Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 04:16:35 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 3  (Đọc 4057 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #40 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2021, 08:15:37 pm »

Để phần chia trách nhiệm chỉ đạo khởi nghĩa ở hai vùng thượng du và đồng bằng, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính còn gặp nhau một lần nữa tại vùng núi Yên Tử (Quảng Yên). Theo phân công, Nguyễn Khắc Nhu sẽ phụ trách khởi nghĩa ở vùng thượng du, còn vùng đồng bằng do Nguyễn Thái Học trực tiếp chỉ đạo. Kế hoạch được thống nhất là khi Yên Bái nổi dậy, Nguyễn Khắc Nhu phải đánh vào Hưng Hóa, Lâm Thao, sau đó nghĩa quân Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao hội quân ở Hưng Hóa rồi tiến lên Trung Hà phối hợp với toán quân của Phó Đức Chính đang hoạt động ở đây đánh đồn Thông (Sơn Tây). Thời gian khởi nghĩa được ấn định vào đêm ngày 9-2-1930. Tuy nhiên, sau khi xem xét lại tình hình ở miền xuôi, Nguyễn Thái Học quyết định hoãn đến ngày 15-2-1930 và cử người đi báo cho Nguyễn Khắc Nhu (phụ trách chung khởi nghĩa ở miền ngược). Nhưng người này bị thực dân Pháp bắt, nên Nguyễn Khắc Nhu không biết thay đổi này. Do đó, đêm ngày 9 rạng ngày 10-2, khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Sơn Tây. Tại Yên Bái, nghĩa quân chia làm ba nhóm tiến công vào ba mục tiêu chính là Đồn Dưới, Đồn Cao và khu nhà riêng của bọn sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp. Nhưng do chuẩn bị chưa chu đáo và vấp phải sự kháng cự quyết liệt của địch nên cuộc khởi nghĩa không diễn ra đúng với ý đồ của những người lãnh đạo. Nghĩa quân chiếm được Đồn Dưới và kho vũ khí, diệt và làm bị thương một số tên địch, nhưng không chiếm được Đồn Cao do quân Phâp đã có sự đề phòng và chuẩn bị trước; lực lượng làm nội ứng quá mỏng, không có người phụ trách nên không phát huy được tác dụng. Không chiếm được Đồn Cao, nghĩa quân chia nhau đánh chiếm một số vị trí ở thị xã, treo cờ và phát truyền đơn hô hào quần chúng nổi dậy. Sáng ngày 10-2, Pháp tập trung lực lượng phản công quyết liệt. Chúng chiếm lại Đồn Dưới và bắt nghĩa quân, xử bắn tại chỗ nhiều người, ở Lâm Thao, vào khoảng 2 giờ sáng ngày 10-2, một cánh quân dưới sự chỉ huy của Phạm Nhận nhanh chóng chiếm được phủ đường. Cùng lúc đó, ở Hưng Hóa, Nguyễn Khắc Nhu trực tiếp chỉ huy một cánh quân đến đánh đồn binh Hưng Hoá. Do cơ sở nội ứng bên trong bị đổi đi nơi khác nên kế hoạch đánh đồn gặp nhiều khó khăn. Nhận thấy không thể thực hiện được kế hoạch, Nguyễn Khắc Nhu buộc phải rút quân về phối hợp với cánh quân của Phạm Nhận chiếm phủ Lâm Thao. Sáng ngày 10-2-1930, địch điều quân đến đàn áp, Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy nghĩa quân đánh trả quyết liệt. Nhưng do lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch nên nhiều nghĩa quân bị hy sinh, số còn lại bị bắt gần hết; Nguyễn Khắc Nhu bị thương nặng, sau đó cũng bị bắt rồi tự sát để giữ trọn khí tiết, ở Sơn Tây, việc đánh đồn Thông không thực hiện được. Tại Hà Nội, chiều ngày 10-2, quân khởi nghĩa dùng mìn ném vào sở mật thám, sở sen đầm, bốt cảnh sát nhằm kiềm chế quân Pháp để phối hợp với Yên Bái, song ít kết quả. Tại các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Giang, từ ngày 15 đến ngày 18-2, nghĩa quân tiến công các phủ, huyện gây cho quân Pháp một số thiệt hại, nhưng sau đó cũng bị đàn áp.


Chỉ trong một tuần (từ ngày 9 đến ngày 15-2-1930), cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô lớn do Việt Nam Quốc dân Đảng phát động đã bùng nổ ở nhiều nơi và mau chóng thất bại. Hàng nghìn chiến sĩ cùng những người lãnh đạo chủ chốt như Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu, Đoàn Trần Nghiệp bị địch bắt và giết. Sự nỗ lực cuối cùng của Việt Nam Quốc dân Đảng tuy không đạt kết quả nhưng đã thể hiện tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của dân tộc, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân.


Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng chứng tỏ sự bồng bột, hăng hái nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản. Đồng chí Lê Duẩn nhận định: "Khởi nghĩa Yên Bái chỉ là "cuộc bạo động bất đắc dĩ. Một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn không bao giờ ngóc lên nổi". Khẩu hiệu: "Không thành công thì thành nhân" biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản"1 (Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1959, tr.41). Từ sau bạo động Yên Bái, Việt Nam Quốc dân Đảng hoàn toàn tan rã, hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.


Tư tưởng quân sự theo khuynh hướng dân chủ tư sản trước năm 1930 có ảnh hưởng nhất định đối với phong trào giải phóng dân tộc những thập kỷ đầu thế kỷ XX, nhưng do chưa vượt khỏi giới hạn của tư tưởng dân chủ tư sản kiểu cũ, chưa đề ra được đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cách mạng nên mọi nỗ lực của Duy tân Hội, Việt Nam Quang phục Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng nhằm hướng tới một cuộc bạo động vũ trang trên phạm vi cả nước đều không đi đến thành công.


Sự thất bại của tư tưởng quân sự theo khuynh hướng dân chủ tư sản thời kỳ này, một mặt, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có một lý luận tiên tiến soi sáng con đường cách mạng Việt Nam; mặt khác, chính bài học của tư tưởng quân sự theo xu hướng dân chủ tư sản đã tạo tiền đề thúc đẩy sự hình thành tư tưởng, quan điểm mới về con đường, phương thức giải phóng dân tộc phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Từ sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (tháng 2-1930), "trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc chỉ là những phong trào do giai cấp vô sản lãnh đạo"1 (Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Sđd, tr.41).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #41 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2021, 09:11:32 pm »

II- NHỮNG QUAN ĐIỂM QUÂN SỰ CƠ BẢN ĐẦU TIÊN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC (1919-1930)

Giữa lúc những hoạt động của Phan Bội Châu và các nhà yêu nước khác, cũng như các cuộc đấu tranh vũ trang của Việt Nam Quang phục Hội (1915), khởi nghĩa Thái Nguyên (1917)... đều không thành công, thì một xu hướng cách mạng mới hình thành, do Nguyễn Ái Quốc khởi xướng và lãnh đạo. Trải qua nhiều năm, đi qua nhiều nơi, hòa mình vào cuộc sống lao động và đấu tranh của nhân dân nhiều nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Âu; hoạt động sôi nổi trong phong trào công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, học thuyết quân sự vô sản và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên (1920). Kể từ đó, kết hợp truyền thống văn hóa Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, trí tuệ thời đại và những kinh nghiệm phong phú trong hoạt động thực tiễn, tư tưởng cách mạng, tư tưởng quân sự của Người từng bước hình thành, đóng vai trò định hướng và xuyên suốt các giai đoạn về sau. Các quan điểm quân sự đó gắn liền (có khi lồng vào) quan điểm chính trị. Đó cũng là đặc điểm của quân sự hiện đại Việt Nam, không bao giờ là quân sự thuần túy mà luôn gắn liền với chính trị, phục tùng đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập.


1. Phát huy tính chủ động của cách mạng, giải phóng dân tộc ở thuộc địa

Trong thế kỷ XIX, nhất là nửa sau của thế kỷ này, do tốc độ phát triển nhanh nhu cầu về nguyên liệu, thị trường và nhân lực lao động ngày càng tăng, chủ nghĩa tư bản "dòm ngó" tới những quốc gia kinh tế chậm phát triển. Châu Á trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Đến cuối thế kỷ XIX, thế giới hầu như không còn "miền đất trống", tất cả các nước chậm phát triển ở các châu lục đều trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc các nước tư bản lớn. Hệ thống thuộc địa, nửa thuộc địa lúc đó trở thành một trong những cơ sở quan trọng cho sự tồn tại của chủ nghĩa đế quốc, đồng thời cũng là nơi chủ nghĩa đế quốc toan tính, tranh giành lẫn nhau và chính điều đó gây nên thảm khốc to lớn cho nhân loại trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918).


Do ách áp bức vô cùng tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân nên mâu thuẫn đối kháng giữa các dân tộc thuộc địa với các thế lực thống trị ngoại bang vô cùng sâu sắc. Giải phóng dân tộc thoát khỏi ách áp bức thực dân trở thành khát vọng và đã nhen nhóm ở các nước thuộc địa. Nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh mang các màu sắc khác nhau nổ ra ở nhiều nước nhưng đều bị kẻ thù đàn áp tàn khốc, ở Việt Nam, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi, nhưng cuối cùng cũng bị quân thù đàn áp đẫm máu. Đau xót trước cảnh thống khổ của nhân dân, lại sớm có chí hướng "đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào"1 (Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.13), ngày 5-6-1911, Nguyễn Sinh Cung (tên của Nguyễn Ái Quốc khi đó) lấy tên là Văn Ba rời Tổ quốc sang các nước phương Tây tìm đường cứu nước. Lúc đầu, Người đến nước Pháp và nhiều nước khác, sau đó sang Mỹ (1912-1913), rồi tới Anh (1913-1917). Tại thủ đô nước Anh, Người đã có những hoạt động chính trị đầu tiên. Tháng 12-1917, Người rời Luân Đôn trở lại Pari để có điều kiện hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.


Trong nhiều năm, Người đã có mặt ở nhiều nước, tiếp xúc với nhiều lớp người thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Đến các nước tư bản phát triển ở châu Âu và Bắc Mỹ, Người tận mắt nhìn thấy cảnh giai cấp công nhân và quần chúng lao động bị áp bức, bị đối xử vô cùng thậm tệ. Khi tới các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, Người lại tận mắt chứng kiến những tội ác không thể tưởng tượng được của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, Người cũng thấy rõ ý chí quật cường, bất khuất của các dân tộc bị áp bức, tinh thần đấu tranh kiên cường của giai cấp công nhân và những người lao động cùng khổ ở khắp mọi nơi. Qua thực tiễn đó, Người rút ra kết luận quan trọng: "dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.287). Từ lòng yêu nước thương dân, đến sự phân biệt trong xã hội có "hai giống người", ở Người đã hình thành ý thức giai cấp rõ rệt.


Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Đây là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử nhân loại, mở đầu cho thời đại mới. Cách mạng Tháng Mười Nga là tấm gương, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với phong trào giải phóng dân tộc. Đối với Nguyễn Tất Thành, do được rèn luyện trong cuộc sống lao động và hoạt động nhiều năm trước đó, và với sự nhạy cảm về chính trị, nên tuy lúc đầu "chưa hiểu biết hết ý nghĩa cực kỳ to lớn"1 (T. Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.18) của Cách mạng Tháng Mười Nga, nhưng Người đã nhận thấy đây là một biến cố to lớn, có sức lôi cuốn kỳ diệu. Từ nhận thức ban đầu ấy, Người tiếp tục tìm hiểu thêm về Cách mạng Tháng Mười Nga thông qua sách báo, đồng thời tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh ủng hộ, bảo vệ nước Nga Xôviết. Những hoạt động đó đã nâng cao hơn nhận thức của Người về ý nghĩa to lớn của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga.


Do ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ. Ngày 4-3-1919, Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản) ra đời. Đây là một sự kiện lịch sử trọng đại sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Sau khi thành lập, Quốc tế III đã nhanh chóng trở thành trung tâm nghiên cứu lý luận, đường lối, sách lược và tổ chức chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong thời gian đầu, Quốc tế III do V.I. Lênin lãnh đạo, đã nhanh chóng truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nhiều nước. Điều quan trọng là Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ đã đề ra nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc phát triển.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #42 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2021, 09:12:44 pm »

Ngày 16 và 17-7-1920, báo Nhân đạo (L'Humanité) đăng toàn văn các văn kiện Đại hội lần thứ II của Quốc tế Cộng sản, trong đó có Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin. Luận cương của V.I. Lênin đặt vấn đề: Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ các dân tộc bị áp bức; nếu như trước kia, phong trào giải phóng dân tộc kết thúc với việc giai cấp tư sản lên cầm quyền, thì nay, trong thời đại mới mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, khi điều kiện thuận lợi có thể thiết lập chính quyền cách mạng nhân dân. Luận cương cũng khẳng định Quốc tế Cộng sản là Bộ Tham mưu và nước Nga Xôviết là ngọn cờ đầu, là thành trì và căn cứ của cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của V.I. Lênin, Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ II còn thông qua 21 điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản, trong đó điều thứ 8 ghi rõ: "Mỗi đảng cam đoan tiến hành một công tác cổ động có hệ thống trong quân đội nước mình nhằm chống mọi ách áp bức dân chúng thuộc địa; và mỗi đảng phải ủng hộ, không những bằng lời nói mà cả bằng hành động, phong trào giải phóng của các thuộc địa"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.213).


Những quan điểm chủ yếu do V.I. Lênin trình bày trong Luận cương và những điều kiện để các đảng gia nhập Quốc tế Cộng sản, nhất là điều thứ 8, thu hút sự quan tâm đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc, làm cho Người rất cảm động, phấn khởi, nâng cao về chất những hiểu biết và tình cảm cách mạng.


Tiếp nhận tư tưởng của V.I. Lênin, Người viết thư bằng tiếng Pháp gửi Quốc tế Cộng sản, nói về ảnh hưởng to lớn của Luận cương đối với sự hình thành thế giới quan của mình và về quyết tâm đi theo Quốc tế III. Tiếp đó, Người lao vào cuộc chiến đấu, hăng hái bàn cãi, tiến công mạnh mẽ những kẻ chống lại V.I. Lênin và Quốc tế III. Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp ở Tua, cùng với phái đa số do Mácxen Casanh lãnh đạo, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III, trở thành người cộng sản đầu tiên của cách mạng Việt Nam, đồng thời là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc hướng cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản.


Sau khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc công bố hai luận văn nổi tiếng nhan đề "Đông Dương" và "Phong trào cộng sản quốc tế- Đông Dương" trên Tạp chí Cộng sản (La Revue Communiste) - cơ quan lý luận chính trị của Đảng Cộng sản Pháp số tháng 4 và tháng 5-1921. Nguyễn Ái Quốc đã nêu vấn đề quan trọng: "Chế độ cộng sản có áp dụng được châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng không?"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.45). Để trả lời câu hỏi đó, Nguyễn Ái Quốc một mặt phân tích tình hình chính trị và phong trào đấu tranh yêu nước hiện thời của các nước điển hình châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, các nước ở Đông Dương; mặt khác, Người phân tích sâu cơ sở kinh tế, xã hội và truyền thống lịch sử văn hóa phương Đông đế khẳng định cho nhận định của Người "chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.47). Người chỉ ra rằng, gần 5.000 năm ở phương Đông đã có "chế độ tỉnh điền" mà đặc trưng của chế độ đó là "chia đất đai trồng trọt theo hai đường dọc và hai đường ngang. Như vậy sẽ có chín phần bằng nhau. Người cày ruộng được lĩnh mỗi người một phần trong 8 miếng, miếng ở giữa tất cả đều cùng làm và sản phẩm được sử dụng vào việc công ích"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.47). Ngoài ra, ở phương Đông là nơi "khởi xướng thuyết đại đồng"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.47) từ trước Công nguyên, là nơi đề cao tư tưởng "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh"4 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.48). Còn ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc mô tả về chế độ ruộng đất: "Về của cải tư hữu, luật pháp An Nam cấm mua bán toàn bộ đất đai. Hơn nữa, một phần tư ruộng đất trồng trọt bắt buộc phải để làm của chung. Cứ ba năm người ta chia lại ruộng đất đó. Mỗi người dân trong xã thôn được nhận một phần"5 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.48). Với một truyền thống lịch sử văn hóa như vậy, nó thật sự có sức mạnh cố kết cộng đồng, đặc biệt trong những thời điểm đất nước có ngoại xâm, là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa cộng sản dễ dàng thâm nhập vào châu Á. Hơn nữa, ở Đông Dương, nơi bị thực dân Pháp xâm lược, thống trị dã man, thì "sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi"6 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.40).


Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Nói rằng hai mươi triệu nhân dân Đông Dương bị bóc lột, hiện đã chín muồi cho một cuộc cách mạng là sai. Nhưng nói rằng, người Đông Dương không muốn làm cách mạng và bằng lòng với chế độ hiện thời như các "ông chủ" thường nghĩ thì lại càng sai hơn nữa. Mặc dù bị đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác, bị bịt mồm và giam hãm, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo của kẻ thù làm họ vùng lên. Rồi từ thực tiễn đấu tranh, người Đông Dương sẽ tiến bộ một cách màu nhiệm. Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.40).


Sau khi đã làm sáng tỏ vấn đề then chốt đó, hai luận văn Đông Dương, Phong trào cộng sản quốc tế - Đông Dương xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam và cách mạng các nước thuộc địa và phụ thuộc trong thời đại mới. Phương hướng ấy giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, hướng cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo cách mạng vô sản. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc nêu lên luận điểm nổi tiếng về tính chủ động của cách mạng thuộc địa, dự kiến về khả năng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước khi giai cấp vô sản ở "chính quốc" lên nắm chính quyền. Người viết: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.48).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #43 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2021, 09:13:41 pm »

Sau khi công bố hai luận văn đó, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy cần phải xúc tiến công tác tuyên truyền và công tác tổ chức mới có thể thúc đẩy phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa chủ động trong công cuộc đấu tranh tự giải phóng. Tháng 7-1921, cùng với một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa đang hoạt động ở nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa và được bầu vào Ban lãnh đạo Hội; sáng lập ra tò báo Người cùng khổ (Le Paria) do Người làm chủ bút kiêm quản lý. Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo nêu rõ mục đích thành lập Hội là lãnh đạo nhân dân các nước thuộc địa đoàn kết đấu tranh, đánh đổ ách áp bức dân tộc của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Tuyên ngôn khẳng định: "Vận dụng công thức của Các Mác2 (Công thức này C. Mác nêu trong Điều lệ của Hội Liên hiệp lao động quốc tế: "Sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân"), chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.138). Tiếp đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Pháp lần thứ nhất (12-1921) và lần thứ hai (10-1922), Nguyễn Ái Quốc được cử vào Đoàn Chủ tịch cả hai đại hội và Người đã nêu kiến nghị Đảng cần nghiên cứu xây dựng chính sách đối với các nước thuộc địa, đồng thời thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa. Những kiến nghị đó đã được cả hai đại hội Đảng nhất trí. Cuối năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, có năm tiểu ban, Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương.


Trong khi Nguyễn Ái Quốc hiểu sâu sắc và hoạt động tích cực nhằm thực hiện tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa thì trong phong trào cộng sản quốc tế xuất hiện khuynh hướng sai lầm đối với cách mạng thuộc địa. Khuynh hướng này có mầm mống nảy sinh do các Đảng Cộng sản ở châu Âu ra đời từ cánh tả của các Đảng Xã hội dân chủ nên vẫn còn vương vấn tàn dư tư tưởng của Quốc tế II trong nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề dân tộc thuộc địa. Thêm vào đó, một số nhân vật trọng yếu trong cơ quan lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, do căn cứ vào thực tiễn phong trào cách mạng thế giới lúc đó, đã đưa ra nhận định về triển vọng cách mạng quá lạc quan, cho rằng sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và Quốc tế Cộng sản được thành lập, chỉ một thời gian rất ngắn nữa, cách mạng vô sản sẽ thành công ở châu Âu, và đến lúc đó các nước thuộc địa sẽ được giải phóng. Từ đó, nhiều Đảng Cộng sản lớn ở châu Âu không thực hiện điều thứ 8 trong 21 điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản, trên thực tế không thực hiện tư tưởng của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Điều đó làm cho Nguyễn Ái Quốc rất bận tâm. Do đó, khi đã rời nước Pháp sang nước Nga, Người viết thư trình bày với Trung ương Đảng Cộng sản Pháp những suy nghĩ của mình về vấn đề thuộc địa. Trong thư, Người nhắc lại ý nghĩa quan trọng của Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Quốc tế Cộng sản về vấn đề thuộc địa và nhận xét: "Khốn nỗi cho đến nay, những nghị quyết ấy chỉ được dùng để tô điểm mặt giấy! Phân bộ Pháp, phân bộ Anh và những phân bộ các nước thực dân khác đã làm gì cho các thuộc địa của chủ nghĩa tư bản nước họ? Những phân bộ ấy đã có một chính sách thuộc địa và một cương lĩnh rõ rệt về thuộc địa, chính xác và liên tục chưa? Những chiến sĩ của các phân bộ ấy có hiểu thuộc địa là gì và tầm quan trọng của thuộc địa là như thế nào không? Người ta có thể trả lời là không"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.211-212). Sau khi phân tích những thiếu sót trong công tác thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, Người yêu cầu Đảng phải sử dụng tốt thì giờ trong tương lai bằng cách: chính thức thừa nhận Liên đoàn Máctiních (nhóm Giăng Giôrét); mở lại mục viết về thuộc địa trong báo Nhân đạo, khuyến khích các bộ phận thuộc địa tăng cường công tác tuyên truyền và tuyển thêm người bản xứ; mở mục viết về thuộc địa trên tất cả báo chí của Đảng để độc giả làm quen với vấn đề thuộc địa; nói đến các thuộc địa trong các cuộc mít tinh, trong các đại hội hoặc hội nghị của Đảng; khi tài chính của Đảng cho phép, cử các nghị sĩ đi thăm các thuộc địa; tổ chức các nghiệp đoàn hoặc thành lập các nhóm tương tự ở các thuộc địa1 (Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.213-214).


Vừa viết những bài báo lý luận và bức thư tâm huyết kiến nghị với Trung ương Đảng Cộng sản Pháp những việc cụ thể nhằm góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc vừa sử dụng nhiều hình thức hoạt động phong phú để làm sáng tỏ quan điểm của mình trước những vấn đề trọng đại của cách mạng giải phóng thuộc địa, trước hết là chuẩn bị cho nhân dân tư tưởng chủ động, kiên trì đấu tranh.


Người công bố bài Con người biết mùi hun khói trên báo Nhân đạo, mô tả lễ kỷ niệm lần thứ năm mươi ngày thành lập Cộng hòa liên hiệp Phi. Bài báo có đoạn viết: "Haútxa, tháng 1 năm 1998. Thành phố Haútxa cờ xí tưng bừng. Tưởng đâu như một vị chúa xuân đã gõ cây đũa thần lên gỗ ván khô khốc ở các bao lơn và các cửa sổ, làm mọc ra muôn vàn tấm lá đỏ phấp phới yêu kiều trước gió. Đây là lễ kỷ niệm lần thứ năm mươi ngày thành lập Cộng hòa liên hiệp Phi. Chưa bao giờ dân chúng lại tham gia với mức độ ấy những hội hè loại này... Từng đoàn học sinh, giương cờ đi đầu, vừa diễu qua các phố vừa hát Quốc tế ca, được dân chúng vỗ tay hoan nghênh... Cụ Kimengô, tuổi đã chín mươi, là một cựu chiến sĩ của quân đội cách mạng, một trong những người sáng lập Cộng hòa da đen..."1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.105-106). Bài báo được Nguyễn Ái Quốc viết từ năm 1922, lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập nước Cộng hòa Phi vào năm 1998, nghĩa là cách mạng Phi phải trải qua một thời gian lâu dài đấu tranh gian khổ mới thành công vào năm 1948. Với một câu chuyện tưởng tượng và mốc thời gian tượng trưng đó, bài viết chứa đựng một hàm ý sâu sắc, nêu lên một nhận định khác với quan điểm phổ biến ở Quốc tế Cộng sản thời đó là: Cách mạng giải phóng thuộc địa nhất định thành công, nhưng sự thành công đó không phải diễn ra suôn sẻ, dễ dàng, chóng vánh, mà trái lại, đó là một cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài, đầy gian khổ và hy sinh. Thực tiễn lịch sử cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa diễn ra đúng như nhận định sáng suốt đó.


Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Mátxcơva. Người làm việc tại Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Tháng 10 năm đó, Người tham dự Đại hội Quốc tế Nông dân và được Đại hội bầu vào Đoàn Chủ tịch Hội đồng Quốc tế Nông dần. Phát biểu tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc nói: "Tôi cũng xin nhắc lại rằng các đồng chí đã lên tiếng chống chiến tranh, đòi hòa bình các đồng chí đã nói đến một chính quyền vô sản và việc lật đổ chủ nghĩa tư bản. Nhưng tất cả những điều các đồng chí nói ở đây sẽ trở thành vô ích, nếu các đồng chí quên mất cái yếu tố quân phiệt thực dân. Các đồng chí đều biết những sự kiện. Trong chiến tranh thế giới, chỉ riêng ở nước Pháp, người ta đã đưa từ các thuộc địa về gần một triệu người bản xứ để tham gia chiến tranh... Tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một quốc tế thực sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa... đều tham gia Quốc tế của các đồng chí"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.231-232).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #44 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2021, 09:15:03 pm »

Tháng 6-1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản. Tại diễn đàn đại hội, Nguyễn Ái Quốc đã ba lần đọc tham luận về vấn đề dân tộc thuộc địa vào các phiên họp thứ 8 (ngày 23-6-1924), thứ 22 (ngày 1-7- 1924), thứ 25 (ngày 3-7-1924). Người đặt vấn đề là sẽ tận dụng mọi cơ hội có được, sẽ gợi ra những vấn đề để thức tỉnh các đồng chí trong Quốc tế Cộng sản nhận thức lại, hiểu đúng tinh thần của V.I. Lênin về tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa. Mở đầu bài phát biểu tại phiên họp thứ 8, Người nói: "Tôi đến đây để không ngừng lưu ý Quốc tế Cộng sản đến một sự thật là: Thuộc địa vẫn đang tồn tại, và vạch ra để Quốc tế Cộng sản thấy rằng: Cách mạng, ngoài vấn đề tương lai của các thuộc địa còn có cả nguy cơ của các thuộc địa"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.295). Đây là một luận điểm quan trọng mà Nguyễn Ái Quốc khái quát trình bày tại đại hội, sau khi đã viết hàng loạt bài báo về vấn đề này. Người khẳng định rằng: Cách mạng thuộc địa có một lực lượng quần chúng khổng lồ, và sẽ là vô địch khi họ được thức tỉnh, được tổ chức. Với lực lượng đó, họ có khả năng tự giải phóng mình và giúp đỡ cách mạng phương Tây trong công cuộc giải phóng hoàn toàn, về nguy cơ thuộc địa là một vấn đề mới mẻ với nhiều nhà cách mạng phương Tây, ngay trong bản tham luận, Người đã viết: "Các đồng chí thứ lỗi về sự mạnh bạo của tôi, nhưng tôi không thể không nói với các đồng chí rằng, sau khi nghe những lời phát biểu của các đồng chí ở chính quốc, tôi có cảm tưởng là các đồng chí ấy muốn đánh chết rắn đằng đuôi. Tất cả các đồng chí đều biết rằng, hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở thuộc địa hơn là ở chính quốc... Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng, các đồng chí lại khinh thường thuộc địa"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.295-296). Tiếp đó, Người nêu lên một chân lý đơn giản là muốn đập vỡ một quả trứng hay một hòn đá, thì phải tìm kiếm một công cụ mà sức bền của nó tương xứng với sự vững chắc của đối tượng định đập tan. Cuối cùng, Người lưu ý: khi "bàn về khả năng và các biện pháp thực hiện cách mạng, đề ra kế hoạch của cuộc chiến đấu sắp tới, các đồng chí Anh và Pháp cũng như các đồng chí ở các đảng khác hoàn toàn bỏ qua luận điểm cực kỳ quan trọng có tính chiến lược này. Chính vì thế, tôi hết sức kêu gọi các đồng chí: Hãy chú ý!"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.297).


Tiếp tục chủ đề về vai trò của cách mạng thuộc địa, trong bài phát biểu tại phiên họp thứ 22, Nguyễn Ái Quốc đã làm một bản thống kê về thuộc địa, bao gồm diện tích và dân số của 9 chính quốc so sánh với diện tích và dân số của các nước thuộc địa. Bản thống kê cho thấy: "Toàn bộ lãnh thố của các nước thuộc địa rộng gấp 5 lần lãnh thổ của các chính quốc, còn số dân của các chính quốc chưa bằng 3/5 số dân của các nước thuộc địa"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.299). Từ số liệu hùng hồn qua bảng thống kê, Người khẳng định: "Vì vậy sẽ không phải là quá đáng nếu nói rằng chừng nào Đảng Pháp và Đảng Anh chúng ta chưa thi hành một chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc địa, thậm chí chưa đề cập đến quần chúng các nước thuộc địa, thì toàn bộ chương trình rộng lớn của hai đảng đó vẫn không có hiệu quả gì. Chương trình ấy sẽ không có hiệu quả gì vì nó trái với chủ nghĩa Lênin"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.299).


Sau khi phê bình Đảng Cộng sản Anh, Hà Lan, Bỉ và các Đảng Cộng sản các nước khác đã gần như chưa làm gì về vấn đề thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc nêu kiến nghị về biện pháp cụ thể cho hành động thực tiễn và kết luận: "Vì chúng ta tự coi mình là học trò của Lênin, cho nên chúng ta cần phải tập trung tất cả sức lực và nghị lực để thực hiện trên thực tế những lời di huấn quý báu của Lênin đối với chúng ta về vấn đề thuộc địa cũng như các vấn đề khác"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.304).


Trong bài phát biểu tại phiên họp thứ 25, Người đề cập đến các thuộc địa của nước Pháp. Đó là các thuộc địa rộng lớn, chiếm một diện tích 10.211.510 km2, với dân số 55.571.000 người. Theo Nguyễn Ái Quốc, trong tất cả thuộc địa của Pháp, quần chúng nhân dân lao động bị bóc lột vô cùng thậm tệ, nạn nghèo đói ngày càng tăng. Vì vậy, nhân dân các thuộc địa của Pháp vô cùng phẫn uất, căm ghét chế độ thuộc địa. Trong nhiều nước thuộc địa, quần chúng đã nhiều lần nổi dậy chống chính quyền thực dân, xóa bỏ ách áp bức dân tộc, nhưng lần nào cũng bị bộ máy thống trị của chính quyền thực dân đàn áp tàn khốc, lần nào cũng bị dìm trong máu. Từ thực tiễn cuộc sống và đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ nguyên nhân bất thành của các cuộc nổi dậy đó là do thiếu tổ chức và thiếu người lãnh đạo. Nhằm khắc phục tình trạng đó, Người để nghị Quốc tế Cộng sản "cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.311). Riêng đối với xứ Đông Dương, trong tham luận đọc tại Đại hội lần thứ III Quốc tế Công hội đỏ, Người cho rằng: "để thúc đẩy nhanh chóng công cuộc giải phóng của giai cấp vô sản Đông Dương thì cần thiết một điều là các đồng chí chúng ta trong các tổ chức công nhân cách mạng Pháp phải tích cực giúp đỡ chúng tôi trong cuộc đấu tranh giải phóng của chúng tôi"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.315).


Sau Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục củng cố và phát triển thêm về luận điểm tính chủ động của cách mạng thuộc địa, đưa luận điểm đó vào tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp mà Người đang gấp rút hoàn thành.


Phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc khẳng định, cách mạng thuộc địa có vị trí ngang hàng với cách mạng vô sản ở các "chính quốc". Mặt khác, Người đã phát triển thêm luận điểm nổi tiếng về cách mạng thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc, khẳng định cách mạng thuộc địa phải biết phát huy tính chủ động, tự mình làm cách mạng, không phụ thuộc vào cách mạng "chính quốc". Trong thời đại mới, cách mạng thuộc địa nếu biết phát huy tính chủ động cách mạng thì có thể thành công trước, và do đó, có thể giúp đỡ cách mạng vô sản ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn. Người cũng chỉ ra rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa muốn thành công triệt để thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người.


Luận điểm về tính chủ động trong công cuộc đấu tranh giải phóng, tự chủ, tự mình làm cách mạng là luận điểm đầu tiên trong tư tưởng quân sự của Nguyễn Ái Quốc. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, "điểm xuất phát trong tư tưởng quân sự của Hồ Chủ tịch là phải làm cách mạng. Có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì sẽ chết dần, chết mòn"1 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1974, t.2, tr.170). Luận điểm đó có giá trị vô cùng to lớn đối với cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa nói chung và cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam nói riêng. Thấm nhuần luận điểm đó, cách mạng Việt Nam đã chủ động chuẩn bị lực lượng, đón thời cơ thuận lợi giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945; tiếp đó, chủ động chuẩn bị cho đất nước với tinh thần "bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 552), vì vậy, ta đã giành thắng lợi trong các cuộc chiến tranh cách mạng. Nghiên cứu tư tưởng của Người, báo Maininchi Simbun (Nhật Bản) đã viết: "Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra và thực tế đã để lại tư tưởng và một mẫu mực trong thời đại giải phóng thuộc địa"2 (Một giờ với đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1985, tr.66).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #45 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2021, 07:06:11 pm »

2. Phá bỏ ách áp bức của chủ nghĩa đế quốc, thực dân bằng bạo lực cách mạng

Đầu năm 1919, các nước đế quốc thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp Hội nghị ở Vécxây (Pháp) đế chia lại thị trường và khu vực ảnh hưởng, chủ yếu là cho Mỹ, Anh, Pháp. Tổng thống Mỹ Uynxơn đến Hội nghị với "kế hoạch 14 điểm" đề cao quyền dân tộc tự quyết, thực chất là nhằm lôi kéo nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, tranh giành ảnh hưởng với các nước đế quốc khác.


Là người đã nhiều năm sống và làm việc trong lòng thế giới phương Tây, Nguyễn Ái Quốc không xa lạ gì bản chất của chủ nghĩa đế quốc thực dân, nhất là các đế quốc Anh, Mỹ, Pháp. Tuy vậy, để nêu cao tiếng nói chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi đến Hội nghị Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam, yêu sách 8 điểm1 (Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.469-470): "đòi ân xá cho tất cả các tù chính trị người bản xứ, đòi cải cách pháp chế ở Đông Dương bằng ban hành những bảo đảm cho người bản xứ cũng như người Âu, đòi tự do báo chí, tự do hội họp và lập hội, tự do dạy học, đòi thay chế độ sắc lệnh bằng chế độ pháp luật; và sau cùng, đòi có một đoàn đại biểu thường trực của dân bản xứ, được bầu vào Nghị viện Pháp"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.10). Bản Yêu sách của nhân dân An Nam cũng như bản yêu sách của các đoàn đại biểu Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên đều không được các nhà chính trị tư bản đế quốc quan tâm. Ở khía cạnh này, Trần Dân Tiên nhận xét là "không có kết quả gì hết"3 (Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.38), nhằm phê phán thái độ tráo trở, lừa bịp của các chính khách tư bản; ở khía cạnh khác, bản Yêu sách của nhân dân An Nam là bản cáo trạng lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, đã chà đạp thô bạo lên các quyền sơ đẳng của con người và quyền dân tộc. Việc Nguyễn Ái Quốc, đại biểu đầu tiên của dân tộc Việt Nam, nêu nguyện vọng chính đáng của dân tộc Việt Nam trên diễn đàn quốc tế, đồng thời đăng tải nội dung bản yêu sách đó trên các tờ báo lớn của nước Pháp, nhất là trên tờ Nhân đạo - cơ quan cánh tả của Đảng Xã hội Pháp, v.v. đã chọc thủng sự bưng bít của chủ nghĩa thực dân Pháp về tình hình Việt Nam, làm cho nhân dân tiến bộ trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp hiểu về tình hình thuộc địa. Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc tiến hành một loạt hoạt động nhằm tạo điều kiện cho việc tập hợp lực lượng chống đế quốc. Người tổ chức dịch thuật, in ấn tài liệu dưới dạng truyền đơn để phân phát trong các cuộc mít tinh ở nhiều tỉnh trong nước Pháp, bí mật gửi đi các nước và gửi về Việt Nam. Theo nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Pari 7 thì bản dịch ra chữ Hán là nét chữ của Nguyễn Ái Quốc. Hiện ở Viện Hồ Chí Minh còn lưu giữ một tài liệu chép tay, nhan đề Việt Nam yêu cầu ca, ký tên Nguyễn Ái Quốc. Bài viết kết luận bằng cách kêu gọi nhân dân thức tỉnh, đoàn kết đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc:
   "Hẵng mỏ mắt mà soi cho rõ.
   Nào Ai Lan, An Độ, Cao Ly,
   Xưa, hèn phải bước suy vi,
   Nay, gần độc lập cũng vì dân khôn
   Hai mươi triệu quốc hồn Nam Việt
   Thế cuộc này phải biết mà lo.
   Đồng bào, bình đẳng, tự do,
   Xét mình rồi lại đem so mấy người.
   Ngổn ngang lời vắn ý dài,
   Anh em đã thấu lòng này cho chưa"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.473-474).
   Với những hoạt động sôi nổi, nhạy bén của Nguyễn Ái Quốc, tinh thần yêu nước của nhân dân được thức tỉnh, cổ vũ.


Ngay sau khi bản Yêu sách của nhân dân An Nam được công bố, bọn bồi bút thực dân lồng lộn công kích: "cứ theo đà này thì bọn dân thuộc địa sẽ lên ngang hàng với người Pháp... Không được, phải kìm giữ chúng mãi mãi trong vòng nô lệ"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.523).


Do nhu cầu đấu tranh tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc viết một loạt bài báo tố cáo trước dư luận quốc tế sự giả dối của bọn bồi bút, luận tội đanh thép chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, những kẻ đã gây ra đau khổ đối với nhân dân các nước thuộc địa. Tiếp đó, trước những âm mưu mới của các nước đế quốc sau Chiến tranh thế giỏi thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc viết một loạt bài vạch trần bản chất gây chiến, xâm lược của chúng nhằm tạo điều kiện cho việc tập hợp lực lượng chống kẻ thù.


Sau Hội nghị Vécxây, các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất không chỉ tước đoạt các vùng ảnh hưởng của Đức mà còn xâu xé cả miền Ruya là khu vực công nghiệp than và luyện kim quan trọng của nước Đức. Tiếp đó, tháng 1-1923, đế quốc Pháp ấp ủ mưu đồ nắm ưu thế ở châu Âu, nên đã cùng Bỉ chiếm đóng miền Ruya, làm cho tình hình trở nên nghiêm trọng. Theo dõi những diễn biến đó, ngày 1-2-1923, Nguyễn Ái Quốc viết bài Bộ sưu tập động vật, vạch trần những âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và nguy cơ tiềm ẩn của sự xung đột quân sự mới giữa các nước đế quốc với nhau. Người viết: "Cái con chó ngắn mõm (ám chỉ nước Anh lúc đó - TG) chẳng đã chạy đến nhe bộ răng khả ố của nó ra mà xé toạc cả cơ cấu của Hội nghị Pari đó sao? Thành thử con khỉ Phlamăng và con gà sống Gôloa (ám chỉ Bỉ và Pháp - TG) phải một mình đương đầu với con phượng hoàng Giécmanh ở miền Ruya"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.159).


Trước những hoạt động ráo riết của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc quan tâm theo dõi những hội nghị lớn của các cường quốc đế quốc và những động thái quân sự của các nước đó ở khu vực chiến lược châu Á - Thái Bình Dương. Từ ngày 12-11-1921 đến ngày 6-2-1922, các nước đế quốc lớn họp hội nghị ở Oasinhtơn (Mỹ). Hội nghị nhằm cụ thể thêm một bước việc phân chia lại thuộc địa và khu vực ảnh hưởng, buộc nước Anh từ bỏ quyền thống trị mặt biển, thủ tiêu liên minh Anh - Nhật, buộc Nhật từ bỏ độc quyền kiểm soát Trung Quốc, dọn đường cho đế quốc Mỹ nô dịch các nước và giành quyền làm bá chủ Thái Bình Dương. Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ ý đồ của mỗi nước đế quốc, cũng như bản chất gây chiến của chúng và những hậu họa sau cuộc hội nghị đó. Vì vậy, tháng 3-1924, Người viết bài báo nhan đề Đông Dương và Thái Bình Dương, đăng trên tập san Inprekorr (bằng tiếng Pháp) nêu rõ nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới. Người viết rằng, mới thoạt nhìn thì dường như vấn đề Đông Dương và Thái Bình Dương không liên quan gì đến công nhân châu Âu. Nhưng nếu người ta nhớ lại rằng: trong thời kỳ cách mạng, đối phương không tấn công được nước Nga từ phía Tây, đã tìm cách tấn công từ phía Đông. Thế là các cường quốc đã cho quân đội đổ bộ lên Vlađivôxtốc, đồng thời nước Pháp cũng gửi những đạo quân người Đông Dương sang Xibêri để giúp bọn bạch quân. Hiện nay, tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt và nhất là tuyển những binh lính người bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng. Người nhấn mạnh: "Vì đã trở thành một trung tâm mà bọn đế quốc tham lam đều hướng cả vào nhòm ngó, nên Thái Bình Dương và các nước thuộc địa xung quanh Thái Bình Dương, tương lai có thể trở thành một lò lửa chiến tranh thế giới mới mà giai cấp vô sản sẽ phải nai lưng ra gánh"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.264).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #46 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2021, 07:07:18 pm »

Vạch trần bản chất thống trị độc ác của chủ nghĩa đế quốc, Nguyễn Ái Quốc viết: "Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc đã tiến tới một trình độ hoàn bị gần như là khoa học. Nó dùng những người vô sản da trắng để chinh phục những người vô sản các thuộc địa. Sau đó nó lại tung những người vô sản của một thuộc địa này đi đánh những người vô sản ở một thuộc địa khác. Sau hết, nó dựa vào những người vô sản ở các thuộc địa để thống trị những người vô sản da trắng"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.266). Sau khi phân tích những động thái hoạt động quân sự của quân Nhật ở đảo Yáp, quân Anh ở Xinhgapo, quân Pháp, Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương, Nguyễn Ái Quốc kết luận: "Sau hội nghị Oasinhtơn, việc tranh giành thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt hơn. Bọn đế quốc ngày càng trở nên điên cuồng hơn; những cuộc xung đột chính trị ngày càng trở nên không thể tránh khỏi. Những cuộc chiến tranh đã từng nổ ra vì vấn đề Ấn Độ, châu Phi và Ma Rốc. Những cuộc chiến tranh khác sẽ có thể nổ ra vì vấn đề Thái Bình Dương, nếu giai cấp vô sản không cảnh giác"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.268).


Cũng trong thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc còn quan tâm đến kế hoạch của các nước đế quốc lớn nhằm làm sống lại ngành công nghiệp quân sự của Đức vốn đã bại trận trong chiến tranh, hướng nước Đức vào con đường chống Liên Xô và các nước khác. Năm 1924, hội nghị đại biểu các nước thắng trận họp ở Luân Đôn, Thủ đô nước Anh, đã thông qua kế hoạch Đaoxơ nhằm thực hiện mưu đồ ấy. Vạch rõ nguy cơ của kế hoạch đó đối với giai cấp vô sản thế giới, Nguyễn Ái Quốc viết: "Chủ nghĩa tư bản quốc tế đang điên cuồng tích lũy. Kế hoạch của các nhà chuyên môn đang tổ chức việc nô dịch công nhân Đức... Việc nô dịch hoàn toàn giai cấp vô sản Đức chắc chắn sẽ dẫn tới việc nô dịch giai cấp vô sản châu Mỹ và châu Âu. Kế hoạch Đaoxơ là một sự tấn công trực tiếp vào giai cấp công nhân"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.344).


Người đặc biệt quan tâm theo dõi chiến lược quân sự của các nước đế quốc đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Theo Người, tiêu điểm mà chủ nghĩa đế quốc đang "dòm ngó" chính là nước Trung Quốc rộng lớn, dân số đông, có nguồn nguyên liệu dồi dào và một thị trường rộng lớn. Tuy nhiên, Trung Quốc là "miếng mồi quá to mà cái mõm của chủ nghĩa đế quốc thực dân không thể nuốt trôi ngay một cái được"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.342), thế là chúng "cắt vụn Trung Quốc ra: cách này chậm hơn nhưng khôn hơn"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.342). Phân tích tình hình Trung Quốc lúc đó, Nguyễn Ái Quốc viết: "Nhìn vào bản đồ Trung Quốc, ta thấy rằng hầu hết các hải cảng quan trọng, hầu hết các vị trí chiến lược, hầu hết các trung tâm sản xuất hiện đại đều bị nước ngoài chiếm đóng. Song bản đồ vẫn chưa nói được hết. Bản đồ vẫn chưa chỉ rõ được ảnh hưởng của tư bản nước ngoài lan rộng tới đâu, cũng chưa chỉ rõ được tầm đại bác của bọn đánh thuê của nước ngoài có thể bắn tới tận đâu"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.342). Mỗi nước đế quốc can thiệp vào Trung Quốc đều vì lợi ích riêng. Theo Nguyễn Ái Quốc, nước Pháp đã chiếm được Đông Dương, muốn xâm lược miền Nam Trung Quốc. Nước Anh chiếm được Hương Cảng, đã kiểm soát được các nguồn sản xuất nên không đời nào Anh lại chịu để cho Pháp trở thành một cường quốc thực dân thực sự ở châu Á; hơn nữa, Ấn Độ đã thức tỉnh đang bắt đầu gạt bỏ ách áp bức kinh tế của nước Anh, cho nên họ phải tìm cách vớt bù lại ở Trung Quốc. Nước Nhật lăm le chiếm lấy vài ba tỉnh của Trung Quốc, nhưng Mỹ lại không chịu để thế, vì nó sẽ là một mối nguy cho Mỹ. Đối với Mỹ, Trung Quốc là một thị trường và có thể là một đồng minh trong cuộc xung đột với Nhật Bản. Chính vì các lợi ích đó nên các nước đế quốc đua nhau gửi tối hậu thư và huy động các hạm đội đến mặt biển Trung Quốc, tập trung tàu chiến vào Thượng Hải và cửa sông Dương Tử. "Việc can thiệp vào Trung Quốc là một cuộc tấn công trực tiếp vào giai cấp công nhân"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.345).


Như vậy, tiếp theo sự phân tích của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục bổ sung và chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ nhất là không hề thay đổi, trái lại, bản chất gây chiến, xâm lược, đàn áp cách mạng ngày càng điên cuồng hơn. Kết luận Người rút ra là: giai cấp vô sản thế giới phải luôn luôn cảnh giác, ngăn ngừa chiến tranh đế quốc; phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Người nhấn mạnh: "Trong thời gian ngắn nhất phải tạo ra một phong trào đối kháng mang tinh thần cộng sản, chống chủ nghĩa tư bản và hai hình thức đặc biệt của nó là chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa pháo thuyền ở các thuộc địa"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.480-481).


Cùng với việc vạch trần bản chất gây chiến, xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, Nguyễn Ái Quốc còn đi sâu nghiên cứu bản chất ăn bám, bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Nhằm làm rõ bản chất và thủ đoạn thống trị của chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa để làm cơ sở khẳng định: trước chế độ bạo lực thực dân, muốn giải phóng khỏi ách áp bức dân tộc, không còn con đường nào khác là phải sử dụng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, Nguyễn Ái Quốc dành nhiều thời gian nghiên cứu nguồn tài liệu trong các kho lưu trữ, thư viện nước Pháp. Kết hợp các nguồn tài liệu đó với vổn hiểu biết phong phú, qua khảo sát thực tiễn đời sống nhân dân nhiều nước thuộc địa từ năm 1919 đến năm 1925, Nguyễn Ái Quốc viết hàng loạt bài báo nổi tiếng đăng trên nhiều tờ báo của nước Pháp và báo Người cùng khổ (Le Paria, do Người sáng lập). Trên cơ sở những bài báo đó, Người hoàn chỉnh bản thảo tác phẩm Đông Dương (1923-1924) gồm 17 bài. Trong thời gian ở Liên Xô dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Người đã dành thời gian hoàn chỉnh tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp gồm 12 chương. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp được Thư quán Lao động Pari xuất bản năm 1925.


Bằng những chứng cứ cụ thể, xác thực và sắc bén, Nguyễn Ái Quốc đã chọc thủng sự bưng bít có hệ thống của chủ nghĩa thực dân ở các thuộc địa, làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ tội ác không thể tưởng tượng được của thực dân Pháp ở Đông Dương và các nước thuộc địa khác của chúng. Người vạch ra rằng, để bảo đảm thu được lợi nhuận tối đa, chính quyền thực dân Pháp thi hành thủ đoạn độc quyền kinh tế. Chúng độc quyền kinh doanh, độc quyền nắm phương tiện giao thông vận tải, khai thác quặng, chiếm đất đai lập đồn điền; độc quyền xuất, nhập khẩu, V.V.. Chính quyền thực dân đặc biệt ưa thích áp dụng lối bóc lột thời trung cổ. Đó là chế độ thuế khóa vô cùng nặng nề và hết sức vô lý, vô nhân đạo như thuế thân, thuê chợ, thuế đò; thuế nộp cho ngân sách Đông Dương, ngân sách xứ, tỉnh; thuế phần trăm nộp cho quan lại, kỳ hào trong thôn, xã và hàng trăm thứ thuế khác. Nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế thực dân, thu được lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế về chính trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp và thẳng tay đàn áp, không cho người dân thuộc địa được hưởng quyền ngôn luận, tự do dân chủ. Mọi quyền hành đều nằm trong tay người Pháp.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #47 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2021, 07:08:33 pm »

Người dành hẳn một chương - chương VI - trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp để vạch trần "tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị" thuộc địa. Bằng số liệu cụ thể lấy từ kho lưu trữ của nước Pháp, Người mô tả các viên chức thuộc địa là những tên ăn bám. Chính bọn đó là những tên đục khoét ngân sách một cách thô bỉ nhất. Để bù vào chỗ thâm hụt ngân sách, chính quyền thuộc địa dùng thủ đoạn lừa đảo, áp đặt vô nhân đạo. Trước hết, họ phát các khoản lợi tức công trái, bắt các xã bán ruộng công để mua. Sau đó, họ đòi những người có "máu mặt" đến, ấn cho mỗi người một biên lai đã ghi sẵn số tiền và hạn kỳ nộp, nhưng vì "ruột két của chính phủ thì rộng thênh thang, mà số những nhà công thương bản xứ thì không nhiều, cho nên số công trái ấn vào cho họ không đủ để nhét đầy cái ruột két không đáy kia"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.83), thế là nhà nước bảo hộ gõ vào đám đông dân nghèo, bắt hai, ba người cùng chung nhau mua một cổ phiếu, về văn hóa, thực dân Pháp ra sức thực hiện chính sách văn hóa nô dịch. Chúng thực hành chính sách ngu dân triệt để. ""Làm cho dân ngu để dễ trị", đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.108).


Điều mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm nghiên cứu là thủ đoạn thống trị bằng quân sự, đánh vào nhân dân thuộc địa và chính nhân dân nước chúng một thứ thuế mà Người gọi là "thuế máu". "Thuế máu" là đầu đề của chương đầu tiên trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp. Trong mục ''Chiến tranh và "người bản xứ""2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.25), Nguyễn Ái Quốc viết rằng, những người dân thuộc địa giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị, ấy thế mà cuộc chiến tranh vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa "con yêu", những người "bạn hiền" của nhà nước bảo hộ. Đùng một cái, họ được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do". Nhưng họ đã phải trả giá khá đắt cái "vinh dự" đột ngột ấy. Trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất "tổng cộng có 700.000 người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, 80.000 người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa!"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.26). Nguyễn Ái Quốc viết tiếp: "Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ... Đeer ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỷ niệm đủ thứ, v.v... trước khi đưa họ đến Mácxây xuống tàu về nước đó sao?... Thế là những "cựu binh" - đúng hơn là cái xác còn lại - sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lý nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lý cả"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.32).


Nguyễn Ái Quốc không chỉ nghiên cứu ách thống trị của thực dân Pháp ở các nước thuộc địa của Pháp mà Người còn nghiên cứu ách thống trị của thực dân Anh ở các thuộc địa của họ. Sau nhiều bài viết đề cập đến nỗi thống khổ của nhân dân Ấn Độ, Trung Quốc... dưới ách thống trị ngoại bang, tháng 5-1925, Nguyễn Ái Quốc viết bài báo nổi tiếng nhan đề Lối cai trị của người Anh đăng trên báo Le Paria (số 33, tháng 4 + 5-1925) và tập san Inprekorr (ngày 8-4-1925). Bài báo phân tích sâu sắc những âm mưu mới của người Anh đối với Trung Quốc, Ấn Độ, Xu Đăng: "Chủ nghĩa đế quốc Anh muốn thi hành ở Trung Quốc một chính sách tích cực và "mạnh mẽ". Để bắt đầu, người ta đã đề nghị với Hội nghị Luân Đôn ngày 24 tháng 11 vừa rồi rằng những đường sắt ở Trung Quốc phải do các lực lượng quân sự Mỹ, Nhật, Bỉ, Pháp và Anh kiểm soát và giám sát"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.167). Đầu năm 1925, thủ đô của Ấn Độ bỗng nhiên bị chính quyền thực dân Anh áp dụng "Đạo luật phòng thủ Ấn Độ" năm 1918, tức là đạo luật bất thường thiết lập tình trạng giới nghiêm tăng cường. Dưới chế độ ấy, tất cả những viên chức và cảnh sát Anh, từ cấp thanh tra trở lên, đều có quyền bắt bớ và giam giữ những người Ấn Độ bị tình nghi. Đối với châu Phi, thực dân Anh đã biến Xu Đăng thành một đồn điền rộng lớn, phục vụ nhà nước bảo hộ.


Như vậy, với việc phân tích một cách khoa học bản chất của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần làm phong phú thêm những luận điểm của V.I. Lênin về bản chất của chủ nghĩa đế quốc. Với việc lên án chủ nghĩa thực dân một cách hệ thống, có căn cứ xác thực, Người đã thực hiện biện pháp tố cáo chính trị sắc bén, giáng một đòn mạnh mẽ vào hệ thống chính quyền thuộc địa, đồng thời cổ vũ quần chúng đứng dậy đấu tranh đạp đổ chế độ thối nát đó.


Trong thời kỳ đó, có nhiều người đề cập đến vấn đề này, nhưng sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến lúc đó vượt hẳn tất cả những gì mà những nhà lý luận mácxít đề cập tới. Người đã xây dựng nên một hệ thống những quan điểm khoa học đầy thuyết phục về sự nghiệp giải phóng khỏi ách áp bức thực dân. Sự phân tích về chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân thế hiện qua nhiều tác phẩm làm sáng tỏ luận điểm quan trọng mà Nguyễn Ái Quốc muốn lưu ý giai cấp vô sản quốc tế và nhân dân lao động thế giới: "Chủ nghĩa đế quốc hiện đại đặt nền móng trên sự bóc lột hàng triệu người lao động ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Bởi thế, nó chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá bỏ được nền móng đó của lâu đài đế quốc chủ nghĩa"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.136).


Quan điểm sử dụng bạo lực cách mạng chống bạo lực phản cách mạng còn được Người diễn đạt súc tích, sinh động. Khi đề cập về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc. Người viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.130). Với hình tượng độc đáo: muốn giết chết con đỉa phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó, Nguyễn Ái Quốc đã đúc kết cô đọng lý luận về chủ nghĩa đế quốc, thực dân và mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc, góp phần phát triển sự đoàn kết giai cấp vô sản quốc tế và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới cùng chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc, thực dân.


Tư tưởng cách mạng bạo lực theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin là một nội dung cơ bản trong tư tưởng quân sự của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tư tưởng cách mạng bạo lực của Người thống nhất biện chứng với chủ nghĩa nhân văn Việt Nam, không đối lập với tinh thần yêu chuộng hòa bình, xa lạ với các xu hướng phiêu lưu, manh động, khủng bố cá nhân. Việc Nguyễn Ái Quốc khẳng định cách mạng thuộc địa phải giữ vững chủ động, muốn giết con đỉa chủ nghĩa tư bản phản động phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó bằng bạo lực cách mạng không những cổ vũ nhân dân đứng lên chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù, mà còn là một trong những cơ sở tư tưởng cho đường lối và phương pháp cách mạng Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #48 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2021, 07:10:15 pm »

3. Khởi nghĩa vũ trang phải được chuẩn bị trong quần chúng; huấn luyện "dân khí mạnh" để giành thắng lợi trong đấu tranh cách mạng

Từ năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đã lưu ý các nhà cách mạng ở các nước thuộc địa rằng: "Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy (phải làm gì để giải phóng đất nước - TG) một cách máy móc. Điều đó tùy hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.209). Đối với Nguyễn Ái Quốc, Người quyết định trở về nước, đi vào quần chúng "thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.209), thực hiện ở Việt Nam một cuộc cách mạng "đến nơi". Quyết định đó là sáng suốt, vừa phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng trong lịch sử, vừa phù hợp với thực tiễn tình hình ở Đông Dương, nơi mà quần chúng mặc dù bị áp bức, bị đầu độc, nhưng tư tưởng cách mạng không bị tê liệt và đang giấu một sức mạnh to lớn và "sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.40).


Giữa năm 1923, từ nước Pháp, Người sang Liên Xô, quê hương của Cách mạng Tháng Mười. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc dành thời gian nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười, chế độ Xôviết, nghiên cứu thêm về lý luận tổ chức xây dựng Đảng và đúc kết những kinh nghiệm hoạt động lý luận và thực tiễn trong thời gian ở Pháp. Quan tâm đến phong trào công nhân quốc tế, Người viết một loạt bài báo về chủ đề này, tiêu biểu là các bài Phong trào công nhân Nhật Bản (9-11-1923), Phong trào công nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ (1-1-1924), Phong trào công nhân ở Viễn Đông (25-1- 1924) và Đoàn kết giai cấp (5-1924). Nội dung chủ yếu những bài viết đó phản ánh phong trào công nhân các nước vùng dậy đấu tranh chống ách áp bức của giối chủ và ngoại bang ở mức độ khác nhau. Nguyễn Ái Quốc nhận định rằng: Sau khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, giai cấp vô sản "bắt đầu được tổ chức một cách chặt chẽ"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.236), do đó, họ thu được một số thắng lợi trong các cuộc đình công. Tận mắt chứng kiến sự ủng hộ của cách mạng Nga đối với phong trào giải phóng thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc viết bài Cách mạng Nga và các dân tộc thuộc địa, khẳng định rằng cách mạng Nga không vừa lòng với những bài diễn văn rỗng tuếch đối với các dân tộc bị áp bức, mà cách mạng Nga đã dạy cho họ đấu tranh, giúp đỡ họ một cách thiết thực. Biểu hiện là cách mạng Nga đã triệu tập Đại hội Ba Cu, có 21 dân tộc phương Đông cử đại biểu đến dự. Tại đại hội, giai cấp vô sản phương Tây và phương Đông đã "thân mật nắm tay nhau và cùng nhau tìm cách đấu tranh có hiệu quả chống chủ nghĩa tư bản là kẻ thù chung của họ"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.320). Sau đó, nước Nga còn thành lập Trường Đại học Phương Đông nhằm huấn luyện cho các chiến sĩ tiên phong nguyên lý đấu tranh, "làm cho các dân tộc thuộc địa - từ trước đến nay rời rạc với nhau - hiếu biết nhau, và đoàn kết với nhau..."2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.324).


Thực tiễn sinh động của phong trào công nhân ở các nước thuộc địa, phụ thuộc và thực tiễn nhân dân lao động nước Nga kiên cường vượt mọi khó khăn để xây dựng chế độ mới, hết lòng ủng hộ cách mạng thuộc địa đã làm phong phú thêm những cứ liệu để Nguyễn Ái Quốc khái quát thành lý luận phổ biến đến nhân dân các nước thuộc địa, trong đó có nhân dân Việt Nam về những nhân tố cơ bản bảo đảm cho cuộc cách mạng giải phóng ở thuộc địa thắng lợi.


Sau khi xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là đi theo con đường cách mạng vô sản, thì vấn đề tiếp theo là xác định phương pháp cách mạng. Đây cũng là vấn đề quan trọng bởi trong thực tế lịch sử, có khi xác định phương hướng đúng, nhưng phương pháp sai nên cách mạng không phát triển đi đến thành công. Để xác định phương pháp cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đọc nhiều tác phẩm lý luận. Người đặc biệt lưu ý đến kết luận của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, cho rằng đó là quy luật phổ biến của cách mạng và nó có thể diễn ra bằng khởi nghĩa vũ trang, bằng chiến tranh cách mạng hoặc kết hợp giữa hai hình thức đó. Người nghiên cứu những quy tắc và nghệ thuật khởi nghĩa được khái quát sâu sắc trong các tác phẩm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, đồng thời nghiên cứu các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra trong thực tiễn như: khởi nghĩa ở nước Nga năm 1917, khởi nghĩa Thái Nguyên (Việt Nam) cũng như các cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đahômây, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ. Qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định phương pháp cách mạng ở các nước thuộc địa thông qua việc khẳng định vị trí, vai trò của khởi nghĩa vũ trang trong tiến trình đấu tranh cách mạng. Người xác định công cuộc giải phóng Việt Nam phải bằng khởi nghĩa vũ trang và đây là một phương thức cơ bản để giành chính quyền thông qua việc lật đổ hệ thống chính quyền thực dân, chứ không phải bằng con đường cải cách dần, một cuộc đảo chính giản đơn hoặc một cuộc cách mạng từ trên dội xuống.


Sau khi đã nêu lên những quan điểm cơ bản về phương hướng chiến lược, phương pháp cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, vấn đề đặt ra là phải thành lập một đảng tiên phong để lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành chính quyền trong cả nước, tiến lên giành những thắng lợi mới trong các giai đoạn tiếp theo.


Thực hiện ý định đó, cuối năm 1924, Người rời Liên Xô sang Trung Quốc hoạt động. Ngày 11-11-1924, Người tới Quảng Châu. Trách nhiệm của Người trong thời gian này là thực hiện nhiệm vụ Quốc tế Cộng sản giao phó là xây dựng phong trào công nhân ở Đông Nam Á và thực hiện nhiệm vụ Quốc tế Nông dân phân công là xây dựng phong trào nông dân ở châu Á, nơi nông dân chiếm phần lớn trong cư dân. Ngoài hai nhiệm vụ đó, Người tự đặt ra nhiệm vụ truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, trước mắt là mở lớp huấn luyện cho những thanh niên đang có mặt ở Quảng Châu về con đường giải phóng dân tộc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ kết quả đào tạo, sẽ lập ra một tổ chức cách mạng của thanh niên, chọn lọc những người ưu tú làm hạt nhân, chuẩn bị các nhân tố tiến tới thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam.


Đến Quảng Châu hoạt động, qua trao đổi thư từ do Hồ Tùng Mậu chuyển, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu ý kiến về đường lối hoạt động của Phan Bội Châu, hướng các hoạt động đó vào con đường cách mạng vô sản. Khâm phục và tin tưởng Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu đã giao cho Người các đầu mối cơ sở của Cụ. Ngày 18-12-1924, trong một bức thư gửi Chủ tịch Đoàn Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc viết: "Tôi đã gặp tại đây vài ba nhà cách mạng quốc gia An Nam, trong số này có một người đã xa rời xứ sở từ ba mươi năm nay... Ông không hiểu chính trị, và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng. Trong các cuộc thảo luận, tôi đã giải thích cho ông hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô ích của những hành động không cơ sở. Ông đã đồng ý... Ông đã đưa cho tôi một bản danh sách 10 người An Nam đã cùng ông hoạt động bấy lâu"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.9). Mười người đó chính là những thanh niên đầu tiên trong Tâm Tâm xã, trong đó có Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, v.v.. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cần phải triển khai công tác tổ chức, hình thành một nhóm trung kiên để hoạt động. Do đó, Người đã thành lập một nhóm cách mạng đầu tiên gồm chín người. Trong nhóm đó, Người đã kết nạp được năm đảng viên dự bị. Người phái hai người về nước hoạt động, ba người ra tiền tuyến hoạt động trong quân đội của Chính phủ Tôn Dật Tiên.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #49 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2021, 07:11:35 pm »

Tháng 6-1925, từ nhóm cách mạng đầu tiên đó, Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hạt nhân lãnh đạo là những người cộng sản. Nhiệm vụ trước mắt của những người cộng sản trong hội này là phải tiến hành đấu tranh tư tưởng nhằm chống chủ nghĩa cải lương, đồng thời phê phán khuynh hướng cách mạng nửa vời của giai cấp tiểu tư sản, giải thích cho quần chúng hiểu và phân biệt được tư tưởng cách mạng và tư tưởng cải lương, cách mạng chân chính triệt để và cách mạng không triệt để, đưa đón thanh niên Việt Nam yêu nước đến Quảng Châu dự các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ. Dựa vào các đường dây của Tâm Tâm xã, Nguyễn Ái Quốc khai thác và sử dụng các trạm giao thông đưa người xuất dương đã hình thành từ thời các phong trào Cần Vương, Đông du1 (Xem Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (1924-1927), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.53). Người đã báo cáo với Quốc tế Cộng sản: "Chúng tôi có tại Xiêm một trạm - cơ sở (để đưa đón người ra vào) khá vững, ở đó có chừng 50 người... Những việc chúng tôi phải làm trong năm nay: a) Thiết lập một cơ sở hoạt động tại Quảng Châu, b) Thiết lập những cơ sở giao thông... c) Phái một đồng chí về ở trong nước để thu thập và chuyển tin tức. d) Phái một hoặc nhiều đồng chí làm việc trên các tàu thủy đi lại giữa Trung Quốc và Đông Dương... e) Gửi sinh viên An Nam sang học Trường đại học cộng sản ở Mátxcơva"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.152-153).


Báo cáo đó cho thấy rằng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc rất coi trọng công tác giao thông liên lạc; mặt khác cho thấy rõ hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không phải đóng khung trong tỉnh Quảng Châu mà địa bàn hoạt động rất rộng, có mối liên hệ chặt chẽ với trong nước.


Hoạt động ở Quảng Châu thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc tranh thủ tối đa các điều kiện thuận lợi khác. Đó là tháng 1-1924, Đại hội Quốc dân Đảng Trung Quốc thông qua nghị quyết mời cố vấn quân sự Xôviết đến giảng dạy và chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang theo mẫu hình Hồng quân Liên Xô; kế đó, quyết định xây dựng Trường Quân sự Hoàng Phố để đào tạo đội ngũ sĩ quan khung và giúp đỡ các nước láng giềng trong việc huấn luyện đào tạo cán bộ. Hướng tới việc xây dựng quân đội của cách mạng Việt Nam trong tương lai, Nguyễn Ái Quốc cử nhiều cán bộ đi học quân sự ở Trường Quân sự Hoàng Phố. Theo thống kê chưa đầy đủ, có khoảng hai mươi học viên Việt Nam theo học ở Trường Quân sự Hoàng Phố. Tại đây, các học viên được học những kiến thức quân sự cơ bản theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh hiện đại, về nghệ thuật quân sự, về những nguyên lý xây dựng quân đội và kinh nghiệm tác chiến trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau của quá trình đấu tranh quân sự.


Bên cạnh cử cán bộ đi học ở Trường Quân sự Hoàng Phố, Nguyễn Ái Quốc còn lập Trường Huấn luyện chính trị. Người là giảng viên chính và là người lãnh đạo các khóa huấn luyện. Từ đầu năm 1926 đến tháng 4-1927, tại ngôi nhà 13-13B đường Văn Minh, Người đã trực tiếp mở ba khóa học gồm 75 học viên. Nếu tính cả các khóa huấn luyện khác mà Người không trực tiếp giảng dạy (vì sau đó Người đã trở lại Liên Xô) thì có khoảng 200 người đã tham gia học tập tại đây. Số cán bộ học tại đây được trang bị kiến thức cơ bản về chính trị và quân sự, họ là vốn quý của cách mạng Việt Nam, là vốn ban đầu để xây dựng quân đội cách mạng sau này.


Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại Trường Huấn luyện chính trị Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông tập hợp lại, in thành cuốn sách nhan đề Đường cách mệnh (1927). Tác phẩm Đường cách mệnh đã tổng kết kinh nghiệm nhiều cuộc cách mạng điển hình trên thế giới (Mỹ, Anh, Pháp...) và Cách mạng Tháng Mười Nga, từ đó giải đáp những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tác phẩm nhận định: Cách mạng Pháp và Cách mạng Mỹ là những cuộc cách mạng "chưa phải là cách mệnh đến nơi"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.292) vì chưa giải phóng cho quần chúng lao động. Cách mạng Nga là một cuộc cách mạng "đã thành công, và thành công đến nơi"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.304), nghĩa là dân chúng được hưởng hạnh phúc, tự do, bình đẳng. Cách mạng Nga sau khi "đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.304). Đường cách mệnh chỉ rõ: cách mạng Việt Nam trước hết là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc này có quan hệ mật thiết với cách mạng giải phóng giai cấp đánh đuổi bọn tư bản, địa chủ, giải phóng cho giai cấp công, nông. Bởi vậy, cách mạng Việt Nam phải là cuộc "cách mệnh đến nơi". Người viết: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc"4 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.292).


Tác phẩm Đường cách mệnh khái quát những vấn đề then chốt nhất để thực hiện cuộc "cách mệnh đến nơi". Đó là phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin, phải có Đảng "vững bền", phải lấy "dân chúng (công nông) làm gốc", thực hiện đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, cùng giúp đỡ nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Tác phẩm Đường cách mệnh khẳng định phương pháp cách mạng Việt Nam là sử dụng bạo lực cách mạng bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, bằng hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang thích hợp chống lại bạo lực phản cách mạng. Trong cuộc đấu tranh đó, quần chúng nhân dân có vai trò to lớn. "Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.283). Tác phẩm chỉ rõ: "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.297). Tác phẩm phê phán mọi hành động cực đoan, làm liều, ám sát cá nhân, và cho rằng "ám sát là làm liều, và kết quả ít"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.299).


Tác phẩm Đường cách mệnh xác định động lực cách mạng: "Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5, 7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan mà được"4 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.299); "công nông là gốc cách mệnh: còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn của cách mệnh công nông"5 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.288). Tác phẩm giới thiệu những bài học kinh nghiệm của cách mạng Nga, từ đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị; từ bãi công đến tổng bãi công tiến lên khởi nghĩa vũ trang; nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Tác phẩm còn cổ vũ các chiến sĩ cách mạng và quần chúng tấm gương của nhân dân Pháp trong cuộc cách mạng tư sản. "Dân Pháp tuy lương thực ít, súng ống thiếu, nhưng chỉ nhờ gan cách mệnh mà trong dẹp nội loạn, ngoài phá cường quyền. Hồi ấy lính cách mệnh gọi là "lính không quần", người không có nón, kẻ không có giày, áo rách quần tua, mặt gầy bụng đói. Thế mà lính ấy đến đâu, thì lính ngoại quốc thua đấy, vì họ gan liều hy sinh quá, không ai chống nổi"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.294). Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người còn đề cao tinh thần độc lập, tự lực, chủ động, sáng tạo trong cách mạng: "Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.320).


Như vậy, tác phẩm Đường cách mệnh đề cập đến nhiều vấn đề then chốt của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng bao trùm là thực hiện ở Việt Nam cuộc cách mạng "đến nơi" với mục tiêu độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó cũng là mục tiêu của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, gan cứu nước với cứu dân, giải phóng Tổ quốc và xây dựng chế độ mới tốt đẹp. Quan điểm quân sự là phát huy sức mạnh toàn dân Việt Nam, làm cho "dân khí" mạnh để tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc. Quan điểm quân sự đó cho phối mọi hoạt động quân sự sau này, có dân thì có tất cả, "xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.502).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM