TỈNH ĐỘI TRƯỞNG VÙNG ĐỊCH HẬU
LÊ HOÀI THAO
Cuối năm 1949, đầu năm 1950, tĩnh Hưng Yên chìm trong bóng đêm của giặc. Quân Pháp chiếm đóng và biến thành sân sau của chúng toàn bộ 9 huyện thị. Bọn phản động đầu hàng chạy ra ôm chân giặc. Những tên cường hào, ác bá thâm thù cách mạng ngo ngoe ngóc đâu dậy. Lũ tề ngụy xin súng Tây về trang bị, xây bốt, lập đồn, khống chế o ép nhân dân, bắt giết cán bộ và những người đân yêu nước có cảm tình với kháng chiến. Nhiều cán bộ chủ chốt của tỉnh và huyện bị địch bắt đem thủ tiêu. Một số cán bộ kiên trì cách mạng phải bật đi nơi khác, thỉnh thoảng mới "vọt cần câu" về hoạt động chớp nhoáng rồi lại vội vã, khẩn trương đi ngay hoặc phải nằm hầm bí mật ngoài đồng, ngoài bãi hoang... Một số khác với lý do này nọ, hoặc sợ địch khủng bố nên nằm im, cầu an, thậm chí có kẻ đã đầu hàng giặc, khai báo với địch rồi làm tay sai cho chúng. Phong trào kháng chiến của Hưng Yên lâm vào tình trạng cực kỳ khó khăn. Không khí chính trị vùng địch hậu vô cùng ngột ngạt.
Hồ Quí Thoa, Tỉnh ủy viên phụ trách công tác quân sự trăn trở đứng ngồi không yên, ngày đêm vắt óc ra suy nghĩ đặng tìm ra kế sách đấu tranh chống lại thế mạnh tạm thời của địch, giữ vững và mở rộng địa bàn hoạt động, tiêu diệt và từng bước dẩy lùi quấn giặc. Biết rằng muốn tống chúng đi không có cách nào khác là phải đánh, đánh thật mạnh, đánh chúng ở khắp nơi, đánh cả ban ngày, đánh cả ban đêm, cả quân và dân cùng đánh. Nhưng đánh thế nào đây?
- Phục kích, gài mìn, quấy rối địch ư? Hình thức này may lắm chỉ diệt được bộ phận nhỏ sinh lực địch chứ không làm cho chúng co lại, không có tác dụng phát triển cơ sở.
- Chống càn quét ư? Càn và chống càn là quy luật tất yếu trong đấu tranh quân sự vùng địch hậu. Nhưng trong hoàn cảnh cả tỉnh đã nằm sâu trong vùng địch hậu thì khó có thể tránh đòn khủng bố, trả đũa tàn bạo của kẻ thù.
- Triệt phá tháp canh, hương đồn ư? Việc này là cần thiết nhưng đánh là phải chắc thắng, phải giữ và mở rộng được cơ sở cả về chính trị và quân sự, muốn vậy phải làm sao có thể công phá được lô cốt, làm sao có thể đánh chặn và diệt quân ứng viện của địch?
Những câu hỏi ấy cứ lởn vởn trong đầu mà mãi anh vẫn chưa tìm được lời giải đáp. Cho đến sau chiến thắng Biên Giới Thu Đông năm 1950, được đi dự tổng kết chiến dịch vĩ đại này, từ đó anh đã tìm ra chìa khóa để mở tung những suy tư lâu nay. Cũng vừa may khi anh vê tới "nhà" thì cũng là lúc Tỉnh ủy mở hội nghị lịch sử đánh giá lại phong trào của tỉnh, chỉ ra phương hướng biện pháp đấu tranh nhằm củng cố, mở rộng cơ sở phù hợp với suy nghĩ của mình, tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy đối với công tác quân sự. Trước đây chỉ phân công một ủy viên phụ trách thì nay phân công ba người. Bí thư Tỉnh ủy Vũ Thơ làm chính trị viên. Đồng chí Phúc (Kiên) làm chính trị viên phó. Còn anh, từ chính trị viên chuyển sang làm tỉnh đội trưởng. Để giữ bí mật trong hoạt động, ngay sau việc phân công mới này, tháng 1 năm 1950, anh mang tên Võ An Đông để kỷ niệm quê gốc anh ở Hà Đông, hoạt động quân sự (võ) ở Hưng Yên (an).
Từ tinh thần của Nghị quyết Tỉnh ủy và những tri thức quan trọng về mặt quân sự tiếp thu được ở hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới, tỉnh đội trưởng Võ An Đông như được tiếp thêm sức mạnh. Anh hăng hái lao vào cuộc chiến đấu đang tiếp diễn ngày một gay cấn và ác liệt với quyết tâm và niềm tin mới.
Vốn xuất thân từ một sinh viên đại học, tham gia Cách mạng từ trước khi nổ ra cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Sau khi cướp chính quyền, anh làm Chủ tịch UBND cách mạng huyện Thanh Oai - Hà Đông. Năm 1946, anh sang làm Chủ tịch rồi Bí thư huyện ủy Yên Mỹ. Đến tháng 3 năm 1949, anh được cử vào Tỉnh ủy, phụ trách công tác quân sự. Đã kinh qua công tác phong trào ở cơ sở nên anh rất hiểu những khó khăn, thuận lợi, những đặc điểm làng quê Việt Nam. Do đó, trong công tác quân sự địa phương, anh đã vận dụng nó vào chiến thuật đánh địch rất có hiệu quả.
Trong thời kỳ này, địch vẫn chiếm ưu thế về mặt quân sự. Binh đoàn số 3 (GM3) đóng quân trên địa bàn tỉnh. Tại thị xã có phân khu (Sous secteur). Mỗi huyện có một đại đội (Quartier). Một số vị trí tề có một trung đội. Cuối cùng là hệ thống hương - tổng dũng. Tất cả tạo thành hệ thống chiếm đóng hoàn chỉnh. Bức tranh quân sự xám xịt này không khỏi làm cho vị chỉ huy quân sự tỉnh đội băn khoăn "làm thế nào để phá được thế bị kìm kẹp này".
Nghĩ đến toàn cục, sau chiến thắng Biên Giới, hình thái chiến tranh đã nghiêng về phía có lợi cho ta. Phần mình đã có nghị quyết Tỉnh ủy (12-1950) soi sáng, bộ đội tỉnh và huyện dần dần được bổ sung thêm vũ khí, trang bị cả về kiến thức quân sự và chiến thuật đánh địch, anh yên tâm, tin vào triển vọng tốt của cuộc chiến đấu mà anh chịu trách nhiệm trước Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Bằng việc đánh giá đúng đối tượng tác chiến, khả năng và trình độ chiến đấu của bộ đội tỉnh và huyện, đề ra phương án chuẩn xác, anh đã chỉ huy các đơn vị được sự phối hợp của E42 thời kỳ đầu, bắt đầu từ 31 tháng 3 năm 1951 trở đi cho đến cuối tháng 12 năm ấy, trong 8 tháng liên tục, lần lượt nhổ hết bốt hương dũng này đến tháp canh hương đồn khác thuộc tất cả 7 huyện phía nam đường số 5, giải phóng hàng chục ngàn dân, mở thêm hàng chục khu du kích, phát triển nhiều cơ sở kháng chiến. Ta đã chuyển thế cờ từ bị địch bao vây, o ép sang thế chủ động tấn công, chia cắt, bao vây lại chúng, biến hậu phương của chúng thành tiền phương của ta. Càng đánh, càng thắng, càng trưởng thành, quân và dân Hưng Yên như có một sinh lực mới có thể hoạt động vững vàng ở bất cứ chỗ nào trên địa bàn tỉnh. Từ đánh thắng bọn hương dũng, diệt quân ứng viện, tiến tới đánh thắng cả quân cơ động chiến lược của địch (GM), phá tan nhiều cuộc hành quân càn quét qui mô lớn và vừa của chúng. Chẳng hạn như trận càn "Trái chanh" (Citron) ngày 25 tháng 9 năm 1951. Trận này, anh trực tiếp chỉ huy 4 đai đội (20 24, 27 và 30) cùng một đội đại độc lập tác chiến khác (C22 theo phương hướng chỉ đạo từ trước). Suốt một ngày quần nhau với giặc, ta kiên trì giữ vững từng tấc đất, ngoan cường đẩy lùi nhiều đợt xung phong của địch có phi pháo yểm trợ. Kết quả là địch bị thất bại thảm hại. Cả chết, bị thương và bị bắt làm tù binh 1.050 tên. Hoặc như trận càn của Secteur Gia Lâm với một trung đoàn hồi tháng 8 năm 1952 trận càn của Zone Hải Dương tháng 12 cùng năm, cả 3 trận chống càn, ta đã tiêu diệt hoàn toàn 3 đại đội, bắt sống 112 tên giặc.
Sự trưởng thành của bộ đội Hưng Yên là kết quả của quá trình sáng tạo, tư duy quân sự và nghệ thuật tổ chức, chỉ huy chiến đấu, tinh thần công kích đầy dũng cảm và khôn khéo mà người chỉ huy cao nhất có vai trò vô cùng quan trọng. Từ những trận chống càn giành được thắng lợi đáng ghi nhớ, tiến tới chủ động tấn công căn cứ hậu phương, tập kích các vị trí lớn của địch như đêm 10 tháng 5 năm 1953, diệt căn cứ hậu phương GM3 ở Bần Yên Phú, có 1 đại đội bộ binh phòng thủ, cùng với đội quân hậu cần của chúng, tổng cộng tới 300 tên. Trước khi đánh trận này, Tỉnh đội trưởng Võ An Đông đã dẫn đầu một tổ trinh sát vào điều tra sự bố phòng của địch. Ta đã tiêu diệt gọn hoàn toàn vị trí này, thu toàn bộ quân trang quân dụng, bắt sống nhiều tù binh. Thắng lợi quan trọng này có ý nghĩa lớn. Nó trở thành mô hình cho các trận đánh tiếp theo. Đêm 19-6-1953 anh đã trực tiếp chỉ huy đại đội 25 của tỉnh do Phạm Du làm đại đội trưởng tập kích vị trí bảo an quân hành chính Khoái Châu. Kế tiếp với lối đánh đặc sắc thường gọi là chiến thuật "sờ" là những trận đánh vang dội như Vân Trì, Thiết Trụ, Dị Sử, v.v...
Bộ đội Hưng Yên còn đánh hàng chục trận, như thế dưới sự chỉ huy hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp của Tỉnh đội trưởng Võ An Đông, giành được thắng lợi trọn vẹn cho đến ngày chiến tranh kết thúc tháng 7-1954. Hiểu rõ công lao anh, tháng 2-1952 Bí thư Liên Khu ủy 3 Lê Thanh Nghị đã gửi thư khen ngợi đích danh anh và ngay trong khói lửa chiến tranh năm 1953, Bộ Quốc phòng đã tặng anh Huân chương Chiến công hạng nhất. Có một bài thơ ca ngợi anh thế này:
Ngày vui, thơ viết tặng anh
Hưng Yên thuở ấy, lừng danh người tài
Chỉ huy đánh giặc tuyệt vời
Làm cho giặc Pháp rụng rời hãi kinh
Chiến lược, chiến thuật tài tỉnh...
Sau hiệp định Geneve, đất nước chuyển giai đoạn, tỉnh đội trưởng Võ An Đông cũng chuyển vị trí công tác. Tại Ủy ban liên hợp đình chiến Bắc Bộ anh tham gia, chuẩn bị bản hiệp định sẽ ký kết và tiếp quản khu 300 ngày mà trọng tâm là thành phố Hải Phòng, anh được cử làm Thành đội trưởng Hải Phòng, chỉ huy đoàn quân tiền vệ, vào trước thành phố trực tiếp giao dịch với Pháp để tiếp nhận các cơ sở quân sự và các công trình lợí ích khác.
Tháng 8-1972, anh được chỉ định làm Tư lệnh thành phố Hải Phòng. Khi giặc Mỹ cho máy bay đánh phá thành phố, anh đã trực tiếp chỉ huy bộ đội đánh trả chúng quyết liệt suốt 12 ngày đêm liên.
Khi non sông liền một dải, anh cùng tập thể có sáng kiến thành lập câu lạc bộ "Trung dũng - quyết thắng" tập hợp các sĩ quan về nghỉ hưu tại Hải Phòng, mà lúc đó trong cả nước chưa nơi nào tiến hành. Anh còn để nhiều tâm trí vào xây dựng nếp sống quân sự trong các nhà trường phổ thông và đại học. Đặc biệt là xây dựng một số công trình kết hợp với kinh tế và quốc phòng. Nổi bật nhất là công trình lấn biển đường 14 (Hải Phòng đi Đồ Sơn) và đường xuyên đảo...
Năm 1986, anh nghỉ hưu giữa lúc anh vừa tròn 64 tuổi. Tiếng là thế nhưng anh vẫn bận rộn với công việc đời thường, tham gia Hội khoa học lịch sử thành phố, các câu lạc bộ, Ban liên lạc đồng đội Hải Dương - Hưng Yên, Ban liên lạc vũ trang Hải Phòng, Trung đoàn 42 và viết hồi ký - công việc đầy hứng thú của những người có tâm huyết.