Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 10:10:53 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quân sự  (Đọc 7154 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #80 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2021, 07:04:35 am »

c) Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh còn được bổ sung từ tinh hoa quân sự Đông Tây, kim cổ

Ở phương Đông, các tinh hoa triết học, chính trị và quân sự của Trung Hoa cổ được Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu, tìm hiểu. Người nắm vững ngôn ngữ bản địa của các tác phẩm trên đây tới mức có thể đối thoại như một người Trung Quốc, có thể làm thơ như một thi sĩ Hán - Đường. Ở phương Tây, từ vốn tiếng Pháp được học tới bậc trung học ở trường Quốc học Huế, Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng tự trang bị cho mình rất nhiều ngoại ngữ làm công cụ cần thiết để tiếp xúc, tìm hiểu, nghiên cứu đặng thâu nạp một cách chọn lọc nguồn tri thức từ tinh hoa quân sự thế giới.


Nhiều tác giả khi nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cắt nghĩa việc Nguyễn Tất Thành chọn đường sang Pháp vì muốn tìm hiểu xem đằng sau những tiêu ngữ Tự do - Bình đẳng - Bác ái của nền Cộng hoà Pháp còn ẩn giấu cái gì. Đi sâu tìm hiểu quá trình trưởng thành của người thanh niên yêu nước làng Sen, người ta thấy rõ hơn tác dụng cuốn hút của các nhà tư tưởng Pháp trong các tác phẩm được truyền bá của Vônte, Điđơrô, Môngtexkiơ, đặc biệt của Giăng Giắc Rútxô với tập "Khế ước xã hội" đối với Nguyễn. Chẳng hạn như trong Khế ước xã hội, G. Rútxô từng viết: "Con người vốn sinh ra tự do nhưng đâu đâu cũng bị trói buộc trong xiềng xích. Người này tưởng mình là chủ của kẻ khác nhưng chính anh ta lại để cho mình còn bị nô lệ hơn họ... Khi một dân tộc bị (sức mạnh) ép phải phục tùng thì họ phục tùng là đúng. Ngay sau khi có thể rũ bỏ ách thống trị, họ liền rũ bỏ thì họ càng đúng hơn... Những kẻ nô lệ để mất tất cả trong xiềng xích, đến cả lòng ham muốn thoát khỏi tình cảnh đó... Nếu có những nô lệ bẩm sinh, chính vì đã có những nô lệ không bẩm sinh. Sức mạnh (của kẻ thống trị) đã tạo ra những nô lệ đầu tiên, sự hèn nhát của chính họ đã biến họ thành nô lệ vĩnh viễn... Vì kẻ mạnh hơn luôn luôn là kẻ có lý, chỉ còn lại vấn đề làm cách gì để mình thành kẻ mạnh hơn". Những tư tưởng cổ vũ cho cuộc đấu tranh tự giải phóng đó chắc chắn đã là một trong số những động lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành không hướng theo con đường đi cầu viện nước ngoài của các bậc tiền bối (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh) mà lúc bấy giờ đang được nhiều người ngưỡng mộ.


Nguyễn Ái Quốc đã chọn nước Pháp là một trong những chiếc nôi của cách mạng tư sản để sang tìm hiểu và chính ở đó, Người đã tìm thấy con đường để biến dân tộc mình thành "kẻ mạnh hơn" những thế lực thống trị và xâm lược. Qua các lục địa Âu, Mỹ, Á... Nguyễn Ái Quốc rất chú trọng tìm hiểu, nghiên cứu tinh hoa quân sự thế giới, nghiên cứu về chiến tranh du kích. Năm 1941, trong Hội nghị Trung ương lần thứ 8, Người giải thích:

"Du kích là một cách chiến tranh của dân chúng dùng khí giới ít và kém chống với đế quốc có khí giới tốt và nhiều. Khởi nghĩa thắng lợi một phần là do du kích tổ chức có vững vàng hay không, phát triển rộng rãi hay không”. Tiếp đó, từ 1942 đến 1945, Người đã liên tục viết 4 tập sách khác nhau về "chiến thuật du kích", mà ở những tác phẩm này, có thế thấy Người không bỏ qua kinh nghiệm đánh du kích của người Tây Ban Nha chống Pháp thế kỷ XIX, của người Mỹ chống quân Anh thế kỷ XVIII.


Trên báo Cứu Quốc từ tháng 5 đến tháng 12-1945, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc, Người viết một loạt bài về quân sự (ký Q.T và Q.Th), kết hợp binh thư cổ với kiến thức quân sự hiện đại như "biết mình, biết người", "thiên thời, địa lợi, nhân hoà", "tướng giỏi, quân nhu đầy đủ", "phương pháp dùng gián điệp", "bàn về địa hình", "địa thế”, "tóm lược 12 điều về chiến thuật". Tất cả những nội dung này toát lên sự quán triệt quan điểm thực tiễn theo hoàn cảnh Việt Nam, bám sát những tri thức rút ra từ Đại chiến thế giới thứ hai. Ví dụ, Người viết: "Chiến tranh ngày nay đánh ở mặt sau, đánh về kinh tế, về chính trị tinh thần cũng không kém phần quan trọng như đánh ngoài mặt trận"... "Trước kia chỉ có quân đội đánh nhau ở tiền tuyến và trên mặt đất hay trên mặt nước nên người ta gọi là bình diện chiến tranh. Ngày nay đánh nhau cả ở trên không và cả ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương nên người ta gọi là lập thể chiến tranh"1 (Lập thể: theo hình lập phương, với không gian 3 chiều). Trước kia chỉ đánh nhau về quân sự nhưng ngày nay đánh nhau về đủ mọi mặt: quân sự, kinh tế, chính trị, tư tưởng nên người ta gọi là "toàn diện chiến tranh"... "Chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được...". "Chiến tranh về mặt văn hoá tư tưởng so với những mặt khác cũng không kém quan trọng. Ngày nay về quân sự, người ta coi phương pháp tuyên truyền là một lợi khí sắc bén nhất"... "Động viên kinh tế, tập trung hết thẩy nhân, vật, tài lực cho kháng chiến".


Vào thời điểm đó, Đại chiến thế giới thứ hai vừa kết thúc (tháng 8-1945). Mặc dù các kinh nghiệm của Liên Xô tổng kết chưa thể phổ biến đến Việt Nam nhưng những kiến thức trên đây của Người đã thể hiện rõ sự quán triệt quan điểm chiến tranh nhân dân của chủ nghĩa Mác - Lênin với việc cập nhật các tri thức về chiến tranh hiện đại.


Đối với nền văn hoá của Trung Hoa cổ, bao gồm trong đó văn hoá quân sự, mọi tinh hoa đều được Người khai thác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biên dịch "Phép dùng binh của Tôn Tử" và được Chính trị cục xuất bản năm 1947. Nhiều luận điểm trong Kinh Thư, Kinh Thi, Luận Ngữ của Khổng Tử, hoặc trong sách Đại học của Mạnh Tử cũng được ứng dụng với nội dung phù hợp với thời đại mới và đó là một trong những nhân tố góp phần hình thành tư tưởng chính trị - quân sự Hồ Chí Minh. Những định đề như: "Ý dân là ý trời, trời thương dân, dân muốn gì trời cũng theo" (Kinh Thư); "Đủ lương thực, đủ binh lính - Dân tin. Dân không tin, không thể đứng vững" (Kinh Thi), "Dân là quý, đất nước ở hàng sau, vua là nhẹ” (Mạnh Tử) đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyền thành luận điểm: "Dân là chủ, lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết". Những lời căn dặn tướng lĩnh về "thiên thời, địa lợi, nhân hoà" về "nhân, tín, trí, dũng, liêm, trung” về "trung với Đảng, hiếu với dân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều tiếp thu có chọn lọc từ các luận điểm của Tôn Tử, Khổng Tử, dĩ nhiên là đã được cải đổi cho phù hợp với quan điểm cách mạng.


Nhìn chung lại, tư tưởng Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam làm nền tảng, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm thế giới quan và phương pháp luận, đồng thời đã tiếp nhận có chọn lọc mọi tinh hoa quân sự thế giới.


d) Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh được bổ sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh lấy việc chỉ đạo cách mạng Việt Nam làm mục đích, đồng thời thực tiễn cách mạng Việt Nam lại cũng là thước đo để kiểm nghiệm tính hiện thực và hiệu quả của chính tư tưởng đó.


Trước hết, dưới ánh sáng của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và do sự tổ chức thực tiễn của Người, đội ngũ cán bộ quân sự của cách mạng Việt Nam với nhãn quan nhìn xa thấy rộng đã hình thành, đảm bảo cho cuộc cách mạng Việt Nam không bị thiếu hụt những nhà lý luận quân sự, những tướng lĩnh cầm quân khi yêu cầu cách mạng đòi hỏi. Trong thực tế, tất cả đội ngũ cán bộ cách mạng, cán bộ quân sự được Chủ tịch Hồ Chí Minh đào tạo, dìu dắt đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là nền tảng của đường lối quân sự của Đảng. Tư tưởng và đường lối đó đã được vận dụng sáng tạo trong quá trình chuẩn bị cuộc Cách mạng tháng Tám, thành lập các lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng căn cứ địa, phát động khởi nghĩa bộ phận, tiến hành chiến tranh du kích, tiến lên chỉ đạo Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Tư tưởng và đường lối đó tiếp tục được vận dụng vào cuộc đấu tranh kiên quyết và khôn khéo của Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo để phá vỡ sự câu kết giữa thù trong với giặc ngoài; vào việc chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và chống đế quốc Mỹ (1954-1975).


Quan điểm đánh giặc bằng sức mạnh tổng hợp trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự là một quan điểm rất đặc sắc, phát triển từng bước qua hai cuộc kháng chiến. Nó bắt nguồn từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” được vận dụng, nâng lên từng bước một cách thiết thực và vững chắc, mở đầu bằng việc phát động phong trào thi đua ái quốc nhằm thực hiện khẩu hiệu toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, phát triển sâu rộng đến mức trở thành nếp sống của mọi lực lượng, mọi tổ chức trong toàn xã hội. Đến thời kháng chiến chống Mỹ, sức mạnh toàn dân, toàn diện đã được những người lãnh đạo chỉ huy các cấp vận dụng thành thục trên mọi lĩnh vực, biến thành sức mạnh tổng hợp to lớn đánh thắng các lực lượng quân sự khổng lồ của đối phương, góp phần quyết định bẻ gãy ý chí xâm lược của chúng.


Như thế là, cơ sở hình thành đường lối quân sự Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, qua thực tiễn cách mạng và kháng chiến, chẳng những đã được kiểm nghiệm mà hơn thế, ngày càng được được bổ sung, hoàn chỉnh, trở thành nền tảng của mọi thắng lợi to lớn cùa các hoạt động quân sự đánh bại kẻ thù xâm lược.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #81 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2021, 07:06:33 am »

3. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

Quá trình hình thành phát triển tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh gắn với cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người, không tách rời phong trào cách mạng trong nước và trên thế giới từ những năm hai mươi đầu thế kỷ XX cho đến khi Người mất vào cuối những năm 60 thế kỷ XX. Có thể chia quá trình hình thành phát triển đó thành 3 thời kỳ rõ rệt:


a) Thời kỳ phát triển từ chủ nghĩa yêu nước thành chủ nghĩa quốc tế công nhân, tiến tới chủ trì thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (khoảng từ trước 1920 tới 1930)

Khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc mang theo ý chí chiến đấu chống thực dân Pháp của lớp người bị đàn áp và bóc lột đến cùng cực trong xã hội Việt Nam. Tự thân ý chí phản kháng quyết liệt chống kẻ thống trị dân tộc ấy ở Người cũng đã cho thấy mầm mống tư tưởng quân sự, in đậm dấu ấn các cuộc khởi nghĩa từ Hương Khê, Bãi Sậy tới Yên Thế, Thái Nguyên, tuy chưa tìm được phương thức có hiệu quả để đánh bại nền thống trị của thực dân đế quốc.


Từ việc gia nhập Đảng Xã hội Pháp vào năm 1919 đến việc trở thành đảng viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, bỏ phiếu gia nhập Quốc tế thứ ba (cuối năm 1920), Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước tiến tới chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính và gắn bó chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.


Trong suốt một thập kỷ vừa hoạt động thực tiễn vừa đấu tranh lý luận đó, Nguyễn Ái Quốc từ người đi tìm đường cứu nước đã trở thành người tham gia vạch đường đấu tranh giải phóng các thuộc địa, người động viên và liên kết sức mạnh của các dân tộc bị áp bức; người có đủ kinh nghiệm và uy tín để hướng dẫn phong trào cách mạng trong nước hướng theo chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp công nhân, nhưng lại nắm rất vững những nét riêng của các dân tộc ở thuộc địa, không áp dụng máy móc những bài học giải quyết mối mâu thuẫn đối kháng giữa vô sản và tư sản ở các nước tư bản.


Bước nhảy vọt ấy trên con đường hoạt động cách mạng của Người dẫn tới việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên có nòng cốt cộng sản. Tiếp đó, Người đã trực tiếp chỉ đạo sự hợp nhất ba tổ chức cộng sản tiền thân thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc ra đời một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước kết thúc giai đoạn tìm đường của cách mạng Việt Nam, là đáp số đã tìm ra của một phương thức tiến công bộ máy thống trị của thực dân Pháp: phương thức đi từ phong trào cách mạng rộng rãi của nhân dân lao động, lấy công nhân và nông dân làm quân chủ lực tiến công địch chứ không phải bắt đầu từ các đội nghĩa quân trực tiếp đương đầu với các đội quân chiếm đóng của chủ nghĩa thực dân; bắt đầu từ cuộc tiến công vào nền tảng chính trị của chế độ cai trị, vào đầu não của bộ máy chỉ huy quân sự của chế độ ấy chứ không phải vào lực lượng quân sự địch. Phương thức ấy làm chuyển biến quan điểm bạo lực truyền thống chống đế quốc của dân tộc Việt Nam thành quan điểm bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặt các hoạt động quân sự vào quỹ đạo đích thực của nó: đấu tranh vũ trang phát triển từ đấu tranh chính trị, quân sự phục tùng chính trị.


b) Thời kỳ chống giáo điều, "tả" khuynh, kiên định quan điểm đúng đắn về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa (từ 1930 đến 1941)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, cả về quân sự, biểu hiện nổi bật trong Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5-1941) đặt sự nghiệp giải phóng dận tộc lên hàng đầu, đặt quyền lợi giai cấp (là bộ phận) phục tùng quyền lợi của toàn dân tộc, xúc tiến chuẩn bị cuộc vũ trang khởi nghĩa theo hướng khởi nghĩa toàn dân, thực chất là khởi nghĩa dân tộc phát triển thành chiến tranh giải phóng, không giống quan điểm "khởi nghĩa giai cấp, biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng" đã từng diễn ra ở nước Nga. Để tiến tới một quan điểm rõ ràng như thế, được toàn Đảng, toàn dân nhất trí tiến hành, Hồ Chí Minh đã phải trải qua một quá trình đấu tranh rất gay gắt ngay trong nội bộ cơ quan chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản vốn là một tổ chức mà trong điều kiện lúc bấy giờ, có quyền chi phối quan điểm của các Đảng Cộng sản trong mỗi nước.


Đối với Quốc tế Cộng sản, việc chỉ đạo chiến lược cách mạng cho các nước thuộc địa và phụ thuộc ở phương Đông là một chủ đề lớn trong đó có chiến lược cách mạng ở Trung Quốc là nước có dân số lớn nhất thế giới, ở đó nếu cách mạng thành công sẽ tác động rất lớn đến so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng trên toàn thế giới.


Cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc và việc thành lập Quốc dân Đảng của Tôn Trung Sơn đã dẫn đến một thời kỳ "liên Nga, thân cộng, ủng hộ công nông" của chính phủ Nam Kinh từ năm 1919. Nhưng sự phản bội của Tưởng Giói Thạch vào năm 1923 đã đẩy Quốc tế Cộng sản tới việc lên án tất cả mọi chủ trương liên kết với giai cấp tư sản dân tộc, phê phán và phủ định tinh thần "đoàn kết dân tộc" của Cương lĩnh và Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc đề xuất trong hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Hương Cảng tháng 2-1930.


Từ hội nghị Trung ương Đảng họp tại Hương Cảng tháng 10-1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, để khắc phục "khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa", Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên thành "Đảng Cộng sản Đông Dương", chính cương, điều lệ của Đảng được hướng theo quan điểm "cách mạng giai cấp chống giai cấp, đấu tranh giành chính quyền, thực hiện chuyên chính vô sản" như đối với cách mạng ở các nước tư bản. Quán triệt tinh thần ấy, Xứ uỷ Trung Kỳ nêu khẩu hiệu: "Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" để chỉ đạo Xô-viết Nghệ - Tĩnh...


Tinh thần đó kéo dài tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất (tháng 3-1935) tại Ma Cao. Ngay sau khi kết thúc Đại hội ngày 31-3-1935, ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Quốc tế Cộng sản bản báo cáo diễn biến Đại hội, trong đó có đoạn viết: "Ở Đông Dương, những tổ chức cộng sản đã tiến hành một cuộc đấu tranh công khai chống những tàn dư của hệ tư tưởng dân tộc chủ nghĩa pha lẫn chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm của Thanh niên cách mạng đồng chí hội và của đồng chí Nguyễn Ái Quốc"1 (Dẫn theo PTS Đỗ Quang Hưng: Chủ tịch Hồ Chí Minh những năm 1934-1938 rọi sáng cho vấn đề dân tộc hay quốc tế. Tạp chí Lịch sử Đảng số 3-1996, tr.29).


Từ sau khi bị bắt tại Hương Cảng năm 1931 cho đến mùa xuân 1934 trở lại Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc vào học trường Quốc tế Lênin năm học 1934-1935 rồi lại được tuyển chọn làm nghiên cứu sinh của Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, dự kiến đến cuối năm 1937 viết luận án "Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam châu Á" trong thời gian đó, Người hầu như không được giao bất cứ công tác nào của Bộ phương Đông cho tới Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản khai mạc ngày 25-7-19351 (Đại hội gồm 513 đại biểu thay mặt 3 triệu 14 vạn đảng viên của 76 Đảng và tổ chức Cộng sản toàn thế giới. Có mặt những nhà hoạt động nổi tiếng như Xtalin, Đimitrốp, Côlarôp, Cuxinen, Casanh, Tôrê, V.Pich, Unbrich, Tôgliati, Bêlacun, Manuinxki, Nôxaca Xanđô, H.Pôlit, U.Phô-xtơ, Xmê-ran, Ibaruri, Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong là trưởng đoàn đại biểu Đ.C.S.Đ.D). Bản báo cáo chính trị quan trọng của G.Đimitrốp nói về nguy cơ chủ nghĩa phát xít và nhiệm vụ đấu tranh cho sự thống nhất giai cấp công nhân, quyết định xây dựng Mặt trận thống nhất chống phát xít ở phương Tây và Mật trận nhân dân chống đế quốc ở phương Đông, đã uốn nắn đường lối "tả khuynh" đang lưu hành trong phong trào Cộng sản quốc tế.


Đồng chí Lê Hồng Phong trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương đọc tham luận vể phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo, tự phê bình về tư tưởng "ấu trĩ tả khuynh" của ”ban lãnh đạo hải ngoại" và xác nhận khả năng thực hiện "Mặt trận nhân dân chống đế quốc" của tất cả các dân tộc Đông Dương.


Trong phiên họp tối 16-8, Nguyễn Ái Quốc đọc tham luận, tiếp tục làm rõ vị trí cuộc đấu tranh của nhân dân thuộc địa chống nguy cơ phát xít. Quan điểm mà Nguyễn Ái Quốc giữ vững từ Chính cương, Điều lệ vắn tắt từ tháng 2-1930 đến đó được xác minh là đúng. Sau Đại hội, Người nhắc nhở đoàn đại biểu ta về nước nhanh chóng phổ biến tinh thần Nghị quyết Đại hội quốc tế, kịp thời khắc phục bệnh tả khuynh, hẹp hòi. Ở Bộ phương Đông, Người nhận thêm nhiệm vụ giảng dạy nhóm học sinh Việt Nam ở "Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa"... Cho tới tháng 9-1938 đề nghị về nước của Nguyễn Ái Quốc được đích thân Chủ tịch Chủ tịch đoàn Quốc tế Cộng sản Đimitrốp chấp nhận, đồng chí Manuinxki thay mặt Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản trực tiếp đưa tiễn Người rời Mátxcơva tại ga xe lửa Iarôlépxki...


Với tư cách là cán bộ cao cấp của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc có mặt ở trụ sở Bát lộ quân Trung Quốc tại Lan Châu (Thiểm Bắc) rồi tới Diên An. Là khách của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Người được tạo điều kiện để về Quế Lâm (Quảng Tây) hoạt động. Người bắt liên lạc với cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Côn Minh (Vân Nam). Trong điều kiện chính quyền cả ở Trung Quốc và ở Việt Nam đều chưa nằm trong tay các lực lượng cách mạng, cuộc hành trình của Người qua các địa phương Trung Quốc để trở về Tổ quốc phải mất trên hai năm. Cho tới dịp Tết Nguyên đán năm 1941. Người mới đặt chân tới Pắc Bó, Cao Bằng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #82 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2021, 07:07:03 am »

c) Thời kỳ trực tiếp lãnh đạo cách mạng Vỉêt Nam (từ 1941 đến 1969)

Tháng 5-1941, Người chủ trì hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (khoá I). Được sự hậu thuẫn vững chắc của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam ngày càng phát triển. Lúc này, trên thế giới, nguy cơ chủ nghĩa phát xít đã bộc lộ từ cuộc nội chiến đẫm máu do Phrăngcô gây ra ở Tây Ban Nha vào mùa hè 1936. Cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai đã nổ ra từ đầu tháng 9-1939. Trên mặt trận Tây Âu, phát xít Đức đã chiếm nước Pháp, thiết lập chính quyền Vi-si làm tay sai cho Đức. Trục Đức - Ý - Nhật đã hình thành từ tháng 9-1940. Trước đó một tháng, phát xít Nhật đã gửi tối hậu thư cho chính quyền Pháp và Đông Dương đòi nắm quyền kiểm soát. Trên chiến trường châu Âu, Liên Xô đã chiếm miền Đông Ba Lan, Phần Lan và các nước ven biển Bantích... Tình hình thế giới hết sức căng thẳng, đang chuyển biến mau lẹ.


Vấn đề đặt ra một cách cấp bách cho cách mạng Việt Nam lúc đó là phải kịp thời tổ chức và tập hợp mạnh mẽ các lực lượng cách mạng trong nước, bám sát diễn biến của chiến sự đang tác động trực tiếp đến vận mệnh xứ Đông Dương, dự đoán thời cơ và tranh thủ thời cơ, kết hợp tốt những nỗ lực chủ quan với những biến động khách quan, giành cho được chính quyền trong cả nước, tạo ra thế mới và lực mới để sẵn sàng đánh bại những đòn phản công quyết liệt của thực dân xâm lược.


Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm tư tưởng quân sự của Người trong suốt thời kỳ tiền khởi nghĩa đã được vận dụng một cách cực kỳ linh hoạt, sáng tạo vào việc chỉ đạo và tổ chức một loạt các nội dung lớn nhằm chuẩn bị mọi mặt tiến tới chớp thời cơ "nghìn năm có một", giành lại tự do độc lập cho dân tộc sau ngót trăm năm mất nước. Lực lượng được chuẩn bị, căn cứ địa được xây dựng và mở rộng, Mặt trận đoàn kết dân tộc được tăng cường. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời mà Chỉ thị thành lập của lãnh tụ Hồ Chí Minh là một mẫu mực về cương lĩnh quân sự cách mạng ở một xứ thuộc địa. Toát lên trong chỉ thị đó là tư tưởng lớn: muốn có đủ sức mạnh chống lại kẻ thù phải gắn chặt quân đội với nhân dân, gắn chặt quân sự với chính trị, bộ đội chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương... dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng Cộng sản.


Cách mạng tháng Tám thành công là minh chứng sinh động của một mẫu hình cách mạng "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” ở thuộc địa. Cuộc cách mạng đó thực hiện triệt để bước chuyển biến đưa dân tộc Việt Nam trở thành một nước tự do và độc lập, đưa nhân dân Việt Nam từ kẻ nô lệ thành người tự do, mỗi người đứng dậy tự quyết định lấy vận mệnh của mình.


Sự chỉ đạo chiến lược sắc sảo của Đảng, Nhà nước ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Cách mạng tháng Tám tới ngày toàn quốc kháng chiến đã lần lượt vô hiệu hoá hàng loạt đối thủ muốn biến Việt Nam thành miếng mồi xâu xé, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ vượt qua bao thử thách chông gai, ngày càng phát triển vững chắc, giành thắng lợi vang dội vào mùa Xuân 1975, thu non sông về một mốỉ, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.


Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm tư tưởng quân sự, trong suốt những tháng năm ấy chẳng những là ánh sáng soi đường, chỉ lối cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đi tới mà còn được bổ sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn đấu tranh, trở thành tài sản vô giá của dân tộc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #83 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2021, 07:58:50 pm »

II- NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH

1. Quan điểm "quân sự lấy chính trị làm gốc", "quân sự phải phục tùng chính trị"

Nắm vững nguyên lý "chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực" và không có cuộc chiến tranh nào không mang tính mục đích chính trị và tính giai cấp, Hồ Chí Minh hết sức coi trọng việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quân sự và chính trị, chiến tranh và chính trị. Người khẳng định vai trò quyết định, chỉ đạo của chính trị trong mọi hoạt động quân sự, từ việc vạch ra đường lối chiến lược, phát động và tập hợp quần chúng đấu tranh vũ trang, xây dựng và sử dụng lực lượng đến việc củng cố hậu phương, căn cứ địa; nâng cao trạng thái chính trị, tinh thần của quân đội... Bởi vì: "Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr.318). Điều đó có nghĩa là, mọi tổ chức và mọi hoạt động quân sự đều phải quán triệt và tuân theo sự chỉ đạo của đường lối chính trị, phải thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của cách mạng.


Mục tiêu chính trị của cuộc cách mạng mà Hồ Chí Minh và chính đảng vô sản do Người sáng lập và lãnh đạo, được xác định là: "Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người"; là "độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội"; là làm cho đất nước hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, mọi người được ấm no, hạnh phúc. Mục tiêu chính trị đó vừa phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Theo mối liên hệ bản chất giữa tư tưởng cách mạng và các bộ phận hợp thành, mục tiêu cách mạng trên đồng thời cũng quy định tính chất, mục đích yêu nước, tiến bộ và chính nghĩa của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo. Mục tiêu lâu dài của cách mạng được thể hiện thành mục đích chính trị của mỗi cuộc chiến tranh cụ thể: độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, tiến lên chủ nghĩa xã hội trong kháng chiến chống thực dân Pháp; bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước...


Vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định, mọi hoạt động quân sự và xây dựng lực lượng quân sự phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân của Đảng, phải được đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp về mọi mặt của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân. Người chỉ rõ: "Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, sđd, tr.350). Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đó là nguyên tắc cao nhất và là nhân tố quyết định sự trưởng thành, sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang và quân đội ta.


Tuy nhiên, khi đề ra luận điểm "quân sự phục tùng chính trị", Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, đối với quân sự thì "chính trị biểu hiện ra trong lúc đánh giặc"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, sđd, tr.318). Điều đó cũng có nghĩa là, quân sự phục tùng chính trị không phải là chính trị chung chung, mà phải thể hiện ở việc giải quyết thắng lợi các vấn đề quân sự, nhằm đạt được mục đích chính trị của chiến tranh, mục tiêu của cách mạng.


Quan điểm "quân sự lấy chính trị làm gốc", "quân sự phục tùng chính trị” là quan điểm cốt lõi của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo mọi lực lượng, mọi hoạt động quân sự của Đảng và nhân dân ta trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng.


Thực tiễn thắng lợi của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng ở nước ta, của việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong hơn nửa thế kỷ qua, đã chứng minh quan điểm trên của Người có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Nó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn trong chiến tranh, mà còn có ý nghĩa chỉ đạo công cuộc củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang trong hoà bình, kết hợp xây dựng đất nước với bảo vệ Tổ quốc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #84 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2021, 07:59:49 pm »

2. Quan điểm "dân là gốc", "dân làm chủ".

Thấm nhuần nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò quần chúng trong lịch sử và kế thừa truyền thống "lấy dân làm gốc" của dân tộc, Hồ Chí Minh trước sau như một đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng nói chung, trong đấu tranh quân sự nói riêng. Theo Người, "dân là gốc", "có dân là có tất cả". Đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng đều là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân.


Quan điểm "dân là gốc" và "dân làm chủ" trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh thể hiện rõ rệt ở việc tổ chức, xây dựng lực lượng của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Người chủ trương động viên và tổ chức hết thẩy mọi lực lượng giai cấp và tầng lớp yêu nước của cả dân tộc, kể cả kiều bào ở nước ngoài tham gia. Người kêu gọi: "Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sđd, tr.507, 554) và "động viên toàn dân, vũ trang toàn dân”2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sđd, tr.507, 554), tiến hành khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân, lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến, đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước và xây dựng cuộc sống mới do nhân dân làm chủ.


Khi miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiên trì quan điểm nhân dân, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với an ninh nhân dân, thực hiện toàn dân xây dựng đất nước và toàn dân làm quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Người chỉ rõ: "Chống bọn xâm lược và bọn phá hoại là nhiệm vụ của quân đội, của công an nói riêng và toàn dân nói chung, là nhiệm vụ mà quân đội và công an phải dựa vào nhân dân mới hoàn thành được tốt"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, sđd, tr.404-405). Điều đó cho thấy, khởi nghĩa toàn dân, kháng chiến toàn dân, và quốc phòng toàn dân thể hiện đậm nét tư tưởng Hồ Chí Minh về "dân là gốc”, "dân làm chủ” trong quân sự, trong cả khởi nghĩa, chiến tranh và quốc phòng.


Quan điểm "dân là gốc" và "dân làm chủ" cũng thể hiện rõ nét trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân. Hồ Chí Minh chủ trương "người trước súng sau", từ phong trào chính trị của quần chúng mà tổ chức và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân. Quân đội nhân dân, các lực lượng vũ trang nhân dân là từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Đó là đội quân thực sự của dân, do dân và vì dân. Người chỉ rõ: "Dân như nước quân như cá. Phải làm cho dân hết sức giúp đỡ"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, sđd, tr.207) thì mới đánh thắng giặc và chỉ có dựa chắc vào dân, các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân mới có nền tảng vững chắc để trưởng thành, lớn mạnh. Nhân dân chính là nguồn sức mạnh vô tận của quân đội nhân dân, của lực lượng vũ trang nhân dân.


Trong chỉ đạo nghệ thuật quân sự của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương phát huy tinh thần yêu nước, trí thông minh sáng tạo của mọi người dân Việt Nam, tham gia đánh giặc bằng mọi hình thức, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, đánh giặc ở trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao và ở mọi lúc, mọi nơi. Người kêu gọi: "Mỗi công dân là một chiến sĩ, mỗi làng là một chiến hào"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, sđd, tr.151) tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân sâu rộng, liên tục vây hãm, tiêu hao, tiêu diệt quân xâm lược. Cuộc chiến tranh nhân dân thực sự phát triển đến đỉnh cao, trong đó toàn dân tham gia đánh giặc, đánh giặc bằng mọi phương tiện và trên mọi lĩnh vực càng thể hiện rõ vai trò "dân là gốc" và "dân làm chủ" trong quân sự và trong chiến tranh.


Đặc biệt "dân là gốc" và "dân làm chủ" được thể hiện rõ nét nhất trong lĩnh vực xây dựng hậu phương, căn cứ địa - Quần chúng nhân dân là người che chở bảo vệ cán bộ và các đoàn thể cách mạng; là người làm ra của cải vật chất, cung cấp sức người, sức của cho khởi nghĩa và chiến tranh, phục vụ tiền tuyến và bảo đảm chiến đấu. Vai trò của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ, phát triển căn cứ địa, hậu phương được Hồ Chí Minh tổng kết: "Kháng chiến trường kỳ thì quân đội phải đủ súng, đủ đạn, quân và dân phải đủ ăn, đủ mặc. Nước ta nghèo, kinh tế ta kém, những thành phố có chút công nghiệp đều bị giặc chiếm. Chúng ta phải dùng tinh thần hăng hái của nhân dân để tìm cách giải quyết sự thiếu kém vật chất"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, sđd, tr.163).


Rõ ràng, "dân là gốc" và "dân làm chủ" là một quan điểm cốt lõi của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Đó là nguồn sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, của lực lượng vũ trang nhân dân ta trong suốt mấy chục năm qua. "Dân là gốc" và "dân làm chủ" củng là nguồn sức mạnh vô địch của nền quốc phòng toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #85 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2021, 08:01:24 pm »

III- NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC LĨNH VỰC HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ CHỦ YẾU

1. Về khởi nghĩa vũ trang toàn dân, chiến tranh toàn dân và quốc phòng toàn dân

Thấu hiểu sâu sắc bản chất của chế độ thực dân ở nước thuộc địa nửa phong kiến, lại được tiếp thu quan điểm bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã chỉ rõ con đường giành chính quyền ở Việt Nam phải bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Họa sĩ Thuỵ Điển Êrích Giôhanxơn trong một lần gặp gỡ với Người ở Mátxcơva (tháng 9 năm 1924) đã kể lại: "Nguyễn Ái Quốc đã suy nghĩ về sự giải phóng nước Việt Nam bằng khởi nghĩa vũ trang. Nguyễn cho rằng việc giải phóng đất nước không thể thực hiện bằng cải cách dần dần hay thông qua một sự giải phóng dân tộc từ trên xuống. Nguyễn thấy một cuộc đảo chính đơn giản không thể thực hiện được sự nghiệp giải phóng. Nguyễn nói chuyện rất say sưa về việc tổ chức càng nhiều càng tốt những nhóm vũ trang của nông dân và công nhân Việt Nam. Đó là những tế bào hợp thành hạt nhân của cuộc khởi nghĩa mà Nguyễn tin chắc rằng sẽ nổ ra"1 (Báo Nhân Dân ngày 15-5-1980). Cùng năm đó, trong "Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ", Người dự báo một cuộc khởi nghĩa vũ trang sẽ nổ ra ở Việt Nam và nêu rõ: "Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng, chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1,sđd,  tr.468).


Từ khi Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5 năm 1941), vấn đề khởi nghĩa vũ trang được để cập một cách đầy đủ và toàn diện. Trên vấn đề này, Người xác định: cuộc cách mạng hiện tại ở Việt Nam là một cuộc vận động giải phóng dân tộc, "phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Tư tưởng Hồ Chí Minh vể khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam có bước phát triển mới với một số điểm nổi bật sau:

- Một là, cuộc khởi nghĩa giải phóng dân tộc phải do toàn dân tiến hành, lấy liên minh công nông làm lực lượng nòng cốt. Người kêu gọi toàn dân đoàn kết, từ "các chiến sĩ cách mệnh", "các bậc phụ huynh", "các bậc hiền nhân, chí sĩ”, "các bạn công, nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương, đến các bậc phú hào yêu nước, thương nòi"; hễ có cơ hội là vùng lên "đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian, đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi, lửa nóng".

- Hai là, khởi nghĩa vũ trang là nhân dân nổi dậy dùng vũ khí đánh đuổi quân cướp nước để giành lấy chính quyền. Đó là một cuộc đấu tranh về chính trị và quân sự. Trên thực tế, thời kỳ này, Người đã trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị lực lượng, tổ chức địa bàn khởi nghĩa, nắm chắc thời cơ, kết hợp chặt chẽ hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự.

- Ba là, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Hồ Chí Minh cho rằng, khác với khởi nghĩa vũ trang ở các nước Âu - Mỹ thường tiếp nối sau các cuộc đấu tranh chính trị, ở Việt Nam, khởi nghĩa có thể nổ ra ở một vài nơi rồi lan dần ra khắp cả nước. Người yêu cầu khởi nghĩa ở các địa phương phải đặt trong phong trào cách mạng rộng khắp của cả nước, đặc biệt phải luôn luôn hướng tới tổng khởi nghĩa để giành chính quyền. Tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám đã khẳng định khi thời cơ đến, "với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể giành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".

- Bốn là, sau khi khởi nghĩa thắng lợi phải thành lập ngay chính quyền cách mạng của nhân dân. Đó là chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Chính quyền đó có nhiệm vụ thủ tiêu hoàn toàn bộ máy nhà nước cũ, diệt trừ bọn phản động, ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân, thành lập quân đội để tiếp tục chiến đấu và giữ gìn thành quả cách mạng.


Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, ra đời đã chứng minh tính sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa vũ trang giải phóng dân tộc trong thời đại mới.


Vừa giành được chính quyền, nhân dân ta đã phải tiến hành liên tục hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược để bảo vệ thành quả cách mạng. Trong điều kiện lịch sử mới, từ khởi nghĩa vũ trang chuyển sang chiến tranh cách mạng, tư tưởng khởi nghĩa vũ trang toàn dân của Hồ Chí Minh phát triển thành tư tưởng chiến tranh nhân dân, làm cơ sở cho đường lối kháng chiến của Đảng ta.


Theo Hồ Chí Minh, chiến tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam phải là: toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, kháng chiến trường kỳ và dựa vào sức mình là chính. Đây là nội dung cơ bản của chiến tranh nhân dân ở một nước thuộc địa, kinh tế chậm phát triển chống lại chiến tranh xâm lược của bọn thực dân, đế quốc.


Tư tưởng "toàn dân kháng chiến" của Người được thể hiện rõ ở Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, sđd, tr.480). Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người tiếp tục khẳng định: "Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là một cuộc chiến tranh nhân dân"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, sđd, tr.24, 323). "31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ cứu nước"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, sđd,  tr.444).


Toàn dân kháng chiến phải gắn liền với toàn diện kháng chiến. Để đánh thắng bọn đế quốc xâm lược có lực lượng quân sự, kinh tế mạnh hơn ta gấp bội, Hồ Chí Minh chủ trương kết hợp chặt chẽ các mặt trận, các hình thức đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao; trong đó, đấu tranh quân sự là hình thức chủ yếu. Người kêu gọi: "Mỗi người dân Việt Nam bất kỳ già trẻ, trai gái, bất kỳ giàu nghèo, lớn nhỏ đều cần phải trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên một mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, sđd,tr.444). Thực hiện lời dạy của Người, quân và dân ta đã tiến hành một cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện, đánh địch cả bằng quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong cuộc kháng chiến đó, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi xóm làng, đường phố là một pháo đài, mỗi chi bộ Đảng là một bộ tham mưu... Cả nước biến thành một trận địa bao la, buộc kẻ thù phải đương đầu với sức mạnh tổng hợp to lớn của cả một dân tộc quyết đánh và quyết thắng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #86 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2021, 08:02:10 pm »

Hồ Chí Minh cũng xác định ta phải "trường kỳ kháng chiến". Bởi vì: "Đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện của toàn dân"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, sđd, tr.164). Người chỉ rõ: "Địch muốn dùng cách đánh mau, thắng mau. Nếu chiến tranh kéo dài, hao binh tổn tướng, chúng sẽ thất bại. Vậy ta dùng chiến lược trường kỳ kháng chiến để phát triển lực lượng, tăng thêm kinh nghiệm. Ta dùng chiến thuật du kích, để làm cho địch hao mòn cho đến ngày ta tổng phản công để quét sạch lũ chúng". Chủ trương của Người thể hiện tinh thần triệt để chống đế quốc xâm lược, kiên trì kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng; đồng thời cũng phản ánh đúng quy luật một nước nhỏ, thua kém địch nhiều lần về tiềm lực và sức mạnh quân sự, kinh tế như Việt Nam, muốn giành thắng lợi phải đánh lui địch từng bước, đánh thắng địch từng phần, đi đến thắng lợi hoàn toàn.


Phát huy tinh thần "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" trong Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh chủ trương kháng chiến phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời phải ra sức tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế. Người khẳng định: "Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, sđd, tr.522). Theo Người, tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của dân tộc là cơ sở để "tranh thủ và tận dụng được sự ủng hộ", sự giúp đỡ vê vật chất, tinh thần của các nước anh em, của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp và Mỹ. Người nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là hết sức quan trọng, nhưng không được ỷ lại, dựa dẫm; không để ảnh hưởng đến độc lâp, tự chủ của đất nước.


Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ đã chứng tỏ sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại mới. Trong tác phẩm Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, đồng chí Phạm Văn Đồng viết: "Có lẽ hiếm có ở đâu chiến tranh nhân dân trong thực tế lại đúng với tên gọi của nó như vậy, thực sự sâu rộng trong nhân dân và thực sự vô địch như nhân dân"; và, "Cống hiến lớn nhất của Hồ Chí Minh vào lý luận về phương pháp cách mạng là lý luận về chiến tranh nhân dân"1 (Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, H.1990, tr.142).


Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn tạm thời dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương ra sức xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt làm "nền gốc" cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Để khắc phục nhận thức lầm tưởng hoà bình là thái bình ở một số cán bộ, Người nói rõ: "Trong khi nhận định có khả năng thực hiện thống nhất bằng phương pháp hoà bình ở Việt Nam ta, chúng ta cần phải luôn luôn nhớ rằng kẻ thù của nhân dân ta là đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng còn chiếm giữ một nửa đất nước ta, và chúng đang chuẩn bị chiến tranh, vì vậy chúng ta cần phải luôn luôn nắm vững ngọn cờ hoà bình, nhưng đồng thời phải luôn luôn nâng cao để phòng và cảnh giác"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, sđd, tr.156). Vấn đề xây dựng đi đôi với bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vấn đề củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và quân đội nhân dân được khẩn trương đặt ra ngay sau ngày miền Bắc sạch bóng quân xâm lược.


Tháng 3 năm 1957, Hội nghị lần thứ 12 của Ban chấp hành Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh chủ trì, đã ra nghị quyết về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và thông qua kế hoạch 5 năm xây dựng quân đội (1956-1960). Hồ Chí Minh khẳng định, trong những điều kiện lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta hiện nay, xây dựng và củng cố quốc phòng phải là một bộ phận không thể tách rời của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; và muốn có nền quốc phòng vững mạnh thì "phải dựa vào lực lượng của nhân dân, phải làm cho mỗi người dân hiểu rõ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, sđd, tr.566). Người chủ trương xây dựng một nền quốc phòng thực sự của dân, do dân và vi dân; đó là nền quốc phòng mang bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, của nhà nước dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử chuyên chính vô sản. Nền quốc phòng đó không chỉ bảo vệ Tổ quốc mà còn bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích củã nhân dân, không chỉ chống giặc ngoài mà còn chống cả thù trong, nhằm phục vụ mục tiêu cao cả của nhân dân ta là hoà bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.


Theo tư tưởng của Người, nền quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng do toàn dân xây dựng, dựa vào sức mạnh toàn diện của đất nước, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền quốc phòng đó đảm bảo cho miền Bắc vừa làm được nhiệm vụ là căn cứ địa, hậu phương của cả nước, vừa đủ sức đánh bại mọi mưu đồ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc của đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về quốc phòng được tiếp tục bổ sung, ngày càng hoàn chỉnh và trở thành cơ sở cho đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng ta.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #87 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2021, 08:04:16 pm »

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh nhân dân

Kế tục và phát huy nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc trong điều kiện mối, tư tưởng Hồ Chí Minh vể nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng có bước phát triển mới, rất phong phú và rất đặc sắc.


Đó là nghệ thuật quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công đi đôi với giành thế chủ động trong chiến tranh. Với Hồ Chí Minh, cách mạng là tiến công, khởi nghĩa là tiến công, "chỉ có tiến không có thoái"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, sđd, tr.314). Theo Người, chỉ có tiến công kiên quyết và liên tục mới phát huy được sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, có tiến công mới giành được quyền chủ động; ngược lại, có nắm được quyền chủ động mới đảm bảo phát triển không ngừng thế tiến công. Hồ Chí Minh viết: "Giữ quyền chủ động là khôn khéo sử khiến quân thù1 (Tức là khôn khéo điều khiển quân thù), muốn đánh nó chỗ nào thì đưa nó đến đó mà đánh, muốn đưa nó vào bẫy của mình có thể đưa được... giữ được chủ động thì thế nào cũng thắng, không thắng to thì thắng nhỏ"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sđd, tr.473). Nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công nhưng không phiêu lưu, mạo hiểm mà phải biết tiến công. Đó là tiến công bằng mọi lực lượng, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, ở mọi lúc, mọi nơi và đặc biệt phải biết tiến công vào những nơi hiểm yếu của quân thù. Người chỉ rõ phải biết "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu", "tránh chỗ rắn, nắn chỗ mềm", phải đánh vào những nơi hiểm yếu của chúng. Nơi ấy thường là những nơi lực lượng địch yếu và mỏng, có nhiều sơ hở, hoặc cũng là nơi địch không phát huy được sở trường của chúng, còn ta lại có thể phát huy được ưu thế của mình. Đánh trúng những chỗ yếu, chỗ hiểm của địch, thì lực nhỏ cũng có thể tạo nên hiệu quả lớn.


Trong tư tưởng của Người, chiến lược tiến công không loại trừ phòng ngự khi cần thiết. Người nhấn mạnh: "Bao giờ cũng giữ thế tiến công", nhưng trong điều kiện cụ thể nhất định buộc phải phòng ngự thì phòng ngự cũng phải quán triệt tư tưởng tiến công "chứ không phải rút vào một chỗ để cho quân thù tha hồ đánh phá"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sđd, tr.491). Nghĩa là, muốn giữ, muốn phòng ngự thì phải tìm cách tiến công quân thù một cách có hiệu quả hơn, tiến công vào nơi hiểm yếu của địch, vào lúc chúng chủ quan, sơ hở.


Đó là nghệ thuật tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp để giành chiến thắng. Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của chiến tranh cách mạng Việt Nam là "nước nhỏ đánh nước lớn", "lấy yếu chống mạnh", "lấy ít địch nhiều", quan điểm của Hồ Chí Minh là phát động toàn dân đánh giặc, đánh giặc bằng mọi lực lượng, mọi thứ vũ khí, mọi cách đánh. Đó là nghệ thuật kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của quần chúng, tiến công cả trước mặt và sau lưng địch, bằng đánh du kích và đánh chính quy, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng, đô thị; kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ; tiêu hao, tiêu diệt địch gắn với làm tan rã hàng ngủ địch, đập tan ý chí xâm lược của chúng. Nhờ đó, hoạt động quân sự không còn là việc riêng của quân đội mà được nhân dân cả nước thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đấu tranh vũ trang cũng không còn là lĩnh vực dành riêng cho quân đội, ngược lại được toàn dân tự giác đứng lên chiến đấu. Cuộc chiến tranh yêu nước của nhân dân ta thực sự là cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, cả nước đánh giặc, đánh bằng sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, của quân đội và toàn thề nhân dân. Vì thế kháng chiến có thể kéo dài cho đến khi toàn thắng, còn quân địch dù hung hãn và trang bị hiện đại đến mức nào cũng thất bại.


Đó là nghệ thuật tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu và phát huy các nhân tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Trong chỉ đạo chiến tranh, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc kết hợp lực, thế, thời, mưu để giành chiến thắng. Nắm vững và vận dụng tài tình quy luật về thế và lực trong chiến tranh, Người giải thích: "Quả cân chỉ một ki-lô-gam, ở vào thế lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh nhấc bổng đước một vật nặng hàng trăm ki-lô-gam. Đó là thế thắng lực"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, sđd, tr.455). Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng vấn đề thời cơ và nhấn mạnh phải có quyết tâm tranh thủ thời cơ để giành thắng lợi. Trong bài "Học đánh cờ" Người viết:
   "Lạc nước hai xe đành bỏ phí.
   Gặp thời một tốt cũng thành công"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sđd, tr.287).


Để phát huy hiệu quả của lực, thế, thời, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải dùng mưu, bày kế để đánh địch. Người chỉ rõ: "Phải dụ quân giặc vào bẫy để đánh", "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, náo phía đông, đánh phía tây" và "du kích cũng như đánh cờ, mưu cao kế khéo bao giờ cũng ăn". Trong tư tưởng của Người, lực, thế, thời, mưu có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện cho nhau. Thế, lực vận động thì tạo ra thời; biết dùng mưu thì hạn chế được cái mạnh của địch, phát huy được cái mạnh của ta, tạo điều kiện chuyển biến về chất ở thời điểm quyết định để giành thắng lợi.


Với Hồ Chí Minh, "Tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu" còn gắn liền với việc phát huy các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hoà". Người coi đây là những nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh; trong đó, nhân hoà là quan trọng bậc nhất. Người nhấn mạnh: "Trong hai phe giao chiến, phe nào có đầy đủ điều kiện nhân hoà là phe ấy thắng"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, sđd, tr.463). Bởi vì, có nhân hoà mới có lực lượng, mới tạo được thế trận, mới tạo ra thời cơ và tranh thủ được thời cơ. Người khẳng định: "Lòng yêu nước của đồng bào nhập với hình thế hiểm trở của núi sông, thành một lực lượng vô địch, nó đã đánh tan cuộc tiến công của thực dân"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, sđd, tr.366).


Đó còn là nghệ thuật biết khởi đầu và kết thúc chiến tranh, giành thắng lợi từng bước. Xuất phát từ điều kiện chiến tranh của một nước nhỏ, tiềm lực quân sự, kinh tế thua kém địch nhiều lần, quan điểm của Hồ Chí Minh là giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Người xác định con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải trải qua một quá trình lâu dài, gồm nhiều chặng đường đấu tranh gian khổ phức tạp. Điều đó có nghĩa là ở mỗi chặng đường nhất định, phải biết đề ra mục tiêu cụ thể sát hợp nhất, biết lãnh đạo quần chúng kiên quyết đấu tranh cho mục tiêu cụ thể đó thắng lợi, mở đường cho cách mạng bước tới những bước mới cao hơn và tạo điều kiện tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Trong khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở cơ sở về tay nhân dân, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Trong chiến tranh cách mạng, biết chủ động tiến công địch từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn cục, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.


Hồ Chí Minh cũng chỉ ra phải biết khởi đầu và kết thúc chiến tranh một cách có lợi nhất bởi, việc mở đầu chiến tranh vào lúc nào, như thế nào có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến cục diện, đến kết cục cuối cùng của cuộc chiến tranh; nghĩa là mở đầu chiến tranh phải bảo đảm giành được thắng lợi trong bước khai chiến, ngay từ những trận đánh đầu tiên; còn kết thúc chiến tranh làm sao vừa đạt được mục tiêu cách mạng, tạo cơ sở cho giai đoạn phát triển tiếp sau, vừa góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Người hết sức kiềm chế, tìm mọi cách để trì hoãn, tránh chiến tranh, nhưng khi không thể nhân nhượng hơn được nữa thì kiên quyết kháng chiến.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #88 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2021, 08:05:38 pm »

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân được hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có thể nêu lên một số điểm nổi bật sau đây trên lĩnh vực này:

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng phải bắt đầu từ việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, trên cơ sở đó mà xây dựng và phát triển lực lượng quân sự; từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Người chỉ rõ: "Muốn có đội quân vũ trang, phải có đội quân tuyên truyền vận động, đội quân chính trị trước đã, nên phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị này càng đông. Phải có quần chúng giác ngộ chính trị tự nguyện vác súng thì mới thắng được"1 (Vũ Anh, Hồi ký Bác Hồ, Nxb Văn học, H.1960, tr.120).


Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Tư tưởng của Người về xây dựng ba thứ quân và mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang  tập trung với các lực lượng vũ trang địa phương được nêu rất rõ trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tháng 12-1944). Bản Chỉ thị viết: "Về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng", do đó "sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực". "Trong khi tập trung lực lượng để thành lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sđd, tr.507).


Thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta đã chứng tỏ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc là hình thức tổ chức thích hợp nhất để phát huy sức mạnh của cả dân tộc, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của nước ta, phù hợp với nghệ thuật quân sự và cách đánh của chiến tranh nhân dân Việt Nam.


Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thành một quân đội cách mạng vững mạnh về mọi mặt, từng bước chính quy hiện đại. Trước hết, Người chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, trong đó vấn đề cốt lõi là tăng cường bản chất giai cấp công nhân, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với mục tiêu lý tưởng cách mạng. Người nhấn mạnh xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là cơ sở, là nền tảng để xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, "chính trị là vận mệnh của quân đội cách mạng". Vì vậy, "cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội, phải tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho toàn quân"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, sđd, tr.140). Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm xây dựng tinh thần dân chủ, kỷ luật, đoàn kết cho bộ đội. Người dạy: "Kỷ luật là sức mạnh của quân đội"; "kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật"; bộ đội phải nêu cao tinh thần đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế.


Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng quân đội ta thực sự là quân đội của dân, do dân và vì dân. Người thường xuyên nhắc nhở: "Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá, lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, sđd, tr.101); "Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, sđd, tr.393). Người dặn dò bộ đội: "Mình đánh giặc là vì dân nhưng không phải là "cứu tinh" của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân"4 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, sđd, tr.207). Trong buổi thành lập "Đội quân đầu tiên" của cách mạng Việt Nam, Người chỉ rõ: "Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được"5 (Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, H.1977, tr.130). Chỉ có dựa vào dân, quân đội ta mới có thể phát triển được nhanh chóng, vững mạnh. Người khái quát: "Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục"6 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, sđd, tr.350).


Một nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội là lấy việc bồi dưỡng, xây dựng con người là chính "người trước, súng sau". Theo Hồ Chí Minh, người quân nhân có "tư tưởng vững, chính trị vững, kỷ luật khá, thân thể khoẻ mạnh thì nhất định thắng"; còn nếu "chính trị khá nhưng quân sự kém, hoặc chính trị quân sự đều khá, nhưng thân thể yếu đuối thì cũng không thắng được"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, sđd, tr.320). Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ ra sức phấn đấu để có phẩm chất và năng lực toàn diện, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng. Đề cao vai trò con người, nhưng Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao trình độ vũ khí, trang bị. Người xác định quân đội ta "phải tiến lên chính quy, hiện đại", bao gồm nhiều quân, binh chủng; có quy mô tổ chức và số lượng hợp lý, có chất lượng ngày càng cao. Người cũng nêu rõ: "Thực túc thì binh cường", yêu cầu các cấp, các ngành chăm lo nuôi dưỡng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội, từ nơi ăn chốn ở đến sinh hoạt của cán bộ, chiến sĩ, "phải làm thế nào một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải phải đi thẳng đến chiến sĩ"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, sđd, tr.514).


Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, coi đó là khâu then chốt của việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Người xác định: "Tướng là kẻ giúp nước, tướng giỏi thì nước mạnh. Tướng xoàng thì nước hèn3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sđd, tr.519). Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã chú trọng cử người đi học quân sự, quan tâm đến các trường quân sự và viết nhiều tài liệu để bồi dưỡng tri thức quân sự cho cán bộ, chiến sĩ. Người đề ra 6 yêu cầu đối với người tướng là: "Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung"; đặt chữ "Trí" lên đầu, nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm, thái độ của người tướng đối với nhiệm vụ, đối với binh sĩ, đối với nhân dân và đối với kẻ địch. Người yêu cầu: "Người chỉ huy về quân sự cũng như về chính trị phải làm kiểu mẫu"; lời nói, việc làm đi đôi với nhau và Người tự mình làm gương cho cán bộ chiến sĩ noi theo.


Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra, quân đội ta phải có một "lối đánh tài giỏi", biết thực hiện sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Vì chỉ có đánh giỏi mới tăng hiệu suất tiêu diệt địch, làm cho chúng nhanh chóng suy yếu, đồng thời bảo toàn được lực lượng ta, để ta càng đánh càng mạnh. Nghĩa là, trong chiến đấu ý chí quyết đánh là điều kiện hàng đầu, nhưng biết đánh, biết chiến thắng mới là yếu tố quan trọng làm nên thắng lợi. Người chỉ ra cách đánh thắng địch bằng mưu kế và bằng thế, thời; lấy ít thắng nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông, trong trường hợp cần thiết lại biết tập trung ưu thế để đánh những đòn quyết định. Khi thì "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, náo phía đông, đánh phía tây”; lúc lại ’’mình yên đánh quân thù động, mình khoẻ đánh quân thù mệt", bao giờ cũng phải "giữ thế công", phải đánh chắc, tiến chắc, tuyệt đối không được chủ quan, khinh địch. Chính nhờ xác định đúng cách đánh giặc, quân và dân ta không ngừng phát huy sức mạnh của mình, giành thắng lợi từng bước, càng đánh càng thắng, tiến lên giành được thắng lợi hoàn toàn.


Những nội dung tư tưởng nêu trên của Người thống nhất chặt chẽ với nhau, thể hiện sâu sắc những nguyên lý và quy luật về xây dựng quân đội cách mạng, lực lượng vũ trang nhân dân ở nước ta. Tư tưởng của Người chỉ rõ sức mạnh của quân đội, của lực lượng vũ trang gắn liền với sức mạnh lãnh đạo của Đảng, sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân, sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #89 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2021, 08:07:04 pm »

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ dịa và hậu phương của chiến tranh nhân dân

Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã có nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của căn cứ địa, hậu phương trong khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng. Người thường nói: "Muốn khởi nghĩa phải có căn cứ địa, muốn kháng chiến phải có hậu phương". Đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng càng lâu dài, ác liệt thì vai trò của căn cứ địa, hậu phương càng trở nên quan trọng.


Theo Người, căn cứ địa và hậu phương là "nơi đứng chân làm cơ sở" cho lực lượng vũ trang "tiến có thể đánh và phát triển lực lượng, lui có thể đứng và giữ gìn lực lượng"1 (Hồ Chí Minh, Con đường giải phóng, Tư liệu lưu trữ tại Viện lịch sử quân sự Việt Nam); là nơi, "đội du kích tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sđd, tr.504), và là nhân tố bảo đảm cho khởi nghĩa, chiến tranh thắng lợi. Vì vậy, Người hết sức quan tâm đến việc xây dựng căn cứ địa, hậu phương để tạo tiềm lực và chỗ đứng vững chắc trong khởi nghĩa cũng như chiến tranh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa và hậu phương thể hiện trên mấy vấn đề chủ yếu sau:

Trước hết, Hồ Chí Minh cho rằng: "Căn cứ, hậu phương vững chắc nhất là lòng dân". Người coi vấn đề quan trọng hàng đầu là xây dựng cơ sở chính trị của quần chúng, triệt để dựa vào nhân dân, dựa vào "nhân sơn, nhân hải" để từng bước xây dựng, củng cố, mở rộng căn cứ địa cách mạng hậu phương chiến tranh. Vì nhân dân không chỉ là người nuôi dưỡng, che giấu, bảo vệ cán bộ và các tổ chức cách mạng, mà còn là nguồn cung cấp sức người, sức của cho khởi nghĩa và chiến tranh, đảm bảo kháng chiến lâu dài cho đến thắng lợi cuối cùng. Chỉ khi nào động viên và tổ chức lực lượng toàn dân của cả dân tộc tham gia thì sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng căn cứ địa, hậu phương mới trở nên vững chắc.


Hồ Chí Minh nhấn mạnh, sự nghiệp xây dựng căn cứ địa và hậu phương phải toàn diện, ngày càng hoàn chỉnh, vững chắc về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá... Người đề ra kháng chiến đi đôi với kiến quốc, vừa chống giặc đói, vừa chống giặc dốt, vừa chống giặc ngoại xâm. Người kêu gọi tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, khôi phục kinh tế, mở mang văn hoá, "hậu phương thi đua với tiền phương" nhằm bồi dưỡng sức dân, nâng cao dân trí để chiến đấu lâu dài, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, bảo đảm thắng lợi hoàn toàn. Ngay từ ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Hồ Chí Minh đã vạch phương hướng cho việc xây dựng hậu phương: "Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ, người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, sđd, tr.65) làm cho trong kháng chiến, nhân dân có "vật chất đầy đủ hơn, tinh thần được vững mạnh hơn". Trong kháng chiến chống Mỹ, Người xác định miền Bắc là hậu phương lớn của miền Nam. Người đã cùng Đảng ta lãnh đạo quân dân miền Bắc ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá, xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, làm cho hậu phương lớn miền Bắc ngày càng vững mạnh, đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch và hết lòng chi viện sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.


Trong điều kiện cụ thể của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta, Hồ Chí Minh đề ra yêu cầu xây dựng căn cứ địa, hậu phương trên mọi địa bàn đất nước: ở vùng rừng núi, đồng bằng và xây dựng những cơ sở chính trị của quần chúng ở thành thị. Bởi vì, trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng ở Việt Nam, lực lượng tham gia đánh giặc là toàn dân trên khắp mọi miền đất nước, từ miền ngược đến miền xuôi, trong đó công nhân và nông dân là đội quân chủ lực của cách mạng, của kháng chiến. Có dựa vào lực lượng cách mạng quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa, hậu phương ở nông thôn và cơ sở chính trị ở thành thị, ta mới tập hợp và phát huy được sức mạnh của toàn dân trên cả nước, bảo đảm có thể đánh, giặc ở mọi lúc, mọi nơi.


Đồng thời, Người cũng yêu cầu phải sẵn sàng chiến đấu, gắn liền việc xây dựng, củng cố căn cứ địa, hậu phương với tích cực chiến đấu chống mọi âm mưu phá hoại, lấn chiếm của địch vì căn cứ, hậu phương của ta luôn là mối uy hiếp đối với địch. Chúng liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét lấn chiếm, mở rộng phạm vi chiếm đóng, hòng thu hẹp và làm cho căn cứ địa, hậu phương của ta rối loạn, mất ổn định. Do đó, quân và dân ta phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết đập tan mọi âm mưu phá hoại, lấn chiếm của địch, giữ vững địa bàn, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, bảo vệ sản xuất, giao thông vận tải, giữ vững trật tự trị an, giữ vững ý chí chiến đấu trong mọi tình huống.


Hồ Chí Minh cũng chủ trương phát huy đến mức cao nhất những điều kiện thuận lợi của thời đại để xây dựng căn cứ địa, hậu phương. Người xác định hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào hoà bình tiến bộ trên thế giới là hậu phương lớn, là nguồn cung cấp vật chất cần thiết và cổ vũ tinh thần mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta.


Kết quả to lớn của việc xây dựng căn cứ địa, hậu phương bảo đảm cho Cách mạng tháng Tám thành công và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi đã chứng minh tính đúng đắn, sự sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về chỗ đứng chân, về xây dựng tiềm lực trong khởi nghĩa và chiến tranh.


Trên đây là một số nội đung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề quân sự của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng của khoa học tạo ra sức mạnh nhằm đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình. Trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta suốt mấy chục năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh không ngừng được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn chỉnh. Ngày nay, tư tưởng của Người vẫn đang tiếp tục định hướng cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM