Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 07:38:17 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quân sự  (Đọc 7123 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #50 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2021, 07:25:02 am »

b) Nghệ thuật chiến dịch hình thành và phát triển

Hồi đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân ta đã phải chiến đấu liên tục, dài ngày ở Sài Gòn, Nha Trang, Hà Nội, Nam Định, Huế, Đà Nẵng... Tuy nhiên, vì nhiều lý do, trước hết do trình độ hạn chế của bộ đội ta, các hoạt động tác chiến kể trên chưa hình thành chiến dịch, chưa hội đủ yếu tố chiến dịch.


Đến cuối năm 1947, khi quân Pháp mở cuộc tiến công lên căn cứ địa Việt Bắc, Bộ chỉ huy tối cao của ta đã phán đoán, phân tích đúng đắn âm mưu, kế hoạch, khả năng của địch và vạch ra kế hoạch tác chiến chỉ đạo cắc lực lượng và địa phương nơi địch tiến công chuẩn bị và đối phó địch. Các chiến trường toàn quốc cũng được lệnh chiến đấu phối hợp với cách đánh du kích kết hợp với đánh tập trung, lợi dụng triệt để địa hình rừng núi phức tạp, quân và dân ta đã đánh bại các kế hoạch Lê-a và Xanh-tuya của địch, bảo vệ được khu căn cứ, cơ quan đầu não kháng chiến và chủ lực ta. Đó là chiến dịch phản công Việt Bắc, mở đầu sự hình thành nghệ thuật chiến dịch thời hiện đại.


Trong các năm 1948, 1949, vừa phát triển chiến tranh du kích, vừa đẩy mạnh vận động chiến, ta mở một số chiến dịch tiến công, từ quy mô nhỏ (do một số tiểu đoàn chủ lực phối hợp với các đại đội độc lập tiến hành) dần dần tiến lên quy mô do 2 đến 3 trung đoàn chủ lực tiến hành. Cách đánh phổ biến lúc đó là đánh điểm, diệt viện. Nghệ thuật chiến dịch tiến công qua đó hình thành, kinh nghiệm và lý luận về nghệ thuật chiến dịch được bổ sung từng bước.


Đến năm 1950, khi mở chiến dịch tiến công Biên Giới, ta đã sử dụng lực lượng tương đương 2 đại đoàn chủ lực cùng một số tiểu đoàn, đại đội địa phương, một tiểu đoàn sơn pháo. Ta cũng tiến công vào cứ điểm quan trọng (Đông Khê) khiến địch phải kéo viện binh lớn đến ứng cứu, tạo cơ hội để ta tiêu diệt. Chiến dịch giành thắng lợi giòn giã. Ta tiêu diệt gọn một lực lượng quan trọng của địch, giải phóng biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn, mở thông đường ra quốc tế. Chiến thắng Biên Giới đánh dấu bước nhảy vọt của nghệ thuật chiến dịch tiến công và nghệ thuật đó tiếp tục phát triển ở chiến dịch tiếp theo là Tây Bắc, Thượng Lào...


Tới Đông Xuân 1953 - 1954, do trình độ trang bị và khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng (bộ binh, pháo binh, cao xạ và công binh...) có bước phát triển mới, quân và dân ta đã tiến hành chiến dịch tiến công quy mô lớn với lực lượng 4 đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo, tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm mạnh của địch ở Điện Biên Phủ.


Ngoài hai loại hình chiến dịch tiến công và phản công, trong vận động chiến cũng như trận địa chiến nói trên, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nghệ thuật chiến dịch của ta còn được vận dụng đạt kết quả trong chống càn, trong những đợt tiến công của lực lượng vũ trang kết hợp với nổi dậy của quần chúng phá tề, đánh vào bộ máy thống trị địa phương của địch, chuyển từ vùng tạm chiếm thành vùng du kích hoặc vùng tự do của ta. Trong các hoạt động đó, có nhiều yếu tố của chiến dịch, của chiến tranh nhân dân Việt Nam phát triển cao.


Nghệ thuật chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp được phát huy và vận dụng sáng tạo, phát triển hoàn thiện trong kháng chiến chống Mỹ. Ví như nội dung về nghệ thuật chiến dịch tiến công giải phóng thành phố lớn, tiến công ở địa hình ven biển, tiến công trong hành tiến...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #51 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2021, 07:25:57 am »

c) Về chiến thuật

Hồi đầu kháng Pháp, ta vận dụng cách đánh nhỏ, dùng mưu mẹo, bí mật bất ngờ. Đó là cách đánh du kích. Trong suốt quá trình kháng chiến, đánh du kích được vận dụng rộng rãi với nhiều hình thức phong phú: ôm hè, bắt bộ, quấy rối, bắn tỉa, đánh địa lôi, thuỷ lôi, đánh bằng chông mìn, cạm bẫy, đạp lôi... Cách đánh đặc công đã xuất hiện, đầu tiên ở Nam Bộ và được nâng cao trong một số trận ở miền Nam Trung Bộ.


Do trình độ mọi mặt của bộ đội ta ngày một phát triển và điều kiện địa hình cùng hình thái xen kẽ giữa ta vài địch, chiến thuật được vận dụng trong táo chiến tập trung cũng ngày thêm phát triển và đa dạng.

- Phòng ngự điểm chốt.

Hồi đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tại Nam Bộ và Nam Trung Bộ, quân và dân ta dùng phòng ngự trận địa nhằm đánh bại tiến công của địch, bảo vệ vùng tự do của ta, nhưng bị tổn thất nặng. Từ đó, ta chuyển sang phòng ngự bằng điểm chốt. Phòng ngự bằng điểm chốt ngăn chặn, làm chậm bước tiến công của địch, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, tạo điều kiện cho lực lượng ta tiến công vào sau lưng và cạnh sườn đối phương. Cách phòng ngự như trên đã diễn ra khi ta bao vây địch ở Nha Trang - Ba Ngòi (cuối năm 1945), tại các trận phòng ngự trên đường 9 khi địch từ Lào tiến về Đông Hà và các trận đánh địch tại Hà Nội (cuối 1946, đầu 1947).


- Chiến thuật phục kích.

Phục kích là một trong những hình thức chiến thuật phù hợp với trình độ bộ đội và nhiều địa hình chiến trường nước ta, được sử dụng rộng rãi trong những năm 1945 - 1947. Bằng phục kích, ta vừa tiêu hao, vừa tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, phá huỷ phương tiện chiến tranh và thu vũ khí để trang bị cho ta. Các trận phục kích có hiệu suất chiến đấu cao đã diễn ra trên đường 4, trên sông Lô, trên đèo Hải Vân, đèo Phượng Hoàng (Khánh Hoà), Tầm Vu... Tuy nhiên, hồi đầu kháng Pháp, các trận phục kích của ta đều ở cự ly gần địch và với lực lượng không lớn. Ở những giai đoạn tiếp theo của cuộc kháng chiến, các trận phục kích hình thành lực lượng chặn đầu, khoá đuôi; tiến công trên hướng chính, trên hướng đối diện, có bố trí hoả lực kiềm chế, bôn tập từ xa đến - Tiêu biểu là các trận ở Bông Lau - Lũng Phầy, Mỹ Chánh - Ưu Điềm, La Ngà... Vào nửa cuối của cuộc kháng chiến, phục kích vẫn được áp dụng rộng rãi và hoàn thiện thêm về phương pháp. Nổi bật là hai trận Chân Mộng - Trạm Thản (Phú Thọ), trận Đắc Pơ (Khu 5)...


- Chiến thuật tập kích.

Hồi đầu kháng Pháp, ta thường vận dụng phương pháp bí mật tiếp cận địch và bất ngờ xung phong (kỳ tập). Khi vũ khí, trang bị khá lên, ta đã sử dụng hoả lực bắn vào mục tiêu (cường tập) trước khi xung phong. Tuy nhiên, vì vũ khí và trình độ phối hợp của bộ đội còn hạn chế, các trận tập kích ít hiệu quả. Vào nửa cuối cuộc kháng chiến, cả tập kích không dùng hoả lực bắn trước (kỳ tập) đều phát triển rộng rãi. Riêng kỳ tập, cùng với lực lượng được huấn luyện đặc biệt (đặc công), bộ binh cũng được huấn luyện cách bí mật tiếp cận đánh địch. Như vậy, kỳ tập được sử dụng rộng rãi trên chiến trường toàn quốc. Bộ đội đặc công xuất hiện ở Nam Bộ sau đó phát triển ra cả 3 miền Trung và Bắc Bộ.


- Chiến thuật vận động tiến công.

Lúc đầu, chiến thuật này chưa hình thành rõ nét. Thấy địch xuất hiện, thường cho bộ đội vận động ra tiến công, nhưng ít thành công. Hiện tượng đó đã được kịp thời uốn nắn. Khi trang bị và trình độ bộ đội phát triển lên, ta đã chủ động đánh địch ngoài công sự vững chắc bằng vận động tiến công. Ta triển khai lực lượng ở những vị trí tiện cơ động, từ đó vận động ra tiến công diệt địch khi chúng tiến đến khu vực ta dự kiến. Cách này sẽ càng phát huy hiệu quả khi bộ đội ta có hoả lực mạnh chế áp địch và có hoả lực phòng không ngăn chặn địch.

Ở nửa sau cuộc kháng chiến, hình thức chiến thuật vận động tiến công có bước nhảy vọt cả về quy mô và phương pháp đánh địch với cách vận động bao vây tiến công liên tục và vận động tiến công kết hợp chốt trong các trận then chốt.

Ví dụ rõ nhất là ở chiến dịch Biên Giới. Đó là bao vây, công kích liên tục, diệt binh đoàn Lơ Pa-giơ ở khu vực Cốc Xá, là kết hợp chốt với vận động tiến công tiêu diệt binh đoàn Sác-tông ở khu vực điểm cao 477...


- Tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc.

Do chưa có hoả lực để tiến công địch trong các đồn bốt, cứ điểm bằng đột phá, ta đã sử dụng nhiều cách khác nhau để diệt địch. Dùng nhân mối trong binh lính địch để đánh địch như trận đánh cứ điểm huyện lỵ Gio Linh (Quảng Trị), trận đánh châu lỵ Chợ Đồn (Thái Nguyên). Nhiều trận ta đóng giả địch để vào vị trí của chúng (Phai Khắt) hoặc cải trang thành phu lao dịch cho địch để đánh đồn.

Khi lực lượng phát triển lên, ta đã tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc bằng đột phá (công đồn). Như trận Yên Bình Xã, Phủ Thông (1948), Phố Ràng (1949), Phong Phú trong chiến dịch cầu Kè (Trà Vinh (1949)... Tuy nhiên cách đánh này hạn chế hiệu quả do ta ít vũ khí diệt hoả điểm trong lô cốt, thiếu phương tiện mở cửa qua vật cản. Trận Phố Lu, Phủ Thông, An Châu, vì lẽ trên mà ta bị thương vong cao.

Vào nửa sau cuộc kháng chiến, chiến thuật tiến công địch trong công sự vững chắc (công kiên) đã phát triển về quy mô và phương pháp khác nhau. Quy mô cấp tiểu đoàn, trung đoàn dần dần thành phổ biến (Đông Khê, Nghĩa Lộ, Măng Đen...), về phương pháp, ta tiếp tục theo cách từ vị trí tập kết vận động tiếp cận địch, xây dựng trận địa xuất phát tiến công trong thời gian ngắn và tiến công tiêu diệt địch. Cách này cũng có hạn chế và gây tổn thất do trận địa xuất phát tiến công được xây dựng sơ sài. Đến trận Điện Biên Phủ, quân ta đã xây dựng trận địa xuất phát tiến công hoàn chỉnh hơn gồm chiến hào, giao thông hào, hầm ẩn nấp, trận địa hoả lực... Từ đây, hình thức bao vây đánh lấn (vây lấn) xuất hiện, mở ra cách đánh dứt điểm (như tiến công cứ điểm 106, 206, 311B).


- Chiến thuật truy kích.

Ra đời từ giai đoạn cuối các trận chiến đấu thắng lợi, truy kích, đánh địch rút chạy.

Trong chiến dịch Thượng Lào (1953), nhiều đơn vị truy kích địch từ Sầm Nưa về Xiêng Khoảng. Phát triển lên, ta kết hợp truy kích với tìm cách chặn đầu quân địch. Các trận thắng lợi nổi bật như truy kích địch rút khỏi Lai Châu về Điện Biên Phủ hoặc tiến công sang Thượng Lào 1954.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đó cũng là thắng lợi của tư tưởng và nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại. Tư tưởng và nghệ thuật quân sự trong chống Pháp sẽ là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển đến đỉnh cao của tư tưởng và nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại và là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi cửa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #52 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2021, 09:17:37 am »

LỊCH SỬ CHIẾN TRANH VÀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 -1975)

I- CHIẾN TRANH NHÂN DÂN VIỆT NAM CHỐNG CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC THỰC DÂN MỚI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ

1. Bối cảnh lịch sử và nguyên nhân chiến tranh

a) Tình hình Việt Nam và thế giới sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

Thắng lợi đông - xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân ta đã buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (ngày 20-7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn của nước Việt Nam, rút hết quân về nước. Đây là cột mốc quan trọng trên con đường giải phóng dân tộc của toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, mở ra một thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam.


Do tương quan lực lượng đôi bên và tình hình chính trị thế giới phức tạp lúc đó, đất nước ta tạm bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị đối lập. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta chưa hoàn thành. Cuộc đấu tranh giành toàn vẹn độc lập, thống nhất đất nước còn phải tiếp tục trong những điều kiện mới, vừa thuận lợi nhưng cũng rất phức tạp, xét trên bình diện trong nước và trên thế giới.


Ở trong nước, miền Bắc hoàn toàn giải phóng trở thành hậu phương căn cứ địa của cả nước, có chính quyền vững mạnh, có lực lượng vũ trang anh dũng, có mặt trận tập hợp và đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân. Nhân dân miền Nam giác ngộ chính trị cao, một lòng hướng về miền Bắc, vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân cả nước được Đảng Lao động Việt Nam - một đảng Mác xít - Lênin nít chân chính, dạn dày kinh nghiệm lãnh đạo; được đông đảo nhân dân tiến bộ và nhiều quốc gia trên thế giới đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ. Đó là những thuận lợi rất cơ bản của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Bên cạnh những thuận lợi, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, ta cũng gặp nhiều khó khăn. Miền Bắc kinh tế nghèo nàn, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, tình hình an ninh chính trị khá phức tạp do âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thực dân, đế quốc và bè lũ phản động, tay sai gây ra trước, trong và sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng; bộ máy chính quyền các cấp chưa được củng cố, trình độ nhận thức, kinh nghiệm và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội của đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế. Ở miền Nam, từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng, giờ đây. phần lớn cán bộ, đảng viên, chiến sĩ tập kết ra miền Bắc, cách mạng miền Nam phải chuyển sang phương thức hoạt động vừa hợp pháp vừa không hợp pháp; vừa công khai vừa bí mật. Tất cả những thay đổi đó, ở một mức độ đáng kể, đã tác động tới tâm tư, tình cảm của đồng bào đồng chí miền Nam và đặt ra cho cách mạng nước ta những nhiệm vụ mới đầy phức tạp, khó khăn.


Trên thế giới, thắng lợi của nhân dân Việt Nam sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp tác động to lớn đến phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh. Phong trào này tìm thấy ở thắng lợi của nhân dân Việt Nam nguồn cổ vũ, sự động viên mạnh mẽ cùng những bài học lịch sử quý báu để vận dụng vào điều kiện cụ thể từng nước trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng. Thực tế lịch sử cho thấy, từ giữa những năm 50 của thế kỷ XX, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa có bước phát triển mạnh mẽ. Đến cuối những năm sáu mươi, đã có khoảng 40 nước giành độc lập mà phần lớn trong số đó vốn là thuộc địa của nước Pháp. Thực tế đó có tác động tới tình hình chính trị thế giới. Nếu trước kia, Liên hiệp quốc chỉ có khoảng 50 nước thành viên, chủ yếu là các nước châu Âu và Mỹ la tinh thì đến giữa những năm năm mươi của thế kỷ XX, tổ chức này có tới 100 thành viên. Chương trình nghị sự về các vấn đề chính trị thế giới vì vậy, không còn do những nước lớn thao túng, định đoạt, áp đặt cho Đại hội đồng Liên hiệp quốc... như trước được nữa.


Sự thất bại của chủ nghĩa thực dân cũ trước phong trào giải phóng dân tộc tác động trực tiếp tới nguồn lợi nhuận của nhiều nước tư bản phát triển, làm cho khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội ở các nước này ngày càng sâu sắc, buộc các chính phủ đó phải tìm mọi cách ứng phó nhằm duy trì vị trí của họ ở nước ngoài, đồng thời tăng cường bóc lột các lực lượng lao động trong nước. Nhưng cũng chính vì thế, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, đi đầu là giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, ngày càng phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, khiến cho tình hình nhiều nước tư bản ở châu Âu, châu Mỹ, châu Á càng lâm vào tình trạng bất ổn về chính trị, xã hội...


Trong khi đó, chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam góp phần làm suy yếu một bước chủ nghĩa đế quốc đã tạo cho các nước xã hội chủ nghĩa có thêm điều kiện thuận lợi để mở rộng phạm vi ảnh hưởng cũng như tăng cường tiềm lực, sức mạnh kinh tế, quân sự của mình. Hệ thống xã hội chủ nghĩa được củng cố, tăng cường; phạm vi của hệ thống nối liền từ Âu sang Á đã thực sự là nhân tố đóng vai trò to lớn và quan trọng trong đời sống chính trị quốc tế, có ý nghĩa quyết định trong việc bảo vệ hoà bình và giữ gìn an ninh trên thế giới. Tuy vậy, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, nảy sinh bất đồng về đường lối, quan điểm và những bất đồng đó chẳng những không được khắc phục mà ngày càng sâu sắc; đặc biệt giữa Liên Xô và Trung Quốc.


Sự hình thành và lớn mạnh của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân ở các nước tư bản làm cho chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ lo sợ. Mỹ và các đồng minh của Mỹ ráo riết tìm mọi cách đối phó. Mỹ tiếp tục hướng nỗ lực vào việc chống phá chủ nghĩa cộng sản trên khắp các châu lục. Chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm bao vây, ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, đến năm 1955 đạt tới đỉnh cao với việc ra đời nhiều khối quân sự do Mỹ cầm đầu, 1.400 cặn cứ quân sự Mỹ có mặt tại 31 nước. Những nỗ lực trên đây của Mỹ và đồng minh khiến cho tình hình thế giới diễn biến ngày càng thêm căng thẳng, chiến tranh lạnh tiếp diễn ngày càng gay gắt, tuy vẫn có hoà hoãn bộ phận. Trong thế hình thành hai cực trên thế giới, hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa vừa chống đối nhau quyết liệt nhưng đồng thời vẫn phải hợp tác với nhau trong chừng mực có thể để giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực có liên quan. Toàn bộ tình hình trên đây, ở từng chừng mực cụ thể, tác động tới sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #53 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2021, 09:18:10 am »

b) Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các nước tư bản thuộc phe đồng minh, trừ Mỹ, tuy thắng trận nhưng nền kinh tế lại bị kiệt quệ; còn Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản bại trận, bị các nước Đồng minh chiếm đóng. Liên Xô, nước đóng vai trò quyết định trong việc đập tan chủ nghĩa phát xít bị tàn phá rất nặng nề. Các nước dân chủ nhân dân ra đời sau chiến tranh phần lớn là những nước kinh tế chưa phát triển...


Do vị thế của mình, bước ra khỏi chiến tranh, nước Mỹ vươn lên mạnh mẽ, trở thành cường quốc số 1 duy nhất về kinh tế trên thế giới. Lợi dụng sự khó khăn của các nước và trước sức tiến công của 3 dòng thác cách mạng, đế quốc Mỹ đứng ra đóng vai trò sen đầm quốc tế, ráo riết thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm bao vây, ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, chĩa mũi nhọn chủ yếu vào Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, chống lại phong trào giải phóng dân tộc mà theo nhìn nhận của giới lãnh đạo nước Mỹ lúc bấy giờ, Việt Nam là điểm nóng bỏng nhất.


Việt Nam có vị trí địa - chiến lược rất quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, là bao lơn nhô ra biển Thái Bình Dương, điểm giao hội các tuyến hàng hải quốc tế, lại có tài nguyên phong phú, được các nhà chiến lược Mỹ đánh giá là một tiền tiêu quan trọng trên tuyến bao vây ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản.


Cho đến giữa năm 1945, hiểu biết của Mỹ về tình hình chính trị đang diễn biến trên bán đảo Đông Dương, quả thật, còn hạn chế. Trong con mắt của Mỹ, phong trào Việt Minh lúc đó là tập hợp các đảng phái quốc gia có thể lợi dụng được để sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ thực hiện âm mưu biến khu vực này thành thuộc địa kiêu mới. Thế nhưng, khi nhận ra chính quyền mới ở Việt Nam được thiết lập trong Cách mạng Tháng 8 do những người cộng sản lãnh đạo, Mỹ ráo riết ủng hộ Tưởng Giới Thạch trong việc tìm cách lật đổ nhà nước đó. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời, từ cuối năm 1949 trở đi, Mỹ dính líu ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Việt Nam bằng cách, một mặt, viện trợ cho Pháp mà khoản viện trợ này, vào năm 1954, lên tới 78% trong tổng số chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương; và mặt khác, ráo riết thực hiện âm mưu thế chân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Sau khi thực dân Pháp bại trận buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ thì Tổng thống Mỹ tuyên bố Mỹ không bị ràng buộc bởi Hiệp định này. Ngay sau đó, Mỹ tìm cách hất cẳng Pháp, độc chiếm miền Nam, gây nên cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới kéo dài và rất tàn khốc. Chọn Việt Nam làm nơi thí nghiệm chiến lược toàn cầu phản cách mạng, âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là đè bẹp cách mạng Việt Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản ở Đông Dương và Đông Nam Á, qua đó bao vây, uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa và răn đe phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới cũng như rút kinh nghiệm để tiến tới dập tắt phong trào này. 5 đời tổng thống Mỹ kế tiếp nhau đã theo đuổi âm mưu cơ bản trên đây bằng các chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Chiến tranh xâm lược Việt Nam, vì vậy, là một bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng đầy tham vọng của đế quốc Mỹ.


Về phía ta, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam và cũng là nguyện vọng chính đáng, thiêng liêng của mọi người Việt Nam yêu nước. Sau ngày cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc, mục tiêu và nguyện vọng đó chưa hoàn thành do âm mứu và hành động chiến tranh xâm lược của Mỹ. Vì thế, Việt Nam buộc phải tiến hành cuộc kháng chiến để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thu non sông về một mối, thực hiện thắng lợi mục tiêu bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, góp phần vào việc thực hiện những mục tiêu cách mạng của thời đại.


Bởi vậy, từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam trở thành nơi tập trung mâu thuẫn cơ bản của thế giới, chiến tranh Việt Nam trở thành cuộc đụng đầu lịch sử giữa hai lực lượng cách mạng và phản cách mạng. Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, do đó, mang tính chất thời đại sâu sắc.


Vậy, gây ra cuộc chiến tranh này, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về phía đế quốc Mỹ. Nói cách khác, mục tiêu chiến lược toàn cầu lâu dài và chính sách xâm lược của Mỹ chống lại nguyện vọng độc lập, hoà bình, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam là nguồn gốc sâu xa, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc đụng đầu lịch sử này.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #54 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2021, 09:20:17 am »

2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Căn cứ vào những biến chuyển về mặt chiến lược của cả hai phía và đặt trong diễn biến thực tế của chiến tranh, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta (từ tháng 7-1954 đến tháng 5-1975) đã trải qua 5 giai đoạn chiến lược. Mỗi giai đoạn chứa đựng trong đó những nội dung tầm chiến lược mà những nội dung này vừa là sự kế tiếp vừa mang tính khác biệt so với giai đoạn trước. Nói cách khác, mỗi một giai đoạn có nội dung riêng, phản ánh bước phát triển lớn của cuộc kháng chiến, đánh dấu bước chuyển biến về chất của cục diện chiến tranh, đưa đến thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


a) Giai đoạn thứ nhất (tháng 7-1954 đến hết năm 1960). Sau hơn 80 năm thống trị của thực dân Pháp và 15 năm tàn phá của chiến tranh, hoà bình lập lại, miền Bắc đứng trước một loạt khó khăn gay gắt trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng. Những vấn đề này càng trở nên nóng bỏng do âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt là Mỹ - Diệm. Bên cạnh khó khăn, miền Bắc hoàn toàn giải phóng là một thắng lợi to lớn, một điều kiện thuận lợi rất cơ bản cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong thời kỳ mới.


Phát huy khí thế chiến thắng và trên nền tảng của những điều kiện thuận lợi này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bắt tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, hoàn thành cải cách ruộng đất và sửa sai, phục hồi kinh tế, phát triển văn hoá, xã hội, cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất mới với hai hình thức cơ bản là quốc doanh và tập thể, củng cố và tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh, đập tan âm mưu và hành động chống phá miền Bắc của các thế lực thù địch...


Thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung, thắng lợi của 5 năm xây dựng và phát triển nói riêng của miền Bắc sau ngày hoà bình lập lại được phản ánh trong bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta mà Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua trong kỳ họp thứ 11, ngày 31-12-1959.


Trong khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trên miền Bắc đang ra sức ổn định, củng cố mọi mặt nhằm biến miền Bắc thành nền móng vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà thì ở phía nam vĩ tuyến 17, cách mạng miền Nam đang trải qua những tháng năm đầy gian khổ, hy sinh.


Ngày 7-7-1954, trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết 13 ngày, Ngô Đình Diệm - kẻ do Mỹ nuôi dưỡng từ lâu, được Mỹ đưa về miền Nam làm Thủ tướng thay Bửu Lộc.


Từ đây, bắt đầu quá trình mà ở đó, đế quốc Mỹ ráo riết thực hiện một loạt biện pháp tầm chiến lược nhằm áp đặt ách nô dịch, thống trị kiểu thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam:

- Hất cẳng Pháp, độc chiếm miền Nam.

- Xây dựng chính quyền, quân đội tay sai, thực hiện chế độ độc tài, phát xít.

- Triển khai biện pháp "tố cộng", "diệt cộng" hòng tận diệt lực lượng yêu nước và cách mạng ở miền Nam.


Ngay từ trong kháng chiến chống Pháp, Trung ương Đảng ta đã nhận rõ ý đồ can thiệp và âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ đối với Việt Nam và Đông Dương. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (7-1954) xác định: đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương. Đi đối với việc nhận thức ngày càng rõ âm mưu cơ bản và thủ đoạn xâm lược của đế quốc Mỹ, Đảng ta đồng thời chỉ ra nhiệm vụ chiến lược cho cách mạng hai miền. Tuy nhiên, việc tìm đường giải phóng miền Nam là cả một quá trình thực không đơn giản. Để tìm ra con đường đưa cách mạng miền Nam tiếp tục đi lên, cần tính toán, lượng định các nhân tố trong nước và quốc tế có liên quan.


Hai năm đầu sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta trên cả 2 miền tiến hành cuộc đấu tranh đòi thực hiện Hiệp định, đòi củng cố hoà bình, đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, thực hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo các điều khoản mà Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định. Các cuộc đấu tranh này của nhân dân ta ở miền Nam trong những năm từ 1955 đến năm 1958 đã bị kẻ thù dìm trong bể máu, bằng các chiến dịch khủng bố, "tố cộng", diệt cộng". "Tố cộng", "diệt cộng" được Mỹ Diệm nâng lên tầm "quốc sách". Chính sách và hoạt động chống cộng cực kỳ thâm độc và tàn bạo của kẻ thù khiến cho lực lượng yêu nước và cách mạng ở miền Nam bị tổn thất nặng nề1 (4 năm (1955-1958), cả miền Nam tổn thất 9/10 số cán bộ đảng viên. Ở Nam Bộ, khoảng 7 vạn cán bộ đảng viên bị địch giết; gần 90 vạn cán bộ, nhân viên bị bắt, bị tù đầy; gần 20 vạn bị tra tấn thành tàn tật, chỉ còn 5.000 đảng viên so với 60.000 đảng viên lúc đó. Ở khu V (lúc bấy giờ còn gồm cả Trị - Thiên và Cực Nam Trung Bộ), khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên xã bị bắt, bị giết. Riêng Trị - Thiên, chỉ còn 160/23.400). Dẫn đến tình trạng này là do nhiều nguyên nhân, trong đó "chủ yếu là do về mặt chỉ đạo chiến tranh cách mạng, Đảng ta chưa tìm ra được phương pháp và hình thức thích hợp đề quần chúng chủ động chống trả địch một cách hiệu quả"2 (Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc BCT; Tổng kết cuộc KCCMCN: Thắng lợi và bài học. Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr.40). Trong thực tế, hình thức đấu tranh chính trị có sử dụng bạo lực chính trị ngày càng tỏ ra không đủ mạnh để đối phó với bạo lực phản cách mạng ở miền Nam.


Từ tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn, trên cương vị là Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ đã từ thực tiễn của tình hình miền Nam, viết Đề cương cách mạng miền Nam. Cuối năm đó, đồng chí dự kiến mức độ bạo lực phải được nâng cao nhưng bằng cách nào thì cho đến lúc đó, ta vẫn chưa đề ra được những biện pháp cụ thể. Như thế, so với quá trình hoạch định đường lối kháng chiến chống Pháp, quá trình soạn thảo đường lối kháng chiến chống Mỹ còn gay go, gian khổ, phức tạp, công phu hơn nhiều. Khi bắt tay vào kháng chiến chống thực dân Pháp, chúng ta đã có ngay đường lối cơ bản của cuộc kháng chiến dẫn đường, nhưng khi bắt đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, từ năm 1954 đến năm 1958, chúng ta mới chỉ có những định hướng chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các Hội nghị Trung ương 6, 7, 8...


Theo dõi sát diễn biến của tình hình miền Nam, nghiên cứu những kiến nghị khẩn thiết của nhiều cán bộ, đảng viên cũng như một số cấp uỷ Đảng miền Nam gửi ra, Bộ Chính trị đã giành nhiều tâm lực vào việc tìm ra một giải pháp cơ bản cho cách mạng miền Nam. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 151 (Hội nghị Trung ương 15 họp 2 đợt: đợt 1 từ ngày 12 đến ngày 22-1-1959 là Hội nghị Trung ương mở rộng; đợt 2 từ ngày 10 đến 15-7-1959 chỉ có các Ủy viên Trung ương dự. Nghị quyết Hội nghị được thông qua trong đợt này) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa đã họp và quyết nghị về vấn đề này. Theo đó, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam; nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ; phương pháp cách mạng và phương pháp chiến tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; xu hướng phát triển của phong trào cách mạng miền Nam là từ khởi nghĩa của nhân dân có thể tiến lên cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ.


Với tất cả những nội dung cốt lõi trên đây, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng là một Nghị quyết lịch sử, đánh dấu bước phát triển mới về tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta trong sự nghiệp giải phóng miền Nam. Nghị quyết đó phản ánh đúng tình thế chín muồi của cách mạng miền Nam, đáp ứng đòi hỏi bức xúc của phong trào cách mạng miền Nam, của cán bộ và đồng bào yêu nước miền Nam.


Để kịp thời chi viện cho cách mạng miền Nam, tháng 5-1959, Trung ương Đảng quyết định tổ chức Đoàn 559 và tháng 7-1959 quyết định tổ chức Đoàn 759.


Trước khi Nghị quyết ra đời cũng như trong lúc Nghị quyết chưa được truyền đạt tới, ở nhiều địa phương miền Nam, quần chúng cách mạng có sự chỉ đạo của Đảng bộ cơ sở đã tổ chức một số cuộc dấu tranh vũ trang hoặc đấu tranh chính trị có vũ trang kết hợp, hỗ trợ. Đến giữa năm 1959, miền Nam đang trong quá trình xuất hiện khởi nghĩa từng phần. Trong điều kiện đó, Nghị quyết 15 đã thổi bùng lên ngọn lửa Đồng khởi, làm tan rã hàng loạt bộ máy kìm kẹp của ngụy quyền cơ sở, giành quyền làm chủ hàng nghìn xã, ấp, thôn, bản, đẩy quân đội và chính quyền Ngô Đình Diệm lâm vào thế bị đông lúng túng, khủng hoảng trầm trọng. Sau cao trào Đồng khởi, Đảng bộ miền Nam được khôi phục, đội quân chính trị, "đội quân tóc dài" của phụ nữ Nam Bộ, ra đời; lực lượng vũ trang ba thứ quân và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp hình thành, các căn cứ địa tại chỗ được khôi phục, mở rộng... Trên đà thắng lợi, ngày 20- 12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Đại hội thông qua Tuyên ngôn và chương trình hành động.


Cách mạng miền Nam đã từ thoái trào và thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.

Nghị quyết 15 và tiếp đó là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960) đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam nói chung, đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam nói riêng.

Nhìn chung lại, từ tháng 7-1954 đến tháng 12-1960, là giai đoạn mà ở đó Mỹ ráo riết thiết lập chủ nghĩa thực dân mới bằng chế độ thống trị độc quyển phát xít, gây ra muôn vàn tổn thất, phức tạp và khó khăn cho cách mạng miền Nam. Đây cũng là giai đoạn Đảng ta tính toán, cân nhắc, lựa chọn để tìm ra con đường và phương pháp cho cách mạng miền Nam, đưa cách mạng miền Nam vượt qua tổn thất hiểm nghèo, tiếp tục phát triển trong những điều kiện mới. Về phương diện đó, Nghị quyết 15 và phong trào Đồng khởi chiếm giữ một vị trí rất quan trọng trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một thành công điển hình của Đảng và nhân dân ta trong việc tiến hành cách mạng bạo lực, trong nghệ thuật chỉ đạo khởi sự chiến tranh ở miền Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #55 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2021, 09:21:49 am »

b) Giai đoạn thứ 2 (1961 đến giữa 1965)

Phong trào Đồng khởi đã làm thất bại hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam là chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm: buộc Mỹ phải bị động chuyển sang dùng "chiến tranh đặc biệt" để đối phó với cách mạng miền Nam. Đây là một loại hình chiến tranh trong khuôn khổ chiến lược quân sự toàn cầu "phản ứng linh hoạt" của đế quốc Mỹ"1 (Chiến lược quân sự toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" do Mắc-xoen Tay-lơ đề xướng và được Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi chấp thuận, thay thế cho chiến lược "Trả đũa ồ ạt" trước đó của Mỹ. Theo đó, Mỹ vẫn duy trì, phát triển lực lượng hạt nhân chiến lược, đồng thời phát triển lực lượng thông thường để tiến hành chiến tranh hạn chế. Chiến tranh hạn chế gồm hai hình thức: chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ. Cả hai loại hình này là bộ phận hợp thành chiến lược quân sự toàn cầu "Phản ứng linh hoạt"). Đặc điểm của loại chiến tranh này là sử dụng quân đội tay sai bản xứ làm công cụ tiến hành chiến tranh với đô la, vũ khí của Mỹ, do Mỹ chỉ huy. Vận dụng vào miền Nam, Mỹ ngụy triển khai thực hiện các nội dung lớn sau:

- Dồn dân vào ấp chiến lược trên quy mô lớn hòng "tát nước bắt cá", tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Nội dung này được xem là "xương sống" của chiến lược "chiến tranh đặc biệt".

- Tăng cường quân đội Sài Gòn, mở các cuộc hành quân càn quét để tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng và hỗ trợ cho việc dồn dân lập ấp chiến lược.

- Tiến hành các hoạt động chiến tranh bí mật phá hoại miền Bắc.

Để thực hiện chiến tranh đặc biệt, Mỹ tập trung vào việc tăng cường lực lượng quân đội Sài Gòn, bộ máy cảnh sát; tăng cường viện trợ (quân sự và kinh tế), cố vấn, lực lượng yểm trợ... nhằm "bình định" miền Nam trong 18 tháng (từ giữa năm 1961 đến hết năm 1962) theo kế hoạch Xta-lây - Tay-lo: sau đó là 2 năm (1963 - 1964) theo kế hoạch Giôn-xơn - Mắc Na-ma-ra.


Với sự tăng viện về đô la, vũ khí, thiết bị chiến tranh, đội ngũ cố vấn của Mỹ, trong những năm "chiến tranh đặc biệt", Mỹ, chính quyền và quân đội Sài Gòn dồn sức vào việc gom dân lập ấp chiến lược bằng nhiều thủ đoạn và biện pháp khốc liệt, đẫm máu: mở nhiều cuộc hành quân càn quét, sử dụng các loại vũ khí hiện đại và triển khai các chiến thuật "tân kỳ" như "thiết xa vận", "trực thăng vận", vận dụng thành công các thủ đoạn chiến thuật được mệnh danh là "bủa lưới phóng lao", "trên đe dưới búa", "phượng hoàng vồ mồi"... đánh phá phong trào cách mạng, đánh sâu vào toàn bộ hệ thống căn cứ kháng chiến của ta, bịt kín vùng biên giới nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam...


Để đánh bại chiến lược chiến tranh mới của Mỹ, Đảng ta chủ trương, trên cơ sở thế và lực mới do phong trào Đồng khởi tạo ra, chuyển cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền.


Thực hiện chủ trương chuyển hướng chiến lược đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, ta đã:

- Tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang (cả khối cơ động và lực lượng tại chỗ) đi đối với xây dựng, củng cố và mở rộng hậu phương, căn cứ địa tại chỗ trên chiến trường miền Nam.

- Phát triển mạnh chiến tranh du kích trên cả 3 vùng chiến lược đi đối với tăng cường đánh phá các vị trí xung yếu, nâng dần trình độ tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực.

- Quân uỷ Trung ương cùng Ban thống nhất Trung ương được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ giúp Trung ương trực tiếp chỉ đạo công tác quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam. Tăng cường các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy ở miền Nam như Trung ương Cục, Khu uỷ, Bộ chỉ huy Miển và Bộ chỉ huy quân sự các quân khu.

- Phân chia lại chiến trường theo yêu cầu phát triển của chiến tranh.

- Tăng cường sự chi viện từ miền Bắc cho cách mạng miền Nam (mở rộng hành lang vận chuyển chiến lược bằng đường bộ, đường biển).

- Đẩy mạnh công cuộc xây dựng miền Bắc, thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất về kinh tế - xã hội và Kế hoạch 5 năm lần thứ 2 về xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng.


Ở miền Nam, ngày 15-2-1961, Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam họp bàn về việc nâng đấu tranh vũ trang lên ngang tầm với đấu tranh chính trị, quyết định lấy ngày 15-2-1961 là ngày thành lập Quân giải phóng thống nhất trên toàn miền Nam.


Tiếp đó, chiến thắng Ấp Bắc (Cai Lậy, Mỹ Tho) ngày 2-1-1963 là sự kiện quan trọng, báo hiệu khả năng quân và dân ta hoàn toàn có thể đánh bại các biện pháp chiến lược của địch trong chiến tranh đặc biệt. Với phương châm chiến lược "hai chân", "ba mũi", "ba vùng", "bốn bám", phong trào phá ấp chiến lược dâng cao kể từ sau chiến thắng Âp Bắc. Kế hoạch "bình định" miền Nam trong 18 tháng của Xta-lây - Tay-lo bị phá sản. Đồng thời, mặt trận đấu tranh vũ trang có bước phát triển mới. Lực lượng vũ trang ba thứ quân không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng. Chiến tranh du kích phát triển rộng khắp, kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng. Tác chiến của bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực ngày càng phát triển. Nhiều trận đánh tiêu diệt đại đội, tiểu đoàn địch diễn ra, chứng tỏ khả năng tác chiến tập trung với quy mô ngày càng lớn của bộ đội chủ lực. Trong khi đó, phong trào đấu tranh trong các đô thị đòi quyền dân sinh, dân chủ, bình đẳng tôn giáo, chống bắt lính... dâng cáo.


Tất thảy điều đó khiến cho nội bộ Mỹ - ngụy lâm vào cuộc khủng hoảng ngày càng sâu sắc. Mỹ buộc phải "thay ngựa giữa dòng", phế bỏ Diệm - Nhu (11-1963), nhưng ngay cả cố gắng này của Mỹ cũng không cứu vãn nổi tình hình.


Công cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt tiếp tục thu được những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng. Trong khi đó, cách mạng Lào có những bước phát triển mới với việc thiết lập chính quyền liên minh ba phái, gồm cả Pa-thét Lào. Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế có liên quan tới sự nghiệp cách mạng Việt Nam bấy giờ diễn biến phức tạp, đặc biệt là mâu thuẫn Xô - Trung trở nên gay gắt, tác động không nhỏ tới tư tưởng, tâm lý của cán bộ, đảng viên ta...


Trong bối cảnh trên đây, tháng 11-1963, Hội nghị Trung ương lần thứ 9 đã kịp thời xác định nhiều vấn đề quan trọng về đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng, về đường lối cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam.


Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, miền Bắc nỗ lực đẩy mạnh sản xuất, phấn đấu đạt các mục tiêu về kinh tế, văn hoá, xã hội của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất; đồng thời ra sức chuẩn bị mọi mặt nhằm bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc, chi viện tiền tuyến miền Nam.


Trước sức tiến công của cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ càng tăng cường các hoạt động chống phá nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đỉnh cao của các hoạt động đó của Mỹ là họ sử dụng hạm tàu Ma-đốc vi phạm lãnh hải nước ta, dựng nên sự kiện "Vịnh Bắc Bộ" để tạo cớ ném bom miền Bắc (ngày 5-8-1964) và thúc giục Quốc hội Mỹ thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ (ngày 7-8-1964) trao cho Tổng thống Mỹ Giôn-xơn quyền sử dụng lực lượng quân sự Mỹ trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.


Hành động trên đây khiến cho tình hình diễn biến ngày càng thêm căng thẳng. Tháng 3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt, biểu thị ý chí đoàn kết chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc Việt Nam. Cũng trong năm 1964 và đầu năm 1965, một số hội nghị lớn được tổ chức nhằm chuẩn bị mọi mặt cho miền Bắc sẵn sàng và có đủ sức mạnh đánh thắng mọi âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiển tuyến lớn.


Trên chiến trường miền Nam, năm 1964 và những tháng đầu năm 1965, chiến tranh nhân dân phát triển sâu rộng khắp cả 3 vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng, đô thị). Tiếp tục vận dụng các phương châm chiến lược trong cuộc đấu tranh chống phá bình định, quân dân các chiến trường đã làm thất bại "quốc sách” ấp chiến lược. Bộ đội chủ lực mở nhiều trận đánh và một số chiến dịch tiến công. Các chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài thắng lợi, đánh dấu bước tiến mới về trình độ tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực, góp phần quan trọng vào việc tạo ra bước ngoặt cho hình thái đấu tranh vũ trang của chiến tranh cách mạng miền Nam. Chiến tranh du kích tiếp tục phát triển rộng khắp, đặc biệt là hoạt động của bộ đội đặc công, biệt động sâu trong vùng hậu cứ, hậu phương của địch. Các nỗ lực chống phá miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc của Mỹ ngụy ngày càng tỏ ra không hiệu quả. Trong khi đó, ngụy quyền Sài Gòn tiếp tục lún sâu vào cuộc khủng hoảng nội bộ với 14 lần đảo chính và phản đảo chính trong hơn một năm rưỡi kể từ ngày Diệm - Nhu bị lật đổ (11-1963 - 6-1965).


Như thế, đến giữa 1965, hơn 50 vạn quân ngụy - nòng cốt của chiến tranh đặc biệt, không đủ sức đương đầu với Quân giải phóng miền Nam; chương trình bình định được coi là "xương sống" của cuộc chiến tranh này cũng bị phong trào tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam làm phá sản. Cuối cùng, chính quyền Sài Gòn, chỗ dựa về chính trị để Mỹ tiến hành chiến tranh đặc biệt, ngày càng lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Chiến lược chiến tranh đặc biệt, sau 4 năm triển khai thực hiện, về cơ bản đã bị đánh bại trên chiến trường miền Nam.


Nhìn chung lại, trong giai đoạn này, thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", một trong ba hình thức chiến tranh của chiến lược quân sự toàn cầu "phản ứng linh hoạt", Mỹ quyết định dùng chiến tranh bằng quân đội tay sai do Mỹ trang bị với hệ thống cố vấn Mỹ chỉ huy; dùng biện pháp chiến lược "càn quét và bình định” để tiêu diệt cách mạng miền Nam...


Trước tình hình đó, ta kịp thời chuyển cuộc đấu tranh từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, tập trung đánh bại các biện pháp lớn của chiến lược Chiến tranh đặc biệt; đồng thời, ra sức xây dựng miền Bắc, kiềm chế và thắng địch ở miền Nam, sẵn sàng đối phó với chiến lược chiến tranh cục bộ. Đây là thời kỳ mà hình thái cuộc đấu tranh kết hợp quân sự và chính trị, tiến công và nổi dậy, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ phát triển rất cao; đấu tranh quân sự có bước phát triển mới với sự xuất hiện một số chiến dịch khởi đầu.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #56 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2021, 09:24:19 am »

c) Giai đoạn thứ 3 (giữa 1965 đến hết 1968)

Thất bại trong chiến tranh đặc biệt, từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược Chiến tranh cục bộ bằng việc đưa quân chiến đấu Mỹ vào tham chiến ở miền Nam và dùng không quân, hải quân mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Mục tiêu chiến lược của Mỹ là sử dụng sức, mạnh quân sự trực tiếp của Mỹ đánh bại cách mạng miền Nam dự định chỉ trong vòng khoảng 20 đến 30 tháng (từ giữa năm. 1965 đến hết năm 1967). Kế hoạch giành thắng lợi quyết định ở miền Nam của quân Mỹ được phân thành 3 giai đoạn: giai đoạn đầu, triển khai quân Mỹ, chặn đứng chiều hướng thua của quân đội Sài Gòn; giai đoạn 2, mở các cuộc tiến công chiến lược "tìm diệt" Quân giải phóng và kiểm soát vùng nông thôn; giai đoạn 3, hoàn tất các mục tiêu, rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam. Hỗ trợ cho các hoạt động quân sự ở miền Nam, không quân hải quân Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc nhằm khủng bố tinh thần kháng chiến của nhân dân ta, ngăn chặn luồng tiếp tế từ ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam, nâng đỡ tinh thần quân đội Sài Gòn.


Đây là nỗ lực quân sự lớn nhất, bước leo thang chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Hành động chiến tranh mới này của Mỹ đặt cuộc kháng chiến của quân dân Việt Nam trước thử thách lớn lao và tình thế rất hiểm nghèo, cả thế giới lo lắng dõi theo diễn biến tình hình ở Việt Nam.


Trước tình thế hiểm nghèo đó, các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 11 (3-1965) và 12 (12-1965) trên cơ sở phân tích đúng đắn so sánh lực lượng địch ta, chỉ ra chính xác chỗ mạnh, chỗ yếu và khả nặng thực tế của cả hai bên trong cuộc đối đầu trực tiếp này, lượng định xu hướng diễn biến của tình hình.., đã hạ quyết tâm động viên cao độ sức mạnh của cả nước, ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân tiến bộ thế giới, trước hết là cảc nước trong phe xã hội chủ nghĩa, tiếp tục giữ vững và phát huy tư tưởng chiến lược tiến công, ghìm chân và đánh thắng quân Mỹ trên chiến trường miền Nam, bảo vệ vững chắc miền Bắc, làm thất bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.


Theo phương hướng Nghị quyết Hội nghị Trung ương 11 và 12, từ năm 1965, miền Bắc chuyển nhanh mọi mặt từ thời bình sang thời chiến: chuyển hướng về tư tưởng, tổ chức; chuyển hướng về kinh tế; tăng cường sức mạnh quân sự. Đó là một quyết định kịp thời và đúng đắn; bảo đảm cho miền Bắc có đủ điều kiện và sức mạnh để cùng một lúc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ, duy trì và giữ vững sản xuất, tăng sức chi viện cho chiến trường. Khắp nơi trên miền Bắc, dấy lên các phong trào thi đua sôi nổi trong mọi tầng lớp nhân dân. "Thanh niên 3 sẵn sàng”, "Phụ nữ ba đảm đang", "Tay cày tay súng", "Tay búa tay súng”, ’’Thiếu nhi làm nghìn việc tốt chống Mỹ, cứu nước”, "Tiếng hát át tiếng bom", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm"... Dưới đạn bom đánh phá của máy bay, tàu chiến Mỹ, miền Bắc vẫn vững vàng trong lửa đạn, không nao núng quyết tâm. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp vẫn được giữ vững. Đời sống nhân dân nhìn chung vẫn ổn định mặc dù thiếu thốn, khó khăn hơn. Lực lượng phòng không 3 thứ quân trên miền Bắc phát triển nhanh chóng, đánh trả có hiệu quả không quân, hải quân Mỷ. Giao thông vận tải chẳng những không bị ngừng trệ mà hơn thế, ngày càng vươn sâu, vươn xa về phía Nam. Sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến tăng nhanh theo từng năm, đáp ứng kịp thời và khá đầy đủ mọi nhu cầu về người, vũ khí, phương tiện chiến tranh của cách mạng miền Nam...


Được miền Bắc chi viện sức người, sức của và dựa trên thế trận chiến tranh nhân dân phát triển mạnh trong những năm đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", ngay từ những ngày đầu chiến tranh cục bộ và trong những năm sau đó, lực lượng vũ trang ba thứ quân của cách mạng miền Nam đã đón đánh mãnh liệt quân viễn chinh Mỹ. Tiếp theo các trận đánh phủ đầu quân Mỹ ở Núi Thành (Quảng Nam) đêm 25 rạng ngày 26-5-1965, Vạn Tường (Quảng Ngãi) hạ tuần tháng 8-1965, Đất Cuốc (phía Bắc Biên Hoà) ngày 8-11-1965, Bầu Bàng ngày 12-11-1965, Plây Me (Tây Nam thị xã Plây Cu) từ 19-10 đến 20-11-1965, trong mùa khô 1965 - 1966, quân dân ta đã đánh thắng cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, làm thất bại chương trình bình định của Mỹ ngụy. Sau đó, tháng 6-1966, Quân uỷ Trung ương quyết định mở Mặt trận Đường 9- Bắc Quảng Trị, tạo hướng tiến công chiến lược mới vào nơi yếu của địch trên chiến trường, buộc địch phải tiếp tục phân tán binh lực lên vùng rừng núi, là nơi ta có điều kiện thực hiện tiêu diệt lớn lực lượng cơ động chủ lực địch bằng chủ lực mạnh của miền Bắc, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng ở miền Nam, ngăn chặn không để địch mở cuộc tiến công trên bộ ra khu vực Nam Quân khu 4...


Tháng 1-1967, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 13 họp và quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao. Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh: "Mở mặt trận đấu tranh ngoại giao lúc này là đúng lúc" nhằm phối hợp với mặt trận quân sự, chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, đánh bại các cố gắng chiến tranh của Mỹ ngụy.


Bước vào mùa khô 1966 - 1967, địch dồn sức mở liên tiếp 3 cuộc hành quân lớn là At-tơn-bo-rơ, Xi-đa-phôn, Gian-xơn Xi-ti, tập trung đánh vào miền Đông Nam Bộ. Đặc biệt, trong cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) sử dụng tới 45.000 quân nhằm chụp bắt cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam và tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam bấy giờ đang ở chiến khu Dương Minh Châu...


Dựa trên thế trận chiến tranh nhân dân được chuẩn bị sẵn, kết hợp tác chiến của lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, quân và dân ta trên khắp chiến trường miền Nam nói chung và ở Đông Nam Bộ nói riêng đã mở các trận đánh, các chiến dịch phản công, tiến công, đánh bại các nỗ lực quân sự trên đây của quân Mỹ. Đồng thời, lực lượng đặc biệt tinh nhuệ của ta đẩy mạnh các hoạt động sâu trong nội đô, tiến công vào nhiều mục tiêu hiểm yếu ở hậu phương, hậu cứ địch.


Thất bại trong hai cuộc phản công chiến lược ở miền Nam cùng với sự bất lực của không quân, hải quân trong việc ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam đã đặt giới lãnh đạo hiếu chiến Mỹ vào thế "tiến thoái lưõng nan" về chiến lược, làm cho nội bộ nước Mỹ, đặc biệt trong giới cầm quyền Mỹ, bị phân hoá.


Theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến của tình hình chiến trường, trong nước và trên thế giới, từ giữa năm 1967, các cơ quan chiến lược tại Hà Nội bắt tay xây dựng kế hoạch quân sự Đông Xuân 1967 - 1968. Tháng 10-1967, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng quyết định chuyển hướng tiến công chiến lược vào các đô thị miền Nam. Bắt đầu từ đó, các chiến trường, các mặt trận khẩn trương và bí mật chuẩn bị theo phương hướng này. Tháng 1-1968, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp thông qua Nghị quyết của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1967, chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968.


Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng, đêm 20 rạng ngày 21-1-1968, chủ lực ta bất ngờ nổ súng đánh vào tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, một vị trí có tầm quan trọng chiến lược phía tây phòng tuyến Mác-na-ma-ra mà địch lập ra nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.


Trong khi địch buộc phải tăng cường cho Khe Sanh và dồn tâm trí vào chiến sự ở nơi này thì đêm giao thừa và đêm mồng một Tết Mậu Thân (30 và 31-1-1968), ta đồng loạt tiến công vào 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn; đánh thẳng vào hầu hết các cơ quan đầu não Trung ương, địa phương của Mỹ, ngụy trên toàn miền Nam. Vùng nông thôn đồng bằng, với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ trên những khu vực rộng lớn...


Cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt, bất ngờ, táo bạo Tết Mậu Thân đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng trên chiến trường, làm bất lực một đội quân đông tới một triệu hai trăm nghìn tên.


Hai tháng kể từ khi xảy ra "biến cố Tết Mậu Thân", sau rất nhiều tính toán và lượng định tình hình, đêm 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đơn phương tuyên bố: chấm dứt thời kỷ đưa quân Mỷ vào tham chiến ở miền Nam, ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng cử đại diện đàm phán với Việt Nam dân chủ cộng hoà và không ra tranh cử nhiệm kỳ tổng thống tiếp theo... Với tất cả những quyết định trên đây, Mỹ mặc nhiên thừa nhận sự phá sản hoàn toàn của chiến lược "Chiến tranh cục bộ”.


Sau đó, tháng 5 và tháng 8-1968, ta mở tiếp các đợt tiến công mà hướng chính là vẫn nhằm vào mặt trận đô thị. Mặc dù bồi tiếp đòn mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ nhưng việc mở các cuộc tiến công trên đây cũng gây cho ta những hao tổn nặng nề về lực lượng, thế trận chỉến tranh nhân dân trên 3 vùng chiến lược bị suy giảm mạnh. Chủ lực ta bị địch đánh bật khỏi nhiều vùng ven đô, đồng bằng; phải lùi dần-lên vùng rừng núi, thậm chí ra khỏi biên giới miền Nam. Nhiều vùng giải phóng rộng lớn của ta bị địch chiếm lại... Dù vậy, ngày 1-11-1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn vẫn buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện mọi hành động chống phá nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chấp nhận Hội nghị 4 bên ở Pa-ri.


Nhìn chung lại, chiến tranh cục bộ là cố gắng cao nhất trong toàn bộ nỗ lực chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ. Những năm tháng ấy, khắp hai miền Nam, Bắc Việt Nam, khí thế và quyết tâm đánh Mỹ dâng cao. Đây là giai đoạn mà bản lĩnh, sức mạnh và sự sáng tạo của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam được chứng tỏ một cách rực rỡ bằng việc đương đầu và đánh thắng nỗ lực chiến tranh cao nhất của lục quân, không quân, hải quân Mỹ.


Thất bại này, xét trên nhiều khía cạnh, đã là sự khởi đầu cho cả một quá trình đi xuống về chiến lược trong cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ và quá trình đó là không thể đảo ngược. Thất bại ở Việt Nam và những hệ lụy của nó đã là một nhân tố quan trọng buộc Mỹ phải từ bỏ chiến lược quân sự toàn cầu ”Phản ứng linh hoạt". Với ta, những thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong giai đoạn này đã đưa đến một tình thế: vừa đánh vừa đàm trong những năm tiếp sau.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #57 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2021, 09:25:26 am »

d) Giai đoạn thứ 4 (1969 - 1-1973)

Thất bại trên chiến trường Việt Nam đã đẩy nước Mỹ lâm vào thời kỳ khủng hoảng kéo dài nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội và đối ngoại. Trong bối cảnh đó, lên làm Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 1969 - 1972, Ních-Xơn và giới cầm quyền Mỹ quyết định điều chỉnh chiến lược hòng tiếp tục thực hiện chính sách bá chủ toàn cầu và duy trì sự thống trị miền Nam Việt Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới. Chiến lược toàn cầu mới này mang tên "Học thuyết Ních-xơn" và chiến lược quân sự "Răn đe thực tế" thay thế cho chiến lược "Phản ứng linh hoạt" đã bị phá sản. Với chiến lược mới này, Mỹ chủ trương vẫn duy trì lực lượng quân sự mạnh để "răn đe", giữ vững cam kết với đồng minh trên cơ sở cùng nhau "chia sẻ trách nhiệm" và Mỹ vẫn khẳng định vị trí "lãnh đạo thế giới tự do”. Đồng thời, chiến lược mới này còn chủ trương lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô - Trung Quốc cũng như triệt để khai thác tính đa cực về chính trị trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế để chia rẽ, lôi kéo các nước lớn, mua chuộc, uy hiếp các nước nhỏ...


Ứng dụng Học thuyết Ních-Xơn vào Việt Nam, chính quyền Mỹ điều chỉnh chủ trương "Phi Mỹ hoá" của thời Giôn-xơn thành chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh”. Nhưng khác với "Phi Mỹ hoá" là một kế hoạch thuần tuý về quân sự nhằm đảm bảo cho quân đội Mỹ trên chiến trường Việt Nam đỡ bị tổn thất bằng cách trút dần gánh nặng chiến tranh lên vai quân đội Sài Gòn, "Việt Nam hoá" là một chiến lược hoàn chỉnh về quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao nhằm tiếp tục thực hiện âm mưu cơ bản của Mỹ là bám giữ miền Nam Việt Nam, giảm bớt sự dính líu quân sự trực tiếp trên bộ nhưng vẫn phải giành thế mạnh trên chiến trường để ép đối phương ở bàn hội nghị theo những điều kiện của Mỹ. Về thực chất, đây là một chiến lược chiến tranh thâm độc, toan "thay đổi màu da trên xác chết” mà thôi. Chiến lược này được dự định trải qua 3 giai đoạn và mỗi giai đoạn gắn liền với việc trao dần gánh nặng chiến tranh lên vai chính quyền và quân đội Sài Gòn trên cơ sở đánh giá những "tiến bộ" của chương trình "Việt Nam hoá".


Thực hiện chiến lược ''Việt Nam hoá chiến tranh", Mỹ đã tiến hành một loạt các biện pháp tàn bạo và thâm độc về quân sự, chính trị, ngoại giao mà tựu trung, các biện pháp đó được mệnh danh là "chiến tranh huỷ diệt", "chiến tranh giành dân" và "chiến tranh bóp nghẹt".


Âm mưu, thủ đoạn và những hành động chiến tranh mới của Mỹ ngụy đặt sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta trước tình thế mới, vừa thuận lợi nhưng cũng nhiều phức tạp, khó khăn.


Trên thực tế, từ giữa năm 1968 đến những tháng đầu năm 1970, cách mạng miền Nam lâm vào thời kỳ rất khó khăn các lực lượng cách mạng, yêu nước ở miền Nam phải đối măt với những thử thách nặng nề trước sự đánh phá dữ dội và những âm mưu, thủ đoạn "bình định” thâm độc, tàn bao của kẻ thù1 (Sau Tết Mậu Thân 1968, quân đội Mỹ trên chiến trường công khai bộc lộ sự tàn bạo của họ bằng cách gây ra nhiều vụ tàn sát dã man đối với đồng bào ta ở miền Nam - mà Mỹ Lai là một điển hình. Từ những tháng cuối năm 1968, địch triển khai mạnh mẽ các hoạt động gián điệp, tình báo. Thông qua chương trình "Phượng hoàng" khét tiếng, chúng tăng cường phát hiện, chỉ điểm, ám sát thủ tiêu, bắt bớ, tra khảo cán bộ, du kích và những người dân bị tình nghi ủng hộ, che giấu lực lượng cách mạng. Chương trình Phượng hoàng đã gây bao tang tóc đau thương cho nhân dân ta...). Cơ sở chính trị ở vùng địch chiếm bị hao tổn. Vùng giải phóng, vùng làm chủ bị thu hẹp dần. Mất chỗ đứng chân các đơn vị chủ lực Quân giải phọng phải lùi dần lên vùng rừng núi, thậm chí bật sang biên giới Cam-pu-chia; một số đơn vị phải ra Nam Quân khu 4 để củng cố lực lượng...


Giữa những ngày tháng gian nan đó, một tổn thất vô cùng lớn đến với toàn dân tộc ta: ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời tại Thủ đô Hà Nội. Lợi dụng đau thương này, Mỹ ngụy tăng cường các hoạt động tâm lý chiến hòng lung lạc tinh thần kháng chiến của quân và dân ta.


"Lửa thử vàng, gian nan thử sức", trong khó khăn ác liệt, quân dân ta ở cả hai miền Nam Bắc vẫn giữ vững ý chí, quyết tâm, kiên cường và bền bỉ kháng chiến.


Từ tháng 4 năm 19691 (Tháng 4-1949, Hội nghị Bộ Chính trị họp phân tích chỉ ra những mâu thuẫn không thể nào khắc phục được của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và khẳng định phương châm chiến lược: trong khi đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, phải sáng tạo và nắm vững thời cơ để giành thắng lợi trong một thời gian tương đối ngắn. Hội nghị yêu cầu các chiến trường, các địa phương miền Nam trong khi giữ vững thế tiến công bao vây thành thị, phải đẩy mạnh việc giải phóng vùng nông thôn. Thán 1-1970, Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 18 xác định: nông thôn là hướng tiến công chính của quân và dân ta ở miền Nam), nhất là từ đầu năm 1970, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã từng bước phát hiện những khuyết điểm của ta từ sau Tết Mậu Thân, chủ trương chuyển hướng tiến công, lấy nông thôn làm hướng chính, tập trung nỗ lực ngăn chặn và đẩy lùi các chương trình bình định nông thôn của địch, ra sức chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đối phó có hiệu quả nếu địch liều lĩnh mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia và Lào...


Trên cơ sở đánh giá tình hình nội bộ miền Nam cơ bản đã được ổn định, tháng 4-1970, Mỹ ngụy sử dụng 10 vạn quân tràn qua biên giới Cam-pu-chia, phối hợp với quân ngụy Lon-non đánh vào hai khu vực Móc Câu và Mỏ Vẹt nhằm tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng và chụp bắt cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam. Cùng lúc đó, Mỹ tăng cường chiến tranh ở Lào, sử dụng máy bay ném bom ở các tỉnh phía Nam Quân khu 4.


Theo dõi sát diễn biến của tình hình, Bộ Chính trị kịp thời nhận định: từ đây, Đông Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất, trong đó, chiến trường chính vẫn là miền Nam Việt Nam; Cam-pu-chia là chiến trường yếu của địch, Lào ngày càng có vị trí hiểm yếu, miền Bắc là hậu phương chung của cách mạng 3 nước Đông Dương. Bộ Chính trị chủ trương phối hợp chặt chẽ với Bạn đẩy mạnh tiến công tiêu diệt địch, giải phóng đất đai: đồng thời phá kế hoạch "bình định" ở chiến trường miền Nam.


Theo phương hướng đó, ta và bạn đã hành động kiên quyết dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, giành thắng lợi to lớn ở chiến trường Cam-pu-chia, ở Lào1 (7 tháng trong năm 1970, ta và bạn Cam-pu-chia đã loại khỏi vòng chiến đấu 54.000 địch, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh miền Đông và phần lớn nông thôn 10 tỉnh khác ở Cam-pu-chia. Ta và bạn Lào giải phóng A-tô-pơ và Xa-ra-van, tạo thành một địa bàn chiến lược rộng lớn, hiểm yếu ở khu vực biên giới ba nước Đông Dương) và ở Nam Việt Nam.


Phát huy thắng lợi đã giành được trong năm 1970, những tháng đầu năm 1971, ta đã tiến hành thắng lợi chiến dịch phản công có ý nghĩa chiến lược đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 - một cuộc hành quân nhằm đánh chiếm Sê Pôn, phá tận gốc đường vận chuyển chiến lược Bắc Nam, chia cắt 3 nước Đông Dương và thử nghiệm công thức chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh: Bộ binh ngụy + hoả lực + hậu cần Mỹ của quân đội Sài Gòn. Đây là cố gắng quân sự cao nhất của Mỹ ngụy trong giai đoạn Việt Nam hoá chiến tranh. Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào đã chấm dứt thời kỳ mà ở đó, Mỹ, ngụy tổ chức các cuộc hành quân quy mô lớn tiến công và phản kích ra vòng ngoài trên chiến trường 3 nước Đông Dương.


Thắng lợi to lớn, toàn diện của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ trong 2 năm 1970, 1971 tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, năm nước Mỹ bước vào cuộc vận động tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ mới. Đây là thời điểm rất nhạy cảm trong đời sống chính trị nước Mỹ mà ta cần phải và có thể lợi dụng để làm thay đổi cục diện chiến tranh.


Cuộc tiến công chiến lược 1972 bắt đầu từ ngày 30-3-1972, bằng 3 chiến dịch tiến công của chủ lực trên 3 hướng (Đường 9 - Trị Thiên, bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ), kết hợp với các chiến dịch tiến công tổng hợp (ở đồng bằng Nam Bộ và đồng bằng Khu V). Thời gian mở màn, hướng tiến công, quy mô sử dụng lực lượng và cường độ của cuộc tiến công chiến lược khiến Mỹ - ngụy bất ngờ, choáng váng, bị thiệt hại nặng. Ta đập vỡ nhiều tuyến phòng ngự cơ bản của địch, chiếm giữ thêm những địa bàn xung yếu có sức uy hiếp các căn cứ, chi khu, đô thị địch; giải phóng nhiều vùng rộng lớn gồm hầu hết các tỉnh Quảng Trị, Công Tum, Bắc Bình Định; hoàn chỉnh vùng giải phóng Đông Nam Bộ (Tây Ninh, Bình Long, Phước Long), mở ra vùng giải phóng mới ở đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long.


Cuộc tiến công chiến lược 1972 của ta nổ ra, buộc Mỹ phải bị động dùng không quân, hải quân đánh phá ác liệt ở miền Nam và mở lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Thâm độc hơn, đi đối với sự phản ứng quyết liệt về quân sự, địch đồng thời xúc tiến mạnh các hoạt động ngoại giao xảo quyệt hòng gây sức ép, buộc ta phải ngừng cuộc tiến công. Kế đó, tháng 12-1972, địch mở cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng hòng buộc ta phải chấp nhận điều kiện của Mỹ đưa ra trong đàm phán. Dù vậy, những nỗ lực quân sự, ngoại giao trên đây của Mỹ đã bị thất bại. Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pa-ri, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân đội ra khỏi miền Nam, chấp nhận việc quân đội miền Bắc vẫn ở lại chiến trường.


Nhìn chung lại, khoảng thời gian từ 1969 đến 1972 là giại đoạn Mỹ ngụy tuy phải xuống thang chiến tranh nhưng lại thay đổi chiến lược, dồn sức phản công quyết liêt toàn diện, bằng những biện pháp thâm độc, tàn bạo hòng gỡ thể diện cho việc buộc phải rút dần quân chiến đấu Mỹ ra khỏi miền Nam, chấm dứt sự dính líu quân sự trực tiếp của Mỹ tại Việt Nam.


Thời kỳ đầu, ta có khuyết điểm trong chỉ đạo chiến lược đặc biệt là việc kéo dài tình huống đưa chiến tranh vào đô thị, bỏ trống vùng nông thôn. Địch kịp thời lợi dụng sơ hở của ta, dồn sức thực hiện kế hoạch bình định nông thôn, đẩy lùi thế tiến công của cách mạng miền Nam. Thế nhưng, từ giữa năm 1970 trở đi, ta kịp thời lợi dụng sai lầm của đối phương khi chúng đưa quân tràn sang biên giới Cam-pu-chia, tổ chức phản công và tiến công giành thắng lợi to lớn, toàn diện; kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các mặt đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri mà ý nghĩa cơ bản nhất là "Quân Mỹ phải ra, còn quân ta thì ở lại" như nhận định của Cố Tổng bí thư Lê Duẩn; mở ra giai đoạn mới - giai đoạn "đánh cho ngụy nhào".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #58 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2021, 09:26:26 am »

đ) Giai đoan thứ 5 (1-1973 - 4-1975)

Thực ra, khi ký Hiệp định Pa-ri, Mỹ không còn mong giành thắng lợi ở Việt Nam nữa. Thế nhưng, chính quyền Ních-xơn vẫn chưa chịu từ bỏ chính sách thực dân mới của họ ở miền Nam, vẫn nuôi hy vọng tiếp tục của chiến tranh bằng quân ngụy tay sai hòng tạo ra một khoảng cách cần thiết giữa việc Mỹ rút ra với sự sụp đổ của chế độ tay sai, qua đó, gỡ gạc thể diện cho Mỹ. Vì vậy, trước, trong và sau Hiệp định, Mỹ lén lút tuồn vũ khí, gài nhân viên, cố vân Mỹ ở lại làm nhiệm vụ chỉ huy, hỗ trợ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn.


Sau ngày Hiệp định Pa-ri được ký kết, quân đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm vùng giải phóng. Trong khi đó, Mỹ duy trì lực lượng "ngăn đe" ở các vùng phụ cận quanh Việt Nam, đồng thời tiếp tục các hoạt động ngoại giao xảo quyệt hòng ngăn chặn sự phát triển của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.


Các hoạt động chống phá Hiệp định Pa-ri của địch ngày càng tăng, gây cho ta sự lúng túng trong việc đối phó. Đến giữa năm 1973, ở Khu 5, ta mất 26 vạn dân, 45 xã, 302 ấp, địch đóng thêm 200 bốt; Khu 6 và Khu 7, ta mất 29 vạn dân, 308 ấp, địch đóng thêm 287 đồn; Khu 8, ta mất 10 vạn dân, 24 xã, 102 ấp, địch đóng thêm 287 đồn. Tháng 5-1973, Bộ Chính trị họp và chỉ ra những sơ hở, khuyết điểm của ta về vấn đề này. Tiếp đó, tháng 7-1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 họp, khẳng định con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới này là tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, kẻ thù chính vẫn là đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tay sai. Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đấu tranh trên cả 3 mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao; nhiệm vụ của miền Bắc là ra sức chi viện miền Nam, phục hồi và phát triển kinh tế. làm cho miền Bắc luôn luôn là chỗ dựa vững chắc của cách mạng miền Nam nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


Dưới ánh sáng Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, quân dân ta ở miền Nam đẩy mạnh các hoạt động phản công và tiến công địch. Đến giữa năm 1974, trên toàn Miền, ta xoá đươc 3.600 đồn bốt, giải phóng thêm 850 ấp với 115 vạn dân. Ở vùng địch kiểm soát, đặc biệt ở các đô thị lớn, mặt trận đấu tranh chính trị phát triển mạnh mẽ, tập trung vào việc đòi Mỹ ngụy thi hành Hiệp định, tố cáo chính quyền Thiệu độc tài, tham nhũng, bất công. Trong khi đó, tại Mỹ, tháng 7- 1974, Ních-xơn buộc phải từ chức do vụ bê bối Oa-tơ-ghết, Phó Tổng thống Mỹ Giê-rôn Pho lên thay. Lúc này, trên thực tế khả năng viện trợ của Mỹ cho chính quyền và quân đội Sài Gòn sụt giảm tới 50% trong khi nền kinh tế của chế độ đó phụ thuộc vào viện trợ Mỹ tới 90%.


Tháng 7-1974, đồng chí Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn trực tiếp hướng dẫn Bộ Tổng tham mưu khởi thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.


Theo dõi sát toàn bộ diễn biến trên chiến trường, trong nước và trên thế giới có liên quan tới sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và lượng định đúng khả năng phát triển của tình hình, tháng 10 và tháng 12-1974, tập thể Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cùng các cán bộ chủ chốt ở chiến trường họp bàn về quyết tâm và kế hoạch giải phóng miền Nam trong thời gian 2 năm 1975, 1976.


Trong lúc Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng đang tiến hành bàn bạc, thảo luận về kế hoạch chiến lược trên đây thì tại chiến trường miền Nam, quân dân ta đẩy mạnh các hoạt động quân sự, nổi bật nhất là chiến thắng Phước Long (tháng 12-1974). Phước Long có vị trí chiến lược quan trọng1 (Tỉnh Phước Long nằm ở phía đông bắc và cách Sài Gòn hơn 100km, bắc giáp Cam-pu-chia, đông giáp Quảng Đức, nam giáp Bình Dương, tây giáp Bình Long. Đây là giao điểm của các địa bàn chiến lược Nam Tây Nguyên, đông nam Cam-pu-chia, Đông Nam Bộ, Khu 6 và là cửa ngõ phía tây bắc Sài Gòn). Chiến thắng Phước Long chứng tỏ khả năng đánh chiếm thành phố, thị xã và trụ lại của bộ đội ta; khả năng phản ứng của quân đội Sài Gòn và khả năng trực tiếp can thiệp quân sự trở lại của đế quốc Mỹ.


Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng kết luận: "Khả năng đế quốc Mỹ trực tiếp can thiệp, hiện nay đang gặp nhiều khó khăn", "dù chúng có can thiệp như thế nào ta cũng có đầy đủ quyết tâm và điều kiện đánh thẳng và chúng cũng không thể cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn”. Do đó, "chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, để tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc”.


Bộ Chính trị hạ quyết tâm và thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 và 1976. Ngoài kế hoạch cơ bản này ra, Bộ Chính trị còn dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định chọn Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975.


Thực hiện quyết tâm chiến lược trên đây của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, hai miền Nam Bắc khẩn trương hoàn tất các mặt chuẩn bị, cả về thế và lực. Ta thành lập 3 quân đoàn 1, 2, 4; mở rộng và kéo dài tuyến vận tải chiến lược Bắc - Nam tới Nam Bộ; miền Bắc dồn sức chi viện mạnh mẽ, toàn diện, liên tục cho miền Nam.


Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam mở màn từ ngày 4-3-1975 bằng chiến dịch Tây Nguyên mà trận đột phá chiến lược là việc đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Qua 20 ngày đêm chiến đấu, đến ngày 24-3rỊ975, chiến dịch Tây Nguyên đã giành thắng lợi hoàn toàn. Quân ta đánh bại cuộc phản kích của Sư đoàn 23 ngụy, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch rút chạy trên đường số 7, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2, Quân khu II của địch, giải phóng Tây Nguyên, nhanh chóng phát triển xuống các tỉnh ven biển miền Trung.


Những thắng lợi to lớn trong chiến dịch Tây Nguyên là cơ sở để Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong năm 1975.

Trong lúc đó, từ ngày 6-3-1975, ta bắt đầu tiến công địch ở,Trị Thiên và Khu V. Đến ngày 21-3, phát huy thắng lợi nhanh chóng và dồn đập ở Tây Nguyên, và đồng bằng miền Trung, hai chiến dịch ở Quân khu V và Quân khu Trị Thiên đã phát triển thành chiến dịch tiến công Huế - Đà Nẵng.

Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam trước mùa mưa 1975.

Ngày 26-3, Huế được giải phóng.

Ngày 29-3, Đà Nẵng được giải phóng.

Sau 25 ngày đêm chiến đấu (6-3 đến 29-3), ta tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân đoàn 1, Quân khu I của địch. Đến ngày 3-4, ta giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung.


Ngày 4-4, Quân uỷ Trung ương giao cho Khu V và lực lượng hải quân tiến công giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Từ 14 đến 29-4. toàn bộ các đảo trên được giải phóng.


Từ ngày 26-4 đến ngày 30-4-1975, chiến dịch lịch sử mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra và giành toàn thắng. Sài Gòn - Gia Định và miền Đông Nam Bộ được giải phóng. 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, Tổng thống ngụy buộc phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Toàn bộ Quân đoàn 3, Quân khu III ngụy bị tiêu diệt và tan rã.


Ở khu vực các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân ta từ đầu tháng 3-1975, đến ngày 1-5-1975 đã giải phóng toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 4 và Quân khu IV của địch. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi.


Nhìn chung lại, trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thời gian đầu sau Hiệp định Pa-ri, trong chỉ đạo, ta có thiếu sót và chập choạng. Thế nhưng, ngay sau đó, ta kịp thời khắc phục khuyết điểm, nhanh chóng chuyển thế chiến trường, tạo ra những điều kiện cần và đủ để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.


Thắng lợi trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là kết quả cuối cùng của cả một quá trình kháng chiến lâu dài, bền bỉ, quyết chiến, quyết thắng, đánh bại từng chiến lược chiến tranh của địch, của quân và dân ta trên cả hai miền Nam Bắc. Đó là thắng lợi của bản lĩnh Việt Nam, văn hoá Việt Nam; thắng lợi của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện, hoàn cảnh của cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam; thắng lợi của sức mạnh khôi đoàn kết toàn dân. đoàn kết quốc tế, của chế độ xã hội mới được xây dựng trên miền Bắc và ở vùng giải phóng miền Nam của tình đoàn kết chiến đấu, gắn bó keo sơn, bền chặt giữa nhân dân 3 nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #59 vào lúc: 11 Tháng Năm, 2021, 09:27:48 am »

3. Tính chất, đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

a) Tính chất

Diễn ra trong những điều kiện lịch sử cụ thể của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta có những tính chất chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa chống chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ.

Trải qua 21 năm, mặc dù đế quốc Mỹ lần lượt thay đổi chiến lược chiến tranh và cho dù chính quyền, quân đội Sài Gòn mang chiêu bài "quốc gia", "dân tộc", song về thực chất và trên thực tế, đây vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, giấu mặt, trá hình, rất tàn bạo và thâm độc của Mỹ. về phía nhân dân ta, đây là cuộc chiến tranh giành lại và giữ vững nên tự do, độc lập và thống nhất đất nước - một sự nghiệp thiêng liêng mà bất cứ một quốc gia, dân tộc chân chính nào trên thế giới đều nỗ lực phấn đấu. Chính vì vậy, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Mỷ là sự nghiệp chính nghĩa. Đó tuyệt nhiên không phải là cuộc nội chiến giữa hai miền Nam - Bắc Việt Nam.


Thứ hai, đó là cuộc kháng chiến vừa mang tính chất giải phóng dân tộc, vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc.

Do đặc điểm của tình hình đất nước ta từ sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc là đất nước tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nên cùng một lúc, cách mạng Việt Nam phải tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược phù hợp với tình hình, đặc điểm ở mỗi miền nhằm mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước, về phía đối phương, xâm lược miền Nam luôn gắn liền với chống phá toàn diện, ngày càng mạnh mẽ miền Bắc, kể cả sử dụng sức mạnh của không quân, hải quân gây chiến tranh phá hoại. Bởi vậy, kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc chiến tranh cứu nước của toàn dân tộc Việt Nam, của cả nước, không cắt rời Nam - Bắc; mang đậm tính chất giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.


Thứ ba, đó là cuộc kháng chiến mang tính chất liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia.

Ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương từng có mối quan hệ đoàn kết, gắn bó với nhau từ lâu. Trong 21 năm tiến hành chiến tranh xâm lược, chính sách của Mỹ đối với mỗi nước có sự khác nhau cho phù hợp nhưng mục tiêu chiến lược vẫn là nhằm xâm chiếm cả 3 nước. Trong điều kiện đó, để có đủ sức mạnh đương đầu và đánh bại âm mưu và hành động xâm lược của đế quốc Mỹ, nhân dân 3 nuớc đã tự nguyện liên minh chiến đấu với nhau và trên thực tế, đã hình thành Mặt trận nhân dân Đông Dương chống Mỹ. Theo thời gian, Mặt trận đó được củng cố, tăng cường, phát huy tác dụng to lớn, tạo nên thế chiến lược vững chắc của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ của nhân dân và cách mạng 3 nước Đông Dương.


Thứ tư, đó là cuộc kháng chiến mang tính chất thời đại sâu sắc.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt sau khi cuôc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc, do vị trí địa - chiến lược, do tính chất của cách mạng Việt Nam cũng như do âm mưu của các thế lực đế quốc xâm lược hiếu chiến, Việt Nam trở thành nơi tập trung nhiều mâu thuẫn gay gắt của thời đại. Gây ra và đeo đuổi chiến tranh Việt Nam, đế quốc Mỹ không chỉ nhằm thống trị miền Nam mà còn toan tính những mục tiêu rộng lớn hơn trong chiến lược toàn cầu của Mỹ: răn đe phong trào giải phóng dân tộc, ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội, lôi kéo và tập hợp đồng minh. Chính vì thế, Việt Nam trở thành trung tâm đối phó của chiến lược toàn cầu của Mỹ và cuộc chiến giữa Mỹ với Việt Nam trở thành cuộc đụng đầu lịch sử. Trên ý nghĩa đó, sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chịu sự tác động và tác động trở lại đối với tình hình chính trị, quân sự, kinh tế thế giới cũng như các mối quan hệ giữa các nước trên thế giới và trong khu vực.


b) Đặc điểm

Diễn ra suốt 21 năm, trên quy mô rộng lớn, với cường độ vô cùng quyết liệt, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta mang những đặc điểm chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, Việt Nam tạm chia làm hai miền, cách mạng Việt Nam đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhằm mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai nhiệm vụ chiến lược đó đều do một Đảng, một dân tộc, một quân đội tiến hành. Đây là đặc điểm lớn nhất, chi phối mạnh mẽ mọi phương hướng, chủ trương và chiến lược của cả hai bên tham chiến.

Thứ hai, Việt Nam là một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển phải đương đầu với đế quốc Mỹ - thế lực xâm lược có sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn gấp nhiều lần. Do vậy, để giành chiến thắng, Việt Nam cần phải có quyết tâm, ý chí, trí thông minh, sự sáng tạo lớn lao; phải huy động sức mạnh tiềm tàng và to lớn của cả dân tộc và thời đại.

Thứ ba, cả hai bên tham chiến đều phải vừa đánh vừa tìm hiểu đối phương. Điều này được quy định bởi một loạt nhân tố chủ quan và khách quan, trên chiến trường, trong nước, ở khu vực và trên thế giới. Đế quốc Mỹ có sức mạnh kinh tế, quân sự lớn hơn ta gấp nhiều lần nhưng do nhiều nguyên nhân, cả bên trong nước Mỹ và trên trường quốc tế, nên không thể dễ dàng sử dụng được hiệu quả sức mạnh đó để giành phần thắng mà buộc phải "leo thang" chiến tranh, về phía ta, cho dù kiên quyết kháng chiến nhưng đề đánh thắng địch, lại cũng cần phải có thời gian để hiểu rõ địch hơn; cần có thời gian để tăng cường lực lượng, đảm bảo càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.


Nhìn chung lại, tính chất, đặc điểm cũng như quy mô, độ dài, cường độ... của cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam là những nhân tố rất quan trọng. Những nhân tố này chi phối, tác động tới tính toán chiến lược, điều hành chiến tranh, nghệ thuật quân sự và nhiều chiều cạnh liên quan của cả hai phía Việt Nam và đế quốc Mỹ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM