Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:31:22 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 3  (Đọc 3906 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #80 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2021, 07:56:22 pm »

III- CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ KHỞI NGHĨA TOÀN DÂN, KHỞI NGHĨA TỪNG PHẦN TIẾN LÊN TỔNG KHỞI NGHĨA

Quan điểm của Đảng về khởi nghĩa toàn dân, khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa là hai quan điểm cốt lõi trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta. Nội dung khởi nghĩa toàn dân bắt nguồn từ luận đề "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng" mà C. Mác và Ph. Ăngghen đã nhiều lần nhấn mạnh. Nội dung khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa là sự sáng tạo, mới mẻ, được khái quát từ truyền thống lịch sử và đặc điểm của cách mạng Việt Nam.
   

1. Tiến hành khởi nghĩa toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng

Nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.304). Từ kết luận đó, Người cho rằng cách mạng Việt Nam cũng phải tiến hành triệt để, đem chính quyền giao cho dân chúng số nhiều, chỉ có như thế dân chúng mới được hạnh phúc. Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc cũng nhận thấy rằng điều kiện lịch sử và xã hội của cuộc tổng khởi nghĩa ở Nga khác với khởi nghĩa của các dân tộc bị áp bức. Đối với các dân tộc thuộc địa bị ách đô hộ ngoại bang, muốn làm cách mạng tới nơi, thì đối tượng của cách mạng không chỉ đánh đổ vua quan phong kiến, địa chủ, tư bản mà còn phải đánh đổ ách áp bức dân tộc. Bởi vậy, theo Người, cách mạng thuộc địa có những nét đặc thù; trước hết, nó thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp và "cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.441). Thế nhưng, từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cho đến nhiều năm sau đó, khởi nghĩa vũ trang giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc dừềi sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp vô sản chưa thành công ở bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, ở châu Á, ba năm sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng Cộng sản Inđônêxia thành lập (1920), tiếp đó Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời (1921). Năm 1926, dưới sự lãnh đạo của chính đảng vô sản, cuộc khởi nghĩa ở Inđônêxia nổ ra. Năm 1927, khởi nghĩa Quảng Châu ở Trung Quốc bùng nổ. Cả hai cuộc khởi nghĩa đó đều không thắng lợi. Thực tế đó đặt ra những vấn đề cần giải đáp, trước hết là vể mặt lý luận.


Thực hiện sứ mệnh lịch sử đó, cùng với việc nghiên cứu các tác phẩm lý luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc còn quan tâm nghiên cứu các cuộc đấu tranh đang diễn ra sôi nổi ở các nước thuộc địa, nhất là các thuộc địa của thực dân Pháp và Anh. Từ thực tiễn của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên (1917), các cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào Nam Bộ (Việt Nam) đến các cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đahômây, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ... Nguyễn Ái Quốc đã viết một loạt bài báo phân tích nguyên nhân nổ ra và sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa đó. Qua khảo sát thực tiễn, Người rút ra hai kết luận quan trọng. Thứ nhất, theo quy luật, có áp bức có đấu tranh. Nhưng cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa khác với các cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước chính quốc. Họ bị kẻ thù đàn áp khốc liệt. Người viết: "Dân bản xứ, không nhịn nhục được nữa, vùng lên. Thế là cuộc đàn áp đẫm máu được tiến hành. Người ta dùng những biện pháp cương quyết. Người ta đưa quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến; người ta hạ lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.190). Bởi vậy, muốn tổ chức bạo động, phải có kế hoạch chu đáo, quyết tâm cao, có tổ chức chặt chẽ. Thứ hai, trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa, lần đầu tiên trong lịch sử đã xuất hiện một lực lượng mới tham gia, đó là giai cấp công nhân. Vấn đề đặt ra là phải tăng cường tình đoàn kết giai cấp cùng chống kẻ thù chung. Người nhấn mạnh: "Chúng ta phải rút ra những kết luận nghiêm túc từ những sự kiện này, cụ thể là: trong các thuộc địa, công nhân đã bắt đầu hiểu thế nào là đấu tranh giai cấp. Cần phải làm thế nào để cho công nhân da đen và da vàng cũng hiểu rằng: Kẻ thù duy nhất của họ nằm ngay trong bản thân cái chế độ này, chế độ đang dẫn đến một chế độ nô lệ tinh vi hơn, nặng nề hơn, và vô nhân đạo hơn chế độ trước đây"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.188).


Từ những căn cứ đó, Nguyễn Ái Quốc đã mưòng tượng, hình dung cuộc khởi nghĩa ở Việt Nam trong tương lai khi Người nói chuyện với một họa sĩ Thuỵ Điển tại Mátxcơva ngày 19-9-1924. Về sau, họa sĩ đó kể lại: Được hỏi về suy nghĩ của Người đối với việc giải phóng Việt Nam, Người trả lời bằng cách khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Theo Người, tổ chức càng nhiều càng tốt những nhóm vũ trang của những người nông dân và công nhân. Đó là những tế bào "có thể hợp thành hạt nhân của cuộc khởi nghĩa"2 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hồ Chí Minh - Biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.19). Tuy đây chỉ mới là nét phác họa đầu tiên, nhưng nó đã phản ánh bản chất về ý tưởng khởi nghĩa vũ trang của Người.


Cùng với việc khảo sát thực tiễn các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc chống đế quốc, thực dân, Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu rất cơ bản truyền thống lịch sử, nền văn hóa Việt Nam và các giá trị phương Đông. Trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc lịch sử, văn hóa Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã phát hiện ra nội dung lớn mà các tác phẩm lý luận thời đó ít đề cập. Đó là sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc. Năm 1924, Người viết bản báo cáo nhan đề "Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ". Trong báo cáo, Người khẳng định: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người "nhà quê" phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khoá, làm cho những nhà cách mạng trôn sang Nhật Bản, làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.511). Người còn nhấn mạnh, cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương muốn thắng lợi, nhất thiết "phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.520).


Yếu tố dân tộc chẳng những có thể ảnh hưởng đến phong trào của giai cấp công nhân, nông dân mà nó còn có khả năng thay đổi lập trường của các giai cấp khác như tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận trong giai cấp địa chủ. Trong quá trình cách mạng, đặc biệt là trong khi chuẩn bị thực hành khởi nghĩa vũ trang, Nguyễn Ái Quốc cho rằng điều cốt yếu là phải phát huy được sức mạnh quần chúng, sức mạnh của toàn dân tộc; có như vậy, công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước mới giành được thắng lợi. Sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là không những phát hiện ra tầm quan trọng của sức mạnh dân tộc mà còn đặt đúng vị trí vấn đề dân tộc theo lập trường vô sản. Từ đó, xác định đúng động lực của cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Ngoài ra, yếu tố dân tộc còn bao gồm cả một số tư sản, địa chủ có ý thức dân tộc, không phải là tay sai chống đối, phản động. Và nếu giải quyết tốt vấn đề dân tộc theo lập trường vô sản sẽ cho phép tập hợp, đoàn kết lực lượng toàn dân tộc cho đánh đổ đế quốc, tay sai. Quan điểm cơ bản này được thể hiện rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2-1930).


Đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy (11-1940), vấn đề khởi nghĩa vũ trang được nêu ra, nhưng chỉ là nét tổng quát. Nghị quyết Hội nghị xác định: "Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.58), về tổ chức lực lượng: "Trong giờ tranh đấu quyết liệt, Mặt trận phải trực tiếp võ trang cho dân chúng cùng Đảng tổ chức nhân dân cách mệnh quân, trực tiếp tham gia điều khiển bạo động"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.81). Sau Hội nghị, Trung ương Đảng cử đồng chí Hoàng Văn Thụ, ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng sang Trung Quốc xin chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tháng 12-1940, tại huyện Tĩnh Tây, nghe đồng chí Hoàng Văn Thụ báo cáo tình hình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết định về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #81 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2021, 07:58:37 pm »

Lúc này, nhiệm vụ trung tâm của Đảng là lãnh đạo toàn dân tích cực chuẩn bị và thực hành khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân trong cả nước. Để giành thắng lợi, phải hoàn chỉnh lý luận về khởi nghĩa vũ trang soi sáng cho thực tiễn lúc đó và về sau. Xuất phát từ nhu cầu lịch sử đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoàn chỉnh tác phẩm Con đường giải phóng2 (Tại một địa điểm gần biên giới Trung - Việt, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở một lớp huấn luyện cán bộ. Người trực tiếp chỉ đạo biên soạn tài liệu, phân công Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp mỗi người biên soạn một phần. Toàn bộ tài liệu được Người sửa chữa, chỉnh lý thành tác phẩm lý luận).


Tác phẩm Con đường giải phóng xác định cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp diễn ra ở Việt Nam là một cuộc giải phóng dân tộc do toàn dân tiến hành, lấy công nông làm lực lượng chủ yếu. Để cho sự nghiệp giải phóng dân tộc thành công, phải đánh đổ xu hướng sai lầm muốn lợi dụng Pháp đánh Nhật hoặc Nhật đánh Pháp, đồng thời phải đánh đổ cả xu hướng muốn làm cách mạng ruộng đất ngay; bởi vì thực hiện điều đó lúc này chỉ làm cho lực lượng cách mạng bị chia rẽ và suy yếu.


Tổng kết kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm lược, tác phẩm chỉ ra nguyên nhân chưa thành công của các cuộc khởi nghĩa là: Không có tính chất quần chúng rộng rãi, không có chính đảng tiên phong lãnh đạo; khi thì không có binh lính tham gia, khi lại chỉ có binh lính nổi dậy, không lập được quân đội cách mạng mạnh, không biết áp dụng chiến thuật du kích; một vài cuộc khởi nghĩa giành được chính quyền địa phương, nhưng không lập tức thi hành chính sách phù hợp mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Nói tóm lại, các cuộc khởi nghĩa ấy chưa đủ điều kiện khách quan và chủ quan, chiến lược, chiến thuật chưa đúng. Muốn thành công, phải nhờ "vận nước", tức là lòng dân và tình thế ngoài nước, trong nước.


Từ kinh nghiệm lịch sử đó, tác phẩm khẳng định: Khởi nghĩa vũ trang là nhân dân nổi dậy dùng vũ khí đánh đuổi quân cướp nước, giành lại chính quyền. Đó là cuộc đấu tranh to lớn về chính trị và quân sự, làm đúng thì thành công, làm sai thì thất bại. Tác phẩm nêu lên các điều kiện bảo đảm thắng lợi cho cuộc khởi nghĩa và kết luận: Hiện thời, các điều kiện khởi nghĩa của ta chưa đầy đủ. Nhưng phát xít Nhật ngày càng thua lớn, ở Đông Dương chúng lại hằm hè với đế quốc Pháp, cả hai sẽ bối rối và đên lúc nào đó chúng sẽ hất cẳng nhau. Còn dân ta thì ngày càng thấy nỗi tủi nhục dưới ách thống trị của Nhật - Pháp và sẽ ngả hẳn sang phe cách mạng. Bởi vậy, cần nỗ lực tuyên truyền rộng rãi chính sách cứu quốc của đoàn thể cách mạng và ra sức tổ chức lực lượng. Như thế là mau đầy đủ các điều kiện để khởi nghĩa nổ ra thắng lợi.


Trù liệu kế hoạch, tác phẩm Con đường giải phóng nêu lên những việc phải làm trước, trong và sau cuộc khởi nghĩa. Trước khi khởi nghĩa, phải lập những đội tuyên truyền, tổ chức để kéo tất cả các hội viên cách mạng và đông đảo dân chúng tham gia khởi nghĩa, phải lập những đội tự vệ làm "quân chủ lực" trong khởi nghĩa. Chuẩn bị một chính phủ cách mạng và nêu rõ những việc chính phủ ấy thực hiện sau khi khởi nghĩa. Chia địa phương thành từng vùng để khi khởi nghĩa nổ ra mọi người thực hiện công việc của mình; phải có kế hoạch tiến công; định ra đội tiên phong, đội hậu bị, đội cứu thương. Điều tra kỹ những kho tàng, phương tiện giao thông, liên lạc để chuẩn bị chiếm lấy hoặc phá hủy. Trong khởi nghĩa, phải tiến công kiên quyết, do dự một chút là thất bại. Muốn khởi nghĩa thắng lợi chỉ có một cách là tiến công, kiên quyết tiến công để tiêu diệt quân thù. Các hội viên cách mạng phải tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, cơ quan chỉ huy phải hăng hái, cương quyết làm gương cho dân chúng. Phải lưu ý đề phòng bọn trinh thám của đế quốc lẻn vào phá hoại khởi nghĩa. Sau khi khởi nghĩa thắng lợi, phải lập tức đem vũ khí chiếm được vũ trang cho quần chúng có tổ chức và phải cử người tin cậy lãnh đạo họ. Phải lập ngay chính phủ cách mạng của nhân dân. Chiếm được một vùng khá rộng thì thành lập chính phủ lâm thời toàn quốc. Nhiệm vụ của chính phủ cách mạng là thủ tiêu hẳn chính quyền cũ, ban bố quyền tự do, dân chủ cho nhân dân, lập quân đội cách mạng để tiếp tục chiến đấu, bảo vệ thành quả cách mạng. Ngoài ra, tác phẩm còn xác định rõ chiến thuật quân sự, địa vị căn cứ du kích trong quá trình chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa1 (Xem: Con đường giải phóng, tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh).


Tác phẩm Con đường giải phóng đánh dấu sự hoàn chỉnh lý luận khởi nghĩa vũ trang của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941), Đảng ta đã bàn những vấn đề trọng đại của đất nước dưới ánh sáng tư tưởng Nguyễn Ái Quốc mà điểm cốt lõi là: Đánh đổ đế qụốc và tay sai giành độc lập dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất. Xúc tiến chuẩn bị các điều kiện để khởi nghĩa vũ trang thắng lợi, giành chính quyền trong cả nước. Sau khi phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị khẳng định: "Cốt yếu của cuộc vận động hiện thời là làm thế nào đánh đuổi được giặc Pháp - Nhật; thực hiện cho được cuộc cách mạng giải phóng dân tộc1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.122). Hội nghị còn chỉ rõ sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; quyết định thay tên các hội phản đế thành hội cứu quốc; thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Xác định hình thành khởi nghĩa ở Việt Nam là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa... Đồng thời xác định khởi nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân. Sau Hội nghị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết lời kêu gọi toàn dân, Người nhấn mạnh: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng. Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.167).


Để các cấp ủy đảng quán triệt sâu sắc các quan điểm cơ bản của Đảng và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, ngày 1-12-1941, Trung ương Đảng ra Chỉ thị về công tác tổ chức. Chỉ thị giải thích rõ thêm: "Đảng Cộng sản là tổ chức cao hơn hết của giai cấp vô sản. Nghĩa là bên dưới Đảng Cộng sản còn có những tổ chức thông thường của quần chúng vô sản và của các từng lớp ngoài vô sản. Đảng phải lãnh đạo những tổ chức ấy, nhưng lãnh đạo bằng cách thuyết phục, bằng cách đề nghị trong các hội quần chúng. Muốn thế, những người cộng sản phải vào làm việc trong các hội quần chúng đề nghị ý kiến của Đảng trong các hội đó, làm cho đa số quần chúng tán thành chủ trương của Đảng. Như thế là Đảng lãnh đạo quần chúng"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.215). Về trách nhiệm của Đảng, Chỉ thị xác định: "Hiện thời trách nhiệm của Đảng ta phải sửa soạn võ trang khởi nghĩa cho nên các đồng chí phải đặc biệt nghiên cứu những hình thức tranh đấu võ trang... Phải tổ chức những ủy ban quân sự chính trị chỉ huy các khu vực đặc biệt của các bộ đội du kích và trong hoàn cảnh trực tiếp cách mệnh những ủy ban này phải đổi làm ủy ban quân sự cách mệnh do ủy ban quân sự toàn xứ hoặc toàn quốc chỉ huy"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.228).


Quan điểm khởi nghĩa toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng phản ánh trong các văn kiện, tác phẩm của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là ánh sáng soi đường cho thực tiễn khởi nghĩa vũ trang trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám, mang tính toàn dân rộng rãi và thực sự là cuộc khởi nghĩa của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #82 vào lúc: 14 Tháng Sáu, 2021, 07:59:59 pm »

2. Khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa

Cùng với quan điểm khởi nghĩa toàn dân, Đảng ta còn nêu rõ quan điểm về hình thức khởi nghĩa; đó là quan điểm khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.

Trong khởi nghĩa vũ trang, việc xác định đúng hình thái khởi nghĩa có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu xác định đúng về mặt lý luận, sẽ là tiền đề, cơ sở đúng đắn để chỉ đạo thực tiễn thắng lợi và làm đa dạng, phong phú hoạt động thực tiễn khởi nghĩa, nhất là ở giai đoạn cao trào. Do đó, ngay khi mới về nước, tại Pác Bó (Cao Bằng), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dành thời gian quý báu của mình dịch tác phẩm Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô. Đây là cuốn sử trình bày khá rõ về kinh nghiệm đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang thắng lợi ở nước Nga. Qua tác phẩm, Người nhận thấy cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga do V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích lãnh đạo đã chứng minh hùng hồn khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân là một quy luật phổ biến của cách mạng; nó là một hình thức đặc biệt của đấu tranh chính trị; chính đảng tổ chức và lãnh đạo không được xem thường các quy tắc của cuộc khởi nghĩa vũ trang, như V.I. Lênin đã đúc kết những điểm cốt lõi trong luận văn Ý kiến của một người vắng mặt (8-10-1917). Người cho rằng: Cuộc khởi nghĩa ở Nga thành công mở ra thời đại mới. Xét về hình thái, cuộc khởi nghĩa đó nổ ra chủ yếu ở thành thị, nơi tập trung lực lượng công nhân đông đảo. Trong khi đó, ở các nước thuộc địa, nhất là những thuộc địa có trình độ kinh tế phát triển thấp, các trung tâm công nghiệp vừa ít, vừa nhỏ bé thì khi phát động khởi nghĩa, xét về hình thái không giống như các cuộc khởi nghĩa ở châu Âu, bởi ở các nước thuộc địa đội ngũ công nhân vừa ít, lại không tập trung do hệ thống công nghiệp thuộc địa non kém và rời rạc. Vì vậy, nghiên cứu những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga là cần thiết, nhưng khi áp dụng những kinh nghiệm đó vào thực tiễn phải lưu ý đến bối cảnh và đặc điểm của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Chính vì vậy mà trong tác phẩm Con đường giải phóng, Người xác định: Hình thái cuộc khởi nghĩa ở Việt Nam không giống như hình thái khởi nghĩa ở các nước châu Âu. Nếu như ở các nước Âu, Mỹ, khởi nghĩa vũ trang thường bắt đầu từ các cuộc bãi công chính trị ở thành thị rồi chuyển tiếp tới bạo động võ trang. Thì ở Việt Nam, cuộc khởi nghĩa có thể bùng nổ ở một vài địa phương rồi lan dần khắp cả nước. Điểm xuất phát các cuộc khởi nghĩa địa phương có thể là những vùng rừng núi, nơi tiện cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng và lối đánh du kích1 (Xem Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hồ Chí Minh - Biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự, Sđd, tr.42).


Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941) dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dành thời gian thảo luận về phong trào cách mạng của nhân dân từ đầu Chiến tranh thế giới thứ hai đến lúc đó; đặc biệt thảo luận và phân tích kỹ ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và Đô Lương. Đúc kết thực tiễn phong trào, Nghị quyết Hội nghị xác định: "Mặc dù sự đàn áp của giặc Pháp rất dữ dội mà dân ta vẫn không lùi. Những cuộc khởi nghĩa lại gây một ảnh hưởng rộng lớn toàn quốc. Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.109).


Trên cơ sở lý luận và thực tiễn phong phú, Nghị quyết Hội nghị dành hẳn một phần viết về "võ trang khởi nghĩa". Nghị quyết nhấn mạnh: muốn có một lực lượng toàn quốc đủ sức gây ra và củng cố cho một cuộc khởi nghĩa thì Đảng ta phải mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc sẵn có; mở rộng các tổ chức vào những nơi thành thị, hầm mỏ, đồn điền; mở rộng các tổ chức vào các tỉnh phong trào còn yếu và các dân tộc thiểu số; đào luyện cho các đảng viên cộng sản có tinh thần cương quyết hy sinh, đủ năng lực chỉ huy và xoay chuyển tình thế; nhanh chóng xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng. Hội nghị phân tích kỹ và chỉ ra mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, từ đó khẳng định hình thái khởi nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai: "... mai đây cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng chiến của nhân dân Tàu xoay ra hoàn toàn cho cuộc cách mạng Đông Dương thắng lợi, thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.131-132).


Lần đầu tiên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng đã dành một phần viết về khởi nghĩa vũ trang và cũng lần đầu tiên Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm khởi nghĩa từng phần. Khái niệm "khởi nghĩa từng phần" có nội dung khác với khởi nghĩa địa phương. Đó là, khởi nghĩa từng phần đóng vai trò đòn bẩy để phong trào cách mạng phát triển nhảy vọt, nó là cơ sở để tổng khởi nghĩa thành công; chỉ khi cuộc tổng khởi nghĩa đang vận động tối chín muồi thì các địa phương mới có điều kiện để phát động khởi nghĩa từng phần thắng lợi. Khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa là hình thái vận động đặc thù của quy luật tổng khởi nghĩa ở Việt Nam được Đảng ta khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (5-1941).


Không chỉ quan tâm xây dựng lý luận về khởi nghĩa vũ trang, xác định hình thái khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, còn quan tâm theo dõi và chỉ đạo thực tiễn rất kịp thời. Ngay sau khi quân phát xít Nhật bất ngờ tiến công cảng Trân Châu trên quần đảo Haoai thuộc Mỹ, Thường vụ Trung ương Đảng họp nhận định tình hình và ngày 21-12-1941, ra thông cáo về Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng gửi các cấp ủy đảng. Bản thông cáo nhận định: Gây ra chiến tranh Thái Bình Dương tức là Nhật tự sát, đồng thời lưu ý các cấp ủy là xét trên phạm vi toàn quốc, các điều kiện khởi nghĩa vẫn chưa chín muồi. Tuy nhiên, "... ngay bây giờ đây trong những vùng quân Tàu và quân Anh - Mỹ kéo vào, tình thế có thể biến đổi ra có lợi cho ta. Những điều kiện khởi nghĩa ở đó bỗng đầy đủ một cách đột ngột nhanh chóng. Đảng bộ nơi ấy có thế lập tức chỉ huy cho dân chúng khởi nghĩa cướp chính quyền, thành lập chính phủ lâm thời cách mạng của địa phương"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.245).


Nắm vững tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám và Thông cáo của Thường vụ Trung ương Đảng, các cấp ủy đảng địa phương đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng sôi nổi dưới nhiều hình thức. Trên cơ sở phong trào cách mạng phát triển, ngay trong đêm phát xít Nhật nổ súng đảo chính Pháp (9-3-1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp mở rộng, quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, khẳng định chủ trương của Đảng: "... Động viên mau chóng quần chúng nhân dân lên mặt trận cách mạng, tập dượt cho quần chúng mạnh dạn tiến lên tổng khởi nghĩa, d) Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa... đ) sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.367).


Với chủ trương đúng đắn này của Đảng, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng dâng cao mạnh mẽ, khởi nghĩa từng phần bùng nổ ở nhiều địa phương. Tại Việt Bắc, nhân dân làm chủ nhiều châu, huyện, ở miền trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nhân dân nổi dậy, phá kho thóc cứu đói, trừng trị phản động, phát triển tự vệ, du kích và lập các chiến khu. Tại Trung Bộ, các tù chính trị ở Quảng Trị, Quảng Ngãi, Buôn Mê Thuột phá ngục về địa phương lãnh đạo phong trào; khởi nghĩa Ba Tơ bùng nổ. Ở Nam Bộ, các Đội Tự vệ, Đội Xung phong phát triển nhanh chóng ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Bến Tre, Sa Đéc; tinh thần Nam Kỳ khởi nghĩa bừng bừng trở lại.


Đến cuối tháng 7 đầu tháng 8-1945, thực lực cách mạng Việt Nam đã phát triển hùng hậu, tình hình quốc tế chuyển biến có lợi cho ta, tức là những điều kiện cho cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra đã đầy đủ. Chớp thời cơ lịch sử, từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào khẳng định cơ hội tốt cho ta giành độc lập dân tộc đã tới và quyết định chuyển khởi nghĩa từng phần giành chính quyền trong bộ phận lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Để tổng khởi nghĩa toàn thắng, Hội nghị nhấn mạnh ba nguyên tắc: tập trung, thống nhất, kịp thời; đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê. Mục đích cuộc tranh đấu của ta lúc này là giành quyền độc lập hoàn toàn. Ngay sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày 16-8- 1945, tại Tân Trào, Quốc dân Đại hội khai mạc. Đại hội tán thành chủ trương phát động tổng khởi nghĩa của Đảng; thông qua mười chính sách lớn của Việt Minh và quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam, do đồng chí Hồ Chí Minh1 (Tên mới của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, từ năm 1942) làm Chủ tịch. Sự kiện lịch sử này chứng tỏ rằng: Tư tưởng khởi nghĩa vũ trang mà điểm cốt lõi là khởi nghĩa toàn dân, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa không những là hạt nhân của đường lối khởi nghĩa vũ trang của Đảng mà tư tưởng đó được quốc dân quyết tâm thực hiện với nghị lực phi thường và sức mạnh to lớn trong những ngày tổng khởi nghĩa.


Như vậy, quan điểm khởi nghĩa toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quan điểm khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa hình thành và phát triển là cả một quá trình, được đề cập từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy (11-1940) và được phản ánh tập trung ở Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941), được bổ sung thêm nhiều điểm mới trong các văn kiện khác, tiêu biểu là Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (3-1945), trong Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng (8-1945) và được các cấp ủy địa phương quán triệt sâu sắc. Chính vì thế mà trong thời điểm nửa cuối tháng 8-1945, trước diễn biến mau lẹ của tình hình, nhiều cấp ủy địa phương chưa nhận được chỉ thị mới của Trung ương Đảng, nhưng căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941) và Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng (3-1945) đã lãnh đạo nhân dân vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt và nhạy bén của Đảng, tinh thần hăng hái, sục sôi cách mạng của toàn dân là nhân tố quyết định làm cho khởi nghĩa từng phần phát triển lên Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #83 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2021, 02:39:09 pm »

IV- PHẢI CHỦ ĐỘNG VÀ NHẠY BÉN PHÁT HIỆN, NẮM CHẮC THỜI CƠ VÀ CHỚP THỜI CƠ LỊCH SỬ QUYẾT ĐỊNH TỔNG KHỞI NGHĨA, GIÀNH CHÍNH QUYỀN GẮN LIỀN VỚI BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
   
1. Thời cơ thuận lợi đã tới, phải kiên quyết giành cho được độc lập dân tộc

Mục tiêu hàng đầu của khởi nghĩa vũ trang là phá bỏ chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, điều có ý nghĩa quan trọng là xác định đúng thời cơ khởi nghĩa và khi thời cơ xuất hiện phải kịp thời chớp lấy, phát động quần chúng và lực lượng vũ trang đứng lên đấu tranh giành chính quyền trong cả nước.


Nhận thức được điều đó, từ những năm 1924-1926, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu sâu sắc về vấn đề thời cơ khởi nghĩa vũ trang. Trong bài giảng cho học viên Việt Nam tại lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã viết: "Cuối tháng 10, đâu cũng có tổ chức cả rồi, ai cũng muốn cử sự. Nhưng ông Lênin bảo: "Khoan đã! Chờ ít bữa nữa cho ai ai cũng phản đối Chính phủ, lúc ấy sẽ cử sự". Đến ngày 5-11, Chính phủ khai hội để ban bố phép luật mới, mà phép luật ấy thì lợi cho tư bản mà hại cho công, nông. Ông Lênin nói với đảng viên rằng: Mồng 6 cử sự thì sớm quá, vì dân chưa biết hết luật lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ ấy thì chưa ghét Chính phủ lắm. Mồng 8 cử sự thì muộn quá vì khi ấy thì Chính phủ đã biết rằng dân oán và đã phòng bị nghiêm ngặt rồi.


Quả nhiên ngày mồng 7 Đảng Cộng sản hạ lịnh cách mệnh, thì thợ thuyền ào đến vây Chính phủ, dân cày ào đến đuổi địa chủ. Chính phủ phái lính ra dẹp, thì lính ùa theo thợ thuyền mà trở lại đánh Chính phủ.


Từ bữa ấy, Chính phủ hoạt đầu bỏ chạy, Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công, nông, binh"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, tr.303). Qua đoạn viết đó, Người giảng cho học viên hiểu rõ vấn đề thời cơ trong khởi nghĩa vũ trang, về sau, khi về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Người đặc biệt lưu ý đến hai vấn đề then chốt là nhanh chóng xây dựng thực lực cách mạng hùng hậu và xác định thồi cơ khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.


Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang và thực tiễn phong phú của cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1930 đến năm 1940, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám xác định những điều kiện chủ quan và khách quan "gây ra cuộc khởi nghĩa bằng võ trang"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.129) là: "1) Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc. 2) Nhân dân không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, mà đã sẵn sàng hy sinh bước vào con đường khởi nghĩa. 3) Phe thống trị Đông Dương đã bước vào cuộc khủng hoảng phổ thông đến cực điểm vừa về kinh tế, chính trị lẫn quân sự. 4) Những điều kiện khách quan tiện lợi cho cuộc khởi nghĩa Đông Dương như quân Tàu đại thắng quân Nhật, Cách mạng Pháp hay Cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi và nhất là quân Tàu hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.129-130).


Phân tích xu hướng phát triển của tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị nhận định tình hình thế giới biến chuyển sẽ làm cho tình hình Đông Dương thay đổi có lợi cho cách mạng; ách thống trị của Pháp - Nhật tuy chưa bước vào thời kỳ khủng hoảng phố thông đến cực điểm nhưng nhất định trong thời gian tới, cuộc chiến tranh sẽ chuyển biến có lợi cho phe dân chủ, chính quyền Pháp và chính quyền Nhật lung lay đổ nát, thì lúc đó chúng không thể đem sức đàn áp cách mạng của ta. Còn đối với dân ta, tuy đã vô cùng khổ sở nhưng cũng chưa phải đã hêt đường sống, cho nên chưa quyết liệt bước vào con đường đấu tranh. Nhưng rồi đây, khi tình thế chết đã đên chân, thì quần chúng nhất định phải đứng lên chống giặc. Đến lúc đó, cả thế giới như một nồi nước sôi, cách mạng Đông Dương sẽ có bước phát triển nhảy vọt mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.


Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, với tầm nhìn chiến lược và nhận thức đúng chiều hướng phát triển của Chiến tranh thế giới thứ hai, của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dự đoán: "1945 Việt Nam độc lập"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, tr.267). Dự đoán Việt Nam độc lập năm 1945, điều đó có nghĩa là cách mạng cần chuẩn bị lực lượng để chớp lấy thời cơ lịch sử vào năm đó.


Cuối tháng 10-1944, nhận định về tình hình và mâu thuẫn của địch ở Đông Dương, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ: "Hiện nay, đế quốc Pháp và phát xít Nhật ở Đông Dương không khác gì hai con gà trống cùng nhốt trong một chuồng. Trước sau chúng cũng chọi nhau, cả hai con đều bị thương, có con què. Làm cách mạng phải biết dựa vào thời cơ và phải nhìn chung phong trào mọi nơi, mọi chốn mới chắc thắng"1 (Bác Hồ ở Việt Bắc, Nxb. Việt Bắc, 1975, tr.37). Đúng như nhận định của Người, đêm ngày 9-3-1945, phát xít Nhật ở Đông Dương thực hiện "kế hoạch Mei" đảo chính Pháp. Trước khi hành động, chúng gửi tối hậu thư cho Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Đờcu đòi các lực lượng vũ trang, mọi tổ chức của Pháp phải đặt dưới sự chỉ huy và giám sát của Nhật. Lúc 21 giờ 20 phút, quân Nhật chiếm Phủ Toàn quyền Đông Dương; 22 giờ, chúng nổ súng tấn công tất cả các trung tâm quyền lực của thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Không đầy 24 giờ sau, toàn bộ quân Pháp ở Đông Dương gồm 8 vạn quân bị tước vũ khí; hầu hết những viên cầm đầu, từ Toàn quyền Đờcu đến các tướng Moócđăng và Emê đều bị quân Nhật bắt. Cuộc đảo chính diễn ra chóng vánh của phát xít Nhật đã kết liễu chế độ thuộc địa của thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #84 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2021, 02:40:11 pm »

Nắm chắc chủ trương, thời cơ khởi nghĩa và chủ động, nhạy bén trước thời cuộc, ngay trong đêm Nhật nổ súng đảo chính Pháp, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng được khai mạc dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh (lúc này lãnh tụ Hồ Chí Minh đang công tác ở Côn Minh, Trung Quốc). Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Chỉ thị nêu rõ nhận định rất quan trọng là: "Mặc dầu tình hình chính trị khủng hoảng sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương hiện nay chưa thực chín muồi"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.365). Để các cấp ủy đảng hiểu thêm, Chỉ thị giải thích điều kiện khởi nghĩa chưa thực chín muồi vì: Cuộc kháng cự của quân Pháp quá yếu và cuộc đảo chính của quân Nhật tương đối dễ dàng, nên tuy giữa bọn thống trị Nhật - Pháp có sự chia rẽ cực điểm, và bọn Pháp ở Đông Dương hoang mang tan rã, nhưng xét riêng về bọn thống trị Nhật thì chúng chưa chia rẽ và do dự đến cực điểm. Còn các tầng lớp nhân dân đứng giữa phải qua một thời kỳ chán ngán kết quả tai hại của cuộc đảo chính, lúc ấy mới ngả sang phe cách mạng, mới quyết tâm giúp đỡ đội tiền phong. Mặt khác, trừ những nơi có địa hình, địa thế, có bộ đội chiến đấu, nói chung trong toàn quốc "đội tiền phong còn đang lúng túng ở chỗ sửa soạn khởi nghĩa, chưa sẵn sàng chiến đấu, chưa quyết tâm hy sinh"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.366). Chỉ thị cũng nêu rõ là cuộc đảo chính lật đổ thực dân Pháp của quân Nhật đã tạo ra ba cơ hội tốt, "sẽ giúp cho những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương chín muồi một cách mau chóng"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.366). Đó là: chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng); nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước); chiến tranh thế giới đến giai đoạn quyết liệt (quân Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương). Từ nhận định sáng suốt đó, Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.


Quán triệt Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng, các cấp ủy đảng đã lãnh đạo quần chúng đứng lên đấu tranh. Khởi nghĩa từng phần thành công ở nhiều địa phương. Thời gian này, những nhân tố nội lực bảo đảm cho tổng khởi nghĩa mà Đảng ta đã xác định và dày công chuẩn bị trong thực tiễn đã trở thành hiện thực. Các điều kiện quốc tế cũng đang vận động thuận lợi. Ngày 7-5- 1945, phát xít Đức đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, sau đó mở cuộc tiến công vào quân đội Nhật ở Mãn Châu (Trung Quốc). Sự sụp đổ của phát xít Nhật chỉ còn tính từng ngày. Thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam đang đến gần. Nhận rõ điều đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh nói: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập"1 (Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Sđd, tr.222).


Thời cơ thuận lợi đã tối, nhưng phát lệnh tổng khởi nghĩa vào thời điểm nào lại phải chính xác, khoa học. Nếu phát lệnh tổng khởi nghĩa sớm hoặc muộn đều không có lợi cho cách mạng. Bởi vì lúc ấy, tình hình diễn biến rất mau lẹ, nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố khó lường, đòi hỏi cơ quan lãnh đạo cách mạng phải đặc biệt mẫn cảm và kiên quyết. Thực dân Pháp tuy bị phát xít Nhật đảo chính lật đổ ở Đông Dương, nhưng từ nước Pháp, Chính phủ Đờ Gôn đang lăm le đưa quân quay lại thuộc địa cũ và trên thực tế, được sự hỗ trợ của Anh, Pháp đang gấp rút triển khai lực lượng hòng nhanh chóng tiến quân thế chân phát xít Nhật. Trong khi đó, theo Hiệp ước Pốtxđam, quân đội Tưởng Giới Thạch sẽ vào Đông Dương để tước vũ khí quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra. Từ vĩ tuyến 16 trở vào, quân Anh đảm nhiệm việc giải giáp quân Nhật. Bản chất và mưu đồ của các lực lượng đó thì ta biết rõ. Do đó, cần phải hành động gấp để trở thành chủ nhân đón tiếp quân Đồng minh vào Đông Dương giải giáp quân Nhật.


Tuy vậy, khi phát lệnh tổng khởi nghĩa thì không thể không tính tới trạng thái lung lay của kẻ thù chính là phát xít Nhật; bởi lực lượng quân Nhật ở nước ta rất lớn, bản chất của chúng lại rất ngoan cố. Do đó, thời điểm phát lệnh tổng khởi nghĩa không thể trước lúc Nhật có biểu hiện hoạt động ngoại giao để đầu hàng Đồng minh. Nhưng nếu đợi đến lúc Chính phủ Nhật đầu hàng và quân Nhật trên chiến trường Đông Dương nhận được lệnh hạ vũ khí thì có thể rất phức tạp vì đội quân "nhập Việt" của Tưởng Giới Thạch đã được chuẩn bị đang đóng sát biên giới sẽ tràn xuống nước ta. Vì vậy, lãnh tụ Hồ Chí Minh theo dõi sát tình hình quốc tế. Qua bản tin của một đài phát thanh Mỹ loan báo Chính phủ Thụy Sĩ đã chuyển công hàm của Nhật Bản đến Chính phủ Mỹ đề nghị sửa một số điểm trong bản tuyên bố Pốtxđam, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận thấy động thái sắp sửa đầu hàng của Nhật. Ngay trong đêm đó (12-8-1945), Người đã bàn với Tổng Bí thư Trường Chinh họp ngay Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng. Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh.


Trong khi Hội nghị đang bàn những chủ trương lớn trong đối nội, đối ngoại của cách mạng Việt Nam thì 12 giờ trưa ngày 13-8, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh. Chớp thời cơ lịch sử, Hội nghị quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa và cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Vào lúc 11 giờ đêm ngày 13-8, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1, tuyên bố giờ tổng khởi nghĩa đã đến: "Dưới mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, các bạn hãy tập trung lực lượng, kíp đánh vào các đô thị và trong trận của quân địch; đánh chẹn các đường rút lui của chúng, tước võ khí của chúng! Đạp qua muôn trùng trở lực, các bạn hãy kiên quyết tiến!... Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.421-422). Ngày 15-8, Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc.


Sáng ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại hội do Tổng bộ Việt Minh triệu tập khai mạc tại Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng; thông qua mười chính sách lớn của Việt Minh, cử ra ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam, do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngay trong ngày 16-8, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa. Bức thư nhấn mạnh: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.418).


Lệnh Tổng khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã phát. Lời hiệu triệu của lãnh tụ dân tộc đã gửi quốc dân. Toàn dân tộc Việt Nam nhất tề đứng dậy! Bão táp cách mạng cuồn cuộn dâng cao; khắp cả nước, từ thành thị đến nông thôn, hàng chục triệu quần chúng hăng hái vùng lên đấu tranh đập tan xiềng xích nô lệ. Với lực lượng chính trị mạnh mẽ của nhân dân, có lực lượng vũ trang và nửa vũ trang hỗ trợ, lại biết vận dụng sách lược đấu tranh thích hợp với quân Nhật đang hoang mang bối rối, Tổng khởi nghĩa nhanh chóng thắng lợi trong cả nước.


Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa đã chứng minh hùng hồn bản lĩnh và tài nghệ lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang, nghệ thuật chớp thời cơ của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Nghệ thuật đó biểu hiện tập trung trong việc xác định đúng thời cơ, chọn đúng thời điểm phát lệnh tổng khởi nghĩa ngay trong ngày Chính phủ Nhật Bản đầu hàng Đồng minh. Nhờ nhạy bén, chuẩn xác và kịp thời, nên ta đã vượt lên trước cuộc đua so với các thế lực thù địch, đồng thời hạn chế được sự chống đối của quân Nhật đang đứng chân trên nước ta. Thực tế là, bằng thế áp đảo của lực lượng cách mạng hùng hậu, ta đã giành được chính quyền trong cả nước từ tay phát xít Nhật vào lúc trên chiến trường Đông Dương chúng chưa nhận được lệnh hạ vũ khí. Khi quân Tưởng, quân Anh, quân Pháp vào Đông Dương thì cách mạng Việt Nam đã thành công. Nhân dân Việt Nam thực sự là người chủ đón tiếp quân Đồng minh vào Việt Nam giải giáp quân Nhật và sẵn sàng đối phó với mọi mưu toan của các thế lực thù địch trên tư thế của một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #85 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2021, 02:42:13 pm »

2. Giành chính quyền gắn liền với bảo vệ chính quyền cách mạng

Nói đến khởi nghĩa vũ trang là nói đến vấn đề chính quyền gắn liền với việc bảo vệ chính quyền và thành quả cách mạng đã giành được. Đế chủ động cho việc xây dựng chính quyền trong tương lai, từ rất sớm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lưu tâm nghiên cứu vấn đề này. Qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, tư tưởng của Người về xây dựng chính quyền cách mạng từng bước được hình thành. Tư tưởng đó của Người là nền tảng tư tưởng lý luận để xây dựng chính quyền cách mạng trong quá trĩnh tiến hành khởi nghĩa vũ trang giải phóng dân tộc và trong những năm sau.


Đề cập đến vấn đề chính quyền, trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Nguyễn Ái Quốc đã phân tích và so sánh ba cuộc cách mạng điển hình và ba nhà nước Mỹ, Pháp, Nga. Sự phân tích bản chất ba cuộc cách mạng và ba nhà nước đó có ý nghĩa sâu sắc đối với việc hình thành ở Người quan niệm vể xây dựng chính quyền của cách mạng Việt Nam thông qua việc khẳng định ta phải làm cách mạng "thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.292). Những ý tưởng đó về sau được trình bày rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2-1930). Cương lĩnh chủ trương đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh và tổ chức ra quân đội công nông. "... b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý. c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, t.3).


Phát triển tư tưởng đó, trong tác phẩm Con đường giải phóng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bổ sung thêm nội dung mới, đưa ra một mẫu hình về chế độ chính trị và nhà nước kiểu mới rất sáng tạo. Tác phẩm nêu rõ: "Chủ nghĩa tân dân chủ của Việt Minh khác hẳn với chủ nghĩa độc tài phát xít của bọn tư sản tài chính Anh, Mỹ; nó cũng không giống chủ nghĩa Xôviết của vô sản chuyên chính ở Nga, nó càng không giống chế độ dân chủ đại nghị thối nát ở Pháp hồi trước chiến tranh. Chủ nghĩa tân dân chủ của Việt Minh có tính chất hoàn toàn Việt Nam. Nó dựng lên một nước "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" lối mới, một nước Việt Nam hùng cường và tiến bộ"1 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hồ Chí Minh - Biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự, Sđd, tr.40). Chủ nghĩa tân dân chủ "cốt nhằm ba mục đích: 1) Dân tộc độc lập...; 2) Dân quyền tự do...; 3) Dân sinh hạnh phúc"2 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hồ Chí Minh - Biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự, Sđd, tr.40).


Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941) khẳng định quan điểm trên, đồng thời bổ sung làm sáng rõ "tính chất hoàn toàn Việt Nam" của chế độ chính trị và nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là bên cạnh tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bộ máy chính quyền cách mạng còn phải là biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân, của chung cả toàn thể dân tộc quyền lực thuộc về nhân dân. Nghị quyết nhấn mạnh: "Không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xôviết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.127). Nghị quyết nêu rõ chủ trương của Đảng: "Sau lúc đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung cả toàn thể dân tộc, chỉ trừ có bọn tay sai của đế quốc Pháp - Nhật và những bọn phản quốc, những bọn thù, không được giữ chính quyền"4 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.114).


Vậy là, từ những ý tưởng và những nội dung được nêu trong các tác phẩm trước đó, đến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, tư tưởng của Đảng về xây dựng nhà nước và thiết kế bộ máy chính quyền cách mạng đã hình thành cơ bản. Đó là tư tưởng xây dựng một nước Việt Nam dân chủ mới, "hùng cường và tiến bộ", Nhà nước cách mạng thực sự là của dân, do dân và vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân; dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù.


Sau khi đã xác định phương hướng và mục tiêu xây dựng bộ máy chính quyền, vấn đề tiếp theo là phải xác định biện pháp tiến hành thích hợp nhằm biến tư tưởng đó thành hiện thực. Đó là phải xây dựng được hệ thống chính sách để chính quyền cách mạng đem áp dụng ở những vùng mới giải phóng, đồng thời xác định các bước đi cụ thể để thiết lập trong thực tiễn hệ thống chính quyền từ địa phương đến trung ương.


Để giải quyết vấn đề đó, theo chỉ đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ngày 25-10-1941, Tổng bộ Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ Việt Minh. Chương trình Việt Minh nêu rõ các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Về sau, Chương trình đó được đúc kết thành mười chính sách lớn đem thực hiện ở Khu giải phóng và trở thành nền tảng chính sách cơ bản của nước Việt Nam mới sau khi giành được độc lập. Về các bước tiến hành đế thiết lập hệ thống chính quyền các cấp, Chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh ngày 15-11-1942 nêu rõ: "Làm cách mạng đánh Pháp, đánh Nhật là để giành lại chính quyền. Vậy vấn đề chính quyền là vấn đề cốt yếu của cách mạng. Vấn đề chính quyền của cách mạng ở xứ ta có ba bước: a) Lúc vũ trang khởi nghĩa lấy được một địa phương phải thành lập ngay chính phủ nhân dân ở địa phương ấy... b) Lúc vũ trang khởi nghĩa lấy được một địa phương khá to, phải thành lập chính phủ nhân dân lâm thời toàn quốc. c) Lúc vũ trang khởi nghĩa, lấy được toàn quốc thì thành lập chính phủ nhân dân chính thức toàn quốc do toàn dân bầu ra"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.484). Nhưng vấn đề đặt ra là sau khi khởi nghĩa thành công, các địa phương sẽ xây dựng hình thức chính quyền tiền khởi nghĩa ra sao để cách mạng không ngừng phát triển. Giải đáp vấn đề này, Chỉ thị về công tác tổ chức của Trung ương Đảng (1-12-1941) mới chỉ đề xuất: "Các đồng chí phải đặc biệt nghiên cứu những hình thức tranh đấu võ trang, những hình thức tổ chức của một cuộc võ trang khởi nghĩa, đặc biệt nhất là nghiên cứu những "hình thức quá độ" - như Lênin đã nói - làm trung gian để bước lên thành lập tổ chức chính quyền của nhân dân cách mệnh. Những hình thức quá độ ấy có thể là những ủy ban công nhân cách mệnh ở các nhà máy, đồn điển, mỏ, ủy ban nhân dân cách mệnh ở thôn quê"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.228). Trong Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12-3-1945) có nêu thêm hình thức tổ chức "Ủy ban dân tộc giải phóng", nhưng mới chỉ là nét tổng quát, chưa cụ thể. Phải đến Chỉ thị Việc tổ chức các Ủy ban dân tộc giải phóng (16-4-1945) của Tổng bộ Việt Minh thì vấn đề hình thức chính quyền tiền khởi nghĩa mới được xác định rõ ràng. Chỉ thị nêu rõ: "Ủy ban dân tộc giải phóng là hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất ở các xí nghiệp, các làng..., là hình thức tiền chính phủ, trong đó nhân dân học tập để tiến lên giữ chính quyền cách mạng"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.228). Ủy ban dân tộc giải phóng được tổ chức ở tất cả các cấp, từ huyện, châu, phủ, quận, tỉnh, thành phố, đặc khu, xứ và trên là ỦY ban dân tộc giải phóng Việt Nam cho toàn quốc. Chỉ thị cũng chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp ủy ban, cách tổ chức, cách bầu cử. Việt Minh nắm quyền lãnh đạo các cấp bằng "Việt Minh đoàn", tức là các đại biểu Việt Minh trong ủy ban sẽ họp thành tập thể lãnh đạo. Đến lúc tổng khởi nghĩa thì Ủy ban dân tộc giải phóng hết nhiệm vụ, tự giải tán để cho nhân dân cử ra Ủy ban công nhân cách mạng ở các xí nghiệp hay Ủy ban nhân dân cách mạng ở các làng xã.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #86 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2021, 02:43:30 pm »

Như các bước thành lập hệ thống chính quyền các cấp và hình thức tổ chức chính quyền đã xác định trong lý luận, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng phát triển rầm rộ. Từ trong phong trào, nhân dân nhiều địa phương đã làm chủ, trở thành "xã hoàn toàn", "tổng hoàn toàn", ở các địa phương đó, công việc hằng ngày do Ủy ban Việt Minh trực tiếp điều hành. Sau ngày 9-3-1945, lực lượng vũ trang các tỉnh vùng thượng du Bắc Bộ phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng đã giải phóng cả một vùng đất rộng lớn với dân số hàng triệu người. Khu giải phóng ra đời, nhân dân bầu ra chính quyền dưới hình thức Ủy ban nhân dân cách mạng thực hiện việc quản lý, điều hành; xây dựng Khu giải phóng theo mười chính sách lớn của Việt Minh. Khu giải phóng thực sự là hình ảnh của nước Việt Nam mới.


Giành chính quyền cục bộ trong khởi nghĩa từng phần là một nét sáng tạo của cách mạng Việt Nam. Đó là bước tập dượt để nhân dân bước vào trận đấu tranh giành chính quyền trong cả nước.


Đến tháng 8-1945, thời cơ cho ta giành quyền độc lập đã tới, Đảng chủ trương chuyển khởi nghĩa từng phần giành chính quyền bộ phận sang tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Với bản Quân lệnh số 1 (lệnh tổng khởi nghĩa) phát đi lúc 11 giờ đêm ngày 13-8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa bắt đầu từ thời điểm đó. Tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, Đại hội Quốc dân Tân Trào đã cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam gồm 15 người, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Nhiệm vụ của Ủy ban là lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền và khi cần có thể trở thành Chính phủ lâm thời1 (Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ quốc gia I. Ký hiệu hồ sơ 645, H066). Đây là một tổ chức có tính chất "tiền chính phủ" được đại biểu nhân dân cả nước cử ra, có đủ quyền hạn và trách nhiệm thay mặt nhân dân cả nước trong đối nội, đối ngoại.


Trong các địa phương, từ ngày 14 đến ngày 18-8-1945, các xã, huyện còn lại trong Khu giải phóng (trừ Hà Giang); các tỉnh như Yên Bái, Bắc Giang, Phú Thọ, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Thái Bình (Bắc Bộ); Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Khánh Hòa (Trung Bộ); Mỹ Tho, Sa Đéc (Nam Bộ) đã tổng khởi nghĩa giành được chính quyền. Ngày 18-8, bốn tỉnh lỵ Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành được chính quyền. Ngày 19-8, tổng khởi nghĩa ở Hà Nội thắng lợi. Sau đó, tổng khởi nghĩa liên tiếp thắng lợi ở các tỉnh: Khánh Hòa (ngày 19-8); Thái Nguyên, Bắc Ninh, Ninh Bình (ngày 20-8); Cao Bằng, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Sơn Tây, Nam Định, Kiến An, Nghệ An, Ninh Thuận (ngày 21-8); Hưng Yên (ngày 22-8). Ngày 23-8, tổng khởi nghĩa ở Huế thành công. Trong ngày 23 và 24-8, các tỉnh: Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Tân An, Bạc Liêu, Phú Thọ, Quảng Yên, Hà Nam, Đắk Lắk, Phú Yên, Bình Thuận, Gò Công, Mỹ Tho, giành được chính quyền. Ngày 25-8, tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn thắng lợi; trong ngày đó có thêm các tỉnh: Sóc Trăng, Châu Đốc, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Tây Ninh, Biên Hòa, Sa Đéc, Kon Tum và Lạng Sơn giành được chính quyền. Cũng trong thời gian này, chính quyền lâm thời của ba xứ cũng được tổ chức: Ủy ban nhân dân lâm thời Bắc Bộ ra đời tối ngày 20-8, Ủy ban nhân dân lâm thời Trung Bộ thành lập chiều ngày 23-8 và ỦY ban hành chính lâm thời Nam Bộ ra mắt nhân dân ngày 25-8. Cuộc tổng khởi nghĩa thắng lợi trong cả nước. Ngày 2-9- 1945, Chính phủ lâm thời làm lễ ra mắt quốc dân. Chính phủ lâm thời "đại biểu cho toàn dân Việt Nam"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3) là chính phủ hợp pháp, hợp công lý.


Do được xây dựng trên nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, lại được chính Đảng và Người trực tiếp tổ chức, nên bộ máy chính quyền cách mạng ngay khi mới ra đời đã thực sự là chính quyền của dân, của chung cả toàn thể dân tộc, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về một cuộc cách mạng chỉ thực sự có giá trị khi nó phải biết tự bảo vệ được thành quả, nên Đảng ta không chỉ tập trung trí tuệ lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền trong cả nước, mà còn giành tâm sức hoạch định kế hoạch đối phó với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng. Do hình thái khởi nghĩa ở nước ta là khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa trong cả nước, nên chính quyền cách mạng được thành lập ở những vùng khởi nghĩa từng phần nổ ra thắng lợi, sau đó mới thành lập trên phạm vi toàn quốc khi tổng khởi nghĩa thành công. Do đó, vấn đề lớn đặt ra là làm sao bảo vệ được vùng giải phóng, bảo vệ được chính quyền cách mạng trong bối cảnh trên đất nước ta lúc đó có hai kẻ thù là Pháp và Nhật, sau ngày 9-3-1945, kẻ thù chính là phát xít Nhật, chúng đều tìm mọi cách chống phá quyết liệt hòng xóa bỏ mọi thành quả cách mạng. Xuất phát từ niềm tin vào khả năng và sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định phải phát huy sức mạnh toàn dân, của toàn thể dân tộc trong công cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng.


Hoảng sợ trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng, quân Pháp, sau ngày 9-3-1945 là phát xít Nhật, đã mở nhiều cuộc hành binh hòng "tiêu diệt các ổ Việt Minh" và cơ quan đầu não cách mạng. Để bảo vệ các vùng giải phóng, bảo vệ chính quyền, Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị cho các lực lượng vũ trang bám đất, bám quê hương, cùng phối hợp với quần chúng nhân dân kiên quyết chiến đấu chống địch. Thực hiện chỉ thị của Đảng và Người, quân dân Việt Bắc và các địa phương khác như Yên Bái, Quảng Yên, Ninh Bình, Quảng Ngãi... đã dũng cảm chặn đánh các cuộc càn quét lớn của địch, buộc chúng phải chấm dứt các cuộc tiến công lớn vào các căn cứ, các vùng giải phóng. Do đó, chính quyền nhân dân được bảo vệ, cơ quan đầu não cách mạng an toàn.


Giữa lúc phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đang phát triển thuận lợi, cơ hội ngàn năm có một cho ta giành độc lập dân tộc đang đến gần, thì cũng là lúc cách mạng đứng trước nguy cơ mới do các thế lực thù địch đang toan tính những âm mưu mới hòng duy trì ách thống trị của chúng ở Đông Dương, ở bên kia đại dương, tại Xan Phranxicô, các cường quốc Đồng minh khai sinh ra tổ chức Liên, hợp quốc đang tranh luận nên đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trị quốc tế (International trusteeship) trực thuộc Mỹ hay tiếp tục thừa nhận chế độ bảo hộ (protectoral) của thực dân Pháp. Bác bỏ cả hai giải pháp đó, nhân danh Việt Minh, lãnh tụ Hồ Chí Minh viết hai văn kiện chính trị chuyển đi Xan Phranxicô; tiếp đó, Người gửi bức điện thông báo cho Liên hợp quốc biết rằng: Việt Nam đã đứng về phía Đồng minh chống phát xít Nhật. Việt Nam yêu cầu Liên hợp quốc thực hiện lời hứa long trọng của mình là tất cả các dân tộc đều được hưởng dân chủ và độc lập. Nếu Liên hợp quốc không thực hiện lời hứa long trọng này và không công nhận Đông Dương độc lập thì Việt Nam sẽ cương quyết chiến đấu cho đến khi giành được nền độc lập hoàn toàn, về sau, nhân danh Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người khẳng định lại một lần nữa: "Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không nhận quyền độc lập của dân Việt Nam"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #87 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2021, 02:44:20 pm »

Trước mưu đồ lăm le quay trở lại Đông Dương của thực dân Pháp, từ ngày 25-7-1945, Người đã thông báo cho phía Pháp biết rằng, Người có thể nói chuyện với đại diện của Pháp ở Côn Minh (Trung Quốc) hoặc tại Bắc Kỳ (Việt Nam). Sau đó, Người gửi Chính phủ Pháp bản thông điệp nêu rõ lập trường của Việt Nam. Nhưng do bị quan điểm lỗi thời của Đờ Gôn chi phối, nên phía Pháp đã từ chối lời đề nghị thiện chí của Việt Nam, tiếp tục thực hiện kế hoạch quân sự hòng áp đặt ách thống trị của họ ở Đông Dương. Đối với kế hoạch "Hoa quân nhập Việt", Đảng ta ngay từ đầu đã nhận rõ bản chất của kế hoạch đó, cũng như bản chất của quân Tưởng. Đó là hai hướng trực tiếp và là nguy cơ lớn cần phải ngăn chặn.


Nêu rõ ý chí và quyết tâm của ta, trong một bức thư bằng tiếng Anh gửi một người Mỹ, lãnh tụ Việt Minh nhấn mạnh rằng: "Để góp phần mình vào chiến công chung, chúng tôi còn phải chiến đấu gian khổ. Ông hãy tin rằng chúng tôi đã chiến đấu và sẽ chiến đấu cho tới khi chúng tôi đạt được cái mà chúng tôi mong muốn: Độc lập dân tộc"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.593). Đối với đồng bào cả nước, trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa (8-1945), lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định: "Bốn năm trước đây, tôi có thư kêu gọi đồng bào ta đoàn kết. Vì có đoàn kết mới có lực lượng... Hiện nay quân đội Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp nước. Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) có hàng chục triệu đội viên, gồm đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh, gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán. Trong Việt Minh đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt trai, gái, già, trẻ, lương, giáo, giàu, nghèo... Nhưng chúng ta chưa thể cho thế là đủ. Cuộc tranh đấu của chúng ta đương còn gay go, dằng dai. Không phải Nhật bại mà bỗng nhiên ta được giải phóng, tự do. Chúng ta vẫn phải ra sức phấn đấu. Chỉ có đoàn kết, phấn đấu, nước ta mới được độc lập"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.595). Hưởng ứng chủ trương của Đảng và lời kêu gọi của Người, chỉ "trong một thời gian ngắn, các giai cấp đoàn kết thành một khối, muôn dân đoàn kết để mưu hạnh phúc chung"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.48). Với sức mạnh của toàn dân, của cả cộng đồng dân tộc, tháng 8-1945, Việt Nam đã đứng lên xóa bỏ bộ máy thống trị của đế quốc và tay sai, thành lập chính quyền cách mạng trong cả nước. Sức mạnh vô địch của toàn dân, của cả dân tộc trong công cuộc đấu tranh giành chính quyền cũng là sức mạnh vô địch để bảo vệ chính quyền cách mạng.


Sau khi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khẳng định chân lý lịch sử là thành quả của cách mạng Việt Nam do dân tộc Việt Nam bền bỉ đấu tranh mà có: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.436). Đồng thời, nhân danh Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.437).


Nhận thức rõ tầm quan trọng của thời cơ và nắm chắc xác định đúng thời điểm phát động toàn dân vùng lên tổng khởi nghĩa; gắn việc lãnh đạo giành chính quyền với hoạt động đối ngoại khẳng định tính pháp lý của thành quả cách mạng Việt Nam, chỉ đạo sắc bén tiếp tục phát triển thực lực hùng hậu để bảo vệ chính quyền cách mạng như một quá trình tất yếu, không thể tách rời trong thời gian cuối Cách mạng Tháng Tám là nét đặc sắc trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Thực hiện thành công tư tưởng của Đảng và Người, cách mạng Việt Nam vừa tạo nên thành quả giành được chính quyền trong cả nước, vừa tạo nên tiền để vững chắc về tinh thần và lực lượng để bảo vệ thành quả ấy, giữ vững nền độc lập dân tộc, tiến lên giành những thắng lợi mới trong các giai đoạn lịch sử sau đó.


Như vậy, trong thời kỳ từ tháng 11-1939 đến tháng 9- 1945, để xây dựng thực lực cách mạng hùng hậu và lãnh đạo toàn dân tiến hành khởi nghĩa vũ trang giải phóng dân tộc, Đảng ta đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị... đề cập đến nhiều nội dung quân sự. Trong thời kỳ này, tư tưởng quân sự của Đảng gồm nhiều quan điểm, trong đó có những quan điểm chủ yếu như: 1) Để lãnh đạo cách mạng thành công, Đảng khẳng định: Đảng phải lãnh cách mạng; Đảng phải có đường lối sách lược đúng đắn và thường xuyên được bổ sung từ thực tiễn. Đồng thời, đường lối chiến lược, chủ trương của Đảng phải quán triệt trong Đảng và quần chúng cách mạng; đấu tranh khắc phục cả "tả" và "hữu"; chăm lo công tác tổ chức, cán bộ và vấn đề xây dựng Đảng; phát huy vai trò Mặt trận Việt Minh... Tư tưởng này khởi đầu từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (11-1939), được hoàn chỉnh tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941). Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, chuyển hình thức đấu tranh từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít Nhật, giải phóng dân tộc. 2) Nhanh chóng xây dựng thực lực cách mạng hùng hậu, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. 3) Phương pháp cách mạng là khởi nghĩa võ trang: "Cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.129). Để giành thắng lợi, Đảng nêu rõ quan điểm khởi nghĩa toàn dân; phương thức khởi nghĩa là từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. 4) Phải nhạy bén phát hiện đúng thời cơ, nắm chắc thời cơ, chọn đúng thời điểm phát động toàn dân vùng lên tổng khởi nghĩa, gắn việc lãnh đạo giành chính quyền trong cả nước với việc bảo vệ chính quyền, quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập dân tộc. Do bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng quân sự của Đảng, lại do chính Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang, nên cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi vĩ đại. "Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.25).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #88 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2021, 01:47:30 pm »

KẾT LUẬN


Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam giai đoạn 1858- 1945 gồm nhiều nội dung phong phú; các nội dung đó không chỉ phản ánh trong các văn kiện, các tác phẩm mà chủ yếu thể hiện trong hoạt động thực tiễn đấu tranh vũ trang sôi nổi và sáng tạo của nhân dân ta.


1. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Trước đó, đối diện với nguy cơ bị xâm lược cận kề1 (Năm 1847, thực dân Pháp nổ súng bắn chìm 5 tàu chiến của triều Nguyễn ở cửa biển Đà Nẵng. Mười năm sau (1857), hai chiến hạm của Pháp lại đến Đà Nẵng khiêu khích), triều Nguyễn đã có nhiều biện pháp tăng cường khả năng phòng bị như tăng cường xây dựng quân đội, xây dựng tuyến phòng thủ dọc bờ biển, mua sắm và cải tiến trang bị vũ khí. Nhưng triều Nguyễn cũng mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng trong chiến lược quốc phòng, mà một trong những sai lầm đó là xa dân, làm suy yếu khả năng bảo vệ đất nước. Khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha đánh vào Đà Nằng, triều Nguyễn lại mắc phải những sai lầm liên tiếp trong chỉ đạo tác chiến đánh giặc. Sai lầm lớn nhất là tư tưởng co cụm, không dám tiến công địch. Do không có tư tưởng tiến công, nên triều Nguyễn đã để mất cơ hội lãnh đạo toàn dân vùng lên đánh bại kẻ thù1 (Từ tháng 4-1859, thực dân Pháp vướng vào cuộc chiến tranh với Áo trên đất Ý, phải dồn lực lượng quân sự vào chiến trường châu Âu).


Từ khi mất Gia Định, nội bộ triều Nguyễn bị phân hóa sâu sắc. Trong triều diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai xu hướng nên thủ (phòng thủ) hay công (tiến công), sau nữa là hòa hay chiến, giữa các nhóm đại thần. Đa số các quan đầu triều đều muốn hòa nghị. Chính vì vậy, sau Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), triều Nguyễn lần lượt ký Hiệp ước Giáp Tuất (1874), Hiệp ước Quý Mùi (1883), Hiệp ước Giáp Thân (1884), thừa nhận nền thống trị của thực dân Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn thỏa hiệp và đầu hàng giặc, nhưng phong trào kháng chiến của các tầng lớp nhân dân vẫn phát triển khắp cả nước. Một làn sóng cứu nước dấy lên mạnh mẽ khi Vua Hàm Nghi ban Chiếu Cần Vương cứu nước. Phong trào Cần Vương đặt dưới sự lãnh đạo của triều đình kháng chiến. Vua Hàm Nghi bị bắt (26-9-1888), vai trò lãnh đạo phong trào Cần Vương chuyến hẳn về tay tầng lớp văn thân, sĩ phu.


Khác với tư tưởng sợ giặc, đầu hàng của triều Nguyễn, tư tưởng của các văn thân, sĩ phu là quyết tâm chiến đấu cứu nước. Họ tin vào sức mạnh của dân, dựa vào dân để đánh giặc. Họ chủ trương xây dựng căn cứ địa, áp dụng nhiều kinh nghiệm truyền thống như lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh; thực hiện lối đánh du kích linh hoạt làm cho quân thù bị động, chịu nhiều tổn thất. Tuy nhiên, các thủ lĩnh nghĩa quân còn nặng tư tưởng phòng thủ hơn là tiến công. Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa do tầng lớp văn thân, sĩ phu lãnh đạo dưới danh nghĩa Cần Vương cứu nước, còn có các cuộc nổi dậy của nông dân. Tư tưởng quân sự của thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế không khác nhiều so với tư tưởng quân sự của các văn thân, sĩ phu, vẫn là dựa vào dân, xây dựng căn cứ địa và sử dụng lối đánh du kích. Theo Trần Dân Tiên, trực tiếp đấu tranh chống thực dân Pháp như Hoàng Hoa Thám là "thực tế hơn", nhưng Cụ còn nặng "cốt cách phong kiến"1 (Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.14).


Chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng phong kiến, nên thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương cũng như khởi nghĩa Yên Thế không thể vạch ra được đường lối quân sự đúng để lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành được thắng lợi cuối cùng. Phong trào Cần Vương thất bại đã chấm dứt vai trò của ý thức hệ phong kiến, của tư tưởng quân sự phong kiến đã trở nên lỗi thời trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta.


2. Chứng kiến sự áp bức dân tộc ngày càng nặng nề và sự thất bại của phong trào Cần Vương, đồng thời chịu tác động từ những chuyển biến cơ cấu kinh tế - xã hội trong nước và từ ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, và của các cuộc dân tộc giải phóng, dân tộc vận động ở Trung Quốc, Ấn Độ mà ở Việt Nam đã hình thành các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản với Phan Bội Châu là đại diện. Phan Bội Châu nhận thức rằng, muốn đánh đuổi thực dân Pháp thì không thể đi theo con đường cũ. Do đó, ông từ bỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, hướng đến con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng tư sản. Qua các tác phẩm cũng như hoạt động thực tiễn của hai tổ chức Duy tân Hội và Việt Nam Quang phục Hội do ông lãnh đạo, nhiều quan điểm quân sự xuất hiện. Đó là các quan điểm: Dùng bạo lực lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp; phương thức tiến hành bạo động là: "nội công, ngoại kích", hoạt động gây tiếng vang "kinh thiên động địa"; tập hợp lực lượng, mở rộng mặt trận đoàn kết đánh giặc cứu nước, "đồng lòng tất có thể bảo vệ được nước. Không đồng lòng tất dẫn đến nước bị diệt"; tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang, thành lập Quang phục quân; chú trọng công tác binh, địch vận; quan tâm giải quyết vấn đề vũ khí. Nhiều quan điểm quân sự đã được triển khai vào thực tiễn. Tuy các cuộc bạo động trừ gian, diệt địch ở Thái Bình, Hà Nội (1913), tập kích trại lính khố xanh Phú Thọ (1-1915), tập kích đồn Tà Lùng (3-1915), phá ngục Lao Bảo (9-1915), khởi nghĩa ở Huế (1916), khởi nghĩa Thái Nguyên (1917), khởi nghĩa Bình Liêu (1918), v.v... đều không thành công, nhưng các hoạt động đó góp phần duy trì ngọn lửa đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược trong các tầng lớp nhân dân.


Tiếp đó, Việt Nam Quốc dân Đảng - một tổ chức tiêu biểu của khuynh hướng cách mạng quốc gia tư sản với nền tảng tư tưởng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn ra đời (25-12-1927). Các quan điểm quân sự của Việt Nam Quốc dân Đảng trong những năm 1927- 1930 tuy đã đề cập nhiều vấn đề như xác định nhiệm vụ, phương thức hoạt động, xây dựng lực lượng, trang bị vũ khí... để thực hiện chủ trương đánh đuổi đế quốc xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập chính thể dân quyền nhưng trên thực tế thì không triệt để, không thống nhất cả về chính trị và tổ chức. Trước nguy cơ bị kẻ thù đàn áp, những người đứng đầu Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương khởi nghĩa ngay, nếu "không thành công thì cũng thành nhân". Chỉ trong một tuần (từ ngày 9 đến ngày 15-2-1930), cuộc khởi nghĩa vũ trang bùng nổ ở nhiều nơi và mau chóng thất bại. Quan điểm "không thành công thì cũng thành nhân" biểu lộ "tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản"1 (Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Sđd, tr.41). Từ sau khởi nghĩa Yên Bái, Việt Nam Quốc dân Đảng tan rã, tư tưởng quân sự theo hệ tư tưởng tư sản hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Dù thất bại, nhưng các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp theo hệ tư tưởng tư sản đã góp phần bồi đắp chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, duy trì ngọn lửa đấu tranh và thúc đẩy những nhà yêu nước tiên tiến tìm kiếm, lựa chọn con đường cứu nước mới.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #89 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2021, 01:48:58 pm »

3. Giữa lúc những phong trào yêu nước của Phan Bội Châu và các nhà yêu nước khác không thành công, thì xuất hiện một con đường cứu nước mới do Nguyễn Ái Quốc khởi xướng và lãnh đạo. Kéo theo đó là tư tưởng quân sự mới. Kết hợp truyền thống quân sự đặc sắc của Việt Nam với tinh hoa quân sự nhân loại, trí tuệ thời đại và những kinh nghiệm phong phú trong hoạt động thực tiễn, tư tưởng quân sự của Người từng bước hình thành, bao gồm các quan điểm cơ bản: Phát huy tính chủ động cách mạng, nỗ lực đấu tranh giành thắng lợi trong công cuộc giải phóng thuộc địa; phá bỏ ách áp bức của chủ nghĩa đế quốc, thực dân bằng bạo lực cách mạng; khởi nghĩa vũ trang phải được chuẩn bị trong quần chúng, huấn luyện dân khí mạnh để giành thắng lợi trong đấu tranh cách mạng; điều cốt lõi của công tác quân sự của Đảng trong nông dân là phải "sử dụng hình thức hoạt động vũ trang". Các quan điểm quân sự đó là "cơ sở lý luận của sự hình thành đường lối quân sự của Đảng ta trong thời kỳ Đảng mới thành lập"1 (Trường Chinh: Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1983, tr.161).


Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Từ năm 1930 đến năm 1939, tuy chưa phải là thời kỳ trực tiếp tiến hành đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc, nhưng để "dự bị điều kiện" cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, Đảng ta đã ra nhiều nghị quyết về quân sự, đồng thời lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh cách mạng sôi nổi. Trong thời này, tư tưởng quân sự của Đảng bao gồm những quan điểm chủ yếu như: khẳng định quan điểm bạo lực cách mạng: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; khởi nghĩa vũ trang là phương thức cơ bản để giành chính quyền về tay nhân dân. Đảng lãnh đạo quần chúng võ trang bạo động. Khi phát động khởi nghĩa vũ trang, nhất thiết phải căn cứ vào "tình thế trực tiếp cách mạng", phải "theo khuôn phép nhà binh"; đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang là sự nghiệp của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; nhiệm vụ chính trị quyết định nhiệm vụ quân sự, xây dựng quân đội công nông theo tư tưởng của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (đầu năm 1930) và tổ chức "bộ quân sự của Đảng" chính là để thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng xác định; Đội Tự vệ khi được thành lập đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng; khẳng định còn chủ nghĩa tư bản, đế quốc thì còn chiến tranh, phản đối chiến tranh đế quốc, ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, coi trọng công tác vận động binh lính trong hàng ngũ đối phương, ra sức tuyên truyền, lôi kéo họ sang phe cách mạng; phòng thủ Đông Dương một cách tích cực, chủ động "để chống phát xít, chống thế lực phản động, chống chiến tranh một cách tích cực hơn"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, t.434). Tăng cường khối đoàn kết dân tộc, tuyên truyền, động viên và tổ chức nhân dân chuẩn bị chống phát xít Nhật xâm lược.


4. Bước vào thời kỳ mới trực tiếp đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc, Đảng đã ra các nghị quyết đề cập đến nhiều nội dung quân sự, đồng thời chỉ đạo thực tiễn khởi nghĩa từng phần, tổng khởi nghĩa sắc bén và sáng tạo. Trong thời kỳ từ tháng 11-1939 đến tháng 9-1945, tư tưởng quân sự của Đảng gồm nhiều quan điểm như: giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc; phương pháp cách mạng là khởi nghĩa vũ trang: "cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, t.129); phương thức khởi nghĩa là ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn; nhanh chóng xây dựng lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị hùng hậu và lực lượng vũ trang rộng khắp; tiến hành khởi nghĩa toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; nhạy bén, sáng suốt phát hiện thời cơ, nắm chắc thời cơ, chọn đúng thời điểm phát động toàn dân vùng lên tổng khởi nghĩa, gắn việc lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành chính quyền trong cả nước với việc bảo vệ chính quyền cách mạng, quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập dân tộc. Nhờ xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng và không ngừng bổ sung, phát triển cho phù hợp với từng thời kỳ cách mạng cũng như sự tài tình, sáng tạo trong tổ chức thực tiễn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nên cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi vĩ đại trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, của đấu tranh vũ trang là thắng lợi của tư tưởng, đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Công lao đó trước hết thuộc về lãnh tụ Hồ Chí Minh - Người đã soi đường, chỉ lối và cùng với Đảng trực tiếp lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra thời đại mới trong lịch sử Việt Nam, góp phần xứng đáng vào kho tàng tư tưởng nhân loại về khởi nghĩa vũ trang giải phóng dân tộc.


Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam giai đoạn 1858 - 1945 có nhiều nội dung phong phú và rộng lớn. Từ những kết quả chưa thật đầy đủ, có tính chất ban đầu trên đây, tạm thời rút ra một số vấn đề cho nghiên cứu toàn diện và sâu sắc hơn những nội dung tư tưởng quân sự trong giai đoạn 1858-1945 để tiếp tục vận dụng vào đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố nền quốc phòng toàn dân hiện nay đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng.

Một là, phong trào đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta nửa sau thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX do không có đường lối kháng chiến - hạt nhân là tư tưởng quân sự - đúng đắn soi đường, nên không thành công. Trước nạn ngoại xâm, triều Nguyễn đã không có một chủ trương thích hợp nào để phát triển kinh tế, ổn định xã hội, củng cố quốc phòng và tăng cường khối đoàn kết toàn dân, sẵn sàng chiến đấu chống quân xâm lược. Khi thực dân Pháp nổ súng tiến công uy hiếp trực tiếp nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia thì nội bộ triều đình nhà Nguyễn lại không đồng lòng quyết chiến để giữ nước. Do không có tín tâm và quyết tâm đánh giặc, lại bị tư tưởng chủ hòa chi phối, triều Nguyễn ngày càng lao sâu vào con đường thỏa hiệp, đầu hàng giặc. Ngọn cờ lãnh đạo kháng chiến chuyển qua văn thân, sĩ phu và những người nông dân yêu nước. Dù rất nhiệt huyết, quyết tâm chiến đấu đến cùng, nhưng họ cũng không vượt qua được giới hạn của thời đại và giai cấp, không có đường lối cách mạng phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới; thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo; không phù hợp với nguyện vọng của đa số nhân dân, nên không tổ chức được cuộc khởi nghĩa nào có tính chất toàn quốc; hoạt động quân sự chủ yếu theo tư tưởng phòng ngự, dựa vào căn cứ địa của từng địa phương hoặc từng khu vực, nên cuối cùng cũng bị kẻ thù đàn áp. Mặc dù bị thực dân Pháp đàn áp hết sức dã man, nhưng tư tưởng cách mạng, tinh thần phản kháng chống quân xâm lược thì vẫn sống mãi trong nhân dân, đế khi hội đủ các điều kiện cần có, nhất là khi đội tiền phong của giai cấp công nhân ra đời thì bùng nổ trở lại mạnh mẽ, nhấn chìm quân cướp nước và bè lũ bán nước.


Hai là, xuất phát từ luận điểm của Nguyễn Ái Quốc về điều kiện tiên quyết để cách mạng Việt Nam thắng lợi là "trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289); cho nên, ngay khi mới ra đời, Đảng đã đặc biệt quân tâm đến vấn đề xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng luôn có đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng, có tư tưởng và hành động thống nhất, tổ chức đảng có chất lượng cao, trong sạch, vững mạnh, sâu sát và bám rễ trong quần chúng nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã giải quyết thành công một loạt vấn đề then chốt về tư tưởng lý luận, nhạy bén và sáng suốt trong chỉ đạo thực tiễn, tạo nên những nhân tố thắng lợi trong đấu tranh quân sự. Đó là Đảng ta đã phát huy được sức mạnh khối đại đoàn kết cộng đồng các dân tộc, tổ chức nhân dân thành lực lượng chính trị hùng hậu trên nền tảng liên minh công nông. Bên cạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng đồng thời xây dựng và rèn luyện lực lượng vũ trang cách mạng. Lực lượng vũ trang, nòng cốt là đội quân chủ lực do Đảng tổ chức và lãnh đạo ngay từ đầu đã mang bản chất giai cấp công nhân, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, có mối quan hệ nội bộ và quân dân tốt, thực hiện lối đánh giặc tài giỏi, hoàn thành các nhiệm vụ Đảng và nhân dân giao phó. Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa, Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và củng cố cơ sở chính trị ở nông thôn và thành thị, đi từ các cơ sở chính trị và cơ sở vũ trang bí mật tiến lên xây dựng các căn cứ địa, khu du kích và khu giải phóng.


Từ thực tiễn phong trào, Đảng định ra các hình thức đấu tranh nhạy bén, sáng tạo. Khi chưa có tình thế cách mạng trực tiếp, đấu tranh chính trị là chủ yếu, có sự kết hợp đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp. Khi tình thế mới xuất hiện, Đảng chủ trương chuyển hình thức đấu tranh từ thấp lên cao, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Nhờ chuẩn bị từ trước về mọi mặt, nhờ lực lượng vũ trang làm chỗ dựa và đấu tranh vũ trang hỗ trợ, phong trào cách mạng của quần chúng mới phát triển nhanh; nhờ có đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và lực lượng quân sự cách mạng đóng vai trò lực lượng nòng cốt chế áp lực lượng đối phương, mà Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 giành được thắng lợi nhanh chóng trong cả nước. Khởi nghĩa vũ trang, Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công để lại nhiều bài học quý, trước hết là bài học về Đảng lãnh đạo cách mạng, lực lượng vũ trang, về xây dựng Đảng vững mạnh, tổ chức đảng có chất lượng cao, nhân tố cơ bản đưa đến thắng lợi.


Ba là, coi trọng lý luận, nhưng lý luận đi liền với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, để chỉ đạo thực tiễn và phát triển lý luận. Đảng đã đề ra đường lối chiến lược và sách lược cụ thể, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại, tạo ra sức mạnh to lớn trong đấu tranh cách mạng. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, hoãn cuộc khởi nghĩa Cao - Bắc - Lạng, quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa khi trong nước hội đủ điều kiện và tình hình quốc tế thuận lợi, v.v... là điển hình của quan điểm thực tiễn và sự vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn trong lãnh đạo cách mạng, khởi nghĩa vũ trang của Đảng. Bám sát thực tiễn, phân tích sâu sắc thực tiễn, rút ra quy luật và hành động đúng quy luật để giành thắng lợi trong đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc là bài học cần nắm vững để vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong chăm lo, củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM