Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:42:59 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Quân dân Phú Yên góp phần quyết định đánh bại cuộc hành quân Átlăng...  (Đọc 3989 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #10 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 08:04:52 pm »

II. TÌNH HÌNH CHIẾN TRƯỜNG CẢ NƯỚC VÀ CHỦ TRƯƠNG
CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, BỘ TỔNG TƯ LỆNH TRONG ĐÔNG XUÂN 1953-1954

Sau thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược quan trọng ở Thượng Lào (4-1953), quyền chủ động chiến lược của, ta không còn bó hẹp trong phạm vi chiến trường Bắc Bộ nữa, mà đã mở rộng ra toàn bộ chiến trường Bắc Đông Dương. Trong khi Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh đang chuẩn bị xây dựng kế hoạch tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 thì vào cuối tháng 8 năm 1953, ta đã nắm được những nội dung cơ bản của Kế hoạch Nava. Trên cơ sở đó, trong Đề án trình Bộ Chính trị ngày 20 tháng 8 năm 1953, Tổng Quân ủy đã đề đạt chủ trương chiến lược và phương hướng tác chiến trong Thu Đông 1953 nhằm phá âm mưu địch, làm thất bại một bước kế hoạch Nava. Tổng Quân ủy nhận định: hiện ta chưa có điều kiện để tác chiến lớn ở đồng bằng, nên nhiệm vụ trước mắt là phá âm mưu tập trung binh lực và bình định đồng bằng của địch. Để tạo điều kiện cho tác chiến tương đối lớn của bộ đội chủ lực, cần tăng cường hoạt động ở Thượng Lào và các chiến trường khác để phân tán chủ lực của địch. Cuối tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Tỉn Keo, thôn Lục Giã, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn nhiệm vụ quân sự trong Đông Xuân 1953-1954. Vấn đề nổi lên trong chỉ đạo chiến lược là làm sao phân tán được khối chủ lực cơ động chiến lược của địch. Khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình, “đôi mắt Hồ Chủ tịch chợt lộ vẻ chăm chú. Bàn tay Người đặt trên bàn bỗng giơ lên rồi nắm lại. Người nói: Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh. Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh ấy không còn. Bàn tay Bác mở ra, mỗi ngón tay chỉ về một hướng”(1).

Thực hiện phương châm “Tích cực - Chủ động - Cơ động - Linh hoạt” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị xác định, trên cơ sở thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện đã được xây dựng trong suốt 8 năm kháng chiến trên khắp các chiến trường, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định sử dụng lực lượng mở các chiến dịch tiến công vào những hướng chiến lược địch tương đối yếu, sơ hở, nhưng vì quan trọng nên chúng không thể bỏ, buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động chiến lược để đối phó, tạo thời cơ cho ta tập trung lực lượng tiêu diệt địch trên các hướng có lợi nhất; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở các vùng đồng bằng sau lưng địch, tranh thủ cơ hội tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch nếu chúng đánh vào vùng tự do của ta.

Chủ trương này nhằm giữ vững và phát huy quyền chủ động chiến lược, khoét sâu mâu thuẫn cơ bản của đội quân xâm lược là mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực, để tạo nên thế trận mới, thời cơ mới. Và khi thời cơ xuất hiện, ta sẽ nhanh chóng tập trung lực lượng, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh. Như vậy, âm mưu tập trung binh lực của thực dân Pháp sẽ bị phá vỡ, kế hoạch Na va sẽ thất bại vì không có đủ lực lượng cơ động cần thiết để thực hiện tổng giao chiến với chủ lực ta như dự kiến.

Triển khai chủ trương tác chiến Đông Xuân 1953-1954, nhằm mục đích phân tán khối cơ động chiến lược của quân Pháp, Tổng Quân ủy và Bộ Chính trị xác định Tây Bắc là hướng chính để mở chiến dịch tiến công trong Thu Đông. Tại Hội nghị Bộ Chính trị họp ở Tỉn Keo, Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: “Hướng chính (Tây Bắc) hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hóa...”(2).

Trung tuần tháng 11 năm 1953, Đại đoàn 316 hành quân lên Tây Bắc nhằm giải phóng Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc, uy hiếp vùng chiếm đóng của Pháp ở Thượng Lào. Bất ngờ trước cuộc tiến quân của chủ lực ta lên Tây Bắc, Bộ chỉ huy Pháp vội vã điều lực lượng cơ động (vốn chưa được xây dựng đầy đủ), nhảy dù xuống chiếm Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành tập đoàn cứ điểm nhằm bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào và thu hút chủ lực ta đến để tiêu diệt. Từ ngày 3 tháng 12 năm 1953, với việc “chấp nhận cuộc giao tranh ở Tây Bắc... quyết bảo vệ Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào”(3), Nava đã tự phá đi kế hoạch ban đầu của chính ông ta. Điều lý thú là, trong kế hoạch Nava cũng như đề án tác chiến ban đầu của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chưa hề có ba chữ Điện Biên Phủ. Thắng lợi của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử chính là kết quả của sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng suốt, tài tình của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đứng đầu, bắt đầu từ Hội nghị Bộ Chính trị ở Tỉn Keo tháng 9 năm 1953.


(1) Võ Nguyên Giáp, Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi - Ban KHXH, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1991, tr. 75.
(2) Võ Nguyên Giáp, Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi..., Sđd, tr.75.
(3) Dẫn theo Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung, Nxb Đà Nẵng, 1996, tr.30.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #11 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 08:06:57 pm »

Như vậy là, từ chỗ không có trong kế hoạch Na va, Điện Biên Phủ, một cách không tự giác, dần trở thành điểm trung tâm của kế hoạch Nava và là nơi đầu tiên phân tán một bộ phận quan trọng binh lực địch, từ nhiệm vụ cơ động tiến công chuyển sang nhiệm vụ chốt giữ, phòng thủ. Thực hiện phương châm “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”, Bộ Tổng Tư lệnh nhanh chóng điều động các đại đoàn chủ lực đang đứng chân ở khu vực trung du Bắc Bộ, hành quân lên Điện Biên Phủ, chuẩn bị cho trận đánh lớn. Quân Pháp ở Lai Châu, trước sức uy hiếp của ta đã phải rút chạy
về Điện Biên Phủ đầu tháng 12 năm 1953.

Tiếp theo, từ ngày 20 tháng 12 năm 1953, Bộ Tổng Tư lệnh điều một bộ phận chủ lực, phối hợp với quân giải phóng Pathét Lào đánh địch ở Thàkhẹt (Trung Lào). Bộ chỉ huy Pháp bị động đối phó bằng cách đưa 5 tiểu đoàn cơ động từ Bắc Bộ sang, xây dựng một cãn cứ không - bộ kiểu tập đoàn cứ điểm ở Sênô để bảo vệ khu vực này.

Phát huy thắng lợi, chủ lực ta tiếp tục phối hợp với bạn Lào tiến công địch ở Hạ Lào, giải phóng thị xã Atôpơ và toàn bộ cao nguyên Bôlôven, buộc Bộ chỉ huy Pháp lại phải tung thêm 4 tiểu đoàn cơ động đến khu vực này và xây dựng một tập đoàn cứ điểm ở Pắc xế. Tổng chỉ huy Nava phải thừa nhận: “... đối phương vẫn bám lại, họ phân tán lực lượng, lợi dụng địa hình rừng núi, xâm nhập cả xuống phía nam, thường xuyên uy hiếp giao thông và có nguy cơ sẽ bóp nghẹt cả Trung Lào và Thượng Lào. Việc bảo vệ giao thông ở những khu vực này thu hút nhiều quân của ta (Pháp), do đó lại gây thiếu quân nghiêm trọng ở những nơi khác; xem xét theo quan điểm ấy, Việt Minh đã thu được một kết quả không thể chối cãi”(1).

Như vậy, không kể đồng bằng Bắc Bộ, Hạ Lào trở thành nơi phân tán khối cơ động chiến lược thứ ba của Pháp. Không những thế, bộ đội chủ lực Liên khu 5 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương mở chiến dịch tiến công lên bắc Tây Nguyên ngày 26 tháng 1 năm 1954, giải phóng thị xã Kon Tum và khu vực bắc Tây Nguyên, tiến xuống sát đường số 19 ở phía nam. Lúc này, Bộ chỉ huy Pháp đang mở cuộc hành quân Átlăng (bắt đầu từ ngày 20-1-1954) với lực lượng lớn đánh vào vùng tự do các tỉnh thuộc Liên khu 5, đã buộc phải huy động 11 tiểu đoàn từ Nam Bộ ra, từ Bình Trị Thiên vào, lập thêm hai tập đoàn cứ điểm ở An Khê và Plei Ku để đối phó với ta. Tây Nguyên trở thành nơi tập trung binh lực lớn thứ 4 của quân Pháp.

Trong thời gian bao vây chuẩn bị đánh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ theo phương châm tác chiến mới là “Đánh chắc, tiến chắc”, cuối tháng 1 tháng 1954, Bộ Tổng Tư lệnh lệnh cho Đại đoàn 308 từ Điện Biên Phủ tiến sang Thượng Lào, phối hợp với bộ đội Pathét Lào tiến công phòng tuyến địch ở khu vực sông Nậm Hu, đồng thời mở rộng địa bàn tác chiến, truy kích địch đến sát Luông Phabăng. Để bảo vệ kinh đô Luông Phabăng và các vị trí còn lại ở Thượng Lào, Bộ chỉ huy Pháp buộc phải đưa 5 tiểu đoàn tăng viện cho Luông Phabăng, 3 tiểu đoàn tăng viện cho Mường Sài, khiến cho Thượng Lào trở thành nơi tập trung binh lực lớn thứ 5 của quân Pháp trên toàn bộ chiến trường Đông Dương.

Như vậy, âm mưu xây dựng khối cơ động chiến lược tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ trong kế hoạch Nava đã bị phá sản chỉ trong một thời gian ngắn. Chủ trương hoạt động và nghệ thuật chỉ đạo tác chiến của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh trong Thu Đông 1953 và Đông Xuân 1953-1954 đã được thực tế kiểm nghiệm là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo và quyết đoán, đẩy kẻ địch lún sâu hơn nữa vào thế bị động phòng ngự. Bằng các hoạt động tác chiến liên tục, rộng khắp, ta đã khoét sâu mâu thuẫn vốn đã trầm trọng giữa tập trung và phân tán lực lượng của địch, tạo ra được thế trận mới có lợi để quyết định tiến hành trận đánh lớn nhất kể từ đầu cuộc chiến tranh tại Điện Biên Phủ, giành thắng lợi oanh liệt, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

Hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp cuối tháng 9 năm 1953 đã xác định nhiệm vụ cho quân và dân miền Trung và Nam Bộ là phải giành cho được địa bàn chiến lược Tây Nguyên, phá âm mưu bình định vùng tự do ở Liên khu 5 và miền Nam của địch.

Tháng 11 năm 1953, trong báo cáo trình lên Bộ Chính trị về “Tình hình địch, ta ở Nam Trung Bộ, chủ trương chiến lược và kế hoạch công tác quân sự của ta sắp tới” và được Bộ Chính trị thông qua, có nêu nhiệm vụ: “Trong Đông Xuân này, Liên khu 5 cần phải tập trung lực lượng tiến công lên Tây Nguyên”; “phát triển lên Tây Nguyên phải coi là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất”, “nhiệm vụ củng cố vùng tự do là nhiệm vụ quan trọng thứ hai”(2).


(1) H. Na va, Thời điểm của những sự thật, Sđd, tr.146.
(2) Khu 5 - 30 năm chiến tranh giải phóng, Tập 1: Kháng chiến chống thực dân Pháp, Bộ Tư lệnh Quân khu 5, xuất bản 1986, tr.223, 224, 225.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #12 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 08:09:31 pm »

Về kế hoạch tiến công lên Tây Nguyên, Tổng Quân ủy đề nghị “phải tập trung lực lượng quân sự, cán bộ, huy động nhân vật lực, tăng cường chỉ đạo để thực hiện nhiệm vụ phát triển...”(1).

Đối với nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do, cần xác định: “Củng cố vùng tự do hiện có sẵn là quan trọng. Vì có giữ được vùng tự do thì mới có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển vào Tây Nguyên, cho nên phải ráo riết tăng cường lực lượng địa phương và dân quân du kích, tăng cường việc tiễu phỉ trừ gian để bảo vệ vùng tự do”(2).

Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu 5 đã quán triệt sâu sắc chủ trương, kế hoạch tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 và vận dụng thực hiện sáng tạo sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh trên địa bàn Liên khu.

Trên cơ sở các chỉ thị, mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh, Liên khu ủy và Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Liên khu 5 đã triệu tập cuộc họp vào đầu tháng 12 năm 1953. Theo đó, Bộ Tư lệnh Liên khu quyết định toàn bộ chủ lực được tập trung cho nhiệm vụ tiến công lên Tây Nguyên. Kế hoạch tiến công phải chu đáo, cụ thể, tiến hành từng bước. Phải nắm chắc địch, nắm chắc ta, dự kiến mọi tình huống có thể xảy ra, đánh chắc thắng và thắng ngay từ trận đầu, kiên quyết đạt cho được mục tiêu đề ra. Nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do được giao cho lực lượng địa phương. Trước mắt, khẩn trương xây dựng lực lượng, xây dựng làng chiến đấu, nghiên cứu phương án tác chiến cho từng vùng. Địch đánh đến địa phương nào, địa phương đó tự đối phó, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận địch, kìm chân, không cho chúng nhanh chóng mở rộng phạm vi kiểm soát, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do địch gây ra. Địa phương nào địch chưa đánh đến, phải tích cực động viên nhân dân phục vụ tiền tuyến. Các chiến trường sau lưng địch tích cực đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá giao thông, bao vây đồn bốt, đánh sâu vào thị xã, thị trấn, gây rối loạn ngay trong sào huyệt địch; đẩy mạnh công tác binh vận, phá kế hoạch xây dựng ngụy binh của địch. Khi chủ lực ta đánh mạnh vào Tây Nguyên hoặc lúc địch đánh ra, vùng tự do, phải tổ chức các đợt hoạt động mạnh kìm giữ không cho địch rút lực lượng đi nơi khác; đồng thời, lợi dụng lúc địch sơ hở ra sức tiêu diệt sinh lực, mở rộng vùng du kích và vùng giải phóng(3).

Giữa tháng 12 năm 1953, kế hoạch tiến công lên Tây Nguyên của Bộ Tư lệnh Liên khu 5 được Bộ Tổng Tư lệnh, Tổng Quân ủy và Bộ Chính trị chính thức thông qua. Cuộc tiến công sẽ triển khai theo hai hướng: hướng chính bắc Kon Tum và hướng phối hợp đường 19 - An Khê. Đảng ủy và Ban chỉ huy chiến dịch được thành lập, do đồng chí Nguyễn Chánh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Liên khu ủy, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu là Tư lệnh kiêm Chính ủy, đồng thời là Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Hàng trăm cán bộ của cơ quan Liên khu ủy, Bộ Tư lệnh Liên khu, của các tỉnh, huyện được điều động về các địa phương làm nhiệm vụ huy động dân công phục vụ chiến dịch, đôn đốc việc xây dựng lực lượng, xây dựng làng chiến đấu, sẵn sàng đánh trả cuộc tiến công ra vùng tự do của địch.

Đúng thời gian này, Bộ chỉ huy Pháp một mặt tập trung xây dựng khối cơ động chiến lược để chuẩn bị cho đòn quân sự quyết định, mặt khác dồn một số binh đoàn cơ động vào miền Trung, triển khai kế hoạch mở cuộc hành quân đánh chiếm một số tỉnh thuộc vùng tự do Liên khu 5 như kế hoạch Nava đã dự liệu.

Cuộc hành quân Átlăng là một kế hoạch quy mô, sử dụng binh lực lớn nhất của thực dân Pháp kể từ đầu chiến tranh trên địa bàn các tỉnh Nam Trung Bộ. Đây cũng là kế hoạch mang tham vọng lớn nhất của thực dân Pháp không chỉ với khu vực chiến lược này mà còn ảnh hưởng tác động tới các chiến trường khác, đặc biệt là đỡ đòn cho mặt trận Điện Biên Phủ. Mặc dù vậy, cuộc hành quân Átlăng tuy có chủ động đề ra kế hoạch và thời gian mở màn nhưng nằm trong thế bị động lúng túng chung của thực dân Pháp.

Chấp hành triệt để sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh, Khu ủy, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức, chỉ huy quân và dân liên khu vừa triển khai đối phó với cuộc tiến công lớn của địch, đồng thời vẫn kiên quyết chủ động mở chiến dịch Bắc Tây Nguyên (đòn tiến công chiến lược thứ 4), phối hợp nhịp nhàng với các chiến trường cả nước. Theo chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tư lệnh Liên khu quyết định không rút các đơn vị chủ lực đang chuẩn bị mở chiến dịch Bắc Tây Nguyên về bảo vệ vùng tự do một cách thụ động. Nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam được giao cho bộ đội địa phương, dân quân du kích là chủ yếu, có sự hỗ trợ của một bộ phận nhỏ chủ lực của liên khu.

Chính do quán triệt sâu sắc chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, với tinh thần chủ động, tự lực, tự cường rất cao, quân dân Phú Yên đã góp phần rất quan trọng cùng quân và dân Liên khu 5 đánh bại hoàn toàn mưu đồ đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5 của địch vừa phân tán, kìm chân địch, tạo điều kiện cho mặt trận Điện Biên Phủ giành toàn thắng.


(1), (2) Bộ Tư lệnh Quân khu 5 - Khu 5 - 30 năm chiến tranh giải phóng, Sđd, tr. 225.
(3) Phú Yên - 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975) - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên xuất bản năm 1993, tr 130-131.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #13 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 08:14:43 pm »

Chương hai

CÙNG QUÂN DÂN LIÊN KHU 5 GÓP PHẦN QUYẾT ĐỊNH
ĐÁNH BẠI CUỘC HÀNH QUÂN ÁTLĂNG

I. QUÂN DÂN PHÚ YÊN CHUẨN BỊ
ĐỐI PHÓ CUỘC HÀNH QUÂN ÁTLĂNG

Sáng ngày 20 tháng 1 năm 1954, quân Pháp bắt đầu mở cuộc tiến công quy mô lớn chưa từng có ra vùng tự do của ta ở Phú Yên. Lực lượng địch huy động vào cuộc tiến công này gồm 20 tiểu đoàn của 4 binh đoàn cơ động số 10, 100, 41, 42 và 2 tiểu đoàn dù. Địch sử dụng hàng chục máy bay ném bom và nhiều trọng pháo từ tàu chiến bắn hàng nghìn quả lên thị xã Tuy Hoà, dọc quốc lộ 1, trước và trong quá trình bộ binh cơ giới của chúng tiến công.

Ngày 20 tháng 1, tại thị xã Tuy Hoà địch vừa cho quân đổ bộ lên phường 6(1), vừa cho 2 tiểu đoàn nhảy dù xuống sân bay (Chóp Chài).
 
Ở hướng nam, địch sử dụng binh đoàn số 10, có hàng trăm xe cơ giới và xe bọc thép dẫn đầu vượt đèo Cả đánh ra, ngày 27 tháng 1 liên lạc với cánh quân ở Tuy Hòa.

Ở hướng tây, ngày 25 tháng 1 địch sử dụng hai binh đoàn 41, 42 từ Cheo Reo theo đường số 7 tiến xuống Củng Sơn, ngày 27 tháng 1 hợp nhất với cánh quân ở Tuy Hòa.

Sau khi hợp điểm các cánh quân, địch bố trí ở mặt trận Tuy Hòa 9 tiểu đoàn, mặt trận Tây Phú Yên 11 tiểu đoàn(2).

Ngày 11 tháng 1 năm 1954, Tỉnh ủy Phú Yên họp hội nghị dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Vụ, Bí thư Tỉnh ủy để quán triệt sự chỉ đạo của Trung ương với chiến trường Liên khu 5 và Nghị quyết Hội nghị Liên khu ủy, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu 5, thông qua kế hoạch, phương châm, phương thức tác chiến của lực lượng vũ trang và nhiệm vụ của từng ngành, từng địa phương.

Tỉnh ủy đề ra phương châm chung là tích cực, chủ động, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân. Về tác chiến, các lực lượng vũ trang địa phương và du kích phải triệt để vận dụng chiến thuật du kích với phương châm “tích cực, chủ động, linh hoạt”. Hội nghị quán triệt, phổ biến 8 nội dung chính như sau:

Một là, phổ biến âm mưu và mục tiêu của cuộc hành quân Átlăng nhằm đánh chiếm lâu dài vùng tự do Liên khu 5 của thực dân Pháp, mở đầu tại Phú Yên (nhằm thực hiện giai đoạn 1 của kế hoạch Nava, kết thúc chiến tranh trong vòng 18 tháng).

Hai là, quán triệt chủ trương tự lực, tự cường của Phú Yên và các tỉnh vùng tự do Liên khu 5 phòng chống, đánh trả cuộc hành quân Átlăng để chủ lực Liên khu 5 tập trung vào chiến trường chính của chiến dịch (sau này mới biết là bắc Tây Nguyên).

Ba là, phổ biến và giáo dục cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân nêu cao tinh thần yêu nước, chí căm thù giặc, ra sức thực hiện kế hoạch chuẩn bị chống phá cuộc hành quân Átlăng, củng cố và giữ vững lòng tin vào chiến thắng vì thực dân Pháp đang ở thế bị động đối phó do bị thất bại và sa lầy ở chiến trường chính Bắc Bộ.

Bốn là, xây dựng kế hoạch bảo vệ tài sản của Nhà nước và tính mạng của nhân dân, kế hoạch sơ tán dân tạm lánh khi có giặc đến. Bất hợp tác với địch: không làm tề, không để giặc bắt thanh niên đi lính, không để chúng cướp lương thực, thực phẩm nhằm phá âm mưu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của thực dân Pháp.

Năm là, Ban chỉ huy Tỉnh đội vạch kế hoạch cụ thể sử dụng 3 đại đội trực thuộc tỉnh và 4 đại đội địa phương trực thuộc huyện phối hợp với lực lượng du kích tập trung bố phòng chuẩn bị đánh địch, tập trung vào hướng đèo Cả, tây nam Củng Sơn, thị xã Tuy Hòa và các xã ven biển của tỉnh.

Sáu là, Ty công an chuẩn bị địa điểm chuyển cơ quan lãnh đạo tỉnh cùng các tài liệu quan trọng; chuyển và phân tán bệnh viện dân y, quân y, xưởng quân giới lên hướng Ma Choi, Thồ Lồ, Đá Mài; chuẩn bị địa điểm chuyển trại giam, trại cải tạo An Xuân với hơn 400 tù nhân lên Phước Tân, Đá Mài và có địa điểm dự bị ở Thồ Lồ, theo dõi các đối tượng đặc biệt, khi cần thiết là tập trung quản lý. Đặc biệt số phạm nhân quan trọng giao cho một bộ phận tổ chức giam giữ riêng thật cẩn mật, đề phòng địch đánh giải thoát. Tham gia việc khảo sát, huy động nhân lực và bảo vệ cho các địa điểm hoạt động của dân công, cán bộ, bộ đội, phá hoại đường giao thông, cầu cống, trục quốc lộ 1 và liên tỉnh lộ 5, tỉnh lộ 6, tỉnh lộ 7 một cách tích cực. Bảo đảm an toàn, trật tự tuyệt đối khu vực tiêu thổ kháng chiến ở thị xã và hướng dẫn nhân dân thị xã tản cư, lánh cư về nông thôn an toàn, sớm ổn định chỗ ăn, chỗ ở cho dân và bảo vệ tài sản không để thất thoát. Khảo sát địa điểm và cùng với chính quyền hướng dẫn nhân dân, đơn vị di dời tài sản, trâu, bò, chuẩn bị thực hiện “vườn không nhà trống” khi địch đến, chuẩn bị kế hoạch phục vụ cho chiến trường Tây Nguyên. Chọn địa điểm hướng dẫn, bảo vệ hành lang, di dời 2.500 tấn lúa và 200 tấn gạo, hàng triệu hàng hoá các kho mậu dịch từ Tuy Hoà 1 sang khu vực núi Tuy Hoà 2 (Suối Muồng, Suối Cái, phía đông Vân Hòa) để cất giấu vừa bí mật vừa an toàn.

Bảy là, tranh thủ thu hoạch lúa và phân tán cất giấu ở trong dân, chuẩn bị gieo trồng kịp thời vụ kể cả vùng địch tạm chiếm.

Tám là, xây dựng kế hoạch lần lượt đưa dân về sống hợp pháp ở vùng địch tạm chiếm, đặc biệt là người già, trẻ con và phụ nữ.


(1) Qua nghiên cứu nhiều tư liệu của Trung ương, Quân khu 5 và ở địa phương chúng tôi thấy các tài liệu chưa đề cập rõ đến hướng tiến công của binh đoàn 100 của Pháp, nhưng tất cả đều khẳng định binh đoàn 100 (lính Âu - Phi) có tham chiến tại chiến trường Phú Yên trong chiến dịch Átlăng.
Theo lời kể của các nhân chứng, hướng đổ bộ từ biển lên phường 6, phường 7 là lính Âu - Phi, quân số khoảng 1 tiểu đoàn. Do đó có thể khẳng định binh đoàn 100 từ chiến trường Nam Triều Tiên về (cuối năm 1953) có tham gia chiến dịch Átlăng nhưng trong ngày 20 tháng 1 năm 1954 chỉ có 1 hoặc 2 tiểu đoàn đổ quân ra Phú Yên, hướng tiến công của chúng là từ biển đổ bộ lên.
(2)Như vậy, về số lượng các tiểu đoàn địch tham gia vào cuộc hành quân Átlăng ở Phú Yên cũng như thời gian hành quân của các binh đoàn địch có sự khác biệt nhất định so với các tài liệu từ trước đến nay đã viết. Qua so sánh, phân tích các nguồn tư liệu, chúng tôi thấy số liệu đã trích dẫn trên từ nguồn “Công tác đảng công tác chính trị lực lượng vũ trang Quân khu 5 (1945-2000)” (tập 1), Nxb Quân đội nhân dân, H, 2001 là đáng tin cậy và chính xác. Ông Võ Văn Khả, Trưởng tiểu ban Tác chiến Phú Yên trong chiến dịch Átlăng cho biết: Tỉnh đội không nắm được chính xác số lượng các tiểu đoàn địch tham gia cuộc hành quân Átlăng cũng như việc bố trí sử dụng lực lượng của địch tại các địa bàn trong tỉnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #14 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 08:16:17 pm »

Sau hội nghị, đại diện Tỉnh ủy Phú Yên, đại diện Tỉnh ủy Khánh Hoà, đại diện Ban cán sự Đắc Lắc đã họp bàn việc phối hợp chiến trường để bộ đội chủ lực tập trung lên chiến trường chính Tây Nguyên. Hội nghị 3 tỉnh bàn bạc thống nhất và quyết định: lực lượng vũ trang Khánh Hoà được phân công đẩy mạnh hoạt động giao thông trên quốc lộ 1 phía nam đèo Cả, lực lượng vũ trang Đắc Lắc đẩy mạnh đánh địch trên đường Mađrắc xuống Củng Sơn. Riêng tỉnh Phú Yên ngoài nhiệm vụ đánh địch tại chỗ, đảm bảo tiếp vận cho các đơn vị chủ lực tiến công hướng Buôn Ma Thuột.
Về lực lượng tác chiến trên địa bàn có 3 đại đội địa phương tỉnh và 4 đại đội địa phương huyện. Các đại đội của tỉnh gồm Đại đội 377 đảm nhận địa bàn chủ yếu là thị xã và các xã đông bắc sông Đà Rằng. Đại đội 392 đảm nhận địa bàn chủ yếu ở Tuy Hoà 1 (từ đèo cả đến nam sông Đà Rằng). Đại đội 389 cùng các đơn vị bộ đội địa phương huyện và du kích chiến đấu ở các huyện phía bắc Phú Yên và tây Tuy Hòa. Các đại đội của huyện gồm Đại đội 380 (Huyện đội Sơn Hoà) đánh địch ở Củng Sơn, Đại đội 378 (ở Tuy Hoà) đảm nhận địa bàn ở phía tây Tuy Hoà, Đại đội 374 (Huyện đội Tuy An) đảm nhận địa bàn Tuy An, Đại đội 371 đảm nhận địa bàn Đồng Xuân.

Mỗi đại đội có từ 100 đến 120 tay súng, trang bị chủ yếu là súng trường, tiểu liên. Ngoài ra, mỗi đại đội tỉnh được trang bị 4-5 trung liên; đại đội huyện được trang bị 2-3 trung liên. Toàn bộ lực lượng bộ đội địa phương có khoảng 800 đồng chí(1).

Ngoài ra du kích ở các xã, phường phối hợp với bộ đội địa phương tổ chức, bố trí lực lượng sẵn sàng chặn đánh địch. Mỗi một xã, phường có từ 2 tiểu đội đến 1 trung đội du kích.

Căn cứ vào lực lượng và quyết tâm chiến đấu đã được Tỉnh ủy phê duyệt, Ban chỉ huy Tỉnh đội xây dựng kế hoạch bố trí, sử dụng lực lượng và chỉ đạo các hình thức tác chiến cho bộ đội tập trung, dân quân du kích. Theo đó, Đại đội 392 phối hợp với du kích các xã đông nam sông Đà Rằng chịu trách nhiệm bố phòng chuẩn bị đánh dịch từ Khánh Hòa vượt đèo cả ra Hòa Xuân. Đại đội 377 phối hợp với du kích thị xã chịu trách nhiệm bố phòng chuẩn bị đánh địch đổ bộ lên bãi biển Phú Câu (nay là phường 6 và phường 7) thị xã Tuy Hòa và các xã phía bắc sông Đà Rằng. Đại đội 389 phối hợp với Đại đội 380 và du kích các xã Sơn Hòa bố phòng chuẩn bị đánh địch từ Đắc Lắc tiến xuống Củng Sơn. Đại đội 371 (bộ đội địa phương huyện Đồng Xuân) phối hợp với du kích chịu trách nhiệm bố phòng đánh địch tại địa bàn huyện Đồng Xuân (gồm 2 huyện Đồng Xuân và Sông Cầu hiện nay) tập trung vào các xã Xuân Thọ, Xuân Phương và Xuân Lộc. Đại đội 374 (bộ đội địa phương huyện Tuy An) phối hợp với du kích chịu trách nhiệm bố phòng chuẩn bị đánh địch trên địa bàn huyện Tuy An, tập trung vào các xã ven biển như: An Chấn, An Mỹ, An Ninh và An Dân. Đại đội 378 (bộ đội địa phương huyện Tuy Hòa) phối hợp với du kích bố phòng chuẩn bị đánh địch ở các xã phía tây nam Đà Rằng tập trung vào các xã Hòa Phong, Hòa Bình, Hòa Thành và Phú Lâm. Đại đội 380 (bộ đội địa phương huyện Sơn Hòa) phối hợp với du kích xã bố phòng chịu trách nhiệm đánh địch ở huyện Sơn Hòa (chủ yếu phía tây nam Củng Sơn).

Lực lượng dân quân du kích các xã ven biển và vùng giáp ranh với địch ở đèo Cả - Hòa Xuân - Củng Sơn, vốn được xây dựng và thử thách qua thực tế liên tục chiến đấu chống địch đổ bộ càn quét, được bố trí phòng thủ ở các xã trọng điểm ven biển, thị xã Tuy Hòa, đông nam sông Đà Rằng và tây nam Sơn Hòa. Chọn những vị trì có địa hình thuận lợi cho phục kích địch và rút lui an toàn để xây dựng các ác chiến điểm, các công trình chiến đấu ưu tiên tập trung các loại hỏa lực như súng trường, bom, lựu đạn, mìn muỗi và hầm chông. Phương thức tác chiến của du kích tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để tác chiến độc lập hoặc phối hợp với bộ đội cùng đánh địch.

Bố trí những đơn vị nhỏ bộ đội phối hợp với du kích tập trung phục kích tại các đồi cao có cây cao che phủ, dưới chân có đá chẻ xếp thành hang ẩn nấp tránh được phi pháo, tránh được địch truy kích, rút lui an toàn; các đồi nhô ra sát quốc lộ, tỉnh lộ, dốc đứng khó leo lên như: đoạn từ Đá Trãi trở ra phía bắc đèo Cả, đèo Quán Cau (Tuy An), đèo Bà Thị (Chí Thạnh), đèo Tam Giang (đèo Chữ S) phía nam sông Cầu, đèo Cù Mông (Xuân Lộc) và đoạn từ đập Đồng Cam trở lên Ba Bản (Sơn Hòa).


(1) Số liệu do đồng chí Võ Văn Khả - nguyên cán bộ Tiểu ban Tác chiến Tỉnh đội Phú Yên cung cấp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #15 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 08:18:04 pm »

Ban chỉ huy Tỉnh đội đặc biệt chú trọng địa hình bãi biển, xác định đây là hướng địch đổ bộ nên bố trí thành khu vực tử địa, đặc biệt là bãi biển Phú Câu (phường 6 và phường 7 Tuy Hòa ngày nay). Đây là bãi hoang mọc đầy các loại cây gai bàn chải, gai quýt, gai mắt mèo, chỉ có ít đường ngang hẹp quanh co từ biển trở lên để cho người và trâu, bò đi lại, được bố trí thành bãi bom mìn, đạp lôi để lực lượng du kích tập trung cùng với các đơn vị của Đại đội 377 chuẩn bị đánh địch đổ bộ lên thị xã.

Khẩn trương kiện toàn hệ thống bồ tín hiệu treo trên các đồi cao ven biển và hệ thống mõ báo động khi có tàu thủy địch đến vùng biển địa phương để nhân dân kịp cất giấu ngư lưới cụ, tài sản quý và chuẩn bị tản cư tránh địch, đồng thời cũng để báo cho du kích tập trung đến vị trí sẵn sàng chiến đấu.

Nhằm ngăn chặn các mũi tiến quân của địch và sát thương bọn lính sửa đường, Ban chỉ huy Tỉnh đội nhấn mạnh cần tiếp tục phá hoại thêm các cầu và đường quốc lộ 1, đường số 6, đường số 7, đào thêm những hố sâu hơn 2m và rộng hơn 3m ở những đoạn xung yếu có gài mìn để chặn xe cơ giới.

Để chống quân nhảy dù ở các bãi cát lớn như Mỹ Long (An Dân - Tuy An), bãi Phú Sen (Hòa Định - Tuy Hòa) và gò Thị Thùng (An Xuân - Tuy An), kế hoạch của Tỉnh đội chỉ rõ biện pháp tăng cường cắm thêm các cọc tre cao từ 2 đến 3m.

Sau Hội nghị ngày 11 tháng 1 năm 1954, các đồng chí Lê Vụ, Bí thư Tỉnh ủy; Lê Văn Đức, Tỉnh đội trưởng; Lê Đài, Chính trị viên; Phan Trọng Xuyên, Tham mưu trưởng; Võ Xuân Vinh, Trưởng ban Chính trị Tỉnh đội và nhiều cán bộ cơ quan được phân công xuống huyện, xã, nhất là các xã phía nam để đôn đốc kiểm tra công việc chuẩn bị chiến đấu.

Các đại đội địa phương tỉnh được trang bị thêm hỏa lực. Mỗi đại đội có từ bốn đến năm khẩu trung liên. Các đại đội địa phương huyện cũng được bổ sung đầy đủ quân số, trang bị thêm hỏa lực, súng cá nhân, bom, mìn, lựu đạn. Lực lượng du kích các xã đều được phát triển thêm, trang bị thêm súng, lựu đạn, mìn. Từng xã, thôn cử ra một số du kích cùng cán bộ đoàn thể tổ chức hướng dẫn nhân dân tản cư đến các khu vực an toàn. Các kho tàng của tỉnh ở phía nam được khẩn trương chuyển ra phía bắc và lên miền Tây. Tài sản, lương thực của nhân dân được từng nhà đào hầm chôn cất. Lúc đầu khi thấy vắng bộ đội chủ lực trong tỉnh, nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương có phân vân, lo lắng, nhưng sau hiểu được ý định của trên, tin vào sự lãnh đạo, chỉ huy sáng suốt của Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu, quân và dân Phú Yên tự tin vào sức mình, quyết biến mỗi thôn xã thành trận địa tiêu diệt giặc, quyết không để lương thực, thực phẩm cho chúng cướp phá, làm cho giặc đi đến đâu cũng chỉ thấy vườn không, nhà trống.

Được trên cho biết, cuộc tiến công của địch ra Phú Yên không còn bao lâu nữa, nên mọi công tác chuẩn bị được tiến hành rất khẩn trương, chạy đua với thời gian. Công việc xây dựng làng chiến đấu được nhân dân dốc sức làm cả ngày lẫn đêm. Mọi người, già, trẻ, gái, trai đều tham gia công việc bố phòng, phá hoại một số cầu đường ở các tuyến xung yếu.

Đêm đến, các mẹ, các chị lo học tập, thảo luận phương pháp làm công tác ngụy vận để đấu tranh chông địch cướp bóc, khủng bố, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do địch gây ra. Hệ thống thông tin liên lạc được củng cố thông suốt, bảo đảm chỉ đạo, chỉ huy từ trên xuống dưới.

Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính và Tỉnh đội Phú Yên đặc biệt chú trọng công tác động viên nhân tài, vật lực. Hàng nghìn thanh niên khỏe mạnh đã xung phong gia nhập các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện và các trung đội, đại đội du kích tập trung của các xã. Chính quyền các xã huy động nhân dân tích cực, khẩn trương cả ngày lẫn đêm tiếp tục phá hoại đường sá, cầu cống, nhất là trên quốc lộ 1, các tỉnh lộ số 5, số 7.
Khi địch tiến công, Binh công xưởng QB.470 được lệnh nhanh chóng di chuyển toàn bộ số gang còn lại của Nhà máy đường Đồng Bò về Triêm Đức. Ngày 16 tháng 2, toàn bộ QB.470 được lệnh chuyển lên Cây Vừng, Phú Vang. Dân công cùng với thuyền, ghe, ngựa thồ đưa máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu vào tập kết an toàn theo đúng kế hoạch. Bên cạnh lực lượng làm nhiệm vụ bố trí xưởng trạm nhanh chóng đi vào sản xuất, các đơn vị đều bố trí một tiểu đội công nhân phối hợp với dân quân du kích xã đặt hầm chông, gài mìn bảo vệ địa bàn đứng chân, sẵn sàng đánh địch.

Căn cứ vào tình hình và kế hoạch tác chiến của ta, Vụ Quân giới tổ chức xây dựng các cơ sở sản xuất, bảo đảm cho các đơn vị chiến đấu ở phía nam. Sau hai ngày hành quân, ngày 24 tháng 3, dưới sự chỉ đạo của các đồng chí Hà Nhật phụ trách chuyên môn và đồng chí Dương Sum phụ trách chính trị, 30 cán bộ, công nhân viên cùng một số máy móc thiết bị đã tập kết an toàn tại dốc Chùa, xã Hoà Mỹ, huyện Tuy Hoà.

Cùng với việc cấp phát vũ khí trang bị và di chuyển các cơ sở sản xuất về nơi an toàn và thuận tiện cho việc bảo đảm cho các đơn vị chiến đấu, các đội sửa chữa lưu động được thành lập. Các đội nhanh chóng phối hợp cùng các đơn vị trên các hướng, kiểm tra, sửa chữa vũ khí kỹ thuật cung cấp cho các đơn vị chiến đấu. Các lực lượng vũ trang Phú Yên với vũ khí được trang bị đã sử dụng một cách sáng tạo, hiệu quả, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #16 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 08:20:43 pm »

Trong quá trình chiến đấu, mặc dù bị địch đánh phá, các binh công xưởng vẫn tăng cường sản xuất vũ khí đạn tiếp tục bổ sung cho các đơn vị. Phát huy thế mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân đã được chuẩn bị sẵn, Đảng bộ và chính quyền Phú Yên huy động được mọi tầng lớp nhân dân tham gia vận chuyển vũ khí phục vụ chiến đấu. Nhiều chị em phụ nữ, các cháu thiếu nhi đã vượt núi cao, suối sâu, vượt qua lửa đạn tiếp tế lương thực, thực phẩm, vũ khí đạn tới các trận địa cho bộ đội đánh giặc. Các tổ sửa chữa vũ khí cơ động tăng cường hoạt động làm nhiệm vụ sửa chữa tại chỗ những vũ khí hư hỏng nhanh chóng trả ngay về cho đơn vị sử dụng. Trước những khó khăn về nguồn vũ khí trang bị, lực lượng vũ trang Phú Yên thực hiện tốt phương châm “lấy vũ khí địch đánh địch”, nhiều cán bộ, chiến sĩ tích cực lấy súng đạn địch tự trang bị cho mình.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến trường Phú Yên là một địa bàn xa sự chi viện của Trung ương, trong khi đó lại là mục tiêu chiến lược trong những nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp. Cùng với sự trưởng thành của các lực lượng vũ trang, quân giới Phú Yên đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, nguy hiểm, đặc biệt là sự thiếu thốn về tài liệu, thiết bị và nguyên vật liệu đã vượt lên chính mình vừa học tập, nghiên cứu vừa sản xuất, sửa chữa vũ khí từng bước bảo đảm cho các chiến trường. Không những cung cấp vũ khí trang bị cho quân và dân trong tỉnh mà còn giúp đỡ quân dân Khánh Hoà, nam Tây Nguyên đánh địch.

Quán triệt tư tưởng và phương châm chỉ đạo “phải lấy vũ khí địch đánh địch, nhưng về cơ bản và lâu dài thì cần phải tự sản xuất”(1) với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, quân và dân Phú Yên đã kịp thời sản xuất, sửa chữa bảo đảm vũ khí cho các đơn vị chiến đấu, đáp ứng yêu cầu đánh địch từ những trận nhỏ, trận vừa đến các chiến dịch có quy mô tập trung. Nhiều loại vũ khí được sản xuất, sửa chữa cải tiến đưa vào sử dụng theo yêu cầu cụ thể của từng trận đánh, từng chiến trường phát huy được tính năng tác dụng, hiệu suất chiến đấu cao.

Chính những vũ khí do quân và dân Phú Yên chế tạo đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu của chiến trường Phú Yên trong điều kiện trang bị của quân đội ta lúc bấy giờ. Với vũ khí được trang bị, lực lượng vũ trang Phú Yên đã chiến đấu với kẻ địch có trang bị mạnh, hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao, tiêu diệt địch, góp phần đánh bại cuộc hành quân Átlăng của thực dân Pháp, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của quân và dân trong tỉnh trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954.

Từ sau Hội nghị Tỉnh ủy ngày 11 tháng 1 năm 1954, Ủy ban kháng chiến hành chính các cấp huy động nhân dân gặt hái, cất giấu tài sản, lương thực, di chuyển kho tàng, chuẩn bị cho nhân dân một số nơi tản cư, lánh cư đến những địa điểm an toàn, sơ tán cất giấu trâu, bò..., thực hành vườn không nhà trống khi địch đến, chuẩn bị kế hoạch dân công phục vụ chiến trường Tây Nguyên,... Lúc này, các kho lương thực của tỉnh có 2.500 tấn lúa, 200 tấn gạo, hàng hóa của các kho mậu dịch quốc doanh trị giá hàng trăm triệu đồng, đều phải huy động sức dân để khẩn trương di chuyển, cất giấu.

Trong những ngày đầu khi địch đánh ra Phú Yên, trước sức tiến công ồ ạt của chúng có phi pháo yểm trợ, bộ đội địa phương, quân và dân ta còn khá lúng túng. Việc tản cư, sơ tán nhân dân còn lộn xộn, tổ chức Đảng cơ sở xáo trộn, một số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ dao động. Do chủ quan, một số người chưa đánh giá hết âm mưu địch đánh ra và chiếm đóng lâu dài cả tỉnh mà còn cho rằng địch chỉ càn quét, chiếm đóng ngắn ngày hoặc chỉ đánh chiếm phía nam, nên kế hoạch đối phó bị động, chỉ tập trung chuyển kho tàng từ phía nam ra phía bắc sông Đà Rằng, như kiểu đầu năm 1947. Nhưng sau đó, lãnh đạo Đảng các cấp đã nhanh chóng uốn nắn tư tưởng, chỉ đạo bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân tăng cường công tác bố phòng, bám đánh địch. Các huyện phía bắc tỉnh rút kinh nghiệm chuẩn bị đánh dịch, bảo vệ dân tốt hơn.
Ngày 31 tháng 1 năm 1954, Thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên họp, quyết định tăng cường giáo dục cho nhân dân về âm mưu chiếm đóng của địch, khẩn trương tổ chức và phát triển lực lượng, tăng cường trang bị, củng cố các làng chiến đấu, đẩy mạnh công tác tuyên truyền binh địch vận, phá kế hoạch xây dựng ngụy quân, ngụy quyền của địch, chú ý trước tiên là Tuy Hòa và Sơn Hòa. Tỉnh ủy quyết định tản cư triệt để những người buôn bán ở thị xã Tuy Hòa. Các nơi khác thì đặt vấn đề lánh cư kết hợp với bố phòng và làm ăn. Ở các xã địch chưa đến, phát động nhân dân đẩy mạnh bố phòng, đào đắp công sự, phát triển hầm chông, cạm bẫy. Về kinh tế, chú ý cất giấu, phân tán tài sản, lương thực, động viên nhân dân đóng thuế nông nghiệp để nuôi quân.

Tỉnh ủy cũng quyết định sơ tán, phân tán các cơ quan Dân, Chính, Đảng của tỉnh về vùng căn cứ địa ở phía bắc tỉnh. Một số cán bộ già yếu được gửi ra tạm trú ở cơ quan liên khu đóng ở tỉnh Quảng Ngãi. Còn lại, bộ phận nặng đứng ở phía bắc, bộ phận nhẹ ở phía nam. Tỉnh ủy còn thành lập Ban chỉ đạo phía nam tỉnh và tăng cường củng cố giao thông liên lạc.

Quân và dân Phú Yên vừa chiến đấu, vừa giữ vững sản xuất, ổn định đời sống. Vụ lúa tháng chạp 26.000ha được thu hoạch, cất giấu chu đáo. Địch chỉ cướp và phá 790 tấn lúa, 90 tấn gạo trong kho, cướp 2.088 con bò và 90 con ngựa. Vụ tháng 3, nông dân đã sản xuất bằng diện tích vụ tháng 3 năm trước (năm 1953) đạt 6.000ha, lúa đen 1.500ha, trồng 2.500ha bông vải (bằng 2/3 năm 1953), giữ vững sản xuất muối. Nông dân tích cực đóng thuế nông nghiệp, tổ chức xay, giã gạo, đi dân công phục vụ chiến trường Tây Nguyên. Đầu năm 1954, thuế nông nghiệp năm 1953 thu được 5.600 tấn lúa và đầu năm 1954 thu được 1.300 tấn, thuế công thương nghiệp 3 tháng đầu năm 1954 thu được 31 triệu đồng.
Trừ các cụm địch đóng quân, còn các vùng khác trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội ổn định, các phiên chợ vẫn họp, các luồng mậu dịch vẫn được lưu thông, giá cả ổn định, đường bưu điện trong tỉnh và liên tỉnh hoạt động bình thường.

Thế trận của quân và dân Phú Yên đã được bày sẵn. Đó là thế trận chiến tranh nhân dân, một thế trận thực sự do toàn dân Phú Yên tham gia.


(1) Nguyễn Chánh con người và sự nghiệp, Nxb Quân đội nhân dân, H, 1997, tr. 15.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #17 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 08:24:45 pm »

II. CHIẾN ĐẤU ĐÁNH BẠI BƯỚC 1
CUỘC HÀNH QUÂN ÁTLĂNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG PHÚ YÊN

Ngày 20 tháng 1 năm 1954, được sự yểm trợ không quân, hải quân, pháo binh và cơ giới dưới sự chỉ huy của tướng Đờ Bôpho - Tư lệnh Quân khu Tây Nguyên, quân địch chia làm 2 cánh bắt đầu tấn công ra Phú Yên.

Tướng Đờ Bôpho, chỉ huy cuộc hành quân Átlăng chủ quan, tin chắc vào thắng lợi. Chúng sắp sẵn bộ máy cai trị ngụy quyền để lắp vào những vùng khi chúng đánh chiếm được. Nhưng quân và dân Phú Yên dựa vào làng chiến đấu và thế trận chiến tranh nhân dân được chuẩn bị sẵn chủ động đánh địch từ đầu, kiên quyết bảo vệ vững chắc vùng tự do.

Hướng thị xã, cánh quân đổ bộ lên bãi biển Phú Câu (nay là phường 6 và phường 7) gồm 2 tiểu đoàn lính Âu - Phi của GM100, vừa vào đến đất liền đã bị các loại hoả lực trung liên của Đại đội 377 và tiểu liên, súng trường bắn tỉa của bộ đội địa phương, du kích phục kích sẵn nhả đạn liên tục gây cho chúng nhiều thương vong.

Bị đánh bất ngờ, địch hoảng hốt vừa bắn bừa bãi vừa chạy tán loạn vướng phải chông mìn, đạp lôi do quân và dân ta gài sẵn bị thương vong thêm một số. Lực lượng du kích tập trung của thị xã cùng Đại đội 377 bộ đội địa phương dựa vào địa hình, địa vật, chướng ngại vật đã bố trí từ trước bình tĩnh đánh địch, gây cho địch nhiều tổn thất, buộc chúng phải vừa dò đường vừa tổ chức phản công, tiến quân một cách e dè, chậm chạp. Phải mất gần 1 ngày, địch mới tiến quân được khoảng 2km vào đến nội thị và hợp nhất với cánh quân nhảy dù xuống sân bay Chóp Chài.

Phía tây thị xã, cánh quân địch nhảy dù xuống sân bay Chóp Chài có khoảng 2 tiểu đoàn hoàn toàn nằm ngoài dự kiến của ta. Trong kế hoạch của Ban chỉ huy Tỉnh đội không lường trước địch sẽ nhảy dù xuống sân bay Chóp Chài (do sân bay bỏ hoang nhiều năm), nên không bố trí trận địa cọc rào tre chống nhảy dù như ở những nơi khác và không có kế hoạch sử dụng lực lượng chặn đánh. Chính vì vậy, ngoài một số lính dù của địch bị thương vì vướng phải gai bàn chải và gai mắt mèo còn lại nhìn chung là thuận lợi, nên tốc độ hành quân của chúng khá nhanh. Trên đường tiến quân từ Chóp Chài vào trung tâm thị xã để hợp nhất với cánh quân từ biển đổ bộ lên, địch bị Đại đội 377 cùng du kích thị xã kết hợp với bom mìn và hầm chông, phục kích chặn đánh gây một số thương vong. Tuy nhiên, do không tiên liệu được kế hoạch cho quân nhảy dù xuống Chóp Chài của địch nên ta bị động và phải ra lệnh rút Đại đội 377 về lại Phú Lâm để tránh hai gọng kìm của địch từ biển đánh lên, từ sân bay đánh xuống nhằm bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài.

Sau khi hợp nhất lực lượng, địch cho quân đồn trú tạm trong thị xã: lính dù đóng ở sân bay Chóp Chài, lính Âu - Phi của GM100 đóng dọc đường Trần Hưng Đạo, khu vực hầm Ông Cồ (Nhà văn hóa và Trung tâm triển lãm Diên Hồng ngày nay), núi Nhạn... Sở chỉ huy lệnh cho các đơn vị bộ đội và du kích tiếp tục bám đánh địch, cản bước tiến của chúng.

Hướng nam, khoảng 11 giờ ngày 20 tháng 1 năm 1954, cánh quân địch (GM10) có xe bọc thép dẫn đầu đã tiến ra đến đèo Cả(1). Đại đội 392 do đồng chí Võ Văn Khả chỉ huy phối hợp với du kích các xã Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Hòa Vinh ngoan cường bám đánh địch. Tại các mỏm đồi trên đèo cả đoạn từ đá Trãi (phía bắc cua đá Đen) trở ra, bộ đội địa phương phối hợp với dân quân du kích các xã tổ chức đánh chặn giao thông, buộc đoàn xe địch phải dừng cuộc hành quân trước những hố sâu đào sẵn. Khi công binh địch xuống khắc phục cầu cống, đường sá bị dính mìn của ta gài, khiến địch hết sức hoang mang, lo sợ.

Ngày 22 tháng 1 năm 1954, tại ngã ba Chợ Xô, một trung đội Âu - Phi đi lùng sục lọt vào ổ phục kích (ác chiến điểm) của ta. Khi toàn bộ đội hình địch lọt gọn vào trận địa phục kích, 2 khẩu trung liên của Đại đội 392 liên tục nhả đạn vào đội hình địch ở cự ly gần. Bị đánh bất ngờ, nhiều tên chết ngay tại chỗ, một số chạy dạt ra tứ phía tìm các chướng ngại vật để tổ chức chống trả. Trận địa phục kích của ta được bố trí chuẩn bị thành ác chiến điểm từ trước nên tất cả các chướng ngại vật như: nhà cửa, gốc cây, hầm hố... đều được gài mìn đạp lôi, mìn muỗi kết hợp với các hầm chông. Một số tên bị dính mìn, đạp lôi, vướng mìn muỗi, số còn lại hoang mang chạy thục mạng lại sụp hầm chông bị thương vong cả trung đội. Những tên lính Âu - Phi bị chông xuyên cả bàn chân không thể rút ra được, la hét ầm ĩ càng làm hoang mang tinh thần của đồng bọn. Địch phải gọi hai lượt trực thăng đáp xuống đầu cầu Bàn Thạch chở nhiều tên dính chông (cả người và bàn chông) về Nha Trang.


(1) Lực lượng vũ trang Khánh Hòa chủ yếu đánh phá các cơ sở hậu cần của địch: đánh cháy một kho xăng lớn của địch tại Phước Hải, tiến công vào căn cứ tiếp vận tiền phương của địch ở thị trấn Ninh Hòa, diệt hơn 100 tên địch, phá hủy 10 kho vũ khí và phương tiện chiến tranh, đốt cháy một kho xăng hàng trăm nghìn lít chuẩn bị cho chiến dịch Átlăng, không tham gia đánh giao thông ngăn chặn GM10 tấn công ra Tuy Hòa được như kế hoạch của Hội nghị liên tỉnh (Phú Yên, Đắc Lắc, Khánh Hòa).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #18 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 08:26:32 pm »

Trước hoạt động quân sự của ta ngày càng mạnh cùng với hệ thống đường giao thông bị phá hoại nặng nề nên phải mất một tuần các cánh quân địch mới tập kết được tại thị xã Tuy Hoà. Trong 10 ngày đầu cánh quân địch tiến đánh Phú Yên từ phía nam bị các đại đội 377, 392, 389, 378 và 380 cùng với lực lượng du kích chủ động tiến công tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, diệt và làm bị thương hàng trăm tên, bảo vệ được tính mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân. Dựa vào núi Vũng Tàu, bãi Xép, đồng chí Dậu - Bí thư xã Hòa Hiệp trực tiếp chỉ huy một tiểu đội du kích, chiến đấu diệt gần một trung đội địch. Trong một trận phục kích tại đường Vòi, du kích Hòa Hiệp dùng mìn phá hủy hai xe quân sự. Trung đội 17 Đại đội 377 do đồng chí Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đánh địch liên tục ở Thạch Tuân, Phước Lộc, Mỹ Lệ, Phú Thứ. Nhiều ngày không liên lạc được với đại đội, nhưng trung đội vẫn kiên cường bám trụ địa bàn. Anh em đào hầm bí mật để khi địch quá đông thì tạm lánh xuống hầm rồi bất thần lao lên tập kích từ phía sau lưng, diệt hàng chục tên. Riêng trận đánh tại cầu sắt Phú Lễ, đồng chí Hà Cậy, Trung đội phó dùng tiểu liên bắn vào đội hình địch đang qua cầu, diệt và làm bị thương 13 tên.

Tuy nhiên do thế của địch mạnh, lực lượng ta chỉ có thể ngăn chặn làm chậm bước tiến của địch, không đủ sức để tung những đòn quyết định. Sau một tuần lễ tiến đánh Phú Yên, các cánh quân địch đã hợp nhất được với nhau tại thị xã Tuy Hòa. Địch thiết lập một số đồn bốt, xây dựng một số cứ điểm ở các khu vực trọng yếu vừa chiếm được như: Bàn Nham - Bàn Thạch (Hoà Xuân), Hoà Hiệp, Phú Lâm, núi Sầm, Chóp Chài, Màng Màng, núi Hùng,... để khống chế lực lượng ta.

Bộ đội địa phương và dân quân du kích liên tục bao vây uy hiếp, bắn tỉa kết hợp với hầm chông, cạm bẫy, mìn ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét của địch. Địch ít, du kích dùng súng bắn tỉa. Địch dồn lại đông, du kích giật bom mìn. Mỗi quả mìn nổ làm hàng chục tên giặc chết và bị thương. Chúng hoảng hốt chạy ra xung quanh ẩn nấp lại bị sập hầm chông, vướng lựu đạn, mìn. Tiêu biểu nhất cho hoạt động của bộ đội địa phương và dân quân du kích sau khi địch chiếm đóng Phú Yên là trận đánh của Đại đội 392 (chủ lực tỉnh) cùng du kích Hòa Hiệp kết hợp với nội ứng tiêu diệt đồn Thạnh Lâm (Hòa Hiệp) diệt và bắt sống toàn bộ trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí (trong đó có 2 trung liên).

Tại Củng Sơn, ngày 25 tháng 1 năm 1954, cánh quân địch từ Đắc Lắc tiến xuống Củng Sơn, bị Đại đội 380 và du kích thị trấn Củng Sơn bố trí các ác chiến điểm tập trung bom mìn và hầm chông kết hợp với súng trường, trung liên đánh địch liên tục gây cho chúng nhiều thương vong, kìm hãm được tốc độ tiến quân và các hoạt động lùng sục, càn quét vào các thôn xóm của địch, hạn chế tối đa thiệt hại về tính mạng và tài sản của nhân dân. Khi chúng vượt sông Ba tiến công sang phía tây Tuy Hòa 1 lại bị Đại đội 378 và Đại đội 389 cùng với du kích các xã Tuy Hòa 1 chặn đánh, diệt và làm bị thương gần 50 tên, buộc chúng phải tiến quân rất chậm, mất mấy ngày mới đến Phú Thứ (Hòa Bình).

Trước tinh thần chiến đấu quyết liệt của quân và dân ta, mặc dù lực lượng đông, trang bị vũ khí hiện đại nhưng địch vẫn không thể tiến hành đánh nhanh, thắng nhanh như kế hoạch đề ra. Để khích lệ, cổ vũ tinh thần binh sĩ đang hoang mang lo sợ, tướng Nguyễn Văn Hinh - Tham mưu trưởng quân ngụy Bảo Đại cho thả tờ rơi ở nam Tuy Hòa thanh minh: Tốc độ tiến quân bị chậm không đạt được kế hoạch thời gian như đã hoạch định vì gặp nhiều trở ngại (tránh không nói bị chặn đánh).

Qua mười ngày chiến đấu chống lại cuộc tiến công ồ ạt của giặc Pháp, quân và dân Phú Yên đã diệt, làm bị thương gần 800 tên địch. Nhờ có mạng lưới bố phòng rộng khắp trong thế trận chiến tranh nhân dân đã được chuẩn bị sẵn nên quân và dân Phú Yên đã hạn chế được địch đi lùng sục, đánh phá vào các thôn xóm, làng mạc hai bên đường giao thông. Nhiều vùng ở Hòa Xuân, Hòa Vinh chỉ cách đường số 1 vài trăm mét, nhưng địch cũng không dám đến vì sợ sập hầm chông, vướng mìn.

Ngày 31 tháng 1, Thường vụ Tỉnh ủy họp kiểm điểm tình hình và kịp thời quyết định một số chủ trương. Hội nghị nhận định: 10 ngày qua các lực lượng vũ trang tỉnh đã chiến đấu rất dũng cảm, tiêu hao, tiêu diệt được khá nhiều địch, thực hiện được nhiệm vụ kìm chân, không cho chúng nhanh chóng mở rộng phạm vi kiểm soát, hạn chế được thiệt hại do địch gây ra. Nhưng do chưa đánh giá đúng âm mưu địch nên lãnh đạo còn chủ quan, công tác chuẩn bị chưa được chu đáo. Một số kho tàng mới chuyển qua bắc sông Đà Rằng. Việc tổ chức đưa dân tản cư, cất giấu tài sản còn nhiều lúng túng. Một số địa phương còn để địch cướp phá nhiều tài sản của nhân dân.

Hội nghị đề ra một số nhiệm vụ cấp bách, trong đó tập trung giáo dục cho nhân dân về âm mưu chiếm đóng của địch; nhận rõ các khó khăn tạm thời và thuận lợi cơ bản của ta, mặt mạnh tạm thời và mặt yếu cơ bản của địch. Những nơi địch đã chiếm đóng như Sơn Hòa, Tuy Hòa vận động nhân dân thị xã triệt để tản cư, kết hợp với bố phòng, tiếp tục sản xuất, chiến đấu. Đối với bọn phản động nguy hiểm phải tập trung giam giữ. Ở các xã địch chưa đánh đến, phải đẩy mạnh hơn nữa phong trào toàn dân làm công tác bố phòng, phát triển hầm chông, cạm bẫy, triệt để cất giấu, phân tán lương thực, tài sản. Động viên nhân dân đóng góp thuế nông nghiệp. Chuyển cơ quan của tỉnh ra phía bắc, tổ chức một bộ phận nhẹ ở phía nam, hình thành Ban chỉ đạo phía nam tỉnh, củng cố hệ thống thông tin liên lạc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #19 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2021, 06:42:30 pm »

Rút kinh nghiệm ở Tuy Hòa, nhân dân các huyện phía bắc triệt để cất giấu, phân tán lương thực, tài sản. Công tác huy động lương thực, thuế nông nghiệp được nhân dân hăng hái đóng góp và kịp thời vận chuyển ngay lên các kho ở vùng núi tây bắc Đồng Xuân.

Đánh giá rất cao thành tích của quân và dân Liên khu 5, trong đó có quân dân Phú Yên, ngày 2 tháng 2 năm 1954 Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi điện: “Khen ngợi các cán bộ, chiến sĩ ở Tuy Hoà và vùng địch hậu Liên khu 5 đã tích cực hoạt động, tiêu hao và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo vệ tính mạng và tài sản nhân dân”(1). Thư của Đại tướng là niềm động viên lớn lao đối với quân và dân Phú Yên.

Sau khi chiếm được một số khu vực ở huyện Tuy Hòa 1, thị xã Tuy Hòa, Củng Sơn và thiết lập được các hệ thống đồn bốt, ngày 16 tháng 2 năm 1954, địch chia làm hai cánh tiến công ra các huyện phía bắc Phú Yên.

Các binh đoàn 41, 42 tiến theo đường Vân Hoà xuống Xuân Phước, Xuân Quang đến La Hai (ngày 21-2-1954) đánh chiếm các thị trấn thị tứ trên đường số 6.

Binh đoàn số 10 tiến theo quốc lộ 1 đánh chiếm các thị trấn, thị tứ trên quốc lộ 1 ra đến Chí Thạnh (ngày 20-2-1954). Đến ngày 24 tháng 2 năm 1954, hai cánh quân này gặp nhau tại La Hai.

Lực lượng địch ở phía nam Phú Yên lúc này còn 10 tiểu đoàn, trong đó bố trí tại Tuy Hòa 6 tiểu đoàn, 4 tiểu đoàn giữ phía tây Phú Yên(2).

Theo kế hoạch tác chiến của Ban chỉ huy Tỉnh đội, Đại đội 371 chặn đánh đường tiến quân của địch từ Xuân Phước xuống La Hai. Các đại đội 389, 374 cùng du kích An Chấn, An Mỹ, An Cư liên tục đánh địch trên quốc lộ 1. Từ thị xã Tuy Hoà ra đến Chí Thạnh chúng phải hành quân mất 4 ngày, bị ta chặn đánh, tiêu diệt và bị thương hàng trăm tên.

Cả hai cánh quân địch đều bị các đại đội 374 và 371 cùng với du kích các xã phía bắc tỉnh chặn đánh quyết liệt tại các khu vực có địa hình hiểm trở như: đèo Quán Cau (An Hiệp), đèo Thị (Chí Thạnh), đèo Cây Cưa, đèo Tam Giang và đèo Cù Mông ở huyện Sông Cầu gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề, hàng trăm tên chết và bị thương, phần lớn do mìn đạp lôi và hầm chông của quân ta bố trí phục kích sẵn, nên chúng lo sợ không dám tiến sâu vào thôn xóm, không dám mở rộng chiếm đóng. Trên đoạn đường từ Tuy Hòa ra Chí Thạnh, Sông Cầu nhân dân ta đã phá sập các cầu, cống, lập các ổ chiến đấu, gài bom, mìn nên địch phải rà phá mìn, sửa đường, tiến quân rất chậm. Một tiểu đoàn địch có phi pháo chi viện nhưng không sao tới được xã An Ninh, vì hàng chục tên bị sập hầm chông, vướng mìn và hàng chục tên ngã gục trước những viên đạn bắn tỉa của du kích An Ninh. Chỉ một đoạn đường 30km từ thị xã Tuy Hòa ra Chí Thạnh, địch phải đi mất bốn ngày và bị loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên.

Đến ngày 21 tháng 2 năm 1954, địch đã chiếm được những vị trí trọng yếu: thị xã Tuy Hoà, ngã ba Chí Thạnh, Sông Cầu, La Hai trên trục đường 1 và đường 6. Chúng bố trí một số đồn ở núi Hùng (An Chấn), núi Một (Hòa Đa), đèo Quán Cau (An Hiệp), Gò Điều (thôn Quán Cau), Chí Thạnh, Ngân Sơn, Triều Sơn (Xuân Thọ), thị trấn Sông Cầu, Gò Dúi (Xuân Lộc), Phong Niên (An Định), thị trấn La Hai và Phước Lãnh (Đồng Xuân).

Qua 2 tháng sau khi địch đánh ra Phú Yên, chúng chỉ chiếm đóng ở một số cứ điểm, tuy đã càn quét, lùng sục hầu khắp các vùng trong tỉnh, nhưng vẫn chưa bình định được vùng nào, trái lại chiến tranh du kích ở Phú Yên ngày càng phát triển mạnh.

Những thắng lợi to lớn, dồn dập ở Điện Biên Phủ, Tây Nguyên, Trung Hạ Lào đã làm cho kế hoạch tập trung quân cơ động của địch cho chiến dịch Átlăng không thể thực hiện được, trái lại quân cơ động của địch càng bị phân tán. Lực lượng ta càng đánh càng thắng lớn. Lính địch càng hoang mang, dao động. Hàng trăm lính địch tự động bỏ ngũ kéo về Khánh Hòa.

Nhân dân Phú Yên vừa chiến đấu, vừa ra sức phục vụ tiền tuyến. Công nhân trong các cơ sở sản xuất, xí nghiệp ngoài việc sản xuất còn tham gia đi dân công gánh gạo, mắm, muối theo chân bộ đội chủ lực lên chiến trường Tây Nguyên. Cán bộ, nhân viên dân y phân công người đi theo chăm sóc sức khoẻ dân công. Cán bộ, nhân viên quân y lo chăm sóc, điều trị thương binh, đưa thương binh về tuyến sau. Công nhân ngành quân giới tích cực sản xuất vũ khí cho chiến trường. Các đoàn dân công tiếp vận ra tiền tuyến có lúc lên đến 3-4 nghìn người, 5-6 trăm ngựa chở hàng luồn qua vùng địch đóng quân, nối tiếp nhau lên hành lang Tây Nam (Sơn Hoà) và hành lang Tây Bắc (Cây Vừng) để vào Tây Nguyên. Tại các xí nghiệp như cơ sở sản xuất giấy Việt Thắng, Việt Chấn, Nam Trung, Liên hiệp Công đoàn tỉnh chỉ đạo thành lập các ủy ban quản lý xí nghiệp để thực hiện kế hoạch sản xuất, chiến đấu. Phục vụ chiến trường Nam Trung Bộ và Đắc Lắc, trong chiến dịch Hè 1953 Phú Yên đã huy động 12.000 lượt công nhân, dân công, với hàng triệu ngày công sử dụng 55 ghe thuyền, 71 xe bò, 600 ngựa chở vũ khí, lương thực cho chiến trường. Riêng trong tháng 4 năm 1954 Phú Yên đã huy động 1.752 người và 551 ngựa thồ.


(1) Đại tướng Võ Nguyên Giáp với chiến dịch Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội nhân dân, H, 2004, tr. 535.
(2) Công tác đảng, công tác chính trị lực lượng vũ trang Quân khu 5 (1945-2000), tập 1, Sđđ, tr. 485.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM