Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 03:08:09 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quân sự  (Đọc 7157 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #40 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 04:17:37 pm »

Đường lối và chiến lược chiến tranh nhân dân cũng thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức mạnh vĩ đại của nhân dân: "Trong bầu trời, không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Trong xã hội, không có gì tôt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8, tr.276).


Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chiến lược chiến tranh nhân dân của Đảng đã hình thành từ sớm và thể hiện rõ ngay từ sau ngày 23-9-1945, khi quân đội Pháp, với sự giúp đỡ của đế quốc Anh, nổ súng đánh úp ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai đối với Việt Nam và Đông Dương.


Đánh vào miền Nam và âm mưu tách miền Nam ra thành một nước riêng biệt, bọn thực dân Pháp đã đụng đến những tình cảm sâu sắc nhất của dân tộc Việt Nam luôn luôn đấu tranh kiên cường để bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc. Đối với cả nước, miền Nam bao giờ cũng là "máu của máu Việt Nam...". Lịch sử cuộc xâm lược của đế quốc Pháp hồi giữa thế kỷ XIX cho thấy rõ: chiếm Nam Bộ chỉ là bước đầu, bọn thực dân cướp nước sẽ không dừng lại ở đó. Kẻ địch mong muốn tiếp tục áp dụng chiến thuật cổ điển vết dầu loang của thống chế Lyautey đã từng giúp chúng xâm chiếm thành công nhiều thuộc địa, nhưng tình hình lúc này đã hoàn toàn khác trước. Lúc này, nhân dân Việt Nam không chỉ có lòng yêu nước, mà còn có Đảng, người tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến theo một đường lối đúng đắn và sáng tạo, bảo đảm chắc chắn thắng lợi. Ngày 26-9-1945, ba ngày sau khi Nam Bộ bị xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiệu triệu toàn dân chống nạn ngoại xâm.


Lời hiệu triệu lên án thực dân Pháp đã gây nên tai họa chiến tranh, nêu rõ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và phân biệt rõ ràng bọn thực dân đế quốc với nhân dân Pháp. Bản hiệu triệu biểu lộ một lòng tin tưởng sâu sắc vào sức mạnh của nhân dân và thắng lợi của kháng chiến: "Tôi chắc và đồng bào Nam Bộ cũng chắc rằng Chính phủ và đồng bào toàn quốc sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập cho nước nhà. Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân".


Ngày 29-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào Nam Bộ bền bỉ kháng chiến. Người khẳng định: "Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn dân tộc".


Ngày 5-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa nhắc lại nhiệm vụ kháng chiến của toàn dân, nhấn mạnh là nhân dân ta tha thiết yêu chuộng hoà bình, nhưng kiên quyết chiến đấu đến cùng: "bọn thực dân Pháp phải biết rằng: nhân dân Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hoà bình. Nhưng, nếu cần phải hy sinh mấy triệu chiến sĩ, nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để giữ gìn độc lập của Việt Nam, để con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ thì thế nào chúng ta cũng vẫn kiên quyết hy sinh. Và dân Việt Nam tin chắc rằng thế nào cuộc kháng chiến này cũng thành công".


Những lời kêu gọi nói trên đã đặt cơ sở cho tư tưởng và đường lối của cuộc kháng chiến toàn dân, lâu dài và chỉ rõ thắng lợi cuối cùng tất yếu của nó. Phát triển những tư tưởng chủ yếu đó, ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc, cụ thể hoá đường lối của cuộc kháng chiến và chỉ đạo cụ thể về cách đánh.


Bản chỉ thị nhận định là cuộc kháng chiến không những đã lan ra ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ mà còn mở rộng ở Lào và Cam-pu-chia. Do đó, mặt trận thống nhất của các dân tộc bị thống trị ở Đông Dương đã hình thành. Đó là một vân đề rất quan trọng vì nó đặt cơ sở cho tư tưởng coi toàn thể Đông Dương là một chiến trường trong việc chỉ đạo chiến tranh, đồng thời nó còn nói lên là với sự giúp đỡ ngay từ đầu hai nước Lào và Cam-pu-chia cùng chung cảnh ngộ bị thực dân Pháp xâm lược, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã thể hiện tinh thần quốc tế cao quý.


Bản chỉ thị nhận định về tình hình kháng chiến là mặc dầu ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, "Giặc Pháp chiếm được nhiều tỉnh, lỵ. nhưng ta vẫn làm chủ ở thôn quê, tinh thần kháng chiến vẫn cao" và đề ra nhiệm vụ "động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài".


Về mặt chỉ đạo đấu tranh, căn cứ vào sự so sánh lực lượng giữa ta và địch và diễn biến cụ thể của tình hình lúc đó, bản chỉ thị vạch rõ "nhiệm vụ chiến thuật của ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ là cắt đứt liên lạc giữa các thành phố đã lọt vào tay địch, phong toả những thành phố ấy về kinh tế, bao vây về chính trị, nhiễu loạn về quân sự... Phải áp dụng chiến tranh du kích để triệt để và cổ động nhân dân thi hành nhà không đồng vắng nếu quân Pháp tràn về quê. Điều cốt tử là phải giữ vững liên lạc ở các chiến khu để thống nhất chỉ huy, nơi nào rút khỏi thành thị thì quân ta phải chiếm đóng ở những địa điểm chiến lược lợi hại: tiến có thể đánh, lui có thể giữ, các vùng chiến tranh chưa lan đến cũng phải chuẩn bị đối phó khi tiến, khi lui. Kế hoạch tiến công cũng như kế hoạch rút lui phải hết sức chu đáo (phòng đủ mọi việc: địa điểm, cán bộ, lương thực, thuốc men, quần áo, vũ khí, vật liệu, cơ kiện...)”.


Một mặt khác, qua những biểu hiện trái với bản chất một quân đội cách mạng, bộc lộ ở một số đơn vị trong lực lượng vũ trang ở Nam Bộ, Đảng chú trọng giáo dục quan điểm, lập trường cho quân đội, làm cho quân đội nhận thức được những vấn đề cơ bản phân biệt các lực lượng vũ trang cách mạng đăt dưới sự lãnh đạo của Đảng với quân đội của các giai cấp bóc lột. Những vấn đề cơ bản đó được đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp nói rõ trong diễn văn ngày 1-1-1946: "Chúng ta phải tranh đấu để thực hiện 3 điều sau này:

Một là, quân dân nhất trí. Dù trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh, mỗi người đội viên phải luôn luôn nhớ rằng mình đồng thời là người cán bộ tuyên truyền, tổ chức cho dân giác ngộ, làm cho dân yêu mến, làm cho dân nhận rõ quân đội ta là quân đội của nhân dân, tiêu diệt giặc để cứu dân.

Hai là, đội trưởng, chính trị viên và đội viên phải đồng tâm, nhất trí.

Ba là, chỉ huy phải thống nhất. Kiên quyết bài xích cái đầu óc địa phương chủ nghĩa lúc đầu mà hiện giờ đang còn di tích. Trong bộ đội, kỷ luật phải là một và nghiêm".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #41 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 04:18:35 pm »

Trong phạm vi toàn quốc, Đảng nêu rõ vị trí của cuộc kháng chiến ở miền Nam đối với nhiệm vụ củng cố chính quyền cách mạng, làm cho nhân dân thấy rõ kháng chiến và kiến quốc không tách rời nhau.


Muốn cho cuộc kháng chiến ở miền Nam được giữ vững và phát triển thì không những bản thân miền Nam phải được tăng cường mà căn bản là lực lượng miền Bắc cũng phải được xây dựng lớn mạnh. Trên tiền tuyến chiến đấu, quân đội và nhân dân miền Nam luôn luôn hướng về hậu phương miền Bắc, biến sự tiếp viện của miền Bắc thành sức mạnh vật chất và nghị lực dẻo dai để chiến đấu kiên cường.


Đảng và Chính phủ kêu gọi thanh niên phát huy tinh thần yêu nước, hăng hái xung phong vào hàng ngũ Quân giải phóng và các đội tự vệ, sẵn sàng xông ra mặt trận để bảo vệ Tổ quốc. Một phong trào rộng lớn, sôi nổi động viên thanh niên trực tiếp tham gia chiến đấu được phát động: Phong trào Nam tiến. Chỉ sau ba ngày tiếng súng xâm lược nổ ở Sài Gòn, một số đơn vị đầu tiên của quân giải phóng (các đơn vị Nam Long, Quang Trung, Vũ Đức) đã lên đường và sau hai tuần đã có mặt trên tiền tuyến, sát cánh với quân dân miền Nam tham gia chiến đấu. Tiếp theo sau, trên toàn miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, các địa phương đều thành lập các đơn vị vũ trang đưa vào miền Nam. Đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu của thủ đô Hà Nội cũng chọn một đại đội cử vào Nam.


Phong trào Nam tiến đã động viên sâu sắc tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân. Những công nhân, nông dân, sinh viên, công chức được sung vào các đội quân Nam tiến đều rất vinh dự tự hào. Thanh niên các dân tộc thiểu số, thiết tha với vận mệnh chung của Tổ quốc Việt Nam cũng không kém hăng hái, nhiệt tình. Những đoàn quân Nam tiến lên đường với khí thế của những ngày Cách mạng tháng Tám còn nóng hổi và trong sự tiễn đưa đầy tình thân yêu của nhân dân. Một thanh niên đã ghi lại hình ảnh hết sức cảm động trên đường Nam tiến: "Tôi không bao giờ quên được hình ảnh công nhân mỏ than, quần áo còn bám đầy bụi mỏ, vai rộng, lếch thếch mang chiếc kiếm cướp được của Nhật, chiếc kèn Harmonica hoen rỉ trên môi anh sinh viên đêm đêm thổi lên những bài ca sôi nổi khí phách anh hùng. Quên làm sao được mười hai cái bánh chưng của bà cụ trên 80 tuổi ở bến sông Ninh Giang vừa thoát nạn đói, gia đình có sáu người chết, đem đến nhét vào ba lô chúng tôi, vừa cười, vừa khóc gọi chúng tôi bằng con, và nói: "sung sướng quá, mẹ không có gì, xin gửi theo tấm lòng"1 (Báo Thống nhất, số 68 tháng 9-1958).


Phong trào Nam tiến là biểu hiện sinh động sức mạnh đoàn kết toàn dân xung quanh Đảng và Chính phủ. Nó cũng đã đập tan những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, reo rắc tư tưởng bi quan, hoài nghi đối với cuộc kháng chiến ở miền Nam của bọn Việt quốc, Việt cách phản động lúc đó. Phong trào Nam tiến đã góp phần công lao to lớn vào sự nghiệp chiến đấu giành độc lập và thống nhất đất nước. Đồng thời với việc gửi quân đội vào miền Nam, việc huy động tài lực, vật lực để cung cấp cho kháng chiến cũng rất cần thiết. Mặc dù, tình hình kinh tế, tài chính của đất nước hết sức khó khăn, nạn đói chưa hết đe dọa, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, nhân dân đã bớt ăn, bớt mặc, dành dụm từng đồng góp vào quỹ ủng hộ Nam Bộ.


Ngày 5 tháng 11 năm 1945, Chính phủ quyết định tổ chức Ngày kháng chiến trong toàn quốc. Ngày ấy có một ý nghĩa rất lớn. "Nó động viên tinh thần kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là ngày nuôi chí căm thù đối với giặc Pháp, là ngày học tập các kinh nghiệm quý báu để thực hiện trường kỳ kháng chiến, hoàn toàn giải phóng cho nước nhà. Ngày ấy từ thành thị tới nông thôn, khắp mọi nơi nhân dân đều hưởng ứng, sửa soạn cuộc kháng chiến lâu dài, bền bỉ. Đó là ngày chúng ta nhắc lại lời thề độc lập, tăng thêm lòng tin tưởng, chuẩn bị chính trị, quân sự, kinh tế dốc vào cuộc đấu tranh sống còn vĩ đại quét sạch bọn thực dân"1 (Báo Thống nhất, số 68 tháng 9-1958).


Trong ngày kháng chiến, một lần nữa, nhân dân ta biểu lộ ý chí sắt đá "cương quyết giành độc lập" và "ủng hộ cuộc kháng chiến anh dũng của đồng bào Nam Bộ" cho đến khi toàn thắng. Việt kiều ở Trung Quốc, Lào cũng nhiệt tình hưởng ứng ngày kháng chiến. Sự tiếp viện vật chất và ủng hộ tinh thần của miền Bắc là một nguồn động viên mạnh mẽ đối với miền Nam. Thay mặt nhân dân Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, Phạm Văn Bạch gửi điện ra Trung ương nói rõ: "Nam Bộ đã được nghe những diễn văn thống thiết của Trung ương trong ngày kháng chiến. Từ mặt trận đến hậu phương, đồng bào Nam Bộ đều nâng chí chiến đấu với sự ủng hộ triệt để của Bắc Bộ và Trung Bộ. Chúng tôi tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng với sức lực của Việt Nam thống nhất, với sự đoàn kết chặt chẽ của dân chúng toàn quốc hy sinh và sẵn sàng kháng chiến. Nam Bộ tuân theo tiếng gọi của Hồ Chí Minh, hiểu rằng thực lực của Việt Nam sẽ định đoạt số phận của Việt Nam. Đồng bào Nam Bộ sẽ chiến đấu tới cùng"1 (Báo Cứu quốc, ngày 7-11-1945).


Như thế là sự đoàn kết, thống nhất giữa miền Nam và miền Bắc được xây dựng nên trong quá trình lịch sử lâu đời của dân tộc, ngày nay lại bước sang một giai đoạn phát triển mới với cuộc đấu tranh gian khổ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực lượng đoàn kết chiến đấu ấy trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến đã tỏ rõ sức mạnh của nó. Các giai đoạn chiến đấu sau này càng chứng minh lực lượng đó là vô địch.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #42 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 04:19:14 pm »

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đường lối chiến tranh nhân dân đã được hình thành và phát triển rất nhanh trên cơ sở tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và của Đảng đã không ngừng bám sát thực tiễn chiến đấu, kịp thời giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, tống kết những kinh nghiệm sáng tạo của quân đội và nhân dân theo đúng tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, tập 6, tr.246).


Như đã biết, trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biên soạn những cuốn sách về kinh nghiệm chiến đấu của Liên Xô chống phát xít Đức, kinh nghiệm của Trung Quốc chống phát xít Nhật, cách đánh du kích để tham khảo, nhưng căn bản vẫn dựa trên sự tổng kết những kinh nghiệm lịch sử kháng chiến của dân tộc và các cuộc đấu tranh vũ trang của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, đường lối chiến tranh nhân dân của Việt Nam là một đóng góp vô giá vào sự phát triển lý luận chiến tranh cách mạng trong thời đại mới và không phải ngẫu nhiên mà các dân tộc còn bị chủ nghĩa đế quốc thống trị đánh giá cao ý nghĩa và tác dụng to lớn của đường lối đó đối với phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ 20.


Sau khi có một đường lối kháng chiến đúng thì việc tổ chức và lãnh đạo thực hiện đường lối đó có ý nghĩa quyết định. Vấn đề quan trọng bậc nhất đặt ra lúc đó là phải xây dựng căn cứ địa vững chắc cho cuộc kháng chiến, lấy đó làm cơ sở để bồi dưỡng và tích luỹ thực lực của ta.


Núi rừng Việt Bắc, nơi chôn nhau cắt rốn của Cách mạng tháng Tám, lại trở thành căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến. Các tổ chức của Chính phủ, Trung ương và các cơ quan lãnh đạo của Đảng đều dời lên Việt Bắc. Điều mà tướng Leclerc sợ nhất là Chính phủ Hồ Chí Minh sẽ trở lại chiến khu và phát động cuộc chiến tranh trong toàn quốc Việt Nam, đã thành sự thật.


Đảng và Chính phủ chẳng những chú trọng xây dựng căn cứ địa Việt Bắc mà còn chỉ thị cho các địa phương phải tích cực, nhanh chóng thành lập các khu căn cứ tương đối an toàn dựa trên điều kiện địa hình thuận lợi cho việc bảo vệ, phòng thủ và nhất là cơ sở nhân dân tốt, giác ngộ về chính trị, được tổ chức chặt chẽ, sẵn sàng sát cánh chiến đấu với quân đội và ủng hộ chính quyền về mọi mặt. Muốn xây dựng các căn cứ địa thật vững chắc, phải đặc biệt coi trọng công tác dân vận, củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, đào tạo cán bộ địa phương, huấn luyện quân sự, các mặt công tác phòng gian, giữ bí mật, bảo đảm trật tự, trị an, đồng thời ra sức giúp đỡ nhân dân tăng gia, sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá tinh thần. Để kịp thời chỉ đạo công tác kháng chiến, Chính phủ quyết định chia toàn quốc thành 12 chiến khu (các chiến khu 1, 2, 3, 10, 12 thuộc Bắc Bộ, chiến khu 4 thuộc Bắc Trung Bộ, các khu 5, 6 thuộc Nam Trung Bộ, các chiến khu 7, 8, 9 thuộc Nam Bộ, chiến khu 11 là thủ đô Hà Nội).


Các Ủy ban kháng chiến được thành lập từ cấp bộ, đến khu, tỉnh, huyện, xã. Nhiệm vụ và quyền hạn của cấp khu được thêm để đảm bảo sự lãnh đạo sát với tình hình cụ thể của mỗi nơi và có thể tổ chức, động viên nhanh chóng mọi lực lượng phục vụ kháng chiến.


Một hệ thống giao thông liên lạc được gấp rút tổ chức giữa trung ương và địa phương nhằm làm cho liên lạc giữa cơ quan lãnh đạo cao nhất với toàn thể bộ máy kháng chiến được duy trì đều đặn và thông suốt.


Chiến tranh nhân dân đòi hỏi phải tìm mọi cách làm tê liệt sức chiến đấu của địch, hạn chế không cho chúng phát huy ưu thê về phương tiện chiến tranh và kỹ thuật quân sự. Phá hoại để kháng chiến là một việc rất cần thiết để đạt tới mục đích ấy. Trên chiến trường Nam Bộ, công tác phá hoại đã tỏ rõ tác dụng của nó và làm cho quân địch lúng túng lo sợ. Kinh nghiệm của Nam Bộ được áp dụng cho toàn quốc với một quy mô to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân "phá cho rộng, phá cho sâu, phá cho bọn Pháp không lợi dụng được. Một nhát cuốc của đồng bào cũng như một viên đạn của chiến sĩ bắn vào quân địch". Với tinh thần yêu nước và lòng hy sinh cao cả, nhân dân đã phá hoại những công trình do chính mình xây dựng nên bằng mồ hôi và nước mắt. Họ không thể không cảm thấy xót xa trước việc làm, nhưng họ đã đặt quyền lợi tối cao của Tổ quốc lên trên hết và tin chắc rằng sau khi kháng chiến thành công, cũng những bàn tay ấy sẽ có đủ khả năng xây dựng lại những công trình đẹp đẽ hơn, vĩ đại hơn, xứng đáng với một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng ngàn cây số đường sắt bị bóc (riêng ở Liên khu 5, đoạn đường sắt từ Tam Kỳ (Quảng Nam) đến Phú Yên vẫn được giữ lại để sử dụng). Hầu hết các đường giao thông trọng yếu và cầu mà địch có thể lợi dụng đều bị phá và đánh sập, hàng vạn ngôi nhà ở các thành phố và thị xã địch có thể chiếm đóng đều bị phá hủy.


Việc phá hoại các đô thị và tình hình chiến sự mỗi ngày một lan rộng đặt ra một vấn đề rất to lớn và cấp bách phải giải quyết là lo liệu cho hàng chục vạn người rời bỏ thành phố quê hương tản cư theo kháng chiến - Chính phủ thành lập các uỷ ban tản cư, di cư và những trại sản xuất để giúp đỡ một phần những người gặp khó khăn nhất, đồng thời kêu gọi nhân dân các địa phương chưa có chiến sự lan tới hết sức giúp đỡ đồng bào tản cư ổn định cuộc sống. Trong thời kỳ đầu, công tác này gặp rất nhiều trở ngại, nhưng dần dần quen với cuộc sống trong kháng chiến và với tinh thần tự lực cánh sinh, nhân dân đã tổ chức lại đời sống của mình cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Khi chiến tranh đã lan rộng đến mức khó có thể tổ chức tản cư, di cư cho hàng triệu người, Chính phủ chủ trương chỉ vận động nhân dân tạm thời tản cư khi địch càn quét ác liệt và điều chủ yếu là tích cực xây dựng làng chiến đấu để bám lấy đồng ruộng, tiếp tục sản xuất và chiến đấu bảo vệ quê hương.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #43 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 04:21:10 pm »

b) Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến

Mùa Xuân năm 1947, khi quân và dân ta đang chiến đấu kiên cường ở Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm bài thơ:

   Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió
   Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông
   Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến
   Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng
   Tiến lên chiến sĩ, tiến lên đồng bào      
   Sức ta đã mạnh, người ta đã đông
   Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi
   Thống nhất, độc lập nhất định thành công.


Từ các Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25-11-1945) và Toàn dân kháng chiến (ngày 12-12-1946) đến Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (ngày 19-12-1946) và một loạt bài của Tổng bí thư Đảng Trường Chinh trên báo Sự thật năm 1947, từ thực tế 16 tháng kháng chiến ở miền Nam cho đến khi cuộc kháng chiến mở rộng ra khắp toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng luôn luôn nhấn mạnh cuộc kháng chiến của Việt Nam là cuộc kháng chiến toàn dân - Sức mạnh của toàn dân đã từng được thử thách trong Cách mạng tháng Tám ngày nay càng được phát huy ở một mức độ cao hơn trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống quân thù xâm lược để bảo vệ thành quả cách mạng và giải phóng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết - Không ai chiến thắng được lực lượng đó"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr.20). Trong tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi", đồng chí Trường Chinh, đã khái quát chiến lược của cuộc kháng chiến là "Phải đánh toàn dân, đánh về mọi mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, khiến cho địch đến đâu là đụng phải sức kháng chiến mãnh liệt của ta tới đó, khiến cho chúng bị nghẹt thở, bao vây, không thể sống trên đất nước ta - Toàn dân đoàn kết phải là cốt tử"2 (Trường Chinh, Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự thật, Hà Nội 1948, tr.7).


Đường lối chiến tranh nhân dân đòi hỏi phải có hình thức tác chiến thích hợp. Hình thức tác chiến đó rất phong phú, đa dạng như Tổng bí thư Trường Chinh đã nhận định: "Chiến tranh chống Nhật thật có hình thái khác thường. Chiến tranh cài răng lược, chiến tranh lộn ẩu, chiến tranh không mặt trận, chiến tranh bao vây, chiến tranh tiêu thổ"1 (Trường Chinh, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội 1975, tr.67). Bao trùm lên tất cả những hình thái đó là chiến tranh du kích - Chiến tranh du kích cho phép nhân dân ta phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc "lấy nhỏ đánh lớn lấy yếu chống mạnh", động viên được lực lượng vĩ đại của toàn dân vào cuộc kháng chiến, bao vây quân địch trong một cái lưới rộng lớn trong đó mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm, đường phố là một pháo đài.


Với chiến tranh du kích, nhân dân ta đã sáng tạo nên những cách đánh hay, những mưu kế giỏi - Chiến tranh du kích có mặt khắp nơi làm cho kẻ địch phải căng lực lượng ra đối phó, không phải chỉ trước mặt mà ngay cả sau lưng chúng, khiến cho mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực của chúng càng thêm gay gắt.


Tướng Pellet đã đánh giá tác dụng cuộc chiến tranh du kích của Việt Nam như sau: "Trong cuộc chiến tranh du kích này, kẻ địch ở khắp nơi - Không có mặt trận cố định, cũng không có những công trình phòng ngự đặt đúng vị trí mà ở đó chúng ta có thể sử dụng có hiệu quả những phương tiện chiến đấu mạnh và hiện đại để tiêu diệt địch. Mỗi bụi tre, mỗi mái nhà đều có thể che giấu kẻ địch. Như thế sẽ thấy tinh thần quân đội ta bị căng thẳng đến chừng nào, vì bất cứ ở đâu và không kể ngày đêm đều phải chống cự với kẻ địch mà ta không thể nắm được".


Quy luật của chiến tranh nhân dân Việt Nam là từ đánh nhỏ đến đánh lớn, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ giành thắng lợi từng bước đến giành thắng lợi hoàn toàn.

Trong quá trình đó, chiến tranh du kích dần dần tiến lên chiến tranh chính quy, nhưng ngay cả khi chiến tranh chính quy phát triển mạnh trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, chiến tranh du kích vẫn có vai trò hết sức quan trọng. Thực tế, cuộc chiến đấu của quân và dân ta đã chứng minh điều đó.


Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai, tháng 9 năm 1951 đã ra Nghị quyết về phương châm, nhiệm vụ đấu tranh nhằm "giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh sau lưng địch, phát động mạnh du kích chiến tranh". Tiếp theo đó, tháng 7 năm 1952, Hội nghị chiến tranh du kích đã tổng kết công tác vùng sau lưng địch và đề ra những phương châm hoạt động mới nhằm tranh thủ nhân dân vùng tạm chiếm, bồi dưỡng lực lượng của ta, làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, đánh những đòn quyết định vào âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ. Những chủ trương chính xác của hội nghị đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động của vùng sau lưng địch, đưa cuộc chiến đấu lên một bước phát triển mới, dồn địch vào một thế bị động sâu hơn.


Một thành tựu nổi bật của đường lối toàn dân kháng chiến là thu hút sự tham gia tích cực của các dân tộc - đa số cũng như thiểu số - trên đất nước Việt Nam. Đồng bào các dân tộc thiểu số đã từng có truyền thống đấu tranh bất khuất, ngày nay lại cùng nhân dân cả nước chiến đấu chống xâm lăng. Trong 80 năm thống trị trước đây, đế quốc Pháp đã không tài nào dập tắt nổi những ngọn lửa đấu tranh của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam liên tiếp bùng lên, thì ngày nay, trong cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, những ngọn lửa đó càng bốc cháy mãnh liệt. Có điều khác trước là những cuộc đấu tranh đó không phải diễn ra tự phát, lẻ loi như trước mà là có mục tiêu rõ ràng, thống nhất, có sự lãnh đạo và tổ chức của Đảng và Chính phủ.


Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Đảng ta đã rất chú trọng động viên, tổ chức và lãnh đạo đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia chiến đấu. Ngày 1-2-1947, trong thư gửi các chiến sĩ quân đội lên đường đi xây dựng cơ sở ở miền Tây và Tây Bắc, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp viết: "Mỗi một tấc đất miền Tây là một tấc đất của Tổ quốc Việt Nam, chúng ta không thể để cho địch dễ dàng dẫm lên được - Mỗi một đồng bào miền Tây là một người dân nước Việt, chúng ta không thể không bảo vệ quyền lợi của đồng bào, không thể để đồng bào ta bị quân địch dày xéo hay lung lạc"1 (Thư Bộ Tổng chỉ huy gửi bộ đội Tây tiến. Tư liệu số 02/TL. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #44 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 04:22:49 pm »

Việc xây dựng cơ sở trong các vùng dân tộc thiểu số ở Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên những năm đầu của cuộc kháng chiến rất khó khăn, gian khổ. Nhưng với một quyết tâm sắt đá, các cán bộ Đảng và quân đội đã không lùi bước trước bất cứ mọi nguy hiểm, hy sinh nào để đưa đến cho những vùng còn nằm trong tay giặc ánh sáng của ngọn lửa kháng chiến và một niềm tin tất thắng - Một số cơ sở bước đầu được xây dựng, tập hợp những người giác ngộ, hăng hái nhất của đồng bào các dân tộc thiểu số và phát triển dần lên trong cuộc kháng chiến chống quân thù. Ở Tây Bắc, khu căn cứ Mộc Hạ (Mộc Châu) là một trong những cơ sở như thế. Đầu năm 1947, sau khi quân đội Pháp chiếm đóng hầu hết miền Tây Bắc, phần lớn cán bộ và bộ đội ta phải rút lui, chỉ để một số ít nằm lại nắm cơ sở bí mật. Đến giữa năm 1947, theo chủ trương của Đảng là phải tích cực phát động chiến tranh du kích, xây dựng các khu căn cứ, thì khu du kích Mộc Hạ được thành lập và củng cố, trở thành bàn đạp hoạt động của các cơ quan Đảng và chính quyền để từ đó loang ra các khu khác trên khắp chiến trường Tây Bắc. Trong thời gian từ tháng 12 năm 1947 đến tháng 7 năm 1948, địch đã mở 6 trận càn vào Mộc Hạ hòng tiêu diệt lực lượng du kích và uy hiếp nhân dân, nhưng chúng đều thất bại.


Nếu như đồng bào Thái ở Tây Bắc tự hào với khu du kích Mộc Hạ, những đội du kích Tú Lệ (Yên Bái), Tu Nang (Sơn La), thì đồng bào H'mông cũng đóng góp vào lịch sử kháng chiến quang vinh của dân tộc những tên anh dũng: Cao Phạ, Lao Chải, Pú Nhung.


Đội du kích Cao Phạ (Yên Bái) khi mới thành lập năm 1947 chỉ có 6 người với vài khẩu súng kíp. Tám du kích Cao Phạ đã nêu cao tinh thần bất khuất với những gương hy sinh anh dũng của Giàng Khoa Kỷ, Vừ A Dính, đã giữ vững khí phách hiên ngang khi không may rơi vào tay giặc.


Khu du kích Phú Nhung, cơ sở đầu tiên của Lai Châu, được xây dựng từ cuối năm 1947 đã dần dần giác ngộ và tổ chức được nhân dân đấu tranh với địch dưới nhiều hình thức từ thấp đến cao. Sùng Phái Sính (sau này được tuyên dương là Anh hùng quân đội) đã tỏ ra là người chỉ huy du kích xuất sắc, có lần một mình chiến đấu mười lăm ngày liền không nghỉ với một khẩu súng trường đã tiêu diệt mười tám tên địch.


Cũng như đồng bào các dân tộc H'mông, Thái, đồng bào dân tộc Mường đã biểu lộ tinh thần yêu nước nồng nàn và sự ủng hộ triệt để chính phủ kháng chiến. Chính sách chia rẽ các dân tộc với việc thành lập "xứ Mường tự trị" theo kiểu "xứ Thái tự trị", "xứ Nùng tự trị" đã vấp phải sự chống đối quyết liệt của đồng bào Mường. Đồng bào không ngừng chăm lo tổ chức, phát triển các lực lượng vũ trang và nửa vũ trang để góp phần chiến đấu bảo vệ quê hương.


Trên mặt trận Đông Bắc, đồng bào các dân tộc thiểu số cũng hăng hái tham gia kháng chiến và mặc dầu ở sâu trong vùng địch tạm chiếm, lại bị địch phong toả chặt chẽ về mặt biển, hoạt động vô cùng khó khăn, nguy hiểm, đồng bào vẫn tìm mọi cách giúp đổ cán bộ và quân đội xây dựng cơ sở, phát triển lực lượng chiến đấu chống địch. Các đội du kích Đồng Văn, Đồng Thắng, Vô Ngại, làng chiến đấu Phong Dụ, khu chiến đấu Nà Thuộc - Chi Lăng đã cho địch nếm mùi thất bại trong nhiều cuộc càn quét của chúng.


Nói đến cuộc kháng chiến của đồng bào các dân tộc thiêu số, không thể không nêu cao gương chiến đấu anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên. Truyền thống của đồng bào chống đế quốc Pháp xâm lược trước đây với những cuộc nổi dậy do N'Trang Gư, Ama Kơl, Ama Jiao, N'Trang Lơng lãnh đạo, ngày nay lại được phát huy trong cuộc kháng chiến.


Ngay từ những ngày đầu khói lửa chiến tranh lan đến Tây Nguyên, đồng bào đã anh dũng chiến đấu, sát cánh với bộ đội ngăn chặn bước tiến của quân thù. Tháng 1 năm 1946, sau khi mặt trận Buôn Ma Thuột vỡ, địch rải quân chiếm đóng hầu hết Tây Nguyên, nhưng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vẫn không ngừng chống địch và tin tưởng vào chính phủ kháng chiến do Bok Hồ lãnh đạo.


Điển hình của quyết tâm chiến đấu và niềm tin tưởng không gì lay chuyển nổi đó là làng kháng chiến Si-tơ thuộc xã Nam Kanak, huyện An Khê. Trong những năm từ cuối năm 1946 đến năm 1948, địch mở rộng phạm vi chiếm đóng. Si-tơ mất liên lạc với các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, bị địch dồn ép, khủng bố liên tục nhưng không hề chịu khuất phục. Nhân dân kiên quyết lên núi lập làng kháng chiến. Ba năm liền (1946 - 1949), dù không có một hạt muối phải dùng tro cỏ gianh ăn thay, nhưng địch vẫn không mua chuộc, dụ dỗ nổi. Giặc đến thì tổ chức đánh địch, giặc đốt làng thì dời đi nơi khác, lại xây dựng làng kháng chiến và tiếp tục chiến đấu. Suốt chín năm kháng chiến, nhân dân Si-tơ, dưới sự lãnh đạo của Anh hùng Núp, đã có mười ba lần dời làng như thế. Si-tơ đã trở thành nòng cốt cho cả một phong trào du kích rộng lớn và mạnh mẽ ở vùng này.


Một nét độc đáo về sự lãnh đạo tổ chức và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam là để thực hiện toàn dân đánh giặc, cả nước ra trận. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng quân đội nhân dân theo mô hình tổ chức ba thứ quân gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ. Tư tưởng quân sự này đã hình thành từ những ngày chuẩn bị Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tháng 12 năm 1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phải "tập trung lực lượng để lập đội quân đầu tiên", đồng thời "phải duy trì lực lượng vũ trang các địa phương". Đối với dân quân du kích và dân quân tự vệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: "đó là lực lượng của cả dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó thì địch nào cũng phải tan rã"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr.507) .


Được hun đúc bởi tinh thần yêu nước và cách mạng, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, ba thứ quân đã phát triển rất nhanh. Tháng 10 năm 1949, chỉ mới sau gần ba năm toàn quốc kháng chiến, đại đoàn quân chính quy đầu tiên được thành lập, lấy tên là Đại đoàn Quân tiên phong, đánh dấu một thắng lợi mới và mở ra những triển vọng tốt đẹp trong quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Bộ đội địa phương cũng được chính thức thành lập trong toàn quốc với sắc lệnh ngày 1 tháng 4 năm 1949 và nhanh chóng chứng tỏ sự tiến bộ về mọi mặt trang bị, chỉ huy, chiến đấu, cấp dưỡng. Các lực lượng dân quân du kích, tự vệ ngày càng thể hiện rõ nét trí thông minh, lòng dũng cảm trên các mặt bảo vệ và củng cố hậu phương, chiến đấu chống càn, phá thế kìm kẹp của địch, diệt bọn ác ôn, trừ gian, địch vận, phá hoại và bao vây kinh tế địch...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #45 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 04:23:38 pm »

Quán triệt quan điểm kháng chiến toàn diện, quân và dân ta đã kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị. Đối với bên ngoài, ta phải ra sức cô lập kẻ thù để có thêm nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và các nước thuộc địa cũng như các lực lượng hoà bình, dân chủ thế giới hiểu rõ sự thật, đồng tình và ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Nhân dân, Đảng và chính phủ ta luôn coi trọng nhiệm vụ đối với hai nước bạn Lào và Cam-pu-chia đang sát cánh với Việt Nam chống kẻ thù chung.


Về mặt kinh tế, cuộc kháng chiến trên lĩnh vực này cũng không kém gay go, gian khổ. Địch ra sức phong toả, phá hoại ta về kinh tế, hòng đưa ta đến chỗ sức cùng, lực kiệt, không thể tiếp tục kháng chiến. Để đối phó lại, ta phải khắc phục những khó khăn, xây dựng cho được một nền kinh tế kháng chiến dựa trên hai nguyên tắc: vừa kháng chiến, vừa kiến quốc và tự cấp, tự túc về mọi mặt.


Trong kinh tế kháng chiến, vấn đề nông nghiệp có một tầm quan trọng đặc biệt. Đây không chỉ đơn thuần là sản xuất lương thực cung cấp cho tiền tuyến mà thực chất là xây dựng căn cứ địa ở nông thôn, củng cố hậu phương.


Để hoàn thành nhiệm vụ đó, việc thực hiện cải cách ruộng đất có một ý nghĩa quyết định. Những chính sách lớn đề ra cho việc xây dựng kinh tế kháng chiến là động viên toàn dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, ra sức xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác, tăng thu, giảm chi, thực hành tiết kiệm, củng cố tiền tệ, giữ vững giá hàng.


Đi đối với việc xây dựng kinh tế, ta phải tìm mọi cách bao vây kinh tế địch, làm cho chúng bị thiệt hại nặng và thất bại trong việc thi hành chủ trương thâm độc "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.


Trong cuộc kháng chiến toàn diện, không thể coi nhẹ mặt trận văn hoá. Nhiệm vụ của mặt trận này là phải quét sạch mọi tàn tích nô lệ, ngu dân, phản động của bọn thực dân để lại và xây dựng một nền văn hoá dân chủ mới của Việt Nam với đầy đủ các tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.


Nội dung và mọi phương hướng của mọi hoạt động văn hoá phải nhằm phục vụ kháng chiến, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: "phải kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến”. Trước hết, phải chủ động giáo dục lòng yêu nước nồng nàn, biểu dương và bồi dưỡng chí khí anh dũng của nhân dân ta, khơi sâu lòng căm thù quân địch tàn bạo để đoàn kết toàn dân cùng một quyết tâm tiêu diệt chúng. Trong đường lối chiến tranh nhân dân, nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc luôn luôn được Đảng và nhà nước hết sức quan tâm.


Về xây dựng lực lượng vũ trang, việc giáo dục chính trị, huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật cho quân đội được đặc biệt chú trọng. Ngoài trường Lục quân Trần Quốc Tuấn của Trung ương, mỗi khu đều có trường quân chính để đào tạo cán bộ, cung cấp cho nhu cầu tác chiến và xây dựng đơn vị mới.


Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1947, trong phần nghị quyết về quân sự đã nhân mạnh là phải ra sức "nắm vững và rèn luyện quân đội, làm cho quân đội ta xứng đáng là quân đội cách mạng của nhân dân". Hội nghị đặc biệt chú trọng vấn đề tổ chức, huấn luyện, trang bị và lãnh đạo dân quân, phổ biến kinh nghiệm xây dựng làng kháng chiến, tăng cường công tác địch vận để làm tan rã tinh thần quân địch.


Công tác sản xuất vũ khí bảo đảm nhu cầu tác chiến là một đòi hỏi cấp bách. Trước ngày kháng chiến toàn quốc ít lâu, ta đã bước đầu xây dựng được một số cơ sở sản xuất vũ khí thô sơ, đồng thời nghiên cứu một vài loại vũ khí không thể không có để chống lại một kẻ thù được trang bị toàn vũ khí hiện đại. Tháng 11 năm 1946, kỹ sư Trần Đại Nghĩa đã cùng với một số cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân chế tạo thành công 4 khẩu Ba-dô-ca và 50 viên đạn Ba-dô-ca đầu tiên1 (Tài liệu lưu trữ của Cục Quân giới - Bộ Quốc phòng). Trong hoàn cảnh lúc đó, trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém, máy móc và nguyên vật liệu còn thiếu thốn, thành công nói trên là một sự cổ vũ lớn lao và mở đường thắng lợi cho nền công nghiệp quốc phòng trẻ tuổi của nước Việt Nam phát triển.


Từ trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ta đã tổ chức vận chuyển máy móc, nguyên vật liệu lên các chiến khu và lên Việt Bắc. Hàng ngàn tấn sắt thép rời các nhà máy và đô thị bằng sức hai cánh tay và đôi vai của công nhân. Trong những vùng rừng núi âm u, xuất hiện "thế giới" của những người công nhân quốc phòng. Ở đây, suốt ngày đêm vượt qua mọi gian khổ và thiếu thốn, họ đã làm nên những điều phi thường, không ngừng cung cấp cho tiền tuyến những vũ khí ngày càng tinh xảo như các loại mìn, lựu đạn, súng không giật (SKZ), đại bác không giật (DKZ) khiến cho quân thù bất ngờ, hoảng sợ trước hiệu quả của vũ khí Việt Nam. Công tác xây dựng Đảng được đặc biệt quan tâm. Việc giáo dục đảng viên được coi trọng hàng đầu. Ngày 1 tháng 3 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể đảng viên ở Bắc Bộ và tháng 4 năm 1947 cho các đảng viên ở Trung Bộ, trong đó Người nhấn mạnh:

"1. Trong lúc dân tộc đang ở ngã tư đường, chết hay sống, mất hay còn, mỗi đồng chí và toàn cả đoàn thể phải đem hết cả tinh thần các lực lượng ra đế đưa toàn dân quay về một hướng, nhằm vào mục đích đánh đuổi thực dân Pháp làm cho nước thống nhất và độc lập. Vì vậy, mỗi một đồng chí và toàn cả đoàn thể phải sáng suốt, khôn khéo, cẩn thận, kiên quyết, siêng năng nhất trí.

2. Cuộc trường kỳ kháng chiến này tức là dân tộc cách mệnh đên trình độ cao. Trong lúc này, tư tưởng và hành động của mỗi đồng chí rất có quan hệ đến toàn quốc. Nếu một người sơ suất, một việc sơ suất là có thể hỏng việc to, sai một ly đi một dặm. Vì vậy, chúng ta phải kiên quyết tay sạch những khuyết điểm sau đây: địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt quan liêu, óc hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm, ích kỷ, hủ hoá"1 (Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 8 (1945-1947), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr.167-170).


Nghị quyết của Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ hai từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1947 cũng vạch ra nhiệm vụ phải tiếp tục củng cố và phát triển Đảng, làm cho Đảng không ngừng lớn mạnh trong cuộc kháng chiến và thực sự trở thành một đảng có tính chất quần chúng, gắn bó máu thịt với nhân dân. Tiếp theo đó, khi cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn quyết định đòi hỏi sự tăng cường lãnh đạo của Đảng trên mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt trong các lĩnh vực quân sự, kinh tế, tư tưởng, Hội nghị lần thứ ba của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 2 (từ ngày 22 đến ngày 28 tháng 4 năm 1952) đã nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và chuẩn bị tốt để chỉnh đốn Đảng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #46 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 04:24:49 pm »

c) Kháng chiến trường kỳ, tự lực cánh sinh

Khi phát động nhân dân toàn quốc đứng lên kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cân nhắc kỹ trong nhận định tình hình trong nước và quốc tế, cán cân so sánh lực lượng địch, ta, những thuận lợi căn bản, lâu dài và những khó khăn trước mắt.


Về so sánh lực lượng, đế quốc Pháp có quân đội nhà nghề và trang bị vũ khí hiện đại, có kinh nghiệm đánh chiếm thuộc địa lại được các lực lượng phản động quốc tế, nhất là đế quốc Mỹ, ra sức giúp đỡ. Trong khi đó, nước Việt Nam vừa thoát khỏi vòng nô lệ, chính quyền còn trứng nước, kinh tế kiệt quệ, quân đội mới xây dựng. "Lúc bắt đầu kháng chiến, quân đội ta là một quân đội thơ ấu. Tinh thần dũng cảm có thừa, nhưng thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu mọi mặt".


Với so sánh lực lượng như thế, có thể kháng chiến được không? Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời dứt khoát: có thể được, miễn là biết đứng trên lập trường, quan điểm chiến tranh cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích, giải quyết vấn đề, biết triệt để vận dụng những khả năng và thuận lợi của ta, đồng thời ra sức khoét sâu những khó khăn và nhược điểm của địch.


Theo quan điểm đó, sự so sánh lực lượng giữa ta và địch không chỉ đơn thuần nhìn vào lực lượng vật chất mà phải so sánh lực lượng một cách toàn diện, thấy rõ những chỗ mạnh của địch chỉ là tạm thời, những chỗ yếu của chúng là căn bản và không thể nào khắc phục được, về phía ta, những điểm yếu chỉ là tạm thời; cuộc kháng chiến của nhân dân ta có những điểm mạnh rất cơ bản: cùng với những nhân tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam dựa trên sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân, có đường lối lãnh đạo đúng đắn, được cả loài người tiến bộ đồng tình và ủng hộ.


Tại Đại hội Đảng lần thứ hai (tháng 2 năm 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát tư duy biện chứng về so sánh lực lượng giữa ta và địch bằng hình tượng:

Nay tuy châu chấu đá voi
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra.

Chiến lược kháng chiến trường kỳ là sự đối địch có hiệu quả nhất với chủ trương đánh nhanh, thắng nhanh của đội quân xâm lược. Nhân dân Việt Nam có thể kháng chiến trường kỳ, nhưng đế quốc Pháp không thể xâm lược trường kỳ, vì cuộc chiến tranh càng kéo dài thì khó khăn của chúng càng chồng chất, những mâu thuẫn trong lòng chúng càng gay gắt và cuối cùng sẽ dẫn chúng đến thất bại hoàn toàn.


Đảng đã chỉ rõ chiến lược kháng chiến trường kỳ là một tất yếu khách quan. Do đó, mọi tư tưởng sốt ruột, chủ quan muốn mau đi đến thắng lợi cũng như bi quan, thiếu tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng đều là sai lầm.

Chiến lược đánh lâu dài đòi hỏi một sự chỉ đạo rất sáng suốt trong từng giai đoạn của cuộc chiến tranh, căn   cứ vào sự so sánh lực lượng giữa ta và địch.

Về đại thể, Đảng ta dự kiến cuộc kháng chiến trường kỳ sẽ diễn ra theo ba giai đoạn.

Trong giai đoạn đầu, địch mạnh, ta yếu, nhiệm vụ căn bản của chúng ta là bảo toàn lực lượng, giữ vững căn cứ địa, tiêu hao một phần sinh lực địch để tạo điều kiện chuyển sang giai đoạn sau.

Ở giai đoạn thứ hai, lực lượng của ta dần dần lớn mạnh lên, lực lượng của địch dần suy yếu tạo nên hình thái ta với địch ở thế giằng co. Giai đoạn này rất gay go, gian khổ và cũng chính trong giai đoạn này, lực lượng cửa ta chuyển từ yếu thành mạnh để bước vào giai đoạn thứ ba.


Đến giai đoạn thứ ba, thế và lực của ta dần dần mạnh hơn địch, lúc đầu trong phạm vi cục bộ, sau đó trong phạm vi toàn cục. Khi các điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi, ta chuyển sang phản công, lúc đầu với quy mô nhỏ, sau này càng lớn để cuối cùng quét sạch quân thù ra khỏi đất nước. Vấn đề quan trọng là phải biết vận dụng một cách sáng tạo những tư tưởng chiến lược nói trên vào việc chỉ đạo cuộc chiến tranh diễn biến rất phức tạp trong thực tế.


Tại Đại hội Đảng lần thứ 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích một cách biện chứng quá trình chuyển biến của ba giai đoạn: "Chúng ta phải hiểu rằng giai đoạn này có dính líu với giai đoạn khác, nó kế tiếp giai đoạn trước nó và nó gây ra những mầm mống cho giai đoạn sau:

"Có nhiều sự biến đổi mới sinh ra từ một giai đoạn này đến giai đoạn khác. Trong một giai đoạn cũng có những biến đổi của nó. Có thể xét tình hình mà định ra từng giai đoạn lớn, nhưng không thể tách hẳn từng giai đoạn một cách dứt khoát như người ta cắt cái bánh. Một giai đoạn dài hay ngắn phải tùy theo tình hình trong nước và thế giới, tuỳ theo sự biến đổi trong lực lượng địch và lực lượng ta"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr.165).

Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, tư tưởng tự lực cánh sinh là cực kỳ quan trọng. Đó không phải chỉ đơn giản là vì khi cuộc kháng chiến bắt đầu, chúng ta còn đang ở trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc nên không thể có chính sách nào khác. Trái lại, đây là một chủ trương chỉ đạo chiến tranh rất cách mạng. Nó xuất phát từ một lòng tin tuyệt đối vào năng lực của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam, khi được giáo dục, động viên, tổ chức và lãnh đạo theo những đường lối đúng thì có thể sáng tạo ra những điều kỳ diệu và vượt qua những tình thế khó khăn, hiểm nghèo nhất.


Một điều cần nhấn mạnh là từ sau Cách mạng tháng Tám đến chiến thắng ở Biên Giới Thu Đông năm 1950, nhân dân ta đã tự mình xây dựng nên lực lượng chính trị và quân sự hùng hậu, một nền kinh tế, văn hoá, giáo dục hướng vào một chế độ xã hội tuy còn nghèo nhưng quý trọng con người, một nhà nước tuy còn non trẻ, nhưng thực chất là của dân, do dân, vì dân đúng như Đảng nhận định: "Trong lò lửa kháng chiến, một nước Việt Nam mới đang được rèn đúc".


Theo quan điểm của Lê-nin, trong cộng đồng quốc tế, đối với mỗi dân tộc, cách thức thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế là hoàn thành nhiệm vụ đối với dân tộc mình. Xét trên quan điểm đó thì dân tộc Việt Nam đã góp phần xứng đáng vào cuộc chiến đấu của cộng đồng quốc tế vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.


Với những thắng lợi ngày càng lớn của cuộc kháng chiến, khi đã thoát khỏi vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và mở rộng giao lưu quốc tế, khi viện trợ vật chất và tinh thần của bè bạn và nhân dân thế giới, trước hết là từ các nước xã hội chủ nghĩa đến với Việt Nam, tinh thần tự lực cánh sinh không vì thế mà mất đi. Với sự giáo dục của Đảng, nhân dân Việt Nam hiểu rằng tự lực cánh sinh là phẩm chất tự chủ, tự cường của dân tộc và có mối quan hệ hữu cơ giữa tự lực cánh sinh và tiếp nhận viện trợ của bên ngoài.


Nhân dân Việt Nam luôn coi trọng và biết ơn sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, xem đó là nguồn động viên, cổ vũ cuộc chiến đấu của mình, nhưng không bao giờ ỷ lại vào sự giúp đỡ đó.

Ngay trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến, khi ý chí xâm lược của kẻ địch đã sụp đổ hoàn toàn và hoà bình trở thành hiện thực, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn căn dặn nhân dân: "Chính sách của chúng ta vốn là chính sách thực hiện hoà bình và ủng hộ hoà bình. Song hoà bình ắt phải ra sức tranh lấy, phải dùng lực lượng tranh lấy. Quyết không nên ảo tưởng, không ngồi chờ nó đến. Chúng ta càng cố gắng, lực lượng càng to, thắng lợi ta càng lớn thì việc thực hiện hoà bình chân chính ở Việt Nam càng chắc chắn"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 6, tr.455).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #47 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 04:26:21 pm »

d) Quan điểm về sự thống nhất giữa chiến tranh và nền hoà bỉnh chân chính - Tư tưởng nhân văn

Chúng ta có thể khẳng định rằng có một cách nhìn nhận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng nhân văn đó trước hết biểu lộ sâu sắc trong thái độ đối với chiến tranh. Lịch sử loài người sẽ mãi mãi ghi nhận cống hiến to lớn của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh lâu dài chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình. Chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình là một tư tưởng nhân văn cao cả.


Sự thật lịch sử là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm những gì có thể làm được để tránh chiến tranh.

Trái lại, về phía Pháp, những kẻ xâm lược đã không từ một thủ đoạn nào để làm cho mọi cuộc điều đình thất bại. Họ nói hoà bình nhưng đó là sự lừa mị và họ làm chiến tranh thật. Tiêu biểu cho thái độ đó là Đô đốc - Thầy tu Đác-giăng-li-ơ. Ngày 8 tháng 3 năm 1946, ông ta nói: "Tôi thấy thật kỳ lạ, nước Pháp có một đội quân viễn chinh ưu tú như thế ở Đông Dương mà những người chỉ huy lại thích điều đình hơn là đánh"2 (Philippe Devillers: Hytoire du Viet Nam).


Trong thư gửi Quốc hội và Chính phủ Pháp ngày 6-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ những hành động vi phạm nghiêm trọng các bản Hiệp định 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946 của bọn thực dân phản động, nhắc lại ý nguyện của nhân dân Việt Nam muốn hợp tác thân thiện với nhân dân Pháp và kết luận: "Tôi khẩn thiết kêu gọi Quốc hội và chính phủ Pháp vì quyền lợi tối cao của nhân dân hai nước Việt - Pháp mà ra lệnh cho các nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam khôi phục ở Hải Phòng, Lạng Sơn tình hình trước ngày 20-11-1946 nhằm thực hiện Tạm ước ngày 14-9-1946 và đặt cơ sở cho một sự hợp tác Việt - Pháp chân thành, bền vững. Chiến tranh đã làm đổ quá nhiều máu người Pháp và người Việt Nam, đã gây ra quá nhiều tai hại. Tình hình đó không thể kéo dài mãi”. "Trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.487).


Những hành động trong chiến tranh càng làm nổi bật sự khác nhau căn bản giữa chính sách nhân đạo của quân đội và nhân dân Việt Nam đối với kẻ địch và những tội ác của quân đội Pháp đối với các chiến sĩ và nhân dân ta.


Tháng 10-1945, trong những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi những người Pháp ở Đông Dương: "Lúc này, bọn thực dân Pháp đã mở đầu sự tấn công chúng tôi ở Nam Bộ... Chúng tôi bắt buộc phải kháng cự lại lũ xâm lăng ấy để bảo vệ gia đình, Tổ quốc chúng tôi. Mặc dầu như vậy, trên khắp đất nước Việt Nam, sinh mệnh và tài sản của người Pháp vẫn được che chở và tiếp tục được che chở miễn là các người ấy chịu sống yên ổn và không tìm cách gây chuyện.


Tôi trịnh trọng cam đoan rằng những người Pháp làm ăn lương thiện và sống yên ổn sẽ mãi mãi được chúng tôi trọng đãi như bè bạn, như anh em. Chúng tôi là một dân tộc yêu hoà bình, trọng quyền lợi và tự do của người khác"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, đã dẫn trên, tr.67).


Ngày 16-1-1946, trong Quốc lệnh bao gồm 10 công được thưởng và 10 tội phải phạt tử hình do Chủ tịch Hồ Chí Minh ban bố có khoản 7: "vô cớ sát hại kiều dân ngoại quốc sẽ bị xử tử"2 (Như trên, tr.164).


Trong các lực lượng vũ trang, mọi cán bộ và chiến sĩ đều biết rõ "Kỷ luật chiến trường" cấm ngược đãi và giết hại tù, hàng binh và luôn luôn chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật đó. Trái lại, đội quân xâm lược luôn thực hiện một chính sách bạo lực tàn bạo đối với chiến sĩ và nhân dân ta.



Trên mặt trận Nam Bộ, trong một bản quân lệnh tháng 12-1945, đại tá Massu tuyên bố: "phải khủng bố mạnh mẽ để ngăn cản nhân dân ủng hộ và chứa chấp bọn phiến loạn".


Bọn thực dân phản động còn cho rằng phải áp dụng những phương pháp khủng bố của phát xít Hít-le trước đây. Báo Avenir (Tương lai) xuất bản ở Sài Gòn ngày 3-4- 1946 viết: "Trong thời kỳ nước Pháp bị chiếm đóng, dưới sự chỉ huy của tướng Von Stulpnagel, cứ hễ một người Đức bị ám sát thì 300 người Pháp bị xử bắn và cuối cùng thì nền trật tự được khôi phục".


Quân xâm lược đã tàn sát không ghê tay, kể cả những chiến sĩ bị thương cũng không thoát khỏi, trong khi ta đối xử rất nhân đạo với những binh sĩ bị thương và bị bắt. Chính Dussart, một phóng viên mặt trận của Pháp, đã đưa ra dẫn chứng cụ thể về những hành động đó: "Quân đội Pháp xông vào một cái nhà gianh được bố trí thành một trạm cứu thương có tất cả 15 binh sĩ Việt Nam. Một số bị thương trong trận đánh hôm trước, một số khác đang băng bó cho họ. Chúng ta đã thủ tiêu tất cả mười lăm người" "những lính Pháp bị thương đều được du kích Việt Nam cứu chữa và được dẫn về trả cho các vị trí Pháp"1 (Vérité sur le Viet Nam (Sự thật về Việt Nam), Nxb La Bibliothèque francaise Paris, tr.55, 61).


Mọi người đều biết rõ cuộc sống vật chất của quân đội ta trong kháng chiến khó khăn, gian khổ ra sao, nhưng chính phủ ta vẫn cố gắng chu cấp cho những tù binh những điều kiện sống không kém các chiến sĩ Việt Nam như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhà báo Pháp Le'o Figuère: "Hiện nay, chúng tôi đang tìm cách để nâng cao mức sống của họ. Họ được ăn uống đầy đủ hơn cả chúng tôi nữa. Họ đã gửi cho tôi nhiều bức thư tỏ lòng biết ơn"2 (Báo Cứu quốc, ngày 8-9-1950).


Thông cảm sâu sắc với tình cảm của các bà mẹ và vợ Pháp có con và chồng chết trận ở Việt Nam, trong thư gửi họ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Chúng tôi tự coi có bổn phận thiêng liêng phải giữ nguyên vẹn để sau này khi chiến tranh chấm dứt, các bà có thể mang hài cốt của chồng, con mình về quê cha, đất tổ. Như thế, chúng tôi mong rằng có thể làm dịu nỗi đau của các bà"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr.119).


Tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta biểu hiện lòng tin ở con người, coi trọng, khuyến khích phát huy mặt tốt, mặt thiện, sửa chữa cải tạo mặt xấu, mặt ác trong con người. Đó là cơ sở để thực hiện chính sách đối với ngụy quân, ngụy quyền, mở đường cho họ trở về với dân tộc. Đó cũng chính là chính sách "tâm công", đánh vào lòng người, theo truyền thống đánh giặc của ông cha ta ngày trước. Kiên trì giải thích, thuyết phục làm cho nhiều sỹ quan và binh sĩ địch nhận rõ tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh do bọn xâm lược gây nên và đấu tranh phản chiến, đòi hồi hương hoặc chuyển sang hàng ngũ chiến đấu của quân đội và nhân dân Việt Nam.


Như vậy, tư tưởng chủ đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện nổi bật sự giải quyết đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ giữa cách mạng và chiến tranh, giữa chiến tranh và hoà bình. Tư tưởng đó không bỏ qua bất cứ một khả năng nào, dù là nhỏ nhất, có thể đem lại hoà bình, nhưng không phải hoà bình với bất cứ giá nào, mà là hoà bình trong độc lập, tự do, trong sự tôn trọng phẩm giá con người, hoà bình gắn với sự bảo đảm những quyền lợi căn bản của dân tộc. Tư tưởng đó mang tính nhân văn cao cả. Tại hội thảo quốc tế "Việt Nam trong thế kỷ 20", có đại biểu đề nghị nâng tư tưởng đó lên tầm triết lý nhân văn về chiến tranh và hoà bình ở thế kỷ 20. Romesh Chandra, Chủ tịch danh dự Hội đồng hoà bình thế giới nhận định: "Trong nửa sau thế kỷ 20, có một từ đã xuất hiện trong tiếng nói của những người bảo vệ và kiến tạo hoà bình trên thế giới, một từ cùng một lúc mang rất nhiều ý nghĩa: đấu tranh, dũng cảm, anh hùng, và nó còn ý nghĩa là chiến thắng, độc lập, tự do. Từ đó là Việt Nam. Và có một cái tên đã gắn liền với từ này, từ chỉ tên một đất nước. Đó là Hồ Chí Minh”.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #48 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2021, 07:18:55 am »

2. Về nghệ thuật quân sự

Dân tộc ta có truyền thống chống ngoại xâm vô cùng oanh liệt cùng những kinh nghiệm độc đáo. Trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược ở thời hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã kế thừa và phát huy kinh nghiệm quân sự của tổ tiên, vận dụng sáng tạo những quan điểm về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu tinh hoa quân sự thế giới, đưa nền nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển lên một trình độ mới, nền nghệ thuật quân sự cách mạng với nhiều điểm độc đáo.

a) Trong lĩnh vực chiến lược

Sớm xác định đúng kẻ thù chủ yếu, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch ta. Đây là vấn đề mấu chốt của chiến lược quân sự. Trong hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (14 đến 15 tháng 8 năm 1945), Đảng đã chủ trương "... chống lại mưu mô của Pháp định khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương". Sau vụ quân Pháp khởi hấn ở Nam Bộ, trải qua hơn một năm nhân nhượng không kết quả, Đảng ta khẳng định: "Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp"1 (Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Sự thật, Hà Nội 1986, tập 1, tr.82). Trải 5 năm đương đầu với quân xâm lược, thấy rõ động thái của Mỹ, năm 1950, Đảng nhận định: "Hiện nay Mỹ tiến lên một bước trực tiếp can thiệp vào Việt Nam. Thế là ngày nay, ta có một kẻ địch chính là giặc Pháp, lại thêm một kẻ địch nữa là can thiệp Mỹ"2 (Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 2-9-1950).


Trong quá trình kháng chiến, Đảng ta đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch để định ra đối sách chính xác. Do đó đã xây dựng được quyết tâm chiến đấu đúng đắn cho toàn dân, khắc phục mọi biểu hiện hữu khuynh, tiêu cực, bi quan, dao động hoặc chủ quan khinh địch... Thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến, trong nhân dân ta cũng có một ít người chưa tin vào thắng lợi, lo ngại trước sức mạnh quân sự của địch. Nhưng với cách nhìn biện chứng, Đảng ta không chỉ căn cứ vào hiện tại mà xem xét cả tương lai, với lòng tin vào sức mạnh của quần chúng, của dân tộc, đã khẳng định: Kháng chiến nhất định thắng lợi.


Như thế, Đảng ta đã thấy rõ, với sự tiến triển của cuộc kháng chiến, dù kẻ thù chủ yếu là thực dân Pháp mạnh hơn ta rất nhiều về quân sự, tuy lúc đầu quân đội ta còn yếu, trang bị thô sơ, kinh tế đất nước còn khó khăn, nhưng kháng chiến của ta là chính nghĩa, toàn dân đoàn kết một lòng, đánh địch trên đất mình và nhân dân ta được phe xã hội chủ nghĩa, nhân loại tiến bộ kể cả nhân dân Pháp ủng hộ. Địch tuy có quân đội mạnh, được trang bị hiện đại, có nền công nghiệp tiên tiến, nhưng tiến hành chiến tranh phi nghĩa, ở một chiến trường rất xa chính quốc, nội bộ chia rẽ, bị nhân dân tiến bộ trong nước và thế giới phản đối, kinh tế, tài chính sau chiến tranh thế giới bị kiệt quệ.


Những chỗ mạnh của ta là căn bản, những chỗ yếu của ta có thể khắc phục được. Ta sẽ dựa vào và phát huy chỗ mạnh để khắc phục chỗ yếu. Những chỗ mạnh của địch có thể hạn chế được, những chỗ yếu của chúng là căn bản không thể khắc phục được. Với thời gian, ta có thể làm chuyển hoá lực lượng, ta từ yếu thành mạnh, địch từ mạnh chuyển thành yếu.


Với cách đánh giá đầy tính cách mạng và khoa học đó, Đảng ta, nhân dân ta, ngay từ đầu đã dứt khoát khẳng định "ta nhất định thắng, địch nhất định thua”.

Có quyết tâm xác đáng, có đường lối đúng, lại phải có phương thức tiến hành chiến tranh thích hợp và sự chỉ đạo chiến lược quân sự kịp thời mới có thể đưa cuộc kháng chiến từng bước phát triển tới thắng lợi cuối cùng.


Trong các lĩnh vực trên, Đảng ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề, có thể nêu một số nội dung nổi bật sau đây:

- Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, giành quyền chủ động tiến công địch.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là sự kế tục sự nghiệp Cách mạng tháng Tám. Nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến khi vừa giành được chính quyền, tiềm lực mọi mặt đều còn non kém. Tuy nhiên, nhân dân ta thực hành chiến tranh cách mạng và cuộc kháng chiến phát triển từ khởi nghĩa lên nên Đảng xác định tư tưởng chiến lược là: tiến công, từng bước giành quyền chủ động chiến lược.


Khi quân Pháp gây hấn ở Nam Bộ mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, Đảng ta chủ trương phát huy các chiến thuật du kích ngăn cản, làm chậm bước tiến công của địch; đồng thời chọn mục tiêu thích hợp chủ động tiến công tiêu hao địch, kiên quyết không dàn quân đánh trận địa.


Khi chiến tranh không thể tránh khỏi, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn dân kháng chiến, chủ động tiến công quân địch trước tại các đô thị Bắc vĩ tuyến 16. Hồi đầu kháng Pháp, trước sức mạnh của địch, ta chủ trương "bảo tồn chủ lực", "tránh những trận bất lợi, rút lui tới một mức nào đó"1 (Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tập II, tr.125), nhưng vẫn tìm cách đánh địch ở khắp nơi, "tích cực tiến công từng bộ phận để tiêu diệt bộ phận địch"2 (Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tập II, tr.125). Sau chiến dịch phản công Việt Bắc thắng lợi (cuối năm 1947), ta chủ trương "bắt địch chuyển sang thế thủ"3 (Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tập II, tr.125) phát động chiến tranh du kích, tiến sâu vào vùng sau lưng địch, biến hậu phương địch thành tiền phương ta.


Thế tiến công chủ động và rộng khắp của chiến tranh du kích từ năm 1948 đã mở ra thế tiến công chiến lược ngày càng phát triển vào vùng địch chiếm đóng trên khắp chiến trường Đông Dương. Thế tiến công quy mô ngày càng lớn, bằng cả chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy không ngừng phát triển. Các chiến dịch lớn được mở: Biên Giới, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào... và cuối cùng là cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 với chiến dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Chiến tranh du kích, chiến tranh chính quy - tiến công quân sự hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng trên quy mô cả nước càng phát huy mạnh mẽ quyền chủ động chiến lược, tạo thành sức mạnh tiến công áp đảo để đánh bại kẻ địch. Đây là một thành công nổi bật về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nói chung cũng như nghệ thuật chỉ đạo chiến lược quân sự tài tình của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp: Nghệ thuật vận dụng tư tưởng chiến lược tiến công và giành, phát huy quyển chủ động chiến lược.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #49 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2021, 07:20:42 am »

- Kết hợp chặt chẽ giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, không ngừng đẩy mạnh tiêu hao và tiêu diệt địch.

Trong điều kiện tương quan lực lượng giữa ta và địch thời chống Pháp, trong chỉ đạo chiến tranh và đấu tranh vũ trang cách mạng, lúc đầu ta chủ trương "du kích chiến là căn bản", kế đó, đưa chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy một cách thích hợp, đồng thời kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Nhờ thực hành chiến tranh du kích, ta đã tiêu hao lực lượng địch về chiến lược; đồng thời tiến lên chiến tranh chính quy (đồng thời duy trì chiến tranh du kích) để tiêu diệt địch về chiến lược, giành thắng lợi quyết định.


Đó là thành công của Đảng ta trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, kết hợp chặt chẽ giữa hai hình thức để phát huy sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân và lực lượng đông đảo quần chúng, của cả tác chiến du kích và tác chiến tập trung trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc lâu dài.


- Kết hợp tiêu diệt địch với giành và giữ vững quyền làm chủ của nhân dân, tích cực tiêu diệt lực lượng địch, giữ gìn và phát triển lực lượng ta, tiến lên từng bước giải phóng đất đai bị địch lấn chiếm.

Với Cách mạng tháng Tám 1945, nhân dân ta đã giành được chính quyền trên cả nước, nhưng hồi đầu kháng chiến, bằng nhiều cách khác nhau, quân địch đã thiết lập được sự thống trị của chúng bằng chế độ thực dân kiểu cũ trên nhiều vùng chiến lược quan trọng (tức một số căn cứ địa và vùng tự do của ta). Lực lượng vũ trang đã phối hợp với toàn dân dùng đấu tranh vũ trang để tiêu diệt địch và hỗ trợ cho quần chúng trong vùng địch tạm kiểm soát nổi dậy phá tề, trừ gian, giành chính quyền, xây dựng, củng cố và phát triển khu du kích và căn cứ du kích trong lòng địch. Đồng thời, ta tích cực xây dựng và củng cố vùng tự do về mọi mặt, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, chiến đấu bảo vệ vùng tự do, hậu phương kháng chiến.


Thực hiện kết hợp tiêu diệt địch với giành và giữ quyền làm chủ của nhân dân, Đảng ta để ra tư tưởng chỉ đạo "tích cực tiêu diệt lực lượng địch, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta". Tiêu diệt địch, gồm cả lực lượng quân sự và lực lượng chính trị của chúng. Và cũng như vậy, phải giữ gìn và phát triển lực lượng quân sự, chính trị, kinh tế của ta. Quân ta từ 5.000 và mấy vạn tự vệ hồi đầu kháng chiến; đến cuối cuộc chiến tranh phát triển lên tới hàng triệu tự vệ, dân quân du kích và 30 vạn bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương được tổ chức thành nhiều trung đoàn, đại đoàn mạnh.


Sự chỉ đạo chiến lược quân sự đúng đắn: kết hợp tiêu diệt địch với giành và giữ quyền làm chủ; quán triệt tư tưởng tích cực tiêu diệt địch, giữ gìn và phát triển lực lượng ta nhằm thực hiện phương châm càng đánh càng mạnh, càng đánh càng tiêu diệt lực lượng và đánh bại các chiến lược quân sự của địch, đập tan chính quyền các cấp của địch, giành chính quyền về tay nhân dân, đã trở thành hiện thực trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Chọn hướng tiến công chiến lược đúng đắn, đánh thắng từng kế hoạch chiến lược, nắm thời cơ tiến hành quyết chiến chiến lược, đánh thắng cố gắng chiến tranh cao nhất của địch.


Cũng từ tương quan lực lượng địch ta kể trên, trong chỉ đạo kháng chiến, Đảng ta luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo quy luật đánh thắng địch từng bước, tiến lên đánh thắng hoàn toàn chiến tranh xâm lược của chúng. Sau khi đồng loạt tiến công vây hãm, giam chân địch tại các đô thị Bắc vĩ tuyến 16 hồi đầu toàn quốc kháng chiến, quân dân ta đã phản công thắng lợi ở Việt Bắc, lần lượt làm thất bại mưu đồ và kế hoạch xâm lược của Lơ-cle, Va-luy, Tát-xi-nhi và cuối cùng là kế hoạch chiến lược đầy tham vọng của Na-va. Trong tác chiến, ở từng thời đoạn và điều kiện cụ thể, ta luôn xác định mục tiêu và hướng tiến công đúng đồng thời chỉ đạo các chiến trường phối hợp chặt chẽ, nhân lên sức mạnh thắng địch. Khi địch rải quân chiếm đóng nhiều vùng rộng lớn, bộc lộ nhiều sơ hở, ta đưa lực lượng vào hậu địch hoạt động, khoét sâu mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng của chúng. Nhận thấy tại chiến trường miền núi địch sơ hở và khó phát huy ưu thế của vũ khí, kỹ thuật, ta mở các chiến dịch Biên Giới (1950), Tây Bắc và Hoà Bình (1952) giành thắng lợi lớn. Trong Đông Xuân 1953 - 1954, bằng nhiều đòn chiến lược trên các hướng của chiến trường miền núi, đặc biệt là Tây Bắc - Điện Biên Phủ, trong khi đó đồng bằng hoạt động phối hợp, ta đã diệt được 1/4 tổng binh lực địch trên cả 3 nước Đông Dương, làm đảo lộn hoàn toàn thế bố trí chiến lược của địch trên chiến trường Đông Dương, đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân Pháp. Đó là ví dụ tiêu biểu về việc chọn hướng tiến công trong chỉ đạo chiến lược quân sự. Chọn mục tiêu và hướng tiến công chính xác lại phải kết hợp với hoạt động tạo ra thời cơ và lựa chọn thời cơ thích hợp cho hoạt động quân sự mới có thể giành thắng lợi. Hồi đầu kháng Pháp, Đảng ta đã phát động kháng chiến, chủ động tiến công địch tại các đô thị Bắc vĩ tuyến 16 khi khả năng thương lượng không còn, viện binh địch chưa tới, việc chuẩn bị mở rộng quy mô xâm lược chưa hoàn tất. Cũng như vào cuối cuộc kháng Pháp, kế hoạch Na-va, cố gắng cao nhất của cả Pháp và Mỹ được triển khai, mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng bộc lộ rõ nét, ta đánh bại được kế hoạch củạ địch, mở ra khả năng kết thúc chiến tranh. Và thực tế diễn ra đúng như vậy. Điều đó đánh dấu bước phát triển cao về sự chỉ đạo chiến lược quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam, trong lịch sử chiến tranh giữ nước và cứu nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM