Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:58:07 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 3  (Đọc 3914 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #10 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2021, 04:19:18 pm »

Trong khi quan quân triều đình mải lo chuyện đắp phòng tuyến cố thủ thì các đội nghĩa quân đã tìm ra nhiều cách đánh địch có hiệu quả như: phục kích, ngăn kè, cắt đường giao thông địch, quấy rối địch, và thu được những kết quả đáng kể. Lối đánh du kích táo bạo đã làm cho quân Pháp rất lúng túng. Một sĩ quan Pháp lúc đó thừa nhận: "Thực tế là đâu đâu cũng có các ổ kháng chiến, nó chia nhỏ li ti ra, có thể hầu như nói được rằng mỗi người An Nam là một ổ kháng chiến. Đúng hơn, phải kể mỗi người nông dân đang bó lúa là một điểm du kích. Và chiến thuật này khiến quân lính Pháp chẳng còn biết đâu mà mò: Thật không có màn kịch nào buồn tẻ hơn, đơn điệu hơn, mệt mỏi hơn cái thảm cảnh quân lính Pháp ở trên đất cũng như trên mặt biển. Một tên địch mình trông thấy hoài, nhưng một tên khác lại ngụy trang giấu mặt. Cứ thấy kẻ thù luôn luôn thoát khỏi tầm tay, khiến có cảm tưởng chúng ta như bắn vào không khí"1 (Trần Tam Tỉnh: Thập giá và lưỡi gươm, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr.41).


Trong khi phong trào đánh thực dân Pháp của nhân dân ta đang lên cao thì triều Nguyễn lại ký Hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862, chấp nhận cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp1 (Ngày 5-6-1862, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp (đại diện cho triều Nguyễn) và Tướng Bonard (đại diện cho Chính phủ Pháp) đã ký Hiệp ước Nhâm Tuất. Hiệp ước gồm 12 điều khoản, trong đó triều Nguyễn chấp thuận cắt cho thực dân Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ là Gia Định, Định Tường và Biên Hòa; mở các cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạt và Quảng Yên để cho tàu bè của thực dân Pháp tự do thông thương; nộp 20 triệu quan (khoảng 280 vạn lạng bạc) để bồi thường chiến phí. Hiệp ước Nhâm Tuất là văn kiện bán nước đầu tiên của triều Nguyễn). Sự kiện này tạo ra sự thay đổi mới trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta. Nếu như trước năm 1862, triều Nguyễn trực tiếp giữ vai trò lãnh đạo nhân dân chống thực dân Pháp, thì sau Hiệp ước Nhâm Tuất, triều Nguyễn đã từng bước rời bỏ vai trò lãnh đạo của mình. Từ đây, các tầng lớp nhân dân ta vừa đứng lên chiến đấu chống thực dân Pháp, vừa chống lại thái độ đầu hàng của triều Nguyễn.


Việc ký Hiệp ước Nhâm Tuất với thực dân Pháp đã làm cho cuộc đấu tranh giữa những người có tư tưởng chủ chiến và chủ hòa thêm kịch liệt. Nó không chỉ giới hạn trong nội bộ triều Nguyễn mà trở thành cuộc đấu tranh của toàn dân dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước năm 1862, những người chủ hòa cho rằng địch mạnh, ta yếu, ta không thể đánh được nên hòa hoãn để dân tạm thời được nghỉ ngơi và dưỡng sức. Nhưng hòa chỉ là giải pháp tạm thời, là quyền nghi mà thôi. Sau khi Hiệp ước Nhâm Tuất được ký kết, trong tư tưởng của phái chủ hòa lại xuất hiện hai quan điểm đối lập nhau.


Một là, hòa để tiến: Những người có quan điểm hòa để tiến chủ yếu là những người có tư tưởng cải cách như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ. Họ coi hòa là một giải pháp chiến lược nhằm tranh thủ thời gian hòa hoãn để duy tân đất nước và chuẩn bị mọi mặt thật tốt cho cuộc kháng chiến lâu dài. Nguyễn Trường Tộ khẳng định: "Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn. Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách"1 (Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr.123, 124). Ông cho rằng: "Vì ta chưa đủ sức chống chọi được với họ, cho nên phải uốn nắn mà theo họ"2 (Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr.123, 124). Quan điểm của ông dựa trên cơ sở Pháp có sức mạnh vượt trội về vũ khí: "Ở châu Âu việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất (...) hùng mạnh nhất không thua ai cả (...) trong khi đó quân lính của ta lại chuyên dùng gươm dao, gậy gộc lại chưa quen đánh trận với nước khác"3 (Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr.123, 124). Nguyễn Trường Tộ chủ trương hòa để đất nước hòa bình, một điều kiện tiên quyết để canh tân đất nước. Ông đề nghị triều đình cần mở rộng quan hệ với các nước phương Tây, liên kết với phong trào chống Pháp ở các nước láng giềng và nhất là phải khơi dậy tinh thần yêu nước chống Pháp của nhân dân ta.


Nguyễn Trường Tộ còn chủ trương hòa để chờ đợi thời cơ. Năm 1870, cuộc chiến tranh Pháp - Phổ nổ ra, nhận thấy đây là thời cơ thuận lợi đánh đuổi giặc Pháp để giành lại những vùng đất bị mất, ông đã nhanh chóng xây dựng một bản Kế hoạch thu hồi sáu tính rất chi tiết. Ông khẳng định: "Nếu nay không đuổi họ hoặc trấn áp họ (thông thương với họ để đòi lại đất, rồi sau dùng kế mà phân tán như các lời tôi đã bẩm trước) để cô lập họ, đến khi nước họ đã phục hưng, rồi nhân cơ sở sẵn có cứ thêm chi tiết vào dần dần, thì ta khó mà yên được"1 (Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo, Sđd, tr.383, 389). Theo kế hoạch, ông tự nhận nhiệm vụ: "Gần trước ngày cử sự, tôi tìm một nhà người có đạo (phải người có đạo, Pháp mới không nghi) ở huyện Tân Hòa, một nhà ở Gia Định, chuẩn bị thật chu đáo bí mật (...). Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ, đều sẽ bị chìm"2 (Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo, Sđd, tr.383, 389). Nhưng do nghi ngờ Nguyễn Trường Tộ là người Công giáo và đầu óc vốn nặng tư tưởng cầu hòa nên triều Nguyễn đã bỏ lỡ một cơ hội thuận lợi hiếm có này.


Nguyễn Trường Tộ nhiều lần gửi điều trần lên triều đình nhấn mạnh sự cần thiết phải chỉnh đốn lại quân đội và quốc phòng, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Theo ông, lúc này phải trọng võ học hơn văn học. Các nước phương Tây do trọng võ nên họ mới có thể dọc ngang bốn bể. Vì vậy, ta nên gắng sức học tập kỹ thuật, mua sách và mời chuyên gia quân sự phương Tây về huấn luyện quân đội: "Phải mua các sách binh pháp thủy bộ của phương Tây dịch ra để tham khảo học tập. Đồng thời rước những người phương Tây giỏi về quân sự phối hợp với võ quan ta huấn luyện binh sĩ mỗi ngày"1 (Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo, Sđd, tr.269). Bên cạnh việc trang bị vũ khí, huấn luyện và cấp lương đầy đủ, cần phải tạo được mối quan hệ tốt giữa tướng lĩnh và binh lính, giữa binh lính với nhau: "Khi ra trận, binh sĩ có vui vẻ hay không là do lúc bình thường ta có tạo được tình cảm gắn bó ân tình với nhau hay không. Nếu binh sĩ không có tinh thần chiến đấu thì dù có những phương pháp hay cũng trở thành bánh vẽ". Võ quan thì phải chọn những người giỏi, lính quý mạnh và tướng quý mưu, quân cần tinh nhuệ chứ không cần nhiều. Trong lúc hòa hoãn, triều đình phải chỉnh đốn uy thế quân sự quốc gia, chọn nơi hiểm yếu đắp thêm thành lớn và thành dự bị phòng khi rút lui, dự trữ vật liệu, chế tạo vũ khí mới, xây dựng những chỗ ẩn nấp khắp bốn phương tám mặt trong và ngoài kinh thành.


Nhìn chung, quan điểm của một số nhà canh tân, điển hình là Nguyễn Trường Tộ, là hòa với thực dân Pháp chỉ là biện pháp tạm thời, nhằm tranh thủ thêm thời gian cải cách đất nước và xây dựng thực lực kháng chiến vững mạnh để đủ sức đánh thực dân Pháp giành thắng lợi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #11 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2021, 04:20:54 pm »

Hai là, hòa đồng thời hàng giặc: Tư tưởng này khá phổ biến trong triều đình. Ban đầu, Vua Tự Đức và số đông quan lại đầu triều coi giảng hòa từ chỗ chỉ là quyền nghi sau đó trở thành quốc sách giữ nước. Chính tư tưởng sai lầm này đã từng bước dẫn triều Nguyễn trượt dài trên con đường đầu hàng giặc.


Để thực thi những điều khoản đã ký kết với giặc Pháp, triều Nguyễn ra lệnh buộc các lực lượng kháng chiến ở Nam Kỳ phải hạ vũ khí để giữ hòa khí với Pháp. Đến khi Pháp lộ rõ âm mưu thôn tính nốt các tỉnh còn lại ở Nam Kỳ thì triều Nguyễn thụ động chờ đợi tinh thần chống thực dân Pháp của nhân dân Nam Kỳ: "Tướng Pháp hoặc ủy điều ước lấy ba tỉnh, thì đối với ta đã là vô tình, tưởng cũng không thể trách bằng giấy tờ được, chỉ khiến ba tỉnh ấy một lòng chống giữ (...). Nếu người Pháp bức lấy tỉnh Vĩnh Long, thì hãy còn hai tỉnh An Giang, Hà Tiên, có thể dời đóng, hoặc bị người Pháp bức lấy tất cả (...) đến khi ấy sĩ dân sáu tỉnh tức giận lũ lượt nổi lên, bấy giờ ta sẽ tùy cơ định liệu"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.7, tr.1017).


Việc tùy cơ định liệu của triều Nguyễn rút cuộc chỉ còn là con đường thương thuyết. Và khi thương thuyết không thành, cơ hội chuộc lại ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ hoàn toàn không còn hy vọng, thì Tự Đức coi hòa với Pháp là quốc kế để tập trung dẹp loạn ở trong nước: "Đất nước ta, tuy rằng có hai kỳ nhưng màu đất xấu kém, chỉ có 4 tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, gọi là giàu có, người Bắc Kỳ gan dạ lại không vững, các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Hưng Tuyên thường có trộm cướp, gươm giáo khắp nơi, chiến tranh không ngớt, nay muốn đối chọi với họ không phải là dễ. Phía Bắc đã chống Khiết Đan thì không còn dám nghĩ đến phương Tây nữa, phía Tây đã chống Nguyên hiệu, thì không còn dám đọ sức với phương Bắc nữa"1 (Trần Văn Giàu (giới thiệu): Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1000), Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970, tr.417). Vua Tự Đức nhận định Bắc và Nam đều có địch nên không thể chống chọi cùng một lúc được. Vì vậy, trước hết nên hòa với Pháp để dẹp yên giặc giã, trộm cướp ở trong nước, nhất là ở vùng Bắc Kỳ bọn phiến loạn đang nổi lên khắp nơi.


Quan điểm coi việc dân chúng nổi loạn mới thực sự là mối đe dọa lớn của triều đình đã bị Tiến sĩ Vũ Phạm Khải chỉ trích gay gắt: "Các vị lấy cố lúc này, các tỉnh Bắc Kỳ đang nhiều việc đánh dẹp, cho nên việc đánh giặc này chỉ là giải pháp tạm thời. Song, giặc cướp Bắc Kỳ chỉ là nỗi lo về cái mụn nhỏ, còn cái họa Tây dương mới là bệnh trọng tận tim ruột. Nếu chỉ chữa khỏi cái mụn trước mắt mà lại cắt thịt trong tim gan thì có ích gì"2 (Nguyễn Văn Huyền (Sưu tầm và biên dịch): Vũ Phạm Khải - Đông Dương thi văn tuyển, Sđd, tr.293).


Vua Tự Đức còn cho rằng tiềm lực quốc phòng đã cạn kiệt và nhân dân cũng không còn tinh thần chiến đấu nữa: "Hiện nay thóc lúa ngày một hao mòn, sức dân kiệt rồi, tiền của không đủ tiêu dùng, kho nhà nước rỗng rồi, trên thì các quan chỉ nghĩ đến tiền lương, dưới thì nhân dân chỉ lo sợ tên đạn, không ai còn lòng chiến đấu nữa, nhân dân sợ sệt rồi, người trí dũng mỏi mệt rồi trong khi đó thuyền của họ vẫn nhanh như sấm gió, súng của họ vẫn mạnh như lửa hồng nên không thể đem toán quân côi quạnh vừa ít vừa hèn ra mà chống chọi với họ, thực là bước qua đầu rắn độc, giẫm lên đuôi hổ lang"1 (Trần Văn Giàu (giới thiệu): Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1000), Sđd, tr.418-419).


Do quá lo sợ vũ khí của địch nên Vua Tự Đức đã mất hết niềm tin vào sức mạnh chính nghĩa và ở đâu cũng chỉ thấy thế mạnh áp đảo của địch: "Súng họ bắn vỡ trời thì bảo rằng đem sào gậy nhân nghĩa để chống lại khiến súng ấy thăng thiên đường. Thuyền của họ đổ bộ, thì bảo rằng đem giáo mác trung tín để chống lại, khiến thuyền ấy phải nhập địa ngục. Nhưng mà vừa thắng một trận đã bại ngay rồi, chưa từng có chút công nhỏ"2 (Trần Văn Giàu (giới thiệu): Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1000), Sđd, tr.418-419). Từ đó, Vua Tự Đức nhận định: "Lấy lẽ mà nói thực là đáng chiến, nhưng lấy thế mà bàn, không bằng hãy hòa, tự nhiên có thể chuyển nguy làm yên, chuyển nghịch làm thuận, thiên hạ có thể vô sự, nước nhà chẳng phải lo lắng gì, xem thế thì hòa là một mưu chước rất đúng"3 (Trần Văn Giàu (giới thiệu): Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1000), Sđd, tr.418-419). Sự xuống dốc trong tư tưởng của Vua Tự Đức và đa số triều thần thảm hại đến mức: "Bàn hòa là người có công, bàn chiến là kẻ có tội"1 (Trần Văn Giàu (giới thiệu): Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1000), Sđd, tr.418-419).


Do xác định hòa nghị là quốc kế nên triều Nguyễn đã bỏ qua nhiều cơ hội thuận lợi để đánh đuổi giặc Pháp, nhất là vào năm 1870 nước Pháp đại bại trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ. Đứng trước cơ hội ngàn vàng có một không hai này, Vua Tự Đức không tranh thủ thời cơ hành động mà chỉ là sai Viện Thương bạc viết thư xin giao trả sáu tỉnh. Đình thần xin sai Tuần phủ Bình Thuận là Nguyễn Uy sang Pháp thăm dò thì Vua Tự Đức lại tỏ ra nghi ngại: "Sai người đi, chỉ để cho sinh nghi, Hán Văn Đế thuyết phục được Uý Đà, Hung Nô, có từng giả tạo gì đâu, cũng chỉ do lòng nhân hậu phát ra lời nhân hậu mà thôi. Nay nên viết thư kín, trước hết tỏ tình thăm hỏi thương xót, sau đem lý, thế, lợi, hại hiểu dụ, cốt trúng ẩn tình của họ, tỏ lòng thành thực của ta, chờ xem trả lời thế nào sẽ liệu"2 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.XXXII, tr.47-48). Đợi mãi không thấy phía Pháp hồi âm, triều đình cho là: "Nước ấy không muốn điều đình. Ta có việc ở biên giới phía Bắc, việc ở nước Tây chưa nên nhân tiện hành động"3 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.7, tr.1241).


Mặc dù liên tục thỏa hiệp và đầu hàng giặc, song Vua Tự Đức vẫn ngầm tổ chức và duy trì một số lực lượng vũ trang để đề phòng thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm Gia Định: "Gia Định là nơi đất thánh quan trọng, mà núi cao sông dài cách trở, khó có thể quan sát từ xa. Bọn giặc Tây cậy có súng to, tàu lớn chưa chắc đã dám vào sâu bỏ tàu lên bờ. Nhưng nếu do sự sai lầm của bề tôi tầm thường mà không thể phòng giữ được thì sự thế lại càng khó khăn. Do đó, việc phòng bị trước không nên nơi lỏng"1 (Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I: Mục lục Châu bản triều Nguyễn, Hà Nội, 2004, t.102, tr.132). Nhà vua còn điều động thêm nhiều lính từ các vệ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đến Gia Định trợ chiến và cho thành lập những đội quân cảm tử để xông vào các đồn địch quấy phá, thử phản ứng của chúng. Trong bản dụ ngày 21-1-1867, Vua Tự Đức nhấn mạnh: "Kế nhà binh man trá không thể biết được, cần phải có biện pháp thử xem, mới biết thực hư ra sao. Tổng thống quân thứ Nguyễn Tri Phương xem xét cho rõ tình thế của địch, và lấy từ 30 đến 50 binh sĩ cảm tử trong các vệ Chiến Tâm, Nghĩa Dũng và Phấn Dũng chu cấp thêm thật hậu cho chúng, bảo chúng ban đêm trời tối (theo từng nhóm) dăm ba hoặc mươi người đem theo dao găm và súng trường hoặc súng thần công, quá sơn lẻn vào lũy địch bắn thử vài ba phát rồi lập tức rút về. Đêm đêm như vậy hoặc cách đêm hoặc vài ba đêm lại làm như vậy khiến cho chúng không được nghỉ ngơi, nhân đó mà thăm dò chúng mạnh yếu ra sao"1 (Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I: Mục lục Châu bản triều Nguyễn, Sđd, t. 102, tr. 134, 135), đồng thời phải "xem xét, liệu lượng thời cơ, thấy có thể tiến, hoặc chặn đường sông, hoặc lập kế hỏa công, hoặc chặn giữ đường bộ, chiến đấu dũng cảm tránh các điểm mạnh của chúng, đánh vào các điểm yếu của chúng"2 (Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I: Mục lục Châu bản triều Nguyễn, Sđd, t.102, tr.134, 135). Biết lòng trung nghĩa của nhân dân Nam Kỳ nên Vua Tự Đức đã lệnh cho các xã, thôn tự chế tạo vũ khí để đánh giặc: "Gần đây lại dụ cho các tỉnh Long Tường, Định Biên chiêu mộ dân dũng để chuẩn bị sai phái thì trăm họ đều là lính. Nay truyền cho các viên tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát của lục tỉnh Nam Kỳ, sức cho các thôn xã thuộc hạt, phàm các loại như súng, kiếm, dao, gậy theo lệ trước không được chế tạo riêng, nay đều được chế tạo để tự bảo vệ làng xóm"3 (Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Trung tâm Lưu trữ quốc gia I: Mục lục Châu bản triều Nguyễn, Sđd, t.102, tr.134, 135).


Như vậy, Tự Đức một mặt ra lệnh cho nhân dân hạ khí giới để tránh thực dân Pháp kiếm cớ gây sự, nhưng mặt khác lại tổ chức và kêu gọi nhân dân kháng chiến. Chính thái độ hai mặt của Tự Đức đã ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần kháng chiến của nhân dân vì triều đình không có một đường lối kháng chiến thống nhất. Hơn thế, Hiệp ước Nhâm Tuất và lệnh bãi binh của triều đình đã làm cho nhân dân không còn đủ niềm tin đứng dưới ngọn cờ chiến đấu của triều đình nữa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #12 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2021, 04:21:53 pm »

Trái ngược với xu hướng thỏa hiệp và đầu hàng của triều đình, một bộ phận triều thần, quan binh và đa số văn thân sĩ phu lại tỏ rõ quyết tâm kháng chiến tới cùng. Ngay sau Hiệp ước Nhâm Tuất, triều đình ban bố Thông dụ cho Nam Kỳ nghỉ quân ra lệnh cho các lực lượng kháng chiến ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ hạ vũ khí để chờ thương lượng chuộc đất. Nhưng trái với lệnh bãi binh của triều đình, phong trào chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ lại phát triển mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Nhiều trung tâm kháng chiến mới ra đời với số lượng người tham gia đông đảo, phạm vi hoạt động được mở rộng, uy tín và ảnh hưởng ngày càng lớn. Tư tưởng trung quân ái quốc bị sụt giảm đáng kể thông qua việc bất tuân lệnh triều đình, và được thể hiện rõ nhất trong cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp của Trương Định.


Để cách ly Trương Định ra khỏi phong trào chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ, triều đình đã thăng chức quan đầu tỉnh ở Phú Yên cho ông, và cử Phan Thanh Giản đến thuyết phục ông bãi binh. Tuy nhiên, Trương Định không phải là người ham vinh hoa phú quý, tham sống sợ chết, ông đã quyết định ở lại kề vai sát cánh cùng nhân dân Nam Kỳ đánh thực dân Pháp, cảm phục tấm lòng vì dân, vì nước, đánh thực dân Pháp tới cùng của ông, nhân dân đã suy tôn ông là Bình Tây đại nguyên soái. Việc chống lệnh bãi binh và ở lại cùng nhân dân Nam Kỳ chống thực dân Pháp của Trương Định đã làm tính chất của cuộc khởi nghĩa Trương Định thay đổi. Hành động đó không chỉ chống lại thực dân Pháp xâm lược, mà còn chĩa mũi nhọn tấn công vào cả triều Nguyễn đầu hàng.


Sau khi Trương Định mất (1864), cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp ở vùng Đồng Tháp Mười lại được quy tụ dưới sự chỉ huy của Võ Duy Dương (Thiên Hộ Dương). Sợ để mất lòng người Pháp sẽ ảnh hưởng đến chủ trương hòa nghị, Vua Tự Đức theo yêu cầu của thực dân Pháp đã ra lệnh cho quan quân Nam Kỳ lùng sục bắt giữ Võ Duy Dương: "Bấy giờ chủ súy Pháp thường cho là: ba tỉnh chứa giấu tên Thiên Hộ Dương cho mượn khí giới giúp việc chinh chiến để làm cớ nói. Cơ mật thần xin tư cho Kinh lược thần là Phan Thanh Giản, tùy nghi xử trí, bí mật bày tỏ tình khoản, để làm cái kế giữ gìn"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.7, tr.1001, 1002). Vua bèn xuống dụ: "sai Kinh lược thần và ba tỉnh thần dò xét, nếu có tên Dương và bọn người tòng phạm lén lút ẩn náu trong hạt, phải bắt giao ngay, nếu không thì tư cho chủ súy Pháp tự tìm bắt lấy"2 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.7, tr.1001, 1002).


Mặc dù triều đình để mất sáu tỉnh Nam Kỳ (1867) nhưng các sĩ phu ở đây vẫn liên tiếp nổi dậy đấu tranh mạnh mẽ. Phong trào chống thực dân Pháp từ ba tỉnh miền Đông đã lan rộng khắp ba tỉnh miền Tây. Tại vùng Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sa Đéc, hai con trai của Phan Thanh Giản là Phan Tôn và Phan Liêm đứng lên vận động, tổ chức và xây dựng lực lượng chống thực dân Pháp. Lực lượng nghĩa quân có lúc lên tới bốn vạn người. Nguyễn Trung Trực tiếp tục đánh thực dân Pháp ở Kiên Giang. Phạm Văn Hớn (Quản Hớn) đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở 18 thôn Vườn Trầu (Bà Điểm - Hóc Môn). Lê Công Thành và Lâm Lễ phát động nhân dân khởi nghĩa ở Vĩnh Long và Long Xuyên; Đỗ Thừa Tự và Đỗ Thừa Long lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa ở Rạch Giá, Cà Mau và Cần Thơ. Năm 1873, cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp do Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo đã bùng nổ mạnh mẽ ở Nam Kỳ. Rõ ràng, trong khi triều đình đã nhụt chí thì các sĩ phu Nam Kỳ vẫn kiên quyết bám đất, bám làng chiến đấu tới cùng. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra nhiều hơn, có đông người tham gia hơn và quyết liệt hơn. Họ không chỉ chống thực dân Pháp xâm lược mà còn chống cả phe phái chủ hòa trong triều đình Huế.


Tinh thần chống tư tưởng đầu hàng của triều đình đã lan rộng ra khắp Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tháng 11-1864, các thí sinh của trường thi Hà Nội, Nam Định và Thừa Thiên đã phản đối dữ dội việc ký hòa ước bằng cách đe dọa bãi thi, yêu cầu Vua Tự Đức giết hết giáo dân và những người phương Tây. Giáo sĩ Bernard (người Pháp) lúc đó thuật lại: "Các nhân sĩ gởi cho Hoàng đế một thỉnh nguyện thư mô tả sự bất hạnh của đất nước và họ quy lỗi cho giáo dân và ngoại quốc, cho rằng đã đến lúc phải diệt trừ tận gốc sự đau khổ bằng cách giết hết bọn ấy, dù chỉ đặt một ít niềm tin vào người Tây Âu cũng là điên rồ. Sau cùng họ tố cáo ba viên sứ thần sang Pháp và các viên quan đã ký hòa ước với ông Auberet là đã bán mình cho người Pháp. Họ tuyên bố rằng nếu các sự việc không thay đổi, họ từ chối tham gia bất cứ kỳ thi nào. Họ còn làm hơn nữa: họ túa ngay ra khắp tỉnh để kêu gọi dân chúng chống giáo dân và nếu cần, chống cả nhà vua"1 (Yoshiharu Tsuboi: Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847-1885, Sđd, tr.264). Để khủng bố tinh thần sĩ tử, triều đình đã bắt và phạt đòn hai sĩ tử ở trường thi Nam Định là Đỗ Văn Định và Nguyễn Huy Đạt vì can tội viết những lời phản đối lên cổng và cửa trường thi. Cuối năm 1864, ngay tại kinh thành Huế đã xảy ra một vụ mưu biến nhằm lật đổ Vua Tự Đức do Hoàng tử Hồng Tập và Phò mã Trương Văn Chất cầm đầu: "Cuộc mưu biến này đã được hầu hết các sĩ tử (bốn nghìn người) đang tập hợp ở kinh thành để dự kỳ thi, một nửa số hoàng thân, tôn thất và một nửa số quan lại triều đình hưởng ứng"2 (Đặng Huy Vận: "Về cuộc đấu tranh của những người sĩ phu yêu nước chủ chiến chống triều đình đầu hàng xâm lược ở cuối thế kỷ XIX", tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 112-1968, tr.34). Theo chính sử triều Nguyễn thì mục tiêu của cuộc mưu biến này trước hết là giết Phan Thanh Giản và Trần Tiến Thành, sau đó đem nghĩa binh đi trấn áp các làng đạo.


Những năm 1873 - 1874, trong khi nhân dân Bắc Kỳ khắp nơi nổi dậy chống thực dân Pháp mạnh mẽ và giành được nhiều thắng lợi đáng kể, đặc biệt là trận thắng ở Cầu Giấy lần thứ nhất đã làm nức lòng nhân dân cả nước3 (Ngày 21-12-1873, khi quân địch đang hành quân trên tuyến đường Hà Nội - Sơn Tây, đến địa phận Cầu Giấy thì rơi vào ổ phục kích của quân ta (trong đó có sự phối hợp với quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc). Tên Francis Garnier, chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kỳ và nhiều đồng bọn đã tử trận) thì triều đình lại vội vàng ký Hiệp ước Giáp Tuất thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Nam Kỳ3 (Ngày 15-3-1874, tại Sài Gòn, đại diện của triều Nguyễn và của Chính phủ Pháp đã ký Hiệp ước Giáp Tuất. Hiệp ước gồm 22 điều khoản với những nội dung chính như sau: triều Nguyễn thừa nhận chủ quyền của Pháp ở sáu tỉnh Nam Kỳ; mở các cửa Thi Nại, Ninh Hải, sông Hồng, để người Pháp và người ngoại quốc tự do vào buôn bán; Pháp có toàn quyền vào nội địa Việt Nam; cắt một khu đất nhượng địa ở Hà Nội để Pháp làm Lãnh sự và cho 100 quân đồn trú. Đây là văn kiện bán nước lần thứ hai của triều Nguyễn). Rõ ràng, triều đình "chỉ muốn hòa bình, dù là hòa bình nào, hòng tránh một cuộc cách mạng nhân dân có thể quét sạch uy quyền của họ ở Bắc Kỳ. Giữa sự mất đặc quyền của mình và sự mất độc lập của dân tộc, Tự Đức đã lựa chọn từ lâu: ông muốn hy sinh cái thứ nhì để bảo tồn cái thứ nhất. Chính vì lý do đó mà ông đã không dám thúc đẩy một cuộc nổi dậy thực sự của nhân dân miền Nam, cũng chính vì lý do đó mà, lần này, ông vội vàng lo thương thuyết với người Pháp, thay vì thử kêu gọi lòng yêu nước của dân"1 (Cao Huy Thuần: Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857 - 1914), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2003, tr.311).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #13 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2021, 04:23:01 pm »

b) Thời kỳ 1873 -1884

Từ sau Hiệp ước Giáp Tuất, tư tưởng xuyên suốt của triều Nguyễn vẫn là hòa hoãn để tìm cách thương lượng với thực dân Pháp. Trước năm 1862, những người chủ hòa trong triều đình cho rằng ta yếu, địch mạnh nên hòa với Pháp để có thời gian xây dựng đất nước và tăng cường tiềm lực kháng chiến. Nhưng Nguyễn Tri Phương đã hoài nghi về khả năng này khó có thể thành công khi nói với Vua Tự Đức rằng: "Thanh Giản, Duy Thiệp bảo việc hòa nghị đã xong, có thể ngồi mà trông thấy giàu mạnh. Tôi cho rằng sau khi đã hòa rồi tài lực ngày càng hết, làm sao giàu mạnh được"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.XXIX, tr.322, 141).


Bên cạnh chủ trương hòa nghị là tư tưởng cầu viện Thiên triều Mãn Thanh. Khi biết thực dân Pháp âm mưu đưa quân đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai, triều Nguyễn đã cử người sang Trung Quốc cầu viện quân sự. Sau khi Hà Nội thất thủ, nhà Thanh đã điều động một phần quân đội ở Lưỡng Quảng và Vân Nam sang đóng khắp biên giới Việt - Trung và áp sát Hà Nội. Dân chúng Bắc Kỳ lo ngại việc quân Thanh nhân cơ hội này sẽ chiếm Bắc Kỳ thì Vua Tự Đức quở trách: "Người nước Thanh đâu có làm điều bất nghĩa như thế rồi sai các quan tỉnh đều gia tâm khuyên bảo sĩ dân"2 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.XXIX, tr.322, 141). Nhưng kết cục chính quyền Mãn Thanh và thực dân Pháp đã thỏa hiệp với nhau để phân chia quyền lợi ở Việt Nam.


Trong hơn mười năm hòa hoãn, triều Nguyễn đã cố gắng củng cố binh lực nhưng không phải để đánh thực dân Pháp mà là để tập trung đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Vua Tự Đức còn tiêu tốn nhiều tiền bạc, công sức của binh lính và nhân dân để xây dựng Khiêm Lăng cho mình, gây ra sự căm phẫn của đông đảo nhân dân. Đó cũng là một trong những lý do dẫn đến sự bùng nổ các cuộc khởi nghĩa chống triều đình.


Khác với phái chủ hòa, phái chủ chiến tỏ rõ tinh thần không sợ vũ khí hiện đại của giặc Pháp. Theo họ, con người chứ không phải vũ khí mới là yếu tố quyết định thắng lợi của chiến tranh: Thế trong thiên hạ là do con người tạo ra mà thôi. Từ xưa, cái thế hơn thua mạnh yếu, cái cơ thịnh suy giữa man rợ và trung châu, chỉ do người quyết định và nhấn mạnh "rợ phương Tây sinh ra đã lâu, nếu kỹ nghệ của chúng không ai địch nổi thì các nước trên hoàn cầu này đều đã bị chúng lấy hết như cuốn chiếu đã lâu rồi, còn đợi gì đến ngày ngay"1 (Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn, Sđd, tr.167).


Trong Hịch gửi văn thân Nam Định, văn thân Hà Nội đã đề cao vai trò của con người và tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Pháp: "Ôi, lẽ phải trong thiên hạ chỉ có một chiều hướng, sự mạnh yếu tự đã rõ ràng, việc dùng binh xưa nay không hình thế thường xuyên, lẽ thuận nghịch là phương định đoạt. Nếu bảo rằng, súng phá được núi, tàu lặn được sông, kỹ xảo của giặc Tây không địch nổi đâu, thế thì lấy nhân làm gươm, đem nghĩa làm giáo, anh hùng của nước Nam có bao giờ chịu"2 (Trần Văn Giàu (giới thiệu): Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1000), Sđd, tr.421) và tin vào thắng lợi của chính nghĩa: "Đem quân nhân nghĩa của ta đánh quân hung tàn của địch, so đức so nghĩa hai đằng ta đều hơn cả"1 (Đặng Huy Vận: "Tìm hiểu về cuộc đấu tranh giữa phái chủ chiến và phái chủ hòa trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở cuối thế kỷ XIX", tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 96-1967, tr.5).


Bên cạnh việc đề cao vai trò của con người và tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, các văn thân sĩ phu còn phân tích một cách cụ thể, chi tiết những điểm yếu và điểm mạnh của cả địch và ta. Theo họ, ưu điểm của địch là có tàu to, súng lớn nhưng điểm yếu của địch là chúng từ xa đến nên "lẻ loi không viện trợ, sẽ ở vào cảnh cách trở, giam chân, còn quân lính ta ứng phó với giặc vô cùng, rõ cái thế chủ nhân khách mệt"2 (Trần Văn Giàu (giới thiệu): Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858-1000), Sđd, tr.421). Nguyễn Xuân Ôn khẳng định: "Chúng ở lâu không quen thủy thổ, không rõ nhân tình, mệt quân tốn của, quân sĩ chúng thuê mượn, vị tất đã có thế ở lâu và tiếp viện thêm được"3 (Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn, Sđd, tr.176, 168-169). Ông phê phán triều đình đã không nhận rõ những yếu điểm của địch mà vội vã ký hòa ước với chúng: "Giả sử lúc bấy giờ, ta không sai sứ bàn hòa, cương quyết chủ trương kháng chiến, thì dù chưa thắng được địch mà hai bên giằng co, dân trong Nam còn làm việc cho ta. Giặc vào sâu trong đất ta, đứng chân không vững, muốn bình định không có thể, muốn đánh không được, quân nhọc của hết"4 (Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn, Sđd, tr.176, 168-169).


Chiến thuật làm giảm nỗi lo sợ vũ khí của quân địch của các văn thân chủ chiến đã giúp những người dân bình dị nhất cũng vững tin rằng, với vũ khí thô sơ vẫn đánh thắng giặc Pháp vì chúng ở xa đến, nên càng đánh chúng càng yếu:
   "Như ta cùng Tây nay
   Ngàn trùng non nước cách xa,
   Trăm việc ở ăn khác thói,
   Tuy cậy có tàu đồng, ống khói
   Tuy là nhiều súng thép, đạn chì
   Vì mấy năm qua đánh biên thùy
   Dư trăm trận hao ngôi tướng soái"
1 (Bảo Định Giang: Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, tr.84).


Trong bài đối sách khoa thi Đình năm Đinh Sửu (1877), Phan Đình Phùng đã chỉ ra những nhược điểm của quân Pháp nằm ngay trong thế mạnh của chúng: "Vũ khí của phương Tây vị tất đã toàn thắng cả. Như cái súng lợi hại kia bắn đã xa, thế mà tường cát, bông ướt có thể chống lại, cái tàu lợi hại kia không gió tự đi nháy mắt nghìn dặm, thế mà cái bè mục lớn có thể ngăn lại. Huống chi khéo về thuyền súng, không biết khéo đánh đó chẳng phải là sở đoản ư?"2 (Tập tư liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, Tlđd, tr.42). Theo ông, giặc tuy có nhiều điểm yếu nhưng lại biết lợi dụng chỗ yếu của ta để chiếm đất, chiếm thành, chứ không phải do ta không địch nổi.


Những người chủ chiến đã biết khơi gợi truyền thống và đề cao những chiến tích chống giặc ngoại xâm lẫy lừng trong lịch sử làm động lực, nền tảng tinh thần cho tư tưởng quyết chiến và quyết thắng giặc Pháp. Nguyễn Xuân Ôn đã chỉ rõ: "Từ nhà Trần, nhà Lê về trước, bờ cõi chỉ có đèo Ngang trở ra, thế mà 20 vạn quân Ô Mã Nhi bị thua ở tay Trần Hưng Đạo, cuối nhà Hồ, quân Minh đóng khắp nước, không dưới 30 vạn, cũng bị Lê Thái Tổ vây hãm, không dám ra khỏi thành" để khẳng định "quân không phân mạnh hay yếu; cốt ở người điều khiển mà thôi. Xin Hoàng thượng phấn khởi lòng quyết đoán, làm việc trừ giặc yên dân. Mưu mô của triều đình đã ổn định thì lòng người tự nhiên hăng hái"1 (Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn, Sđd, tr.171).


Nguyễn Xuân Ôn đã nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của người lãnh đạo kháng chiến, cụ thể ở đây là Vua Tự Đức. Theo ông, triều đình trước hết phải trên dưới như một, chung sức chung lòng, và quyết tâm đánh giặc thì việc khó mấy cũng có thể làm được. Tư tưởng kháng chiến của Nguyễn Xuân Ôn tuy không tạo ra được bước đột phá mới nhưng đã góp phần nhấn mạnh vai trò và khích lệ tinh thần kháng chiến của triều đình. Nguyễn Xuân Ôn cũng như nhiều văn thân, sĩ phu khác vẫn còn mang nặng tư tưởng trung quân. Họ rất muốn nhà vua giương cao ngọn cờ Cần Vương cứu nước để tập hợp lực lượng đánh thực dân Pháp. Nhưng những trông mong của họ vào nhà vua và triều thần ngày càng trở thành vô vọng vì triều đình đã từng bước tự thủ tiêu vai trò lãnh đạo của mình.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #14 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2021, 04:25:39 pm »

Các văn thân Nghệ An tỏ ra hết sức xót xa và bất bình khi triều đình cắt đất cho thực dân Pháp: "Nước ta từ khi mở nước đến nay, nhân tài không phải không thịnh, đất đai không phải không rộng, binh giáp không phải không tinh. Vì sao, một sớm mai lại đem ba tỉnh lớn Nam Kỳ bỏ nhường cho giặc Pháp dân Nam Kỳ vốn có tiếng là trung nghĩa, trăm họ đều là binh"1 (Tập tư liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, Tlđd, tr.36, 34). Nhiều văn thân sĩ phu hiểu rõ mất nước là nỗi đau của toàn dân tộc, vì vậy, đánh đuổi giặc Pháp là nhiệm vụ chung của mọi người: "Mới rồi, giặc Pháp tràn đến nước ta dối trá ngàn phương, độc ác vạn trạng. Đấy chẳng những là thù chung của nhân dân chúng ta, mà cũng là căm hờn chung của trời đất thần linh vậy. Nên chúng tôi trộm nghĩ, giết hết giặc là nghĩa chung của mọi người, vì thế cần kêu gọi khắp nước, nhóm họp lòng dân"2 (Tập tư liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, Tlđd, tr.36, 34). Từ ý thức trách nhiệm đó, họ vừa thiết tha kêu gọi nhân dân, vừa nêu cao ý chí quyết tâm chống giặc của mình. Các thân hào, nghĩa sĩ Nam Định quyết tâm "phải cùng nhau bàn định uống máu ăn thề, trên kính cáo với trời đất thần linh, rồi bàn với các quan tỉnh. Người giàu xuất của, người nghèo giúp công. Lấy cha anh con cháu làm binh lính chân tay, lấy nhân nghĩa, đạo đức làm đồng giáo đánh giặc"1 (Tập tư liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, Tlđd, tr.35, 37). Các văn thân, sĩ phu Nghệ An hô hào cùng nhau hợp sức đánh giặc: "Hội họp các bậc văn thân, đồng lòng đồng sức hễ thấy lũ giặc ngu xuẩn ấy động đến đất nước chúng ta và giảng đạo ở chỗ nào, thì lập tức biến báo cho nhau, đánh phá, chém giết không tha đứa nào"2 (Tập tư liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, Tlđd, tr.35, 37). Tinh thần chung sức, đồng lòng đó được khơi dậy ở khắp nơi.


Tuy chưa có quan điểm chiến tranh toàn dân, toàn diện như ngày nay, nhưng các văn thân, sĩ phu chủ chiến đã thấy, đã tin vào sức mạnh của nhân dân và là người khởi đầu chiến lược vận động toàn dân tham gia đánh đuổi giặc Pháp xâm lược.


Sau khi triều đình ký Hiệp ước Giáp Tuất, tinh thần chống triều đình đầu hàng vốn đã có từ trước đó nay lại dâng trào mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Tiêu biểu cho tinh thần chống triều đình là cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất do Trần Tấn và Đặng Như Mai lãnh đạo ở Nghệ An. Mục đích khởi nghĩa được xác định rõ ràng:

"Dập dìu súng bắn cờ siêu
Phen này quyết đánh cả triều lẫn Tây".


Cuộc khởi nghĩa diễn ra rầm rộ, thu hút được sự tham gia đông đảo của nhiều quan lại và văn thân, sĩ phu yêu nước địa phương. Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa, Vua Tự Đức phải điều động một số lượng lớn binh lực về Nghệ An để dập tắt ngay cuộc khởi nghĩa này: "Về việc dân lương, dân đạo, triều đình nhiều lần dụ bảo thiết tha, thế mà thân sĩ tỉnh Nghệ An riêng giữ bàn ngang không hiểu việc biến đổi ở đời, như bọn Tấn, Mai lấy tiếng là giết người theo đạo mà mê hoặc người làm loạn, phải nên đánh ngay, chớ để lan thêm ra. Vậy cho Tổng thống Hồ Oai, Tham tán Chu Đình Kế đem lính Kinh hiện đóng ở Thanh Hóa 600 người, quân tỉnh Nghệ An 500 người đi về tỉnh Nghệ để trấn áp, tìm cách đánh bắt"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại nam thực lục, Sđd, t.8, tr.Cool. Trước sự đàn áp của quan quân triều đình, lực lượng nghĩa quân dần dần bị tan rã. Cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất bị đàn áp đẫm máu và thất bại, nhưng tinh thần đánh thực dân Pháp và chống tư tưởng đầu hàng của triều đình vẫn trào dâng mạnh mẽ, tạo khí thế thúc đẩy nhiều cuộc nổi dậy khác lại bùng lên.


Mặc dù các văn thân, sĩ phu yêu nước đã có vai trò to lớn trong việc phát động, tổ chức và lãnh đạo phong trào chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta, nhưng bên cạnh mục tiêu đánh thực dân Pháp, chống triều đình đầu hàng, họ lại tiến hành sách lược tà đạo và sát đạo. Họ cho rằng các giáo dân là tay sai của giặc Pháp nên cần phải loại trừ. Các cuộc xung đột giữa lương dân và giáo dân xảy ra thường xuyên, nhất là ở những vùng có đông sĩ phu như Hà Tĩnh, Nghệ An và Nam Định. Điều này đã làm rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc, làm tổn thương đến giáo dân và đẩy không ít giáo dân từ chỗ không muốn đã trở thành tay sai cho giặc. Đó cũng là một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến kết cục thất bại của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp lúc bấy giờ.


Năm 1882, thực dân Pháp đưa quân tấn công ra Bắc Kỳ lần thứ hai. Việc thành Hà Nội thất thủ nhanh chóng làm cho Vua Tự Đức và triều thần hết sức lo lắng. Vua Tự Đức đã cử Trần Đình Túc và Nguyễn Hữu Độ ra Hà Nội thương lượng. Khi ra tới Hà Nội, hai phái viên của triều đình đã được tận mắt chứng kiến khí thế đánh giặc sục sôi của nhân dân Bắc Kỳ. Vì vậy, họ đã cử người về xin Vua Tự Đức dốc lực lượng toàn quốc ra đánh đuổi giặc. Nhưng Tự Đức kiên quyết không cho đánh và bắt họ phải thương lượng với phái viên của thực dân Pháp ở Hà Nội với bất cứ giá nào. Đồng thời, Tự Đức còn yêu cầu đuổi ngay đạo quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc lên mạn ngược và giải tán các đội nghĩa dũng ở các tỉnh.


Trước sự nhượng bộ thái quá của triều đình, nhiều quan binh ở Bắc Kỳ đã không tuân lệnh, đòi được đánh thực dân Pháp. Sĩ phu Bắc Kỳ đã tổ chức và lãnh đạo các đội dân binh chống thực dân Pháp ở mọi nơi. Tại các địa bàn quan trọng như: Hà Nội, Nam Định, Quảng Yên, Ninh Bình, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, quân Pháp không kiểm soát nổi tình thế và thường xuyên bị quân ta đột kích. Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai một lần nữa làm nức lòng nhân dân cả nước1 (Vào lúc mờ sáng ngày 19-5-1883, đội quân Pháp do Đại tá hải quân Henry Rivière chỉ huy đã rơi vào ổ phục kích của quân ta tại Cầu Giấy. Quân giặc liều chết xông lên hòng giành thế chủ động. Quân dân ta ở các làng Dịch Vọng, Hạ Yên Khê đã ra sức chủ động. Được sự hỗ trợ đắc lực của đội quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, quân ta đã giành được thắng lợi mau chóng. Quân địch đại bại, phải tháo chạy, Rivière và nhiều tên khác tử trận). Khí thế tiến công địch trào dâng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nhưng tiếc thay, triều đình vẫn án binh bất động để hòa nhượng với thực dân Pháp, thậm chí còn cách chức những quan văn, quan võ dám chống lệnh bãi binh. Cay đắng hơn nữa là triều Nguyễn đã ký với thực dân Pháp Hiệp ước Harmand (1883) và Hiệp ước Patenôtre (1884)2 (Ngày 25-8-1883, đại diện của triều Nguyễn và Chính phủ Pháp đã ký Hiệp ước Harmand. Theo hiệp định, triều Nguyễn chính thức thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp về mọi mặt ở Việt Nam. Hiệp ước Patenôtre (ký ngày 6-6-1884) có nội dung tương tự như Hiệp ước Harmand, nhưng bổ sung thêm một số điều khoản làm dịu bớt phản ứng của nhà Thanh và cho phép triều Nguyễn được quyền cai trị các tỉnh từ Bình Thuận tới Ninh Bình. Với hai hiệp ước này, triều Nguyễn đã hoàn tất các văn kiện đầu hàng, dâng nước ta cho giặc Pháp). Với hai hiệp ước này, triều Nguyễn đã chính thức thừa nhận chủ quyền của thực dân Pháp ở Việt Nam.


Mặc dù triều Nguyễn đã chính thức đầu hàng, nhưng ngọn lửa kháng chiến của nhân dân vẫn bùng cháy dữ dội. Viên đại úy người Pháp là Gosselin đã thừa nhận:

"Người Pháp đến đây không phải đến một nhà vô chủ. Với khí giới rất thô sơ, dân tộc Việt Nam chống cự bền bỉ với đại bác của ta một cách oanh liệt và đầy tinh thần hy sinh"1 (Phạm Văn Sơn: Việt sử tân biên, Sài Gòn, 1962, q.V, tr.10). Sự đầu hàng của triều Nguyễn đã tạo ra một bước ngoặt mới về tư tưởng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta những năm cuối thế kỷ XIX.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #15 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2021, 05:06:27 pm »

III- TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX

1. Các quan điểm quân sự của văn thân, sĩ phu yêu nước

a) Phong trào Cần Vương cứu nước

Sau cái chết của Vua Tự Đức (1883), nhất là sau khi triều Nguyễn ký với Pháp Hiệp ước Patenôtre (1884), nội tình triều đình vô cùng phức tạp. Cuộc đấu tranh phế lập ở triều đình trong những năm 1883 - 1885 thực chất là cuộc đấu tranh giữa phe chủ chiến và phe chủ hòa.


Thực hiện Di chiếu của Vua Tự Đức, Dục Đức được triều thần lập lên làm vua. Nhưng Dục Đức là người chủ hòa, lại kém nhân cách nên đã bị phe chủ chiến của triều đình, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết quyết định phế bỏ. Hiệp Hòa lên nối ngôi vua thay cho Dục Đức. Nhưng Hiệp Hòa lại là người có tư tưởng sợ Pháp, và tìm cách chống lại phe chủ chiến, đặc biệt là tìm cách gạt bỏ Tôn Thất Thuyết. Trước tình thế đó, Tôn Thất Thuyết và phe chủ chiến trong triều đã đưa Hàm Nghi, một người có tinh thần chống thực dân Pháp, lên làm vua khi mới 14 tuổi. Từ đây, thực chất quyền hành trong triều đình đã nằm trong tay những người chủ chiến. Phong trào chống thực dân Pháp đã có những bước phát triển mới.


Tranh thủ thời gian hòa hoãn với Pháp, Tôn Thất Thuyết tích cực cho xây dựng lực lượng quân đội, củng cố các sơn phòng, đồn bốt, tích trữ quân lương và mua sắm thêm nhiều vũ khí. Năm 1884, đội quân Phấn Nghĩa được thành lập, do Trần Xuân Soạn chịu trách nhiệm trực tiếp rèn luyện và chỉ huy. Các sơn phòng ở Quảng Trị, Quảng Bình và Hà Tĩnh được xây đắp thêm nhiều phòng lũy, dựng công đường, dinh thự, kỳ đài và pháo đài.


Nhận biết được ý đồ chống Pháp của Tôn Thất Thuyết và phe chủ chiến, thực dân Pháp đã sớm tìm cách tiêu diệt để trừ hậu họa. Ngày 27-6-1885, tướng Pháp De Courcy chỉ huy bốn đại đội lính thủy đánh bộ và hai tàu chiến đi thẳng từ Hải Phòng đến Huế với âm mưu loại bỏ Tôn Thất Thuyết. Không do dự, Tôn Thất Thuyết và những người chủ chiến đã chủ động tấn công tiêu diệt địch trước khi chúng kịp hành động. Adolphe Delvaux, một giáo sĩ thuộc Hội Truyền giáo Pari, đã thuật lại sự kiện này như sau: "Đối với Thuyết, việc đến Huế đột ngột của Tướng Courcy cùng với hàng ngàn khẩu súng tốt bắn giật lùi khiến ông kinh hoàng. Ông biết khó lòng thắng được lực lượng vượt trội về người Pháp và nhất là ông không thể nào tập hợp kịp hàng ngũ binh lính. Nhưng vì không tìm ra được một lối thoát nào, ông đành bám vào kế hoạch đã nghiền ngẫm lâu nay (kể từ tháng 8-1883) là quy thuận tạm thời theo ảnh hưởng của người Pháp. Mặt khác, kế hoạch của Tướng Courcy bị bại lộ từ trước do viên trung tá lỡ lời và được trình lại cho Thuyết, việc này khiến ông đánh liều bài cuối cùng. Quả tình, nắm được điều bại lộ, Thuyết miệt mài, chuẩn bị vào giờ phút cuối"1 (Những người bạn cố đô Huế (Bùi Ý, Phan Xưng dịch), Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2001, t.VII, tr.350).


Vào đêm ngày mùng 4 rạng sáng ngày 5-7-1885, Tôn Thất Thuyết đã chỉ huy lực lượng kháng chiến của triều đình tấn công vào các căn cứ quân sự của thực dân Pháp ở Huế như toà Khâm sứ và đồn Mang Cá. Cuộc tấn công này thật sự bất ngờ đối với thực dân Pháp. Tướng De Courcy sau này đã thuật lại như sau: "Kinh đô nước Nam đã ở trong tay nước Pháp. 800 bộ binh và khinh binh được điều động đến Huế để làm nhiệm vụ hòa bình và được phân phối đóng ở Mang Cá và toà Khâm cùng với 250 bộ binh hải quân, bất thình lình đã bị đột kích bởi Nam quân vào hồi 1 giờ sáng ngày 5-7-1885. Trong giây lát, ngọn lửa đã đốt cháy các nhà tranh dùng làm cho quân đội chúng ta, và suốt đêm đó, đạn lửa, đạn và đại bác dội như mưa xuống các nơi đó và chiếc tàu Javeline đậu gần Mang Cá. Ở toà Khâm, 150 bộ binh hải quân đã đương đầu với những đợt tấn công liên tiếp của nhiều toán địch can đảm bất chấp hỏa lực mạnh mẽ của các pháo đài từ trong thành bắn ra làm cho toà nhà bị tàn phá nặng nề"1 (Tập tư liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, Tlđd, tr.76).


Mặc dù bị tấn công bất ngờ nhưng với lợi thế về vũ khí, quân Pháp đã nhanh chóng phản công lại. Đến 8 giờ sáng, quân Pháp đã làm chủ tình thế. Cuộc bạo động ở kinh thành Huế bị dập tắt nhanh chóng. Sáng ngày 5-7, Tôn Thất Thuyết đã đưa Vua Hàm Nghi chạy ra sơn phòng Tân Sở ở Quảng Trị, tiếp tục sự nghiệp đánh thực dân Pháp, cứu nước. Tại đây, vào ngày 13-7-1885, lấy danh nghĩa Vua Hàm Nghi, Tôn Thấy Thuyết hạ chiếu: Lệnh hạ Thiên dụ Cần Vương nhằm kêu gọi giới văn thân, sĩ phu yêu nước và toàn thể nhân dân đứng lên chống thực dân Pháp. Chiếu có đoạn viết: "Phàm những ai biết chia lo việc nước, tất cũng dự biết như vậy, mà cũng đều nghiến răng căm phẫn. Cái lòng giết giặc, giết thù nào ai chẳng có (...) người trí giúp mưu, người dũng giúp sức, người giàu xuất của để giúp quân nhu, cùng nhau đoàn kết, chẳng ngại gian hiểm, làm cách gì mà có thể cứu nguy, đỡ ngã, gỡ chỗ khó, giúp khi bí, thảy hết đều hết lòng hết sức"2 (Phan Canh, Đào Đức Chương: Thơ ca Việt Nam thời Cần Vương, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1997, tr.16).


Lệnh hạ Thiên dụ Cần Vương đã như lời hịch, nhanh chóng khơi dậy một cao trào chống thực dân Pháp mạnh mẽ trên phạm vi cả nước: "Thế là các nhà nho lại hô hào dựng lên một cuộc vận động mà đứng đầu người ta có thể thấy hành động của quan nhiếp chính Thuyết. Phong trào lan khắp các tỉnh xứ An Nam và dưới cái cớ tự do cho dân tộc và quyền lợi của triều đình, vận động chống lại ảnh hưởng của người Pháp và phục hồi cho Hàm Nghi"1 (Những người bạn cố đô Huế (Nguyễn Cửu Sa dịch), Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2003, t.XVI, tr.370).


Để đối phó lại với triều đình Hàm Nghi, ngày 19-9-1885, thực dân Pháp dựng lên triều đình bù nhìn Đồng Khánh. Đất nước lúc này có hai vua, Vua Hàm Nghi được những người yêu nước suy tôn, Vua Đồng Khánh được thực dân Pháp và bọn quan lại đầu hàng dựng lên. Triều Nguyễn do Vua Đồng Khánh đứng đầu lúc này đã hoàn toàn làm tay sai cho thực dân Pháp. Một người Pháp đương thời đã ghi nhận điều này: "Đồng Khánh, anh của Hàm Nghi, đã mất hết mọi quyền lợi, được đưa lên ngôi ở Huế dưới sự thương nghị giữa Pháp và triều đình"2 (Những người bạn cố đô Huế (Nguyễn Cửu Sa dịch), Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2003, t.XVI, tr.370). Như vậy, đến lúc này bộ phận chủ hòa trong triều Nguyễn đã thực sự trở thành những kẻ bán nước, đầu hàng và câu kết chặt chẽ với giặc để đàn áp các phong trào yêu nước của nhân dân: "Nước ta với nước Pháp, hiện nay lễ cùng giao cho nhau đã thành, việc hòa hiếu đã định, tưởng sĩ thứ các ngươi đều nghe biết cả, khắp gầm trời này, ai cũng là thần tử của vua, nếu các ngươi biết hối cải, cùng bảo lẫn nhau, theo nhau cùng dấn thân đến thú trong hạn định của quan Khâm sai, thì sẽ được lượng cho khoan miễn, nếu chấp mê không biết hối, riêng mình sinh thành ở ngoài giáo hóa, chỉ lấy nghề cướp bóc mưu sống để hại dân, lại dám nhân lúc 1, 2 quan Pháp bất ý lẻn đánh giết ngầm, bè lũ như thế, rõ là phản nghịch triều đình, không thể khoan tha được"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên, t.XXXVII, tr.153). Như vậy, triều đình Huê lúc này đã coi những ai chống thực dân Pháp tức là chống lại triều đình và mang tội bất trung với vua.


Sự đầu hàng và những lời đe dọa của triều đình Huế không làm nản chí chống thực dân Pháp của các sĩ phu. Ở hầu khắp các địa phương trong cả nước, các văn thân, sĩ phu nô nức hưởng ứng Chiếu Cần Vương cứu nước do Vua Hàm Nghi phát động.


Tại các tỉnh Nam Trung Kỳ, ngay từ đầu tinh thần chiến đấu của nhân dân dưới sự lãnh đạo của các văn thân, sĩ phu yêu nước đã hết sức quyết liệt, sôi nổi với các phong trào của Trần Văn Dự, Nguyễn Hiệu, Nguyễn Hàm ở Quảng Nam; Lê Trung Điền, Nguyễn Tự Tân, Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận ở Quảng Ngãi; tại Bình Định có phong trào của Đào Doãn Định, Mai Xuân Thưởng...


Để dập tắt các phong trào yêu nước, cuối năm 1885 thực dân Phap đã huy động thêm hai đạo binh (lính Pháp hai đội, lính tập một đội, mỗi đội 200 tên) đi tới Quảng Nam, sau đó hợp lực với hai đạo binh của sơn phòng Quảng Ngãi và Bình Định để quyết chiến một phen nhằm giành thắng lợi nhanh chóng. Đồng Khánh cũng vội vã "sai viện thần đem việc hợp lại để đánh, tư ngay cho bọn Nguyễn Thân, Phan Liêm biết mà làm. Rồi vì tình hình giặc ở Bình Định còn khẩn cấp, văn thân hạt ấy xin lưu phòng thần ở lại để giúp việc trấn áp. Ác man ở hạt Quảng Ngãi, cũng hiện đương càn dỡ quấy nhiễu, chuẩn cho Thân vẫn đóng quân ở hạt Quảng Ngãi cùng với khâm sai Quảng Nam cùng làm thanh ứng"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.9, tr.315). Các cuộc càn quét, bắt bớ diễn ra liên miên, gây tổn thất to lớn cho các phong trào yêu nước ở Quảng Nam và Quảng Ngãi. Từ năm 1887, hầu hết các căn cứ kháng chiến bị giặc phá vỡ, nhiều thủ lĩnh nghĩa quân bị bắt hoặc hy sinh. Phong trào chống thực dân Pháp ở Quảng Nam và Quảng Ngãi bị suy giảm đáng kể.


Đứng đầu nghĩa quân Quảng Nam là Nguyễn Hiệu đã bị bắt và xử tử vào tháng 9-1887. Để khủng bố tinh thần "chống cả triều lẫn Tây" của nhân dân, triều đình Đồng Khánh đã hạ lệnh cho đem bêu đầu Nguyễn Hiệu ở tỉnh Quảng Nam và bắt vợ con ông giao cho sơn phòng Quảng Ngãi, Bình Định quản thúc, bắt làm nô lệ2 (Xem Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.183). Theo lệnh của triều đình, Nguyễn Thân và Trần Bá Lộc mang quân đến đàn áp tàn khốc các đội nghĩa quân của cử nhân Lê Trung Đình, Tú tài Nguyễn Tự Tân, Vũ Hội... Chúng đã giết và bắt xử chém 7 thủ lĩnh cùng nhiều nghĩa binh khác. Cũng trong năm này, 11 thủ lĩnh của các đội nghĩa quân ở Bình Định, Quảng Ngãi đã sa vào tay giặc và đều bị xử chém tại Bình Định, trong đó có Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận và một số phó tướng, thông binh khác.


Phong trào chống thực dân Pháp ở các tỉnh Trung Trung Kỳ như Thừa Thiên, Quảng Trị và Quảng Bình phát triển mạnh, đặc biệt là ở Quảng Bình. Quảng Bình là một trong những căn cứ chính của Hàm Nghi. Tại đây, Tôn Thất Thuyết cùng hai con trai là Tôn Thất Đàm và Tôn Thất Thiệp cùng với một số tướng lĩnh như Trần Xuân Soạn, Lê Trực, Nguyễn Tự Như, Đặng Hữu Phổ đã trực tiếp chỉ huy nghĩa quân chiến đấu chống lại các đợt tấn công của thực dân Pháp và bọn tay sai.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #16 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2021, 05:07:06 pm »

Để dập tắt phong trào kháng chiến ở đây, giữa năm 1886, Vua Đồng Khánh cử Nguyễn Hữu Độ hiệp lực cùng thực dân Pháp mở cuộc tấn công lớn đánh vào các căn cứ của nghĩa quân ở vùng rừng núi Xuân Hòa, Bái Ân, An Xá, Khe Cây Giang, Khe Chử... ở Quảng Trị. Đồng Khánh còn ra lệnh củng cố bộ máy chính quyền các cấp, lập các huyện đoàn, phủ đoàn và tổng đoàn để canh phòng và đàn áp các cuộc khởi nghĩa, ở những nơi trọng yếu như phủ Cam Lộ, huyện Minh Linh, Gio Linh và xã An Nha, triều đình đã nhờ quân Pháp đến đóng đồn bốt để canh giữ.


Từ tháng 10-1885, Quảng Bình được chọn làm căn cứ kháng chiến chính của Vua Hàm Nghi. Vì vậy, thực dân Pháp đã mở ba cuộc tấn công liên tiếp vào Quảng Bình trong vòng bốn tháng để bắt sống Vua Hàm Nghi và tiêu diệt lực lượng kháng chiến, nhưng đều bị thất bại. Đến tháng 2-1886, một mặt chúng đưa một đội quân lưu động tiến đánh sơn phòng Hà Tĩnh; mặt khác, nhờ có gián điệp chỉ đường, chúng đã kéo tới bao vây nơi ở của Vua Hàm Nghi. Tuy không bắt được Vua Hàm Nghi nhưng những đợt tấn công dữ dội của quân Pháp và bọn tay sai đã làm cho phong trào chống thực dân Pháp ở Quảng Bình gặp nhiều khó khăn và tổn thất.


Đến đầu năm 1887, quân Pháp đã mở một cuộc tấn công quy mô lớn, đánh phá ác liệt vào căn cứ kháng chiến do Nguyễn Phạm Tuân chỉ huy. Việc Nguyễn Phạm Tuân tử trận đã phần nào làm giảm sút phong trào kháng chiến ở Quảng Bình. Nhân cơ hội này, thực dân Pháp đã xây dựng một loạt đồn bốt ở các vùng Cổ Liễn, Yên Lương để xiết chặt vòng vây. Ngoài ra, chúng còn ra sức mộ thêm binh lính, dọa dẫm và mua chuộc những kẻ nhẹ dạ. Một số thủ lĩnh chống thực dân Pháp đã hoang mang, dao động và không ít kẻ đã ra hàng như Phan Văn My, Trương Quang Ngọc. Đến tháng 11-1888, tên phản bội Trương Quang Ngọc đã chỉ đường cho quân Pháp bắt Vua Hàm Nghi. Sau sự kiện này, phong trào Cần Vương ở các tỉnh Trung Trung Kỳ bước vào giai đoạn thoái trào nhanh chóng.


Thanh - Nghệ - Tĩnh là một trong những trung tâm hưởng ứng phong trào Cần Vương cứu nước sôi nổi và mạnh mẽ nhất, ở Thanh Hóa có cuộc khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân và Cao Điển lãnh đạo; ở Nghệ An có cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhạ đứng đầu; ở Hà Tĩnh có cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo.


Nhiều trung tâm kháng Pháp đã xuất hiện ở Bắc Kỳ, trải từ đồng bằng, trung du đến miền núi. Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo ở Hưng Yên, cuộc khởi nghĩa Hai Sông do Nguyễn Đức Hiệu (Đốc Tít) lãnh đạo ở Hải Dương, cuộc khởi nghĩa do Ngô Quang Bích lãnh đạo ở vùng Tây Bắc.


Trước sự tấn công, truy quét liên tục và khốc liệt của kẻ thù, phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân ta có lúc tạm thời lắng xuống, nhưng rồi lại mau chóng bùng lên, tinh thần yêu nước đánh thực dân Pháp lại được khơi dậy mạnh mẽ hơn. Nếu như phong trào ở các tỉnh Nam và Trung Trung Kỳ sau năm 1888 hầu hết đều đi vào thoái trào, thì ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ phong trào chống thực dân Pháp tuy có bị thu hẹp lại, nhưng lại đi vào chiều sâu và quy tụ vào các cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn như Bãi Sậy, Ba Đình, Hùng Lĩnh và Hương Khê.


Nhìn chung, từ năm 1885 đến năm 1888 có hai chính quyền phong kiến cùng song song tồn tại ở nước ta. Một bên là triều đình Đồng Khánh do thực dân Pháp lập lên ở Kinh đô Huế; một bên là triều đình kháng chiến do Hàm Nghi đứng đầu. Triều đình Đồng Khánh được sự ủng hộ của thực dân Pháp và bọn tay sai bán nước. Triều đình Hàm Nghi được sự ủng hộ của đông đảo văn thân, sĩ phu yêu nước. Sự phân chia này đã tác động không nhỏ tới cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.


Trong khi triều đình Huế đã đầu hàng và trở thành tay sai cho thực dân Pháp, đánh mất vai trò lãnh đạo phong trào kháng chiến thì có "một bộ phận phong kiến, một số người sĩ phu trí thức thấy rõ quyền lợi của phong kiến cũng chỉ là quyền lợi làm tay sai cho đế quốc, nên đã đứng lên chống đế quốc Pháp. Nhưng tinh thần phản đế cứu nước mạnh mẽ trong tầng lớp này không phải căn bản dựa trên sinh lực một phần nào của chế độ phong kiến còn sót lại, mà chính là tinh thần độc lập của dân tộc, cơ sở văn hóa nghìn năm của dân tộc, đang sinh sống trong những người trí thức dân tộc, trong quần chúng lao động bột phát dưới ngọn cờ Cần Vương"1 (Lê Duẩn: Về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1963, tr.5).


Đa phần những người lãnh đạo phong trào Cần Vương xuất thân từ tầng lớp sĩ phu quan lại phong kiến. Họ chiến đấu chống thực dân Pháp không phải để bảo vệ lợi ích giai cấp mà là vì lợi ích dân tộc. Thực tế là họ đã đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi giai cấp. Khi các Vua Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa và Đồng Khánh tỏ rõ tư tưởng sợ giặc và đầu hàng giặc, rất nhiều sĩ phu đã cương quyết phản đối và tỏ rõ quyết tâm kháng chiến. Thế nhưng họ vẫn chưa vượt qua được ý thức hệ phong kiến, nhất là tư tưởng trung quân. Bản thân họ rất muốn có một vị vua sáng để giương cao ngọn cờ quy tụ nhân tâm cả nước đánh thực dân Pháp. Đến khi Vua Hàm Nghi ra Chiếu Cần Vương cứu nước thì tư tưởng trung quân ái quốc lại sống dậy mạnh mẽ trong họ. Dưới cờ nghĩa Cần Vương, họ lập tức dấy lên một cao trào chống thực dân Pháp vô cùng sôi nổi và mạnh mẽ. Nhưng sau khi Tôn Thất Thuyết sang Trung Quốc cầu viện (1886) và Vua Hàm Nghi bị bắt (1888), triều đình kháng chiến không còn nữa và cuộc đấu tranh giữa phái chủ chiến với phái chủ hòa trong nội bộ tầng lớp quan lại chấm dứt. Các văn thân, sĩ phu biết không thể nào tỏ lòng trung với triều đình Huế đầu hàng, trong lòng họ chỉ còn lại hai chữ "ái quốc" mà thôi. Mặc dù vẫn lấy danh nghĩa Cần Vương, nhưng từ đây họ đã thuộc về nhân dân, tự mình giành lấy và giương cao ngọn cờ cứu nước. Cũng từ đây, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp do họ lãnh đạo hoàn toàn mang tính chất nhân dân. Nó phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống lại thực dân Pháp xâm lược để giành lại độc lập dân tộc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #17 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2021, 05:09:47 pm »

b) Tư tưởng chống thực dân Pháp của các văn thân, sĩ phu

Do không còn chịu sự chi phối của tư tưởng trung quân, lại nắm toàn quyền tổ chức và lãnh đạo kháng chiến nên các sĩ phu bên cạnh phát huy tư tưởng truyền thống đã sáng tạo thêm nhiều phương thức đánh địch độc đáo.

- Phát huy sức mạnh của nhân dân, coi đó là nền tảng của kháng chiến

Nổi bật và xuyên suốt tư tưởng của các văn thân, sĩ phu yêu nước là tinh thần dựa vào dân, tin tưởng vào sức mạnh to lớn của nhân dân. Họ đã cương quyết và dứt khoát đứng về phía nhân dân để đấu tranh sinh tử với quân thù. Đây chính là mạch nguồn sâu thẳm làm nên sức mạnh kiên cường và bền bỉ của phong trào. Họ thiết tha kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân đứng lên chiến đấu dưới ngọn cờ Cần Vương:

   "Ai có sức giúp sức,
   Ai có lực giúp tài;
   Lính các tỉnh sót ai
   Củng rút về tất cả;
   Ngày chiêu cờ mãi mã,
   Đêm tuyển lính luyện binh
   Chọn tháng ngày tốt lành
   Ra Cần Vương phụng chỉ"
1 (Phan Canh, Đào Đức Chương: Thơ ca Việt Nam thời Cần Vương, Sđd, tr.289).


Nhân dân cũng nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi đánh giặc cứu nước của các văn thân, sĩ phu: "Nhất thời kêu gọi, muôn chúng đồng lòng, tuy người nông dân ở nơi thôn dã, kẻ sĩ ở chốn bồng môn, không một ai có lời nói khác"2 (Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn, Sđd, tr.297). Các văn thân Bắc Kỳ rất phấn khởi nhận thấy: "Hiện nay, sĩ dân các tỉnh như Bắc Ninh, Sơn Tây, Hải Dương, Nam Định, Hưng Yên đều hưởng ứng, đều không chịu cung ứng binh lương phu dịch cho chúng, dân các phủ huyện và ty thuộc đi lính cho chúng đều đã bỏ về. Sĩ dân các tỉnh Nghệ Tĩnh trở vào Nam cũng nổi lên chiếm đóng nhiều nơi để chia thế lực của giặc"3 (Thơ văn Nguyễn Quang Bích, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1973, tr.212). Những nghĩa quân tham gia khởi nghĩa đều có chung một nỗi niềm, một ý chí xả thân đánh giặc: "Chí sĩ đều mang xiềng xích khổ, Nghĩa quân nào quản máu xương rơi”1 (Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn, Sđd, tr.298).


Chính nhờ có sự che chở, giúp đỡ và tham gia của đông đảo nhân dân nên các cuộc khởi nghĩa mới có thể trụ vững trong một thời gian khá dài. Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 - 1892) tồn tại được gần mười năm ngay giữa vùng đồng bằng rộng lớn, trước sự truy quét rất gắt gao của quân địch là do nhân dân đã không quản ngại gian khổ và hy sinh khi che chở, tiếp tế quân lương, hoặc trực tiếp tham gia chiến đấu cùng nghĩa quân. Căn cứ kháng chiến Ba Đình trở nên hùng mạnh trong những năm 1886 - 1887 và làm cho địch lo ngại nhất là do những người lãnh đạo như: Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Trần Xuân Soạn, Hà Văn Mao đã biết dựa vào nhân dân để xây dựng lực lượng và tổ chức tác chiến. Nhân dân các làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê đã hy sinh nhà cửa, ruộng vườn để nghĩa quân xây dựng căn cứ. Trong khi người già và trẻ nhỏ tản cư sang các làng mạc lân cận, thì trai tráng trong làng ở lại cùng trai tráng ở các làng xung quanh nô nức kéo về căn cứ Ba Đình chống giặc. Bên cạnh người Kinh tham gia đội ngũ nghĩa quân Ba Đình, còn có nhiều đồng bào thiểu số người Thái, người Mường cũng về tụ nghĩa. Tinh thần hăng hái đánh giặc của các nghĩa dân Thanh Hóa được khắc họa phần nào trong những câu Vè Ba Đỉnh chống Pháp:

   "Lệnh cho dân chúng chặt tre,
   Chẻ nan đan sọt nộp về cho nhanh
   Kéo quân đến đóng Ba Đình
   Đào thành đắp ụ can thành tứ vi"
1 (Chu Thiên, Đặng Huy Vận, Nguyễn Bỉnh Khôi: Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970, tr.480).


Sau khi Ba Đình thất thủ, cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887 - 1892) do Tống Duy Tân và Cao Điền lãnh đạo đã nhanh chóng bùng nổ. Nhân dân Thanh Hóa một lần nữa quy tụ và chiến đấu dưới cờ nghĩa của các sĩ phu yêu nước.


Tính chất nhân dân, tư tưởng lấy dân làm gốc được thể hiện sâu sắc nhất trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896), cuộc khởi nghĩa được coi là đỉnh cao nhất của phong trào Cần Vương. Trong suốt quá trình tồn tại, bất cứ lúc nào và ở đâu cuộc khởi nghĩa Hương Khê cũng được nhân dân hết lòng ủng hộ cả về nhân lực và vật lực. Ở khắp nơi "dân chúng rất phấn khởi... Chỗ nào cũng thấy cờ quạt của nghĩa quân. Già trẻ đều vui vẻ múa hát. Người ta nô nức đem trâu, lợn, gà và gánh gạo đến ủng hộ cụ Phan. Trai tráng đua nhau nhập ngũ. Hàng trăm thợ rèn kéo đến suốt đêm ngày làm giáo mác cho nghĩa quân"2 (Trần Huy Liệu, Văn Tạo, Nguyễn Khắc Đạm: Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, Nxb. Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1957, t.1, tr.91). Tinh thần đó đã được khắc sâu vào những câu vè của nhân dân địa phương:

   ''Trăm họ hớn hở đêm ngày
   Tụng công đức ấy coi tầy mẹ cha
   Bảo nhau đem của cải ra
   Gửi lên sơn trại gọi là lương quân
   Xưởng trong cho chí trại ngoài
   Thợ rèn các tỉnh đều mời hội công''
1 (Chu Thiên, Đặng Huy Vận, Nguyễn Bỉnh Khôi: Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, Sđd, tr.497).


Do có sự liên hệ mật thiết với nhân dân, biết dựa vào nhân dân, nên lực lượng nghĩa quân Hương Khê đã từng bước phát triển từ mấy trăm đến mấy nghìn người. Trong những ngày cuối cùng của cuộc khởi nghĩa, dù rơi vào tình trạng hết sức khó khăn, nhưng nghĩa quân vẫn giữ lòng trung thành và quyết tâm sát cánh bên người thủ lĩnh của mình để đánh giặc. Nghĩa quân được trang bị vũ khí đầy đủ là nhờ công lao của từng người dân. Họ đã đi bòn nhặt từng mẩu sắt vụn, từng lưỡi cuốc cùn; bằng trí thông minh của mình, họ đã đúc ra những khẩu súng, viên đạn để cung cấp cho nghĩa quân. Bên cạnh việc quyên góp quân lương, nhân dân ở vùng kháng chiến thuộc các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh còn tự nguyện nộp thuế cho nghĩa quân, mỗi mẫu ruộng là một đồng bạc2 (Trần Huy Liệu, Văn Tạo, Nguyễn Khắc Đạm: Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, Sđd, tr.92). Trong bức thư trả lời viên Kinh lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải, Phan Đình Phùng đã khẳng định vai trò của nhân dân với lòng cảm phục sâu sắc: "Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mười năm trời, những người thân đem vào việc nghĩa, hoặc bị trách phạt, hoặc bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ, trái lại, họ vẫn ra tài ra sức giúp đỡ tôi và số người mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải người ta lấy điều tai vạ hiểm nguy làm sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hăm hở vậy đó"1 (Phòng Văn hóa - Cục Tuyên huấn: Phan Đình Phùng, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1961, tr.51).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #18 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2021, 05:10:31 pm »

- Đoàn kết toàn dân đánh giặc

Một trong những nét rất mới của phong trào Cần Vương thời kỳ này là tư tưởng từng bước xóa bỏ mâu thuẫn lương - giáo, lương - giáo cùng đoàn kết đánh giặc. Trước đó, mâu thuẫn lương - giáo rất gay gắt. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, giới văn thân, sĩ phu đã tỏ rõ tinh thần sát, tả đạo. Họ cho rằng giáo dân là tay sai cho giặc, là những kẻ phản quốc, vì vậy, cần phải giết hết giáo dân. Sự nghi kỵ giáo dân của họ cũng có những cơ sở nhất định vì trước khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã lợi dụng một số cha cố mượn đường truyền đạo phương Tây đề thăm dò, dọn đường cho thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Chính vì điều đó mà triều Nguyễn thi hành chính sách cấm đạo, sát đạo và coi các giáo dân là những kẻ tà đạo. Khi nổ súng xâm lược Việt Nam, nhiều cha cố người Pháp đóng vai trò là tình báo và chỉ đường cho quân Pháp đánh chiếm Việt Nam. Thậm chí họ còn lợi dụng tín ngưỡng để xúi giục giáo dân chống lại phong trào chống thực dân Pháp của triều đình, của các sĩ phu yêu nước. Vì vậy, mâu thuẫn giữa các sĩ phu và các giáo sĩ trở nên căng thẳng. Cuộc khởi nghĩa Trương Định đã nêu cao tư tưởng yêu nước, chống xu hướng hàng giặc. Đến cuộc khởi nghĩa năm Giáp Tuất (1874) của Trần Tấn và Đặng Như Mai thì tinh thần sát tả được khuấy động mạnh mẽ hơn với khẩu hiệu "Bình Tây, sát tả" (đánh giặc Tây, giết giáo dân). Chủ trương sát tả được đông đảo văn thân, sĩ phu đồng tình và ủng hộ.


"Sát tả" là một chủ trương sai lầm của các sĩ phu yêu nước. Trên thực tế, chỉ có một bộ phận giáo dân bị kẻ thù xâm lược lợi dụng, một số thầy tu "nối giáo cho giặc", còn đa số giáo dân vẫn có tinh thần dân tộc và chống thực dân Pháp. Vì thế, những cuộc xung đột và đàn áp giáo dân đã làm cho mâu thuẫn lương - giáo ngày càng lên cao, đẩy một bộ phận giáo dân ngả về phía kẻ thù. Lực lượng giáo dân bị tách khỏi phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc.


Trải qua một thời gian kháng chiến khá dài, các văn thân, sĩ phu nhận thấy "sát tả" không phải là một giải pháp tốt, trái lại nó chỉ gây thêm thù hằn dân tộc và có lợi cho thực dân Pháp, vì vậy cần phải đoàn kết lương - giáo cùng đánh thực dân Pháp. Tư tưởng tiến bộ này đã được thế hiện rõ nét trong cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh. Trong bức thư đề ngày 14-3-1890 của Cao Điển gửi các binh sĩ người Việt ở đồn Thị Long (Thanh Hóa), đã nêu rõ: "Tôi được lệnh đi tiễu trừ gian phi. Lương, giáo chúng ta cùng con một nước, không nên sát hại nhau. Vậy nên tôi viết thư này báo đến anh em biết rằng: lâu nay anh em hoạt động chống lại quốc dân, các anh em nên trở về gia đình làm ăn yên ổn, hoặc đánh lại giặc, cướp lấy súng nộp cho nghĩa quân thì không những được tha tội, mà còn được lãnh thưởng"1 (Phan Canh, Đào Đức Chương: Thơ ca Việt Nam thời Cần Vương, Sđd, tr.23).


Nếu như trước đó, các sĩ phu thường quan tâm đến các thành phần xã hội như thân hào, anh danh, giáo dưỡng..., coi đó là lực lượng chủ đạo tham gia kháng chiến, thì đến phong trào Cần Vương, chữ "dân" được mở rộng, mọi tầng lớp nhân dân đều được các sĩ phu vận động và quy tụ vào các cuộc khởi nghĩa. Họ xác định: "Lòng người, sĩ khí Nam, Bắc đều như nhau. Sự xuất xứ của chúng tôi cố nhiên không quan hệ gì, một ngày còn có lòng dân, một ngày còn có quốc thể"2 (Tập tư liệu tham khảo lịch sử cận đại Việt Nam, Tlđd, tr.49).


Bên cạnh lực lượng người Kinh, các lực lượng người dân tộc thiểu số đã được huy động vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của cả dân tộc. Ngay trong giai đoạn đầu chống thực dân Pháp, đồng bào Khmer ở Tây Ninh đã hăng hái nổi dậy kháng chiến. Khi cuộc khởi nghĩa Trương Định bị đàn áp, Trương Quyền - con trai Trương Định, đã kéo một toán nghĩa quân rút về Tây Ninh để phối hợp với đồng bào Khmer và đồng bào người Thượng tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong phong trào Cần Vương, vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số được thể hiện rõ nét hơn trong quá trình xây dựng và duy trì các đội quân khởi nghĩa.


Nguyễn Quang Bích được triều đình giao trọng trách trấn thủ vùng Sơn - Hưng - Tuyên. Tại đây, hưởng ứng Chiếu Cần Vương, ông đã ra sức tập hợp lực lượng và lãnh đạo nhân dân các dân tộc Tây Bắc tiếp tục sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp.


Tại Thanh Hóa, Cầm Bá Thước (người Thái) và Hà Văn Mao (người Mường) đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền Tây đứng lên chống thực dân Pháp. Họ cũng là những thủ lĩnh có nhiều đóng góp đối với cuộc khởi nghĩa Ba Đình và phong trào kháng Pháp của tỉnh Thanh.


Trong đội quân của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn có đông đảo người dân tộc thiểu số ở vùng miền núi các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Sự tham gia của đông đảo đồng bào các dân tộc thiểu số vừa là điều kiện tồn tại của phong trào kháng chiến, vừa phản ánh sâu sắc tinh thần đại đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đánh giặc, giữ nước.


Rõ ràng, tính nhân dân trong phong trào Cần Vương do các sĩ phu lãnh đạo được thể hiện rộng rãi và sâu sắc hơn so với các giai đoạn chống thực dân Pháp trước đó. Đây chính là sự kế thừa và tiếp nối truyền thống lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh của nhân dân để làm nền tảng đánh giặc giữ nước. Tư tưởng thân dân, dựa vào dân, đoàn kết toàn dân đánh giặc là tư tưởng quân sự nổi bật và chi phối phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #19 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2021, 05:11:02 pm »

- Liên thủ

Một cuộc khởi nghĩa đơn độc sẽ không thể đối đầu được với giặc Pháp. Nhận thức được điều đó, ngay từ những ngày đầu kháng chiến, các thủ lĩnh nghĩa quân đã sớm biết liên kết nhau lại cùng đánh giặc. Ban đầu, các đội nghĩa binh của các sĩ phu từng phối hợp chiến đấu có hiệu quả với triều đình trong việc chặn giặc ở Đà Nẵng, Gia Định. Khi chiến tranh lan rộng ra toàn Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ, các đội nghĩa binh đã sớm có sự phối hợp trong chiến đấu. Lúc giặc Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, các đội nghĩa binh của Đỗ Quang, Âu Dương Lân, Trần Xuân Hòa, Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Trị đã nhiều lần phối hợp tác chiến với nghĩa quân Trương Định. Sự phối hợp đó đã mang lại nhiều hiệu quả như: Vào đêm 21 rạng sáng ngày 22-6-1861, đội quân của Đỗ Trình Thoại đã phối hợp với nghĩa quân Trương Định tấn công vào căn cứ Quy Sơn (gần Gò Công) làm cho quân địch hoảng loạn. Ngày 10-12, nghĩa quân Nguyễn Trung Trực và nghĩa quân Trương Định đã phối hợp đánh địch trên sông Nhật Tảo, đốt cháy chiến thuyền Espérance của địch... Khi quân Pháp mở rộng chiến tranh ra Bắc Kỳ và tổ chức đánh thành Nam Định (năm 1873), Nguyễn Mậu Kiến cùng với hai con là Nguyễn Hữu Cương và Nguyễn Hữu Bản đã tập hợp sĩ dân ở Thái Bình vượt sông Hồng sang chiến đấu cùng quân dân Nam Định giữ thành. Trong phong trào Cần Vương, tính chất liên thủ trong chiến đấu giữa các cuộc khởi nghĩa được thể hiện rõ nét hơn.


Nghĩa quân của Nguyễn Quang Bích đã có sự phối hợp hiệu quả với các đội nghĩa quân của Nguyễn Đức Ngữ (Đốc Ngữ), Hoàng Văn Phúc (Đề Kiều), Đèo Văn Thanh và Cầm Văn Toa trong việc tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở vùng Tây Bắc.


Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, đã đứng lên tập hợp các đội nghĩa binh nhỏ lẻ ở Hưng Yên và các tỉnh lân cận để phát triển thành một phong trào chống thực dân Pháp có quy mô lớn nhất Bắc Kỳ. Các tướng lĩnh dưới quyền ông hoạt động trên nhiều địa bàn khác nhau và thường xuyên có sự phối hợp chặt chẽ trong chiến đấu. Nguyễn Thiện Kế và Nguyễn Thiện Giang hoạt động ở Mỹ Hào (Hưng Yên), Phan Văn Khoát, Ba Biều hoạt động ở Vĩnh Bảo (Hải Phòng), Nguyễn Đức Hiệu (Đốc Tít) và Tuần Văn hoạt động ở vùng Hai Sông (Kinh Môn, Hải Dương). Nghĩa quân Bãi Sậy còn tích cực hoạt động ở các vùng phụ cận Hà Nội và Bắc Ninh. Khi quân Pháp đánh thành Hà Nội, nghĩa quân còn tích cực phối hợp tác chiến với quan quân triều đình do Hoàng Tá Viêm lãnh đạo. Mạng lưới liên hoàn của nghĩa quân dọc trục đường Hà Nội - Hải Phòng đã làm cho quân địch gặp rất nhiều khó khăn khi mở rộng phạm vi đánh chiếm ra toàn Bắc Kỳ và chịu không ít tổn thất về người và của.


Sau khi thất bại trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình, Đinh Công Tráng (quê ở Hà Nam) đã vào Thanh Hóa phối hợp với Phạm Bành, một viên quan chủ chiến đã treo ấn từ quan, xây dựng căn cứ kháng chiến tại Ba Đình. Mặc dù căn cứ chính của nghĩa quân nằm trên ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê (Nga Sơn), nhưng các căn cứ phụ trợ lại trải rộng hầu khắp cả tỉnh. Căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao ở Yên Định, căn cứ Phi Lai của Cao Điển ở Phúc Thọ, căn cứ Quảng Hóa của Trần Xuân Soạn ở Vĩnh Lộc. Các căn cứ này đã tạo nên thế liên hoàn trong phối hợp tác chiến khi căn cứ Ba Đình bị tấn công và là hậu cứ khi nghĩa quân Ba Đình thất thủ.


Tính chất liên thủ được thể hiện rõ nhất, sâu sắc nhất trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Địa bàn hoạt động của cuộc khởi nghĩa khá rộng, trải khắp bốn tỉnh miền Trung là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Khi cuộc khởi nghĩa Hương Khê mới hình thành1 (Thủ lĩnh đầu tiên của cuộc khởi nghĩa Hương Khê là Lê Ninh ở Đức Thọ (Hà Tĩnh). Năm 1885, nghĩa quân của Lê Ninh đã tấn công thành Hà Tĩnh và giết chết tên Bố chánh Lê Đại. Sau đó nghĩa quân rút lên Hương Khê nhằm tránh bị địch truy kích và phối hợp tác chiến với nghĩa quân của Phan Đình Phùng ở đây. Đến năm 1886, Lê Ninh bị bệnh chết; em trai ông là Lê Trực thay ông nắm quyền lãnh đạo nghĩa quân. Sau này Lê Trực đã trở thành một tướng của Phan Đình Phùng), ở Hà Tĩnh đã xuất hiện nhiều đội quân nhỏ như đội nghĩa quân của Cao Thắng ở Hương Sơn; của Nguyễn Trạch, Nguyễn Chanh ở Can Lộc; của Ngô Quảng, Hà Văn Mỹ ở Nghi Xuân; của Nguyễn Hữu Thuận ở Thạch Hà và của Phan Đình Phùng ở Đức Thọ.


Sự tồn tại của nhiều đội nghĩa quân trên địa bàn một tỉnh, một mặt phản ánh phong trào chống thực dân Pháp ở Hà Tĩnh diễn ra rất sôi nổi nhưng mặt khác lại cho thấy tính chất rời rạc của phong trào. Bản thân các đội nghĩa quân cũng nhận thấy nếu đơn độc kháng chiến sẽ dễ dàng bị quân Pháp tiêu diệt nên cđã sớm tìm cách liên kết với nhau. Với tài năng và uy tín của mình, Phan Đình Phùng đã giương cao cờ nghĩa, quy tụ nhân tâm, lần lượt thu phục các thủ lĩnh nghĩa quân, hình thành một mạng lưới kháng chiến từ Thanh Hóa tới Quảng Bình, gồm 15 quân thứ: Thanh Hóa (1), Nghệ An (2), Hà Tĩnh (10) và Quảng Bình (2).


Nhờ sự liên kết chặt chẽ giữa các đội nghĩa quân trong bốn tỉnh mà cuộc khởi nghĩa Hương Khê tồn tại lâu dài nhất và trở thành đỉnh cao nhất trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đã gây cho địch rất nhiều khó khăn và tổn thất.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM