bắc Sơn.


Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và Đông Dương, để kịp thời lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng, từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ bảy đã họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh... Hội nghị thảo luận và khẳng định chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu là đúng đắn và bổ sung thêm. Nghị quyết Hội nghị xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là phát xít Pháp - Nhật; Mặt trận dân tộc thống nhất tuy vẫn gọi là "phản đế", nhưng cần làm rõ thêm tính chất cứu quốc của các hội quần chúng trong Mặt trận. Nghị quyết phân tích phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương và nhận định: "Quần chúng đã bắt đầu dùng những hình thức tranh đấu cao - tranh đấu chính trị và võ trang"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.58); tuy vậy, "chúng ta chưa đứng trước một tình thế trực tiếp cách mạng"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.58). Nhưng Nghị quyết cũng lưu ý rằng, một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi lên, do đó, "Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.58). Hội nghị chủ trương mở rộng các Đội Tự vệ bằng cách lựa chọn người trong các đoàn thể Mặt trận, thực hiện võ trang cho dân chúng, tiến tới "thành lập nhân dân cách mạng quân"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.69).


Về chỉ đạo cụ thể, sau khi nghe báo cáo kết quả của khởi nghĩa Bắc Sơn, Hội nghị quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập căn cứ địa du kích, lấy Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm do Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo. Về đề nghị khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ, sau khi nghe báo cáo của đồng chí Phan Đăng Lưu về tình hình miền Nam, Hội nghị nhận định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ cũng như trong cả nước đều chưa chín muồi, vì vậy, chưa nên khởi nghĩa. Lúc này chỉ nên dùng những hình thức đấu tranh chính trị và kinh tế chống thực dân Pháp và phát xít Nhật, chuẩn bị lực lượng, khi có thời cơ tốt sẽ khởi nghĩa vũ trang đánh đuổi Pháp - Nhật. Hội nghị cử đồng chí Phan Đăng Lưu về truyền đạt chủ trương của Trung ương Đảng cho Xứ ủy Nam Kỳ. Cả hai chủ trương chỉ đạo cụ thể đó đều rất đúng đắn. Riêng chủ trương hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, đồng chí Phan Đăng Lưu về chưa tới nơi để truyền đạt chỉ thị của Trung ương Đảng thì khởi nghĩa đã nổ ra.    Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ bảy có ý nghĩa rất quan trọng. Hội nghị đã chuẩn bị điều kiện để chuyển hướng hình thức đấu tranh và đã có chủ trương đúng đắn giữ gìn lực lượng chính trị, duy trì và phát triển lực lượng vũ trang, là cơ sở cho đấu tranh vũ trang sau đó giành thắng lợi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #72 vào lúc: 13 Tháng Sáu, 2021, 07:21:36 pm »

2. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (1941) hoàn chỉnh chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết

Ngay sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ bảy, Trung ương đã cử đồng chí Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng sang Trung Quốc xin chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tháng 12-1940, sau khi nghe đồng chí Hoàng Văn Thụ báo cáo tình hình trong nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết định triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám. Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngày 8-2-1941; Người đến hang Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) với bí danh Già Thu. Tại đây, Người chỉ đạo phong trào toàn quốc và khẩn trương chuẩn bị các văn kiện Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng. Dưới sự chỉ đạo của Người, phong trào cách mạng cả nước có bước phát triển mới, đặc biệt là phong trào cách mạng ở Cao Bằng lên cao. Cuối tháng 4-1941, Người giao nhiệm vụ cho đồng chí Vũ Anh triệu tập Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Cao Bằng để rút kinh nghiệm việc tổ chức thí điểm Mặt trận Việt Minh ở ba huyện Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình1 (Xem Lê Quảng Ba: Bác Hồ và đội du kích Pác Bó, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1994, tr.101). Qua thảo luận, Hội nghị kết luận: Mặt trận Việt Minh ra đời phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nên được nhân dân các dân tộc hưởng ứng và tham gia đông đảo.


Sau khi tổng kết kinh nghiệm tổ chức thí điểm Việt Minh ở Cao Bằng để có thêm căn cứ thực tiễn, từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám họp ở Khuổi Nậm (Pác Bó, Cao Bằng) dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên cùng một số đại biểu của Xứ ủy Trung Kỳ, Bắc Kỳ và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài. Hội nghị nhận định rằng: Phát xít Đức đánh Liên Xô nhưng sẽ không tránh khỏi bị tiêu diệt. Phe Đồng minh chống phát xít nhất định sẽ thắng lợi. Cuộc cách mạng của nhân dân Đông Dương đứng về phe chống phát xít nhất định cũng sẽ thành công. Phân tích tình hình Đông Dương, Hội nghị cho rằng: "Tất cả bộ máy kinh tế đều chiến tranh hóa" và "tất cả bộ máy cai trị đã bị phát xít hóa". Kẻ thống trị Đông Dương về danh nghĩa vẫn là đế quốc Pháp, nhưng trên thực tế thì chiếm được Đông Dương, Nhật đã "làm chủ hẳn về các mặt kinh tế, quân sự, làm thầy về mặt chính trị và dần dần muốn làm chủ cả về tinh thần nữa"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.106). Tuy vậy, kẻ thù chính lúc này vẫn là Pháp - Nhật, chúng "không phải chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.112).


Phát triển tư tưởng của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (11-1939) và lần thứ bảy (11-1940), Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941) khẳng định: "Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật... Vấn đề giai cấp đấu tranh vẫn tồn tại mãi. Nhưng trong giai đoạn hiện tại, quốc gia trước hết, thì tất thảy những yêu sách của bộ phận mà có hại đến quyền lợi của toàn thể, của giai cấp mà có hại đến quyền lợi của dân tộc, thì phải gác lại để giải quyết sau"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.112-113).


Để rõ thêm quan điểm mấu chốt này, Nghị quyết giải thích: Vì cuộc tranh đấu trong lúc này Đảng ta phải chú ý lãnh đạo cuộc tranh đấu chống Pháp - Nhật, chĩa tất cả mũi nhọn vào kẻ thù của dân tộc hơn là chú ý lãnh đạo cuộc tranh đấu giành quyền lợi cho giai cấp. Phải giải thích cho nhân dân biết rằng, lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi của toàn thế dân tộc. Cho nên, trong lúc này "cuộc tranh đấu chống địa chủ, tư bản bản xứ không quan trọng bằng cuộc tranh đấu chống Pháp - Nhật"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.128). Tuy nhiên, ta không bỏ qua quyền lợi của bộ phận. Mỗi khi quyền lợi thợ thuyền và dân cày bị bọn tư bản và địa chủ thẳng tay đục khoét, mỗi khi quyền lợi của hai giai cấp xung đột nhau đến cực điểm mà Đảng ta xét cuộc tranh đấu là cần thiết, thì Đảng phải cương quyết lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy.


Đồng thời với việc nhấn mạnh "vấn đề dân tộc giải phóng", Nghị quyết Hội nghị cũng nêu rõ vấn đề "dân tộc tự quyết". Nghị quyết giải thích rằng, đã nói đến vấn đề dân tộc tức là nói đến sự tự do, độc lập của mỗi dân tộc, tùy theo ý muốn của mỗi dân tộc. Nói như thế nghĩa là sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật, ta phải thi hành đúng chính sách "dân tộc tự quyết" cho các dân tộc Đông Dương. Các dân tộc ở Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc quốc gia tùy ý. Sự tự do, độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng.


Để lãnh đạo cách mạng thắng lợi, Nghị quyết Hội nghị khẳng định: "Cần phải thay đổi chiến lược. Sự thay đổi về kinh tế, chính trị Đông Dương, sự thay đổi thái độ, lực lượng các giai cấp Đông Dương, buộc Đảng ta phải thay đổi chính sách cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nguyện vọng chung của toàn thể nhân dân Đông Dương, cho hợp với tình hình thay đổi, Đảng ta phải có một chính sách cách mạng thích hợp với tình trạng ấy, mới chỉ dẫn cuộc cách mạng đến thắng lợi chắc chắn được"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.118).


Nhằm tập hợp lực lượng đông đảo của nhân dân, chĩa mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chính là Pháp - Nhật, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh và đổi tên các tổ chức quần chúng cách mạng là Hội Cứu quốc. Hội nghị quyết định tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng của địa chủ chia cho dân cày và đề ra khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, tiến tới thực hiện người cày có ruộng.


Trong việc chuẩn bị lực lượng, Hội nghị nhận định rằng, nếu không có phong trào chính trị rộng lớn của quần chúng cách mạng thì không thể có khởi nghĩa thắng lợi. Cho nên việc chủ yếu và quan trọng hơn hết là phải tuyên truyền, tổ chức quần chúng, mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc. Trên cơ sở lực lượng chính trị hùng hậu của quần chúng mà tổ chức ra lực lượng vũ trang với quy mô thích hợp, không ngừng phát triển mạnh mẽ. Công tác tuyên truyền, tổ chức quần chúng phải tiến hành trong cả nước, nhưng đặc biệt lưu ý ở những địa bàn xung yếu, có tác dụng quyết định.


Hội nghị quyết định chọn miền rừng núi Việt Bắc để xây dựng căn cứ vũ trang, lấy Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai làm hai điểm trung tâm, làm bàn đạp phát động đấu tranh vũ trang thúc đẩy phong trào cách mạng trong cả nước. Hội nghị dự kiến là sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp và phát xít Nhật sẽ thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tổ chức Việt Nam nhân dân cách mạng quân và võ trang dân chúng.


Ngày 19-5-1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám bế mạc. Cùng ngày, Mặt trận Việt Minh được thành lập. Các tổ chức quần chúng tham gia Mặt trận là các Hội Cứu quốc. Nhằm động viên, cổ vũ toàn dân hăng hái tham gia cách mạng, Trung ương Đảng ra lời kêu gọi nhân dân: "không phân biệt nam nữ, tuổi tác, giai cấp, tầng lớp, tôn giáo hãy từ bỏ những bất đồng để thành lập một Mặt trận thống nhất các dân tộc phản đế Đông Dương, người thì đem sức lực của mình, người thì đem của cải của mình ra, hy sinh trong cuộc đấu tranh giành tự do cho đất nước mình"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.164).


Như vậy, trước sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước, Trung ương Đảng đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đó được biểu hiện tập trung ở các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu, bảy, tám. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (11-1939) là bước khởi đầu của quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941) có tầm quan trọng đặc biệt, đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng, khẳng định mạnh mẽ nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết thảy, chuyển hướng hình thức đấu tranh từ đấu tranh chính trị tiến lên đấu tranh vũ trang và cách tiến hành tổ chức, phát triển lực lượng cách mạng. Từ đây, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mới: Thời kỳ trực tiếp chuẩn bị lực lượng và tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân trong cả nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #73 vào lúc: 13 Tháng Sáu, 2021, 07:24:12 pm »

II- CÁC QUAN ĐIỂM VỀ XÂY DỰNG THỰC LỰC CÁCH MẠNG VỮNG MẠNH, ĐEM SỨC TA MÀ TỰ GIẢI PHÓNG CHO TA

Công cuộc giải phóng dân tộc trong thời đại mới muốn thành công, theo Nguyễn Ái Quốc, thì phải giải quyết được mối quan hệ giữa yếu tố bên trong và bên ngoài, trong đó yếu tố bên trong mang tính quyết định. Các dân tộc muốn được giải phóng, trước hết phải trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Từ quan điểm cơ bản này, ngay khi mới về nước cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng, Người và Đảng đã nêu ra nhiều quan điểm mới, đồng thời đề ra nhiều giải pháp thực hiện để xây dựng và phát triển thực lực cách mạng hùng hậu, rộng khắp trên các địa bàn cả nước.


1. Xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang vững mạnh

Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định quan điểm: "Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.283); "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.297). Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941) khẳng định lại quan điểm trên và nhấn mạnh rằng, nếu không có lực lượng cách mạng (bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang) hùng hậu thì không thể có khởi nghĩa thắng lợi. Cho nên, việc chủ yếu và quan trọng lúc này là phải xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Để tư tưởng đó đi vào cuộc sống, thành hiện thực, Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã đề ra các giải pháp thực hiện rất sáng tạo.


Thứ nhất, chú trọng công tác tuyên truyền, giác ngộ, cổ vũ quần chúng tham gia cách mạng, về vấn đề này, trước khi rời nước Pháp (năm 1923), Nguyễn Ái Quốc đã viết thư để lại cho các bạn cùng hoạt động, nêu rõ những suy nghĩ và quyết tâm của mình: "Trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.209). Mười tám năm sau khi đã trở về nước, Người quyết tâm thực hiện hoài bão cao đẹp đó. Trong nhiều năm trước đó, do hoàn cảnh dân tộc ta bị thực dân Pháp thống trị lâu ngày, nhiều cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra (kể cả cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ và binh biến Đô Lương) nhưng đều không thành công, tâm lý tự ti xuất hiện trong một bộ phận các tầng lớp xã hội. Để "thức tỉnh" nhân dân, Người viết thư Kính cáo đồng bào (6-6-1941), phân tích rõ các cuộc đấu tranh trước đó chưa thành công "không phải vì đế quốc mạnh, nhưng một là vì cơ hội chưa chín, hai là vì dân ta chưa hiệp lực đồng tâm"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.230). Kế đó, Người sáng lập ra tờ báo Việt Nam độc lập nhằm làm cho dân ta "biết kết đoàn tổ chức/Cho ta hay sức lực của ta/Cho ta biết chuyện gần xa/Cho ta biết nước non ta là gì"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.236). Báo Việt Nam độc lập tuy khổ nhỏ, chỉ có 2 trang, nhưng những bài viết trên báo không những kịp thời vạch trần mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của phát xít Nhật, Pháp và tay sai mà còn cổ động, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia cách mạng. Nguyễn Ái Quốc thường xuyên viết bài, phân tích sâu sắc nhiệm vụ cách mạng, giúp cho cán bộvvà nhân dân hiểu đúng tình hình và hành động đúng với các chủ trương của Đảng. Từ ngày 1-8-1941 đến tháng 8-1942, bên cạnh các bài viết lý luận cô đọng, dễ hiểu, Người còn viết rất nhiều bài thơ dễ thuộc, phù hợp với trình độ của quần chúng, động viên các giới đồng bào tham gia cách mạng. Bên cạnh các bài viết về lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam như bài Nên học sử ta (1-2-1942) và Lịch sử nước ta (2-1942), Người còn biên dịch nhiều tác phẩm quân sự nổi tiếng của phương Đông cổ đại như Phép dùng binh của ông Tôn Tử, Cách huấn luyện cán bộ quân sự của Khổng Minh; biên soạn nhiều tác phẩm khái quát kinh nghiệm tổ chức và hoạt động du kích chống phát xít ở nhiều nước.


Những tác phẩm đó vừa khêu gợi ở quần chúng truyền thống yêu nước, tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh vì sự nghiệp cứu nước, vừa trang bị cho cán bộ và nhân dân những tri thức quân sự cần thiết, nhằm tăng thêm khả năng chống giặc có hiệu quả của quần chúng khi cách mạng chuyển lên hình thức đấu tranh vũ trang.


Thứ hai, thành lập Mặt trận Việt Minh, tổ chức quần chúng vào các Hội Cứu quốc do Đảng lãnh đạo. Đây là vấn đề cấp bách đặt ra vào đầu những năm 40 của thế kỷ XX và đã được Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giải quyết rất sáng tạo. Từ tháng 10-1940, Nguyễn Ái Quốc đã nêu chủ trương: "Ta phải nghĩ đến việc lập một hình thức mặt trận thật rộng rãi, có tên gọi cho thích hợp. Việt Nam giải phóng đồng minh? Hay là Việt Nam độc lập đồng minh, có thể gọi tắt là Việt Minh cho nhân dân dễ nhớ"1 (Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr.33). Khi về nước vào đầu năm 1941, Người quyết định xây dựng thí điểm Việt Minh ở ba châu Hòa An, Hà Quảng, Nguyên Bình (Cao Bằng). Người cử những cán bộ Đảng dày dạn kinh nghiệm công tác quần chúng như Hoàng Văn Thụ, Vũ Anh theo dõi công tác thí điểm Việt Minh để kịp thời rút kinh nghiệm, sau đó nhân ra trên diện rộng. Bước đi và phương pháp tiến hành công tác xây dựng thí điểm Việt Minh thế hiện tính khoa học, tính thực tiễn của một chủ trương lớn.


Sau ba tháng thí điểm Việt Minh, ở ba châu Hòa An, Hà Quảng, Nguyên Bình đã có 2.000 người, gồm đủ các thành phần dân tộc, các tầng lớp, tham gia các tổ chức cứu quốc. Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Ngay khi mới ra đời, Mặt trận Việt Minh đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia cách mạng. Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Với Chương trình rộng rãi gồm 44 điểm nhằm: "1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.470). Mặt trận Việt Minh đã phất cao ngọn cờ dân tộc, đưa ra những chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với nguyện vọng của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam nên đã thu hút nhân dân về phía mình và được sự ủng hộ rộng rãi của các lực lượng yêu nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #74 vào lúc: 13 Tháng Sáu, 2021, 07:25:07 pm »

Từ cuối năm 1941 đến năm 1942, các hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Tự vệ cứu quốc, v.v. đã được thành lập. Phong trào Việt Minh phát triển rầm rộ với sự hưởng ứng rộng rãi của nhân dân. Tuy nhiên, cho đến cuối năm 1942, phong trào cách mạng của quần chúng vẫn chưa đồng đều, mới chỉ phát triển nhanh, mạnh ở địa bàn rừng núi và nông thôn, còn ở thành thị phong trào chưa mạnh. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này thì khởi nghĩa khó nổ ra ở trung tâm kinh tế, chính trị của quân thù, và như vậy, khởi nghĩa không có tính chất toàn quốc, không giải quyết được vấn đề lực lượng và cơ sở vật chất cho cuộc tổng khởi nghĩa đang đến gần. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp từ ngày 25 đến ngày 28-2-1943, bàn về việc mở rộng Mặt trận Việt Minh. Hội nghị đề cập đến nội dung mới là xác định đúng mức tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng chính trị ở thành thị, đặt vấn đề cần phải vận động công nhân tham gia cách mạng mạnh mẽ hơn nữa. Thực hiện chủ trương đúng đắn của Thường vụ Trung ương Đảng, các cấp ủy đảng ở các thành phố và khu công nghiệp đã nỗ lực hoạt động, thúc đẩy phong trào tiến nhanh.


Với sự phát triển rộng khắp của phong trào Việt Minh, Đảng ta có điều kiện đế tổ chức, phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng các căn cứ địa và chiến khu ở ba miền đất nước.


Thứ ba, đưa quần chúng ra đấu tranh với các hình thức thích hợp. Theo quan điểm của Đảng, đấu tranh vũ trang là rất quan trọng và không thể thiếu trong cuộc khởi nghĩa, song thắng lợi của cách mạng phải là kết quả nổi dậy đấu tranh của toàn dân có sự kết hợp chặt chẽ với tiến công địch của lực lượng vũ trang. Bởi thế, phải đưa quần chúng ra đấu tranh với các hình thức và quy mô thích hợp, qua đó tập dượt, rèn luyện quần chúng ngày càng có nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn đấu tranh cách mạng.


Thực hiện chủ trương đó, thông qua Mặt trận Việt Minh, các cấp ủy đảng địa phương đã lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của các giới đồng bào trên các địa bàn, kể cả ở trung tâm kinh tế, chính trị của địch. Đó là cuộc đấu tranh của công nhân bến tàu Sài Gòn chống quân Nhật đánh đập (11-1941); mít tinh chống cướp thóc ở Quảng Nam (1-1942); công nhân Hòn Gai đình công đòi phát lương (2-1942); nông dân Tiền Hải (Thái Bình) đấu tranh đòi chia ruộng đất (6-1942); công nhân Nhà máy Xe lửa Gia Lâm đấu tranh đòi tăng lương (12-1942); chị em tiểu thương ở Hà Nội bãi thị chống tăng thuế (1-1943), v.v...


Nổi bật nhất trong thời kỳ này là cuộc đấu tranh phá kho thóc của Nhật để lấy thóc chia cho nhân dân. Trước nhu cầu bức xúc cứu nhân dân đang lâm vào nạn đói nghiêm trọng do chính sách vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật để nuôi đạo quân Nhật trên lãnh thổ Đông Dương và chuyển về nước với số lượng lớn (năm 1940: 439.000 tấn, 1941: 563.000 tấn, 1942: 937.000 tấn, 1943: 662.000 tấn), Đảng đã đề ra chủ trương đúng đắn "phá kho thóc của Nhật để cứu đồng bào". Được các cấp ủy đảng cơ sở hướng dẫn, vạch kế hoạch, các đội du kích dũng cảm, dẫn đầu nhân dân xông tới các kho thóc dự trữ của phát xít Nhật, giành lại những hạt thóc do chính mình làm ra. Phá kho thóc của Nhật cứu đồng bào, đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của quần chúng là nghệ thuật phát động quần chúng của Đảng. Đó là hình thức đấu tranh mới, nhân văn, có ý nghĩa quan trọng "do đó, đã thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng vùng dậy với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền"1 (Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.43).


Thứ tư, tổ chức đội vũ trang tuyên truyền, mở "con đường quần chúng" thúc đẩy lực lượng cách mạng phát triển mạnh mẽ. Đây là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc phát triển lực lượng quần chúng cách mạng. Chủ trương này được hình thành từ sớm, đến cuối năm 1940 đầu năm 1941, thì dần thành hiện thực khi Người có được đội ngũ cán bộ được huấn luyện quân sự từ nước ngoài trở về nước và Cao Bằng - địa điểm đứng chân lãnh đạo cách mạng. Theo Người, Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng nước ta. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941), theo chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, nhiều cán bộ cốt cán của Đảng như Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Cao Hồng Lãnh, Vũ Anh lần lượt đến Cao Bằng, giúp cán bộ và nhân dân Cao Bằng thực hiện nhiệm vụ Trung ương Đảng đề ra.


Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, phong trào cách mạng ở Cao Bằng phát triển. Nhằm thúc đẩy phong trào phát triển nhanh, Người chỉ thị phải cấp tốc tổ chức những con đường quần chúng từ Cao Bằng về xuôi. Có thế, mới tranh thủ kịp thời cơ chuyển biến tốt, cách mạng mới có thể tiến lên tổng khởi nghĩa. Thực hiện chỉ thị của Người, tháng 2-1943, cán bộ hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai đã họp bàn mở rộng phong trào Nam tiến. Tuy gọi là "Nam tiến", song thực ra, lực lượng thực hiện gồm nhiều hướng khác nhau. Ngoài hướng "Nam tiến" còn có hướng "Đông tiến" đến Lạng Sơn, "Tây tiến" sang Hà Giang, "Bắc tiến" từ Bắc Sơn - Võ Nhai lên Cao Bằng. Lực lượng tham gia "xung phong Nam tiến" là những cán bộ chính trị, quân sự của Đảng đi xây dựng lực lượng cách mạng trong nhân dân. Phương pháp hoạt động là điều tra, giác ngộ, tổ chức và huấn luyện quần chúng đấu tranh. Sau một thời gian hoạt động, con đường Nam tiến trên địa bàn Việt Bắc đã được đánh thông, ôm vòng Cao - Bắc - Lạng xuống Thái Nguyên về xuôi. Ở những nơi đó, các tầng lớp nhân dân được giác ngộ cách mạng, một lòng một dạ đi theo Mặt trận Việt Minh.


Chính nhờ thực hiện các giải pháp trên, lực lượng chính trị quần chúng đã phát triển nhanh chóng.

Trên cơ sở lực lượng quần chúng hùng hậu, Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trương từng bước xây dựng lực lượng vũ trang với quy mô thích hợp. Để phát triển lực lượng vũ trang, vấn đề đặt ra là phải xây dựng lý luận về lực lượng vũ trang sao cho phù hợp với truyền thống của dân tộc và các nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đúc kết. Nhận rõ điều đó, Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc hết sức lưu tâm đến việc xây dựng lý luận tổ chức quân sự - một vấn đề mà các hội nghị Đảng trước đó đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau, nhưng chưa đầy đủ và hệ thống do nhu cầu thực tiễn chưa đặt ra cấp bách (trước đó mới có Nghị quyết về Đội Tự vệ).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #75 vào lúc: 13 Tháng Sáu, 2021, 07:26:29 pm »

Trong lý luận xây dựng lực lượng vũ trang, vấn đề xác định bản chất giai cấp là vấn đề vô cùng hệ trọng. Nhưng vấn đề đó đối với lực lượng vũ trang cơ sở đã được giải quyết sâu sắc trong Nghị quyết về Đội Tự vệ (1935). Cho nên, Điều lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc được thông qua trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941) không đi sâu giải quyết vấn đề đó nữa, mà tập trung giải quyết tám vấn đề sau:

Thứ nhất, xác định tên gọi: Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc.

Thứ hai, xác định loại hình và mục đích tổ chức. Điều lệ nêu rõ rằng, đây là "một tổ chức quân sự cao hơn Tự vệ đội và thấp hơn du kích chính thức". Mục đích xây dựng Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc là nhằm bảo vệ và giải vây cho các chiến sĩ, giữ gìn các cơ quan cách mạng; giúp đỡ "đội du kích chính thức" trong lúc hành quân và chiến đấu với quân thù; phá các "cơ quan" vận tải lương thực và khí giới của địch; biến chuyển thành đội du kích chính thức để đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật.


Thứ ba, xác định phương pháp tổ chức. Điều lệ nêu rõ: Đoàn thể cứu quốc của Việt Minh tổ chức ra tiểu tổ du kích. Tiểu tổ du kích "chịu dưới quyền chỉ huy" của đoàn thể cứu quốc và Việt Minh đã tổ chức ra tiểu tổ du kích đó. Về kết cấu lực lượng: Từ ba đến bảy đội viên thì tổ chức thành một tiểu đội du kích cứu quốc, có một tiểu tổ đội trưởng chỉ huy; từ hai tiểu tổ du kích trở lên thì tổ chức thành liên tiểu tổ, có một liên đội trưởng và một phó liên đội, một ủy viên chính trị chỉ huy. Điều lệ xác định: "Những đội viên của tiểu tổ du kích khi có việc thì hợp nhau lại hành động, xong việc lại giải tán, ai về nhà nấy sinh hoạt như thường dân"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.161). Điều đó có nghĩa là các đội viên của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc không phải là những người thoát ly sản xuất.


Thứ tư, xác định điều kiện kết nạp đội viên: Những ai trong Hội Cứu quốc của Việt Minh, có sức lực và hăng hái, thừa nhận Điều lệ của Đội, thì được gia nhập vào tiểu tổ. Đồng thời, Điều lệ cũng nêu rõ những trường hợp đặc biệt hoặc ở những địa phương chưa có đoàn thể cứu quốc của Việt Minh thì những người hăng hái đánh Pháp, đuổi Nhật (mà không phải là Việt gian) thì có thể tổ chức tổ du kích cứu quốc để hành động cho kịp thời.


Thứ năm, trách nhiệm của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc: Phải hăng hái bảo vệ các cơ quan và chiến sĩ cách mạng. Những lúc cơ quan cách mạng và các chiến sĩ cách mạng bị vây, bị bắt, nhận được lệnh đoàn thể cứu quốc của mình hoặc của Mặt trận Việt Minh thì lập tức hành động để giải vây. Những lúc có đội du kích giao chiến với quân thù trong địa phương mình thì phải giúp đỡ. Trong những "tình thế tiện lợi có thể phát động cuộc du kích chiến tranh đánh đuổi Pháp, Nhật thì biến chuyển thành đội du kích chính thức để hành động"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.161).


Thứ sáu, chế độ luyện tập: Những tiểu tổ mới tổ chức hoặc những hội viên mới gia nhập phải luyện tập ít nhất 15 ngày rồi sau đó "cứ cách 15 ngày lại tập một ngày"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.161). Nội dung luyện tập là luyện cho thạo cách tập trung, giải tán, đánh tráo, giải vây, dùng hiệu lệnh; đồng thời phải luyện cách lội sông, trèo núi, tập võ, "tập vẽ bản đồ và tập xem bản đồ"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.162), tập phá các đường giao thông, cầu cống, các cơ sở quân sự, kinh tế của địch.


Thứ bảy, về võ khí: Mỗi đội viên phải tự sắm lấy khí giới cần dùng như: gươm dao, giáo mác, đồ phá đường, phá cầu. Nếu có điều kiện mua sắm được súng, cốt mìn, thuốc để băng bó, v.v. thì càng tốt.


Thứ tám, về kỷ luật: Trong lúc hành động, đội viên phải tuyệt đối phục tùng đội trưởng; phải tham gia các cuộc luyện tập và "những cuộc hành động" của tiểu tổ; phải tuyệt đối giữ bí mật cho đội. Nếu ai vi phạm quy định thì tùy theo nặng nhẹ mà phạt phê bình, cảnh cáo, khai trừ.


Sau cùng, Điều lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc còn hướng dẫn lễ gia nhập đội, lời tuyên thệ trung thành, hăng hái chiến đấu cho Tổ quốc và giữ gìn bí mật của đội viên mới.


Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Nhằm đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, cuối năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết định tổ chức đội du kích tập trung thoát ly sản xuất. Thực hiện chủ trương đó, Người trực tiếp thông qua kế hoạch tổ chức, xác định tên gọi, nhiệm vụ, danh sách toàn đội gồm 12 người do Lê Quảng Ba làm Đội trưởng, Lê Thiết Hùng làm Chính trị viên, Hoàng Sâm làm Đội phó. Tháng 11-1941, lễ thành lập đội du kích Pác Bó (Cao Bằng) được tổ chức, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến khai mạc lễ thành lập đội, Người căn dặn: "Hôm nay, đội du kích Việt Minh đầu tiên được thành lập, chúng ta cần phải nghiên cứu và làm tốt các nhiệm vụ đã đề ra... Phải cố gắng học trong sách, học trong công tác và trong chiến đấu. Chúng ta sẽ tổ chức và phát triển nhiều đội du kích khác chẳng những ở Cao Bằng mà còn ở cả các tỉnh khác"1 (Lê Quảng Ba: Bác Hồ và đội du kích Pác Bó, Nxb. Văn học dân tộc, Hà Nội, 1994, tr.118).


Để làm sáng tỏ thêm những nguyên tắc cơ bản về xây dựng lực lượng vũ trang, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp biên soạn hai tác phẩm: Chính trị viên trong quân đội và Công tác chính trị trong quân đội cách mạng. Đây là những cuốn sách đầu tiên về công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang. Đồng thời Người trực tiếp viết tác phẩm Cách đánh du kích, vạch ra những nguyên tắc và phương pháp tác chiến của lực lượng vũ trang trong thời kỳ khởi nghĩa giành chính quyền. Trên cơ sở lý luận tổ chức quân sự của Đảng, cấp bộ đảng ở các địa phương đã vận dụng vào thực tiễn rất sáng tạo. Nhờ đó, lực lượng vũ trang cơ sở (lực lượng tự vệ, đội du kích) được xây dựng rộng khắp.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #76 vào lúc: 13 Tháng Sáu, 2021, 07:27:48 pm »

Sớm nhận thấy vai trò chiến lược của lực lượng chủ lực, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định thành lập đội quân chủ lực đầu tiên. Thực hiện quyết định lịch sử đó, Người viết Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, xác định rõ những quan điểm cơ bản về xây dựng đội quân chủ lực:


Thứ nhất, Người khẳng định việc thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là theo "chỉ thị mới của Đoàn thể"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.539) (Đảng). Trong bối cảnh đất nước cuối năm 1944, Người đã nhận định rằng: Nếu chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ đẩy phong trào có bước phát triển nhảy vọt. Vì vậy, phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới đẩy phong trào tiến lên. Việc thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và đẩy mạnh sự hoạt động của Đội, chính là một trong những hình thức thích hợp ấy. Nhiệm vụ của Đội trong bước quá độ tiến lên hình thức đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc là đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền nhằm thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển nhanh, mạnh hơn nữa. Nhiệm vụ đó phản ánh bản chất cách mạng của Đội. Đội ra đời và phát triển là nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị do Đảng xác định.


Thứ hai, từ trong phong trào chuẩn bị khởi nghĩa, khắp nơi đã có các đội tự vệ cứu quốc, du kích cứu quốc. Song, đó mới chỉ là lực lượng vũ trang quần chúng, lực lượng tại chỗ. Trên nền tảng tư tưởng "cuộc kháng chiến của ta là kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.539), Người khẳng định việc xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở phải đồng thời với việc xây dựng đội quân chủ lực; lực lượng vũ trang gồm các thứ quân (quân chủ lực và quân địa phương) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, cứu nước. Quan điểm tổ chức nhiều thứ quân vốn được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941). Trong Chỉ thị này, Người khẳng định lại và bổ sung thêm điểm mới. Đó là khi thành lập đội quân chủ lực đầu tiên phải tuân theo nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, nghĩa là phải lựa chọn những cán bộ, đội viên ưu tú nhất, tập trung một phần lớn vũ khí để thành lập Đội. Người còn nêu rõ mối quan hệ giữa các lực lượng, vai trò của từng thứ quân và nhấn mạnh rằng, trong khi tập trung lực lượng để lập đội quân chủ lực đầu tiên cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương.


Thứ ba, về phương thức hoạt động, phải kết hợp chính trị với quân sự. Người chỉ rõ rằng: "tên Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.539). Hàm ý của sự giải thích đó là quân sự phải phục tùng chính trị, gắn với chính trị; vũ trang gắn với tuyên truyền; Đội phải tham gia vận động, tổ chức quần chúng; phải dựa chắc vào dân và dựa chắc vào dân thì nhất định thắng lợi. Về chiến thuật, do cuộc kháng chiến của ta là kháng chiến toàn dân, nên để giành thắng lợi phải có cách đánh sáng tạo. Đội quân chủ lực vừa thành lập, muốn hành động có kết quả phải vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực.


Thứ tư, phải chăm lo xây dựng và phát triển đội quân chủ lực trưởng thành nhanh chóng, vững mạnh, hoạt động trên các địa bàn của đất nước, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó. Trong phần cuối bản chỉ thị, Người khẳng định: Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, khỏi điểm của Giải phóng quân, sau nó còn các đội quân đàn em khác. Sự khẳng định đó vô cùng hệ trọng, đánh dấu sự ra đời và ngày càng phát triển quân đội kiểu mới của cách mạng Việt Nam. Đội quân đó đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam.


Cùng với việc soạn thảo chỉ thị thành lập đội quân chủ lực đầu tiên, Người còn trực tiếp duyệt danh sách Ban chỉ huy và đội viên toàn đội, căn dặn Võ Nguyên Giáp vấn đề cốt yếu nhất: Đội phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo.


Những quan điểm cơ bản thể hiện trong bản chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân sau đó được chính Người và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Mặt trận Việt Minh bổ sung thêm nhiều điểm cụ thể. Trong thời gian này, tình hình trong nước biến chuyển nhanh chóng. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đảo chính Pháp. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. về nhiệm vụ quân sự, Đảng ta chủ trương: "Tổ chức thêm nhiều bộ đội du kích và tiểu tổ du kích"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.371), thống nhất các chiến khu, tổ chức Ủy ban quân sự cách mạng để chỉ huy du kích các chiến khu; việc huấn luyện quân sự cho cán bộ các cấp và đội trưởng các Đội Tự vệ là rất cần. Chỉ thị nêu rõ quyết định của Đảng phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đê cho tổng khởi nghĩa và sẵn sàng chuyển sang hình thức tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện. Thực hiện Chỉ thị ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, phong trào kháng Nhật, cứu nước của nhân dân Việt Nam dâng cao. Mặt trận Việt Minh tiếp tục được mở rộng. Đội quân chính trị ở thành thị và nông thôn phát triển nhanh chóng. Lực lượng vũ trang cách mạng được tăng cường, phát triển.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #77 vào lúc: 13 Tháng Sáu, 2021, 07:28:37 pm »

Hơn một tháng sau, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (họp từ ngày 15 đến ngày 20-4-1945). Trọng tâm Hội nghị là giải quyết cụ thể những vấn đề quân sự mà Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã đề ra từ tháng 3-1945. Sau khi phân tích tình hình thế giới, đánh giá cuộc đảo chính Nhật - Pháp và phong trào kháng Nhật, cứu nước của nhân dân Việt Nam, Hội nghị quyết định gấp rút phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh chiến tranh du kích. Hội nghị chủ trương thống nhất Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân cùng các tổ chức vũ trang khác, đồng thời bổ sung nhiều điểm cơ bản để xây dựng Việt Nam Giải phóng quân như: 1) Thống nhất biên chế; 2) Thống nhất việc huấn luyện chính trị, quân sự; 3) Tổ chức công tác chính trị trong bộ đội, trau dồi kỷ luật, khen thưởng người có công, chống khuynh hướng địa phương cục bộ; 4) Mở trường quân chính kháng Nhật để đào tạo cán bộ; 5) Ra sức thu thập và mua sắm vũ khí, lập xưởng sửa chữa vũ khí và chế tạo súng đạn; 6) Tích trữ lương thực, lập các kho thóc Giải phóng quân ở các xã; 7) Phát triển bộ đội giải phóng, tổ chức rộng rãi những đội tự vệ, tự vệ chiến đấu và bộ đội địa phương. Hội nghị nhấn mạnh vấn đề thống nhất chỉ huy quân sự: "Ủy ban quân sự cách mạng chỉ huy toàn xứ... Trong mỗi chiến khu có một Bộ tư lệnh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.393). Hội nghị quyết định thành lập bảy chiến khu trong cả nước; cử ra ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ để "chỉ huy các chiến khu miền Bắc Đông Dương về mặt chính trị và quân sự, đồng thời có nhiệm vụ giúp đỡ cho toàn quốc về mặt quân sự"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.399).


Chấp hành Nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, việc xây dựng Việt Nam Giải phóng quân được tiến hành rất khẩn trương. Ngày 15-5-1945, lễ thành lập Việt Nam Giải phóng quân được tổ chức tại Định Biên Thượng (Chợ Chu, Thái Nguyên). Các đơn vị Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quổc quân được thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân. Lực lượng lên đến 13 đại đội. Ở một số tỉnh, huyện cũng tổ chức nhiều trung đội, đại đội Giải phóng quân, về biên chế, Giải phóng quân tô chức thống nhất, mỗi tiểu đội 12 người, theo "tam tam chế" đến trung đội, đại đội. Trang bị, vũ khí được tăng cường.


Ngày 4-6-1945, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ sáu tỉnh Việt Bắc. Hội nghị đề cập giải quyết nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: a) Chỉnh đốn Việt Nam Giải phóng quân. Nguyên tắc là chọn lọc kỹ càng, về biên chế, mỗi tiểu đội 12 người, theo "tam tam chế" lên đến trung đội, đại đội và chi đội. Trong ba tháng, các đội viên phải được huấn luyện chương trình quân sự và chính trị sơ cấp cho xong. Đặt chính trị viên trong quân đội. Đội viên phải thừa nhận "Mười lời thề", thi hành "Quân kỷ". Tổ chức ra những Đội Tuyên truyền Việt Nam giải phóng quân; b) Chỉnh đốn tự vệ. Mỗi xã phải tổ chức ít nhất một tiểu đội tự vệ 12 người, trong ba tháng phải huấn luyện cho xong và mỗi xã phải tổ chức ít nhất một tiểu đội du kích từ 5 người trở lên; c) Thống nhất chỉ huy. Các đội trưởng, phó đội trưởng và chính trị viên tiểu đội, trung đội, đại đội, v.v..., lập thành ban chỉ huy của đội; d) Kế hoạch quân sự. Lúc ban đầu chính trị trọng hơn quân sự, cứ theo nguyên tắc ấy mà định kế hoạch; đ) Quân sự tình báo. Quản lý: củ soát lại các kho và tổ chức việc quản lý. Tổ chức ban tình báo chuyên môn; e) Tìm nhiều đường và võ trang bảo vệ1 (Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.543-544).


Trong lúc cả nước đang sục sôi không khí cách mạng thì Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào những ngày kết thúc. Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang ngay cả trong quá trình diễn ra Tổng khởi nghĩa, Hội nghị quyết định: "Chỉnh đốn và phát triển bộ đội"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.429); "Tổ chức thêm những bộ đội mới. Chỉnh đốn bộ đội tự vệ chiến đấu và tiểu tổ du kích để thành lập quân giải phóng ở ngoài khu giải phóng"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.430). Hội nghị cho rằng, trong quá trình đó, phải thống nhất biên chế, thống nhất khẩu lệnh, lập thêm trường quân chính. Nhìn chung, trong thời kỳ 1939-1945, tư tưởng quân sự của Đảng phản ánh những vấn đề có tính quy luật xây dựng lực lượng vũ trang ở Việt Nam trong thời đại mới. Nét nổi bật trong tư tưởng đó của Đảng là "người trước súng sau", coi trọng nhân tố con người, nhân tố quyết định thành bại của cách mạng. Việc xây dựng lực lượng vũ trang phải trên cơ sở phong trào cách mạng sâu rộng của quần chúng, với quy mô thích hợp, cơ cấu lực lượng gồm các thứ quân (chủ lực, địa phương), lấy lực lượng chủ lực làm nòng cốt, do Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện; sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang do nhiều nhân tố tạo thành, trong đó yếu tố chính trị được đặt lên hàng đầu; coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực lãnh đạo, chỉ huy của đội ngũ cán bộ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #78 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2021, 07:45:52 pm »

2. Phải sắm sửa vũ khí và xây dựng căn cứ địa vững chắc

Trong khi coi trọng xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, đặc biệt là xây dựng con người, xem đó là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi trong đấu tranh cách mạng, Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, không coi nhẹ vấn đề trang bị vũ khí. Người khẳng định: "khởi nghĩa thì phải có vũ khí. Đó là một trong những vấn đề rất quan trọng của cách mạng"1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.254). Trong Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa (5-1944), Tổng bộ Việt Minh nhấn mạnh thêm: "Một dân tộc bị áp bức cũng như một giai cấp bị bóc lột, muốn tự giải phóng phải cầm võ khí trong tay mà chiến đấu. Không thể tay vo mà đánh đuổi được giặc. Dân ta muốn đánh đuổi Nhật, Pháp cũng không thể không sắm sửa và tập dùng võ khí"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.494). Xuất phát từ quan điểm đó, Đảng và Người rất quan tâm đến vấn đề trang bị vũ khí và đã chỉ ra các hướng giải quyết rất đúng đắn và cụ thể:


Thứ nhất, phải "tự tạo ra vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang của mình"2 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Sđd, tr.264). Ngay từ đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giao nhiệm vụ cho một số cán bộ chuyên môn mở xưởng sửa chữa và sản xuất vũ khí ở Lũng Lỏng, xã Nà sắc, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (đầu năm 1943, xưởng chuyển về vùng núi Lam Sơn, huyện Hòa An). Xưởng có 6 người do Đặng Văn Cáp phụ trách, đã tự nghiên cứu, chế được lựu đạn và mìn có hai lớp vỏ bằng sắt tây, trong nhồi thuốc đen, giữa hai lớp vỏ nhồi sỏi đá. Sau đó, nhận được mấy quả lựu đạn của Mỹ do Việt kiều từ Trung Quốc gửi về, xưởng đã nghiên cứu và chế thành công lựu đạn bằng vỏ gang, ngoài vỏ đúc hai chữ VM (Việt Minh). Ngoài việc chế tạo, xưởng còn sửa chữa được súng kíp, súng ngắn, súng trường và rèn dao, kiếm, mác. Từ kết quả đó, Nguyễn Ái Quốc chỉ thị cho Vũ Anh và Lê Thiết Hùng quan tâm giúp đỡ cơ sở này để sản xuất vũ khí ngày càng nhiều hơn trang bị cho lực lượng vũ trang.


Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941). Xứ ủy Bắc Kỳ chỉ đạo các cấp ủy đảng xây dựng cơ sở sửa chữa vũ khí. Tại làng Chè (Tiên Sơn, Bắc Ninh), xưởng sản xuất và sửa chũa vũ khí ra đời, do Nguyễn Ngọc Xuân và Ngô Gia Khảm phụ trách. Ngoài việc sửa chữa súng, xưởng còn chế lựu đạn vỏ gang kiểu dập, đạt chất lượng khá. Lựu đạn phía ngoài vỏ cũng đúc hai chữ VM và được bí mật chuyển lên Việt Bắc cung cấp cho lực lượng vũ trang. Một số cơ sở ở Hà Nội, Quảng Yên, Hải Phòng, Nam Định, công nhân bí mật sử dụng máy móc và vật liệu trong các nhà máy của thực dân Pháp đế sản xuất vũ khí hoặc bí mật chuyển vật liệu lên chiến khu cung cấp cho các xưởng chế tạo, sửa vũ khí1 (Xem Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Giải quyết một số vấn đề kỹ thuật quân sự trong 30 năm kháng chiến (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.10), ở phía Nam, Xứ ủy Nam Kỳ đã vận động công nhân xưởng Ba Son bí mật sản xuất vũ khí thô sơ và lựu đạn, đồng thời tổ chức các xưỏng chế tạo vũ khí thô sơ ở Bà U (Mỹ Tho), Mớp Xanh (Tân An) để sản xuất dao găm, giáo, mác, lựu đạn vỏ sắt tây, mìn vỏ xi măng, về sau, xưởng Mớp Xanh được củng cố và đã chế được "súng vòi siêu" có sức uy hiếp địch do tiếng nổ to.


Bên cạnh các xưởng đó, trước ngày tổng khởi nghĩa, thực hiện chỉ thị của Đảng và Lời kêu gọi sắm sửa vũ khí đánh quân thù của Tổng bộ Việt Minh, hầu hết các tỉnh ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam đều ráo riết rèn đúc vũ khí. Những nơi có điều kiện, ta đã lập "binh công xưởng" mới để sản xuất dao, kiếm, lựu đạn, mìn và sửa chữa các loại súng kiểu nhỏ, kịp thời cung cấp cho các đơn vị giải phóng quân và du kích.


Thứ hai, phải "vừa đánh vừa võ trang". Trong điều kiện đất nước bị kẻ thù thống trị, nền kinh tế lạc hậu, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, để có vũ khí chống lại những đạo quân xâm lược lớn, có trang bị vũ khí hiện đại, Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trương phát huy cao độ lòng yêu nước của nhân dân, sự dũng cảm, kiên cường của cán bộ và đội viên các đội vũ trang, sử dụng vũ khí tự tạo của ta, tổ chức đánh thắng giặc, lấy vũ khí của giặc trang bị cho quân ta. Giải thích vấn đề đó cho nhân dân và lực lượng vũ trang, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết: "Không súng thì lấy ở đâu?/Lấy súng của địch bắn đầu địch nhân"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.404). Tổng bộ Việt Minh trong Chỉ thị về việc trang bị cho du kích (1942), Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa (5-1944) và Lời kêu gọi sắm võ khí! Đuổi thù chung! (8-1944) đã nêu rõ tầm quan trọng của vũ khí và hướng dẫn các đoàn thể cứu quốc thực hiện chủ trương đúng đắn đó. Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa viết: "Một phần lớn võ khí của quân khởi nghĩa là lấy của quân địch. Muốn dùng súng thù bắn thù, có hai cách: a) Đánh các đồn trại, các kho súng, các đội quân tuần tiễu của quân địch mà chiếm lấy võ khí... Đánh du kích là lối vừa đánh vừa chiếm lấy súng của quân địch để võ trang cho mình, b) Hết sức vận động binh lính của địch, tổ chức họ vào các hội "Việt Nam quân nhân cứu quốc" làm cho họ giác ngộ, đem súng của quân địch lại cho ta"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.494).


Thực hiện chủ trương "vừa đánh vừa võ trang", "lấy súng giặc đánh giặc" của Đảng và Hồ Chí Minh, đội quân chủ lực đầu tiên sau ngày thành lập đã ra quân đánh thắng trận đầu, tiêu diệt hai đồn địch, bắt tù binh, thu nhiều vũ khí. Kế đó, đội liên tiếp đánh địch ở Đồng Mu, Bảo Lạc, Cao Bắc; sau đó, quay trở lại đánh đồn Nà Ngần lần thứ hai, giành thắng lợi, thu nhiều vũ khí của địch. Đầu năm 1945, phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Ở nhiều địa phương, quân và dân ta đã đột nhập vào các kho vũ khí của quân Nhật, Pháp thu nhiều súng và đạn dược. Có trường hợp không kịp chuyển vũ khí ra ngoài thì ném xuống ao, hồ, sông ngòi rồi sau đó tìm cách vớt lên, đưa về sửa chữa. Nhiều "binh công xưởng" cử người đi tìm bom địch chưa nổ, tháo lấy vật liệu mang về chế tạo lựu đạn, bom mìn trang bị cho quân ta.


Thứ ba, tìm cách mua vũ khí để trang bị cho lực lượng vũ trang. Ngay từ đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trương mở thông đường dây liên lạc từ Cao Bằng sang Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc) để giữ mối liên hệ với các đồng chí hoạt động ở ngoài nước và mua vũ khí vận chuyển từ Trung Quốc về nước1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.495-496). Khi phong trào phát triển nhanh, trước nhu cầu mới của cách mạng, Trung ương Đảng phát động phong trào "Đồng tiền cứu nước" (4-6-1945). Hưởng ứng chủ trương của Đảng, nhân dân đã hăng hái góp tiền mua súng đạn của quân Tưởng ở biên giới Việt - Trung hoặc của quân Nhật, Pháp chuyển cho cơ sở của ta. Đặc biệt, trong những lần sang Trung Quốc công tác, mặc dù bận giải quyết nhiều vấn đề quan trọng, nhưng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vẫn lưu tâm đến các khả năng để có vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang. Được gặp Người, Tông Minh Phương2 (Bằng Giang: Lớp huấn luyện đầu tiên, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cao Bằng, Cao Bằng, 1975, tr.19) đã tìm mua và chuyển về nước khẩu súng tiểu liên Mỹ sub machine-gun, 150 viên đạn, 6 quả bom lửa, một hộp bom nổ chậm và 5.000 đồng Đông Dương. Khi thành lập đội quân chủ lực đầu tiên, số vũ khí đó được chuyển cho đội và tiền được chi vào việc quân nhu. Từ tháng 2 đến tháng 4-1945, Người sang Trung Quốc gặp lại các đồng chí hoạt động ở Vân Nam và tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng Đồng minh chống phát xít Nhật. Ngày 29-3-1945, Người gặp Tướng Mỹ Sênôn (Claire Chenault), Chỉ huy trưởng Không đoàn 14. Cuộc gặp đưa đến sự hài lòng cho cả hai bên. Phía Mỹ cảm ơn Việt Minh đã cứu Trung úy phi công Uyliam Sô (William Saw) thoát khỏi sự truy tìm của phát xít Nhật khi máy bay bị rơi gần thị xã Cao Bằng cuối năm 1944. Khi rời Côn Minh về nước, phía Mỹ tặng lãnh tụ Việt Minh 6 khẩu súng ngắn, 2 vạn viên đạn, một số thuốc chữa bệnh và một ít tiền. Người chỉ nhận súng đạn và thuốc men1 (Xem Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm quân đội nhân dân Việt Nam - miền đất khai sinh và quá trình phát triển, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.466). Việc tranh thủ các khả năng để cách mạng có thêm vũ khí thể hiện sự quan tâm của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với việc giải quyết vấn đề trang bị vũ khí của lực lượng vũ trang, đáp ứng nhu cầu cần thiết trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #79 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2021, 07:47:39 pm »

Cùng với đó, để phát triển lực lượng và tăng cường thanh thế cách mạng, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề xây dựng căn cứ địa, chủ trương lập Khu giải phóng khi đã hội đủ điều kiện.


Khi về nước hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định chọn Cao Bằng làm căn cứ địa. Theo Người, Cao Bằng hội đủ các điều kiện bởi đây là vị trí chiến lược, có đường giao thông liên lạc thuận tiện cả trong nước và quốc tế; là nơi có cơ sở cách mạng sớm, có phong trào quần chúng mạnh; là nơi có điều kiện đáp ứng những nhu cầu thiết yếu về hậu cần tại chỗ cho căn cứ; là nơi chính quyền và lực lượng của địch mỏng, yếu, lỏng lẻo, có lợi cho hoạt động bí mật của ta và bất lợi cho hoạt động của địch. Nhưng vấn đề tiếp theo là phải nối thông hành lang từ Cao Bằng với các nơi, đi toàn quốc: "từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tấn công, lúc khó khăn có thể giữ"1 (Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Sđd, tr.34).


Thời gian này, Người biên soạn, biên dịch nhiều tài liệu về quân sự, trong đó có tác phẩm Cách đánh du kích2 (Tác phẩm được viết năm 1941, Việt Minh xuất bản tháng 5-1944) để phổ biến trong các Hội cứu quốc và dùng làm tài liệu ở các lớp huấn luyện quân sự trong những ngày chuẩn bị khởi nghĩa. Tác phẩm Cách đánh du kích gồm 13 chương, Người dành một chương (chương 13) bàn về xây dựng căn cứ địa. Mở đầu chương, Người viết: "Đội du kích trong lúc hoạt động đánh quân thù cần có một vài nơi đứng chân làm cơ sở. Tại nơi ấy, đội du kích tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.536). Tiếp đó, Người xác định các nguyên tắc xây dựng căn cứ địa, quy luật phát triển căn cứ địa và lực lượng vũ trang: Đội du kích hoạt động phát triển nhiều thì chỗ cơ sở nhỏ đầu tiên ấy có thể trở nên căn cứ địa vững vàng, nhất là sau khi đội du kích đánh đuổi được quân giặc và thành lập chính quyền cách mạng trong địa phương. Chưa thành lập được chính quyền địa phương thì căn cứ địa khó thành lập và không thể củng cố được. Có chính quyền cách mạng của địa phương, có căn cứ địa vững vàng, đội du kích nhờ đó mà phát triển lực lượng và hóa ra quân chính quy. Hai điều kiện để xây dựng căn cứ địa là có địa thế hiểm trở che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ. Trong khi chú ý địa thế tự nhiên, Người đề cao điều kiện quần chúng, yếu tố con người. Muốn có sự ủng hộ của quần chúng thì phải ra sức tuyên truyền, tổ chức quần chúng vào các hội cứu quốc của Việt Minh. Đây là một sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta trong xây dựng căn cứ địa cách mạng.


Dưới sự lãnh đạo, tổ chức của các cấp ủy đảng, các căn cứ địa trong cả nước, những an toàn khu (ATK) của Trung ương Đảng, của Xứ ủy, Thành ủy, Tỉnh ủy... được xây dựng và phát triển trên cơ sở lực lượng chính trị, không chỉ ở rừng núi hiểm trở mà còn được xây dựng ở vùng đồng bằng và vùng ven các đô thị lớn, nơi có "rừng người", "biển người", ở Cao Bằng, Tỉnh ủy Cao Bằng được củng cố, Ban Việt Minh lâm thời tỉnh được thành lập. Năm 1942, phong trào Việt Minh từ Cao Bằng phát triển sang một số vùng thuộc Bắc Kạn và Lạng Sơn. Để lãnh đạo phong trào được thống nhất trong ba tỉnh, Trung ương Đảng quyết định thành lập Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng và thành lập Ban Việt Minh liên tỉnh. Sau khi thành lập, Liên Tỉnh ủy chỉ đạo gấp rút mở đường Nam tiến, Tây tiến, Đông tiến. Tại Hội nghị Lũng Hoài, Hòa An (1-1943), Liên Tỉnh ủy đã trao đổi rút kinh nghiệm công tác xây dựng căn cứ địa, thống nhất kế hoạch tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chiến lược mà lãnh tụ Hồ Chi Minh đã chỉ thị: Đánh thông đường Nam tiến để nối liền căn cứ địa Cao Bằng với căn cứ du kích Bắc Sơn - Võ Nhai. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, phong trào cách mạng quần chúng phát triển mạnh mẽ.


Trên cơ sở vùng giải phóng rộng lớn và liên hoàn, tháng 5-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh cho chuyển đại bản doanh từ Cao Bằng về Lam Sơn (Tuyên Quang). Sau khi nghe các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình và nhất trí với nội dung Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng (3-1945), Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (4-1945), Người bổ sung, chỉ thị thành lập Khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Ngày 4-6-1945, Hội nghị cán bộ Việt Minh được triệu tập, do lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: "Để chuẩn bị cuộc khởi nghĩa sắp đến, tất cả những khu vực Quân giải phóng đã chiếm được thống nhất lại thành một khu gọi là Khu giải phóng"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.541), "... củng cố Khu giải phóng thành một căn cứ địa kháng Nhật vững chắc"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.542). ỦY ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng được thành lập. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Thường trực ủy ban đồng thời chỉ huy quân sự. Khu giải phóng ra đời là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn đối với nhân dân cả nước đang đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Khu giải phóng ra đời còn có ý nghĩa sâu xa trong đấu tranh quân sự như lời căn dặn cán bộ của lãnh tụ Hồ Chí Minh: "Trong chiến tranh du kích, lúc phong trào lên, ta phải hết sức phát triển, vừa phát triển vừa chú trọng xây dựng căn cứ cho thật vững chắc, để đề phòng lúc khó khăn mới có chỗ đứng chân được"2 (Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Sđd, tr.542).


Thực hiện chủ trương của Đảng, các cấp ủy đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng; từ thực tiễn phong trào, các căn cứ địa được củng cố, khu giải phóng được bảo vệ và mở rộng, ở các căn cứ địa và khu giải phóng, chính quyền cách mạng được thành lập, các chính sách cơ bản về kinh tế, chính trị, quân sự... của Việt Minh được tổ chức thực hiện, lực lượng vũ trang được tăng cường, tạo đà cho đấu tranh vũ trầng phát triển mạnh.


Như vậy, để tiến tới khởi nghĩa vũ trang giải phóng dân tộc, Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã nêu rõ các quan điểm, các giải pháp thực hiện và chỉ đạo thực tiễn giải quyết thành công nhiều vấn đề về xây dựng thực lực cách mạng, tạo thành nhân tố bên trong quyết định thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 lịch sử.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM