Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:04:21 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quân sự  (Đọc 6958 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #30 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2021, 09:31:26 am »

Tận dụng thời gian hoà hoãn, ta ra sức củng cố và phát triển lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược ở quy mô mới. Ngày 28-5-1946, với sắc lệnh 71/SL Vệ quốc quân chính thức trở thành Quân đội quốc gia của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, đặt nền tảng đầu tiên cho việc xây dựng quân đội chính quy của một quốc gia độc lập. Một số binh chủng kỹ thuật bước đầu được xây dựng. Đông đảo thanh niên được động viên gia nhâp quân đội. Đến cuối năm 1946, tổng quân số có hơn 82.000 người, tăng 32.000 so với cuối năm 1945. Toàn quốc có gần 1.000.000 tự vệ và du kích. Khối đoàn kết toàn dân được tăng cường. Ngày 29 tháng 5 năm 1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) ra đời. Chính quyền được củng cố. Chính phủ Liên hiệp quốc dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, gồm đại biểu các đoàn thể, đảng phái yêu nước được thành lập.


Trên mặt trận đối ngoại, cùng với việc làm cho thế giới hiểu rõ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta, quan hệ đoàn kết sát cánh chiến đấu Việt - Lào - Cam-pu-chia bước đầu được xác lập. Uỷ ban nhân dân Nam Bộ hết sức giúp đỡ những người kháng chiến Cam-pu-chia tạo dựng cơ sở. Bộ đội Ít-xa-la và Liên quân Lào-Việt đã có những trận phối hợp chiến đấu.


Về kinh tế, ruộng đất ngập lụt trước đây, nay cấy được 2 vụ. Diện tích trồng cây lương thực và sản lượng tăng từ hai đến năm lần. Các địa phương bắt đầu thực hiện giảm tô, chia ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo.


Phong trào xoá nạn mù chữ lan rộng ra cả nước. Trong vòng một năm, có 79.665 giáo viên phụ trách 75.806 lớp; 2.585.589 người biết đọc, biết viết. Tháng 11 năm 1946, Đại hội văn hoá toàn quốc lần thứ nhất họp tại Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra phương châm của công tác văn hoá Việt Nam là: Dân tộc, Khoa học, Đại chúng.


Cách mạng nước ta từ thế "ngàn cân treo sợi tóc" chuyển sang thế vững chắc hơn, đủ khả năng đối phó với âm mưu mở rộng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.

Cùng với các hoạt động đàm phán, thương lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần gửi điện, thư, thông điệp tới phía Pháp yêu cầu cùng tìm giải pháp tháo gỡ bế tắc trong quan hệ giữa hai bên. Đầu tháng 12 năm 1946, Người tuyên bố: "Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hoà bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng mọi cách... Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm, thì chúng tôi sẽ làm"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, tập 4, tr. 201) .


Sau khi Hội nghị Phông-ten-nơ-blô tan vỡ, nhận rõ khả năng hoà hoãn không còn, không sớm thì muộn thực dân Pháp sẽ mở rộng chiến tranh xâm lược, cùng với công tác thường xuyên là xây dựng và củng cố Nhà nước, các cơ quan chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu được kiện toàn. Quân uỷ hội và Bộ Quốc phòng thống nhất thành Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy. Cả nước được chia thành 12 chiến khu, thuận tiện cho việc chỉ đạo chiến tranh và phát huy khả năng độc lập của địa phương khi chiến trường bị chia cắt.


Bộ Tổng tham mưu đảm trách vạch kế hoạch tác chiến; các địa phương cũng vạch kế hoạch tác chiến của mình. Đội công tác đặc biệt, do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách, được Trung ương phái lên Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Công tác chính trị - tinh thần, tuyên truyền giáo dục kháng chiến được triển khai. Tất cả đều sẵn sàng kháng chiến cứu nước.


Sáng 19 tháng 12 năm 1946, thực dân Pháp gửi tối hậu thư cho ta, đòi tước vũ khí của tự vệ, công an, đòi ta phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến và để cho chúng giữ trật tự trong thành phố. Chủ tịch Hồ Chí Minh phái ông Hoàng Minh Giám chuyển thư của Người tới Xanh- tơ-ni, yêu cầu ông ta gặp đại diện Chính phủ Việt Nam để "tìm một giải pháp cải thiện bầu không khí hiện tại".

J.Xanh-tơ-ni khước từ.

Cùng ngày 19, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) xác định đường lối và quyết định phát động kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp.

Đường lối kháng chiến hình thành từng bước trong quá trình chỉ đạo kháng chiến ở miền Nam từ 16 tháng trước. Ta đã nhận thức sâu sắc rằng đánh với một cường quốc thực dân, đồng bào ta chắc chắn phải chịu nhiều hy sinh gian khổ. Trong bút ký "Công việc khẩn cấp bây giờ" (5-11-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ phải làm cho dân ta có tín tâm và quyết tâm, "Cố rán sức qua khỏi mùa đông lạnh lẽo, thì ta sẽ gặp mùa xuân"1 (Văn kiện Đảng 1945-1954. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng TW xuất bản, Hà Nội 1978, tập I, tr.101).


Những vấn đề cơ bản của đường lối kháng chiến chứa đựng trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" (19-12- 1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chỉ thị "Toàn dân kháng chiến” (12-12-1946) của Thường vụ Trung ương Đảng. Sau đó, Tổng bí thư Trường Chinh viết một loạt bài giải thích làm sáng tỏ đường lối: "Chúng ta đánh ai?", "Đánh để làm gì?", "Tính chất cuộc kháng chiến của ta", "So sánh hơn thua"...1 (Đăng trên báo Sự thật từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1947, in sách lần đầu tiên với tiêu đề Kháng chiến nhất định thắng lợi vào tháng 9 năm 1947).


Với mục tiêu chân chính ’’đánh phản động thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất và độc lập", cuộc kháng chiến của ta sáng ngời tính chất chính nghĩa. Đường lối chung chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh2 (Trong các văn kiện đương thời chưa dùng khái niệm "tự lực cánh sinh" nhưng nội dung của chúng đã toát lên tinh thần đó).


Đế quốc Pháp xâm lược nước ta thì toàn dân ta phải nhất tề đứng lên chống giặc. Với chiến lược toàn dân kháng chiến, ta có thể đánh địch ở khắp nơi, đâu đâu cũng là trận địa, mỗi người dân là một chiến sĩ. Toàn dân kháng chiến là nét đặc sắc, là nội dung chủ yếu, là tư tưởng chỉ đạo tác chiến và xây dựng lực lượng của cuộc chiến tranh nhân dân.


Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện đối với toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần của đất nước. Kẻ thù dùng chiến tranh tổng lực, ta phải huy động đến mức cao nhất, về mọi mặt, sức mạnh của toàn dân, phải đánh địch trên mọi mặt trận, kháng chiến toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, ngoại giao...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #31 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2021, 09:32:23 am »

Nắm chắc quy luật vận động, chuyển hoá tương quan lực lượng, ta chủ trương "kháng chiến lâu dài”. Là bên xâm lược, địch muốn đánh nhanh. Ta đánh lâu dài làm cho chỗ yếu cơ bản của chúng ngày càng lộ rõ, chỗ mạnh của chúng ngày một hạn chế; chỗ yếu của ta dần dần được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một phát huy đến lúc tương quan lực lượng có lợi cho ta, không lợi cho địch. Cuộc kháng chiến được dự kiến chia làm 3 giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và phản công1 (Xem: Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.61-172, các giai đoạn phân kỳ như sau: Giai đoạn I: 9-1945 đến 12-1947; giai đoạn II: từ đầu năm 1948 đến thu đông 1950; và giai đoạn III: từ 1951 đến 7-1954. Các giai đoạn đều được xác định nội dung cụ thể).


Ta chủ trương "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Dựa vào sức mình là dựa vào sức lực của toàn dân, dựa vào các điều kiện nhân hoà, địa lợi, thiên thời của đất nước; đồng thời xây dựng tình đoàn kết và ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.


Là một bộ phận của đường lối cách mạng mà những nét cơ bản đã được vạch ra trong tác phẩm "Đường kách mệnh" và các văn kiện tiếp đó của Đảng, đường lối kháng chiến vì thế được vạch ra đúng đắn và kịp thời.

20 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, theo lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, quân và dân ta tại các đô thị nổ súng đánh địch, mở đầu kháng chiến toàn quốc.

Ở Vinh, quân Pháp có một trung đội, đã phải đầu hàng.

Ở Bắc Giang, Bắc Ninh mỗi nơi Pháp có một đại đội, sau mấy ngày cố thủ, chúng tháo chạy.

Ở Hải Dương và Hồng Gai, mỗi nơi Pháp có gần một tiểu đoàn; một số đơn vị đóng lẻ bị diệt.

Cuộc chiến đấu quyết liệt, dài ngày diễn ra tại Hà Nội, Nam Định, Huế và Đà Nẵng.   !

Tại Nam Định, 650 quân Pháp dựa vào công sự và các kiến trúc kiên cố, cố thủ. Quân ta vây hãm, có chỗ chỉ cách địch một mặt đường, nhưng không có vũ khí công phá, nên không diệt được mục tiêu. Sau khi giải vây Hà Nội, địch tăng viện cho Nam Định. Chúng đổ bộ bằng đường thuỷ và đường không, kết hợp với lực lượng tại chỗ phá vây. Lực lượng ta rút về nông thôn sau 83 ngày đêm vây hãm và tiếp tục thường xuyên luồn vào nội thành đánh phá, quấy rối địch.


Tại Huế, bộ đội, tự vệ cùng nhân dân dựng chiến luỹ dựa vào sông Hương, sông An Cựu và đường số 1 bao vây 750 lính Pháp suốt 50 ngày đêm.

Đà Nẵng, cửa ngõ miền Trung, quân Pháp ở đây lên đến 6.500 tên. Do thiếu sót trong chỉ huy, nên kế hoạch tiến công phủ đầu quân địch không thực hiện được. Nhiều trận đánh ác liệt diễn ra tại Cổ viện Chàm, Ngã Năm, bốt Đội Cung... Sau một tuần, bộ đội và tự vệ rút dần ra ngoài cùng nhân dân các huyện Hoà Vang, Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên... lập vành đai chặn địch.


Tiêu biểu cho cả nước là cuộc chiến đấu tại Hà Nội. Quân địch ở đây gồm 6.500 tên và 13.000 Pháp kiều, nhiều người được vũ trang. Chúng ở những nơi quan trọng, tạo thành thế bao vây chia cắt nội thành Hà Nội, không chế những nơi đóng quân và kèm sát các cơ quan đầu não của ta.


Theo kế hoạch, công nhân nhà máy điện Yên Phụ phá máy. Đèn điện phụt tắt. Hiệu lệnh tiến công đã phát. Các pháo đài Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo... đồng loạt nhả đạn vào các mục tiêu đã định. Nhân dân khuân bàn, ghế, giường, tủ, bao hàng... ra đường lập chiến luỹ, ngả cây cối, cột điện, toa tàu ngăn chặn địch. Quân Pháp tung lực lượng ra phản kích. Ta và địch giành đi giật lại ở nhiều nơi như Toà Thị chính, Bắc Bộ phủ, Bưu điện Bờ Hồ. Sau 4 ngày, tiểu đoàn 101 chuyển vào Liên khu I (trung tâm Hà Nội), các tiểu đoàn khác bố trí ở Liên khu II và III (phía Nam và Tây Nam thành phố), thực hiện kế "trùng độc chiến" theo cách nói của Chỉ huy trưởng mặt trận Hà Nội Vương Thừa Vũ. Vậy là thế trận "trong đánh ngoài vây, trong ngoài cùng đánh" hình thành. Ta triệt để vận dụng cách đánh du kích, không cố thủ ở nơi nào lâu, dựa vào từng căn nhà, từng góc phố đánh địch. Nhiều gương chiến đấu hy sinh dùng cảm đã xuất hiện. Lê Gia Định đập bom trước thềm Bắc Bộ phủ, trung đội trưởng Trần Thành ôm bom ba càng lao lên phá xe tăng địch trước chợ Hôm, hai mươi nam nữ tự vệ Bưu điện Bờ Hồ chiến đấu đến người cuốỉ cùng, thà chết không chịu lọt vào tay giặc... Vừa chiến đấu vừa xây dựng, trưởng thành. Tháng giêng 1947, Trung đoàn Liên khu I, sau được mang tên Trung đoàn Thủ đô, ra đời. Kế đó là Trung đoàn 48 và Trung đoàn 52 sinh ra trên các cửa ô. Để duy trì chiến đấu, giếng nước được đào ngay trên hè phố, những bao đậu chất làm chiến lũy được lấy ngâm giá thay rau, bãi sông Hồng là đường tiếp tế, liên lạc vào Liên khu I.


Nhưng từ 15 tháng 1 năm 1947, có viện binh, quân Pháp mở các cuộc tiến công lớn chiếm các cửa ô, hãm chặt Liên khu I. Tiếp tế ngày một khó khăn, lương thực, thuốc men, đạn dược cạn kiệt, đêm 17 tháng 2 năm 1947, lực lượng của ta ở Liên khu I làm cuộc rút quân "thần kỳ" về hậu phương an toàn. Ta đã tiêu hao tiêu diệt nhiều địch, vây hãm chúng suốt 2 tháng, vượt nhiều so với thời gian dự kiến.


Cuộc chiến đấu của quân và dân ta tại đô thị suốt gần 3 tháng có ý nghĩa rất lớn. Ta đã chủ động mở đầu kháng chiến toàn quốc đúng lúc, khi khả năng hoà hoãn không còn, ta có chuẩn bị và viện binh Pháp còn lênh đênh trên biển. Ngoài việc tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận địch, ta đã bảo vệ được an toàn cơ quan đầu não và bảo tồn lực lượng kháng chiến, giành được khoảng thời gian chiến lược quý báu để tiếp tục chuyển đất nước vào thời chiến và đẩy lùi âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của địch.


Vừa chiến đấu, ta vừa xây dựng đất nước về mọi mặt và bước đầu triển khai thế trận chiến tranh nhân dân. Ngay từ tháng 11 năm 1946, máy móc, nguyên vật liệu, lương thực, muối... đã dần dần được chuyển về các nơi dự kiến địch chưa đánh tới, lên Việt Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào tản cư và phá hoại để kháng chiến. "Phá cho bọn Pháp không lợi dụng được, để chặn chúng lại"...


Bộ máy chính quyền các cấp được kiện toàn đáp ứng yêu cầu kháng chiến. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ và nhân viên Nhà nước. Trong thư gửi các đồng chí Bắc Bộ tháng 3 năm 1947, tiếp đó trong thư gửi các đồng chí Trung Bộ, Chủ tịch yêu cầu cán bộ, đảng viên tu dưỡng, gương mẫu về đạo đức, trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ, một lòng một dạ vì dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #32 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2021, 09:33:22 am »

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, một đợt phát triển đảng viên mới được triển khai. Đến cuối năm 1947, tổng số đảng viên lên tới 70.000 người. Thanh niên khắp nơi nô nức, tình nguyện gia nhập quân đội trực tiếp đánh giặc đưa bộ đội chủ lực lên tới 120.000 người vào cuối năm 1947.


Trong điều kiện khó khăn của kháng chiến, Nhà nước ta vẫn tìm mọi biện pháp bồi dưỡng sức dân và ổn định đời sống cho đồng bào. Chính phủ ban hành nhiều chính sách về nông nghiệp để duy trì và phát triển sản xuất. Mọi người đều có nghĩa vụ sản xuất lương thực, theo khẩu hiệu "thực túc binh cường", "ăn no đánh thắng".


Kháng chiến trong điều kiện bị bao vây, sản xuất quốc phòng được đặc biệt chú trọng. Ngay trong đợt tổng di chuyển đầu tiên, ta đã đưa được gần 40.000 tấn máy móc, nguyên vật liệu ra vùng tự do, nhờ đó xây dựng được 57 cơ sở sản xuất (trừ Nam Bộ đã thực hiện từ trước). Đây là vốn liếng quý báu tạo nên cơ sở ban đầu để từng bước tăng cường tiềm lực kháng chiến.


Tiền tệ được giải quyết trên cơ sở lòng yêu nước của nhân dân: giấy bạc Việt Nam (thường gọi là "bạc tài chính”) được tin dùng. Nam Trung Bộ được phép phát hành tín phiếu; Nam Bộ được phép đóng dấu vào giấy bạc Đông Dương từ loại 100 đồng (in màu đỏ) trở xuống để chi tiêu.


Trên mặt trận văn hoá, khoa học chúng ta có rất nhiều cố gắng. Đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ khoác ba lô lên đường kháng chiến, ví như các cụ Phan Kế Toại, Nguyễn Văn Tố, các giáo sư Nguyễn Văn Huyên, Tổn thất Tùng, Trần Hữu Tước, Hồ Đắc Di, luật sư Phan Anh, v.v... Một số cơ sở đại học và trung học chuyển từ Hà Nội lên Việt Bắc tiếp tục hoạt động. Đến cuối năm 1947, đã có hàng ngàn trường tiểu học và trung học thu hút hàng vạn con em nhân dân đến lớp. Phong trào bình dân học vụ, thanh toán nạn mù chữ được duy trì và phát triển mạnh mẽ. Đêm đêm, trên khắp các làng bản thuộc vùng tự do lập loè ánh đuốc của học viên tới lớp. Đến cuối năm 1947, nhiều tỉnh thanh toán xong nạn mù chữ cho 60-70% đồng bào; toàn quân đã thanh toán xong nạn mù chữ. Nền văn hoá, giáo dục được xây dựng và phát triển toàn diện ngay trong khói lửa chiến tranh, tỏ rõ sức sống mãnh liệt của một dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến.


Về đối ngoại, ta đã đặt cơ quan đại diện ở Thái Lan, Miến Điện và cử một số đoàn đại biểu đi dự hội nghị quốc tế.

Thành tựu thuộc các lĩnh vực kể trên đã tạo lập nên những yếu tố cơ bản của thế trận chiến tranh nhân dân đủ sức đối phó với cuộc tiến công sắp tới của địch và từng bước được bổ sung, xác lập vững chắc đáp ứng yêu cầu kháng chiến lâu dài.


Từ giữa năm 1947, quân Pháp ráo riết chuẩn bị cho cuộc tiến công vào căn cứ địa Việt Bắc, nhằm chộp bắt cơ quan đầu não kháng chiến của cả nước, tiêu diệt phần lớn chủ lực ta, bịt kín biên giới, dùng thắng lợi quân sự thúc đẩy việc lập ngụy quyền. Họ muốn "đánh đòn quyết định", thực hiện ý đồ "đánh nhanh thắng nhanh", kết thúc chiến tranh. Dự đoán "nếu mạo hiểm địch sẽ tiến công Việt Bắc", ta ra sức chuẩn bị đối phó.


Ngày 7 tháng 10 năm 1947, hơn 12.000 quân Pháp bắt đầu tiến công Việt Bắc. Trên trời, quân dù do trung tá Sô-va-nhắc chỉ huy nhảy xuống Bắc Kạn và Chợ Mới, trung tâm căn cứ địa. Dưới đất, một cánh do đại tá Bô-phrê chỉ huy từ Lạng Sơn theo quốc lộ 4 tiến lên Cao Bằng, theo quốc lộ 3 xuống Bắc Kạn tạo thành gợng kìm dài hơn 420 ki-lô-mét kẹp phía Đông, mặt sau Việt Bắc; cánh phía Tây, binh đoàn Com-muy-nan xuất phát từ Hà Nội, theo sông Hồng, sông Lô và sông Gâm lên Việt Trì, Tuyên Quang, Chiêm Hoá, tạo thành gọng kìm dài 250 ki-lô-mét. Bước thứ nhất của kế hoạch tiến công mang mật danh Lê-a1 (Lê-a: Tên một ngọn đèo cao 1.362 mét trên đường số 3 giữa Nguyên Bình và Bắc Kạn).


Cả nước được lệnh đẩy mạnh tác chiến, chia sẻ lực lượng địch. Bộ đội được điều chuyển bố trí gồm 3 mặt trận sông Lô, đường số 3 và đường số 4. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và Tổng thanh tra Quân đội trực tiếp xuống từng mặt trận. Ta chủ trương "du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phù trợ" và chỉ đạo đánh mạnh vào hai gọng kìm, triệt giao thông tiếp tế địch. Bộ Tổng chỉ huy sáng tạo phiên chế bộ đội thành 30 đại đội độc lập đưa về các địa phương phát động chiến tranh du kích và xây dựng cơ sở, 18 tiểu đoàn tập trung dựa vào phong trào chiến tranh du kích đánh những trận quy mô nhỏ. Cách đánh đó cùng phong trào làm "vườn không, nhà trống" của đồng bào khiến quân địch đi đến đâu cũng bị đánh, sinh lực hao mòn, tiếp tế khốn đốn. Khe Lau, Khoan Bộ, Đoan Hùng, Bông Lau, Chợ Đồn, Chợ Mới, v.v... là những nơi quân Pháp bị đòn đau. Suốt một tháng rưỡi quân Pháp tìm cơ quan đầu não của ta thì không thấy, tìm chủ lực Việt Minh để giao chiến thì không gặp, tổ chức chiếm đóng khó khăn ngày một tăng, rút quân thì mục tiêu chưa đạt. Thật là tiến thoái lưỡng nan.


Cuối tháng 11-1947, quân Pháp chuyển sang bước hai chiến dịch với cuộc hành quân Xanh-tuya1 (Ceinture: Vành đai), kết hợp càn quét phía Đông đường số 3 và rút quân. Không để lỡ thời cơ diệt địch, trên đường thuỷ chúng bị đánh ở La Hoàng, Phan Lương; đường bộ, chúng tổn thất nặng ở Phủ Thông, Kam Tra, Lục Rã, Đại Từ, Phục Linh, Yên Rã...

"Xanh-tuya", chiếc vành đai không "xiết chặt" lại được như tham vọng của Bộ chỉ huy Pháp mà bị cắt vụn thành nhiều khúc.

Ngày 19 tháng 12 năm 1947, đúng một năm sau ngày Toàn quốc kháng chiến, đại bộ phận quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc. Đây là thất bại về chiến lược của Pháp. Chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh” nhằm đè bẹp đối phương, dựng chính quyền tay sai, hoàn toàn bị phá sản. "Đòn quyết định" không quyết định được gì. Từ đây, thực dân Pháp buộc phải theo đuổi một cách bị động cuộc chiến tranh kéo dài này.


Với thắng lợi của chiến dịch phản công Việt Bắc1 (Trước đây, cuộc chiến đấu kể trên được gọi là cuộc phản công. Những năm gần đây, giới khoa học quân sự thống nhất rằng nó hội đủ yếu tố của chiến dịch phản công), quân và dân ta đã bảo vệ an toàn, chu đáo cơ quan đầu não kháng chiến của cả nước, bảo tồn được chủ lực, đánh bại một chiến lược chiến tranh của đối phương.

Thắng lợi Việt Bắc làm tăng thêm lòng tin của toàn dân vào kháng chiến và tạo đà cho những thắng lợi mới.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #33 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2021, 09:34:34 am »

b) Phát triển chiến tranh du kích, từng bước tiến lên vận động chiến, bước đầu đánh bại âm mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh của địch (1948-1950)

Trong những năm 1948-1949, tình hình quốc tế tiếp tục chuyển biến, có ảnh hưởng nhất định tới cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

Liên Xô đạt những thành tựu mới trong phục hồi và phát triển kinh tế và thử thành công bom nguyên tử (9- 1945). Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Phi, châu Á, Trung Cận Đông. Kế hoạch Mác-san vực châu Âu dậy và làm cho châu lục này lệ thuộc Mỹ. Tại Pháp, khủng hoảng chính trị kéo dài và bế tắc vể nhiều mặt; thất bại bước đầu ở Đông Dương càng làm cho khó khăn của giới cầm quyển tăng thêm. Tính đến đầu năm 1949, Chính phủ Pháp đã bị đổ tới 8 lần.


Ở Đông Dương, quân số Pháp thiếu hụt nghiêm trọng. Mâu thuẫn giữa tập trung quân để có lực lượng cơ động với phân tán giữ đất trở nên gay gắt. Họ buộc phải chuyển từ đánh nhanh thắng nhanh sang đánh kéo dài, quay về bình định vùng tạm chiếm và lấn chiếm vùng tự do của ta. Pháp đưa Bảo Đại về nước xúc tiến việc lập ngụy quyền trung ương; chia rẽ khối đoàn kết dân tộc bằng việc lập các xứ Thái, Mường... tự trị, lôi kéo và sử dụng giáo phái. Pháp tăng quân ngụy từ 25.000 (1947) lên 80.000 vào năm 1948...


Ta tăng cường đưa lực lượng vào vùng địch kiểm soát. Từ Liên khu V trở ra, 103 đại đội độc lập và hàng trăm đội vũ trang tuyên truyền tiến vào địch hậu. Nhiều căn cứ du kích được thành lập, nhiều làng chiến đấu xuất hiện: Cự Nẫm, Cảnh Dương (Quảng Bình), Xi-tơ (Tây Nguyên), Vật Lại (Sơn Tây), Đình Bảng (Bắc Ninh), v.v... Cuối năm 1948, có lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân ở nhiều nơi, nhất là đồng bằng Bắc Bộ, đồng loạt nổi dậy phá chính quyền địch - tổng phá tề. Chủ trương "biến hậu phương địch thành tiền phương ta" đang thành hiện thực.


Tháng 5 năm 1949, Rơ-ve, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp được phái sang Đông Dương nghiên cứu tình hình, tìm cách đối phó, tháo gỡ khó khăn. Rơ-ve chủ trương giữ vững Bắc Bộ, phát triển ngụy quân, xây dựng ngụy quyền và đánh phá ta toàn diện. Kế hoạch Rơ-ve được Mỹ thông qua và cung cấp viện trợ, đánh dấu bắt đầu sự can thiệp của Mỹ vào chiến tranh Đông Dương.


Để đưa cuộc kháng chiến tiến tới, nhiệm vụ cấp bách của ta là phải hoàn chỉnh lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhằm tiếp tục phát triển chiến tranh du kích đồng thời đẩy vận động chiến từ quy mô nhỏ lên quy mô ngày càng lớn. Tháng 4 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương. Tháng 11, Người ra sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Ba thứ quân hình thành hoàn chỉnh: dân quân du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Đến đây, tổng số quân đội ta là 230.000 người.


Nhằm tạo thêm lực cho kháng chiến, ngày 11 tháng 6 năm 1948, nhân kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc. Phong trào quần chúng có ý nghĩa chiến lược này được hưởng ứng rộng rãi và thu những kết quả lớn cả về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hoá.


Về đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta coi trọng xây dựng quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Đông Dương, với nước láng giềng Trung Quốc và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, trong tinh thần "Giúp nhân dân nước bạn là tự giúp mình".


Tháng 3 năm 1949, đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc sang Việt Nam đề nghị cho lực lượng sang giúp xây dựng, củng cố biên khu Việt Quế và Điền Quế1 (Việt Quế: khu biên giới Quảng Đông - Quảng Tây; Điền Quế: khu biên giới Vân Nam - Quảng Tây). Sau 5 tháng hành quân, chiến đấu bộ đội ta đã góp phần cùng Bạn mở rộng và nối liền căn cứ địa trong khu Thập Vạn Đại Sơn và rút về nước để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân địa phương.


Nhân dân tạ cũng nhận được sự cổ vũ mạnh mẽ của nhân dân châu Á và thế giới, đặc biệt là nhân dân Pháp, ở Pháp, nhiều cuộc mít tinh lớn phản đối "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" của thực dân Pháp đã diễn ra. Ray-mông Điêng nằm chắn ngang đường sắt ở nhà ga Tua, ngăn xe lửa chở vũ khí xuống tàu sang Việt Nam. Hăng-ri Mác-tanh bền bỉ vận động thuỷ binh và công nhân phản chiến.


Cuối năm 1949 đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Trung Quốc, Liên Xô, Hung-ga-ri tranh thủ sự ủng hộ của bầu bạn quốc tế. Đầu năm 1950 lần lượt các chính phủ Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ Đông Âu và Triều Tiến công nhận chính phủ ta.


Yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến là phải đánh thắng một trận lớn, mở thông biên giới, phá thế bao vây của địch, giành quyền chủ động trên chiến trường chính.

Lần đầu tiên ta huy động một lực lượng lớn bộ đội chủ lực (thuộc Bộ) và lực lượng địa phương, 12 vạn dân công Việt Bắc tham gia chiến dịch. Viện trợ của nước bạn cũng là nguồn cung cấp quan trọng cho chiến dịch1 (Theo thỏa thuận giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô trong chuyến thăm kể trên, riêng năm 1950 ta nhận được 3.983 tấn hàng viện trợ, trong đó có 1.020 tấn vũ khí, 30 xe vận tải Mô-lô-tô-va, 2.634 tấn gạo... (xem TL lưu Tổng cục Hậu cần, cặp số 20, 21)). Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ chiến dịch; Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Trần Đăng Ninh trực tiếp phụ trách bộ máy hậu cần chiến dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thị sát mặt trận.


Ngày 16 tháng 9 năm 1950, trận đánh Đông Khê, mở màn Chiến dịch Biên giới, bắt đầu. Sau 2 ngày ta hạ đồn Đông Khê. Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Quân Pháp bị đòn trúng huyệt phát sinh phản ứng dây chuyền: Lạng Sơn, Hà Nội, Sài Gòn và cả Pa-ri bàng hoàng, lo sợ.


Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương Các-păng-chi-ê quyết định rút quân khỏi Cao Bằng. Trung tá Lơ Pa-giơ được lệnh đưa quân từ Thất Khê chiếm lại Đông Khê làm bàn đạp đón quân của trung tá Sác-tông từ Cao Bằng rút về. Đồng thời, địch mở cuộc hành quân Phô-cơ (Phoque - Hải Cẩu) đánh lên thủ đô kháng chiến Thái Nguyên nhằm kéo chủ lực ta về đó, giảm sức ép ở Biên Giới.


Trong khi lực lượng tại chỗ đối phó với Phô-cơ, ở Biên Giới, ta đánh địch suốt dọc phía Tây đường số 4. Khu vực Cốc Xá và điểm cao 477 là những nơi diễn ra các trận tiêu biểu. Sáng 7 tháng 10, binh đoàn ứng cứu tinh nhuệ địch gồm 1.200 tên, có cả Lơ Pa-giơ bị bắt sống. Buổi chiều cùng ngày, binh đoàn Sác-tông cũng bị xoá sổ, 577 tên bị diệt và bị thương, 1.386 tên bị bắt sống.


Toàn vùng biên giới rung chuyển, tư tưởng thất bại lan tràn trong quân Pháp. Chúng hốt hoảng rút khỏi Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Lộc Bình và Đình Lập. Hệ thống phòng thủ đường số 4 được xây dựng trong nhiều năm bị phá vỡ chỉ trong gần một tháng.

Qua 29 ngày chiến đấu, ta diệt và bắt sống 8.300 tên địch, thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập.

Thắng lợi của chiến dịch Biên Giới mở ra bước ngoặt chuyển cuộc kháng chiến từ hình thái chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, kết hợp giữa chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở trình độ cao hơn. Từ đây ta phát huy quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính, liên tục tiến công và phản công địch. Từ đây, giao thông quốc tế được mở, kháng chiến thoát khỏi vòng vây của địch, liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ và Liên khu 4 trở nên thông suốt.


Chiến thắng Biên Giới là bước phát triển nhảy vọt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, là cơ sở để quân và dân ta tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn nữa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #34 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2021, 09:35:51 am »

c) Phát triển tiến công và phản công (1951-1952)

Đến 1951, năm thứ sáu của cuộc kháng chiến, thế và lực của chiến tranh nhân dân có sự phát triển vượt bậc và tình hình chung cũng có nhiều biến đổi. Lực lượng vũ trang ba thứ quân được xây dựng hoàn chỉnh, có khả năng tiêu diệt bộ phận sinh lực quan trọng của địch; ta đã có những vùng giải phóng rộng lớn lại mở được cửa thông thương quốc tế. Tuy vậy thực dân Pháp vẫn nỗ lực tăng cường chiến tranh và Mỹ, qua việc giúp Pháp đã can thiệp sâu vào Đông Dương gây cho nhân dân ta nhiều khó khăn, phức tạp. Đại hội đại biểu lần thứ hai Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp từ ngày 11 đến 19 tháng 2 năm 1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang nhằm đưa kháng chiến tiến tới, trong tình hình mới.


Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam và thông qua Chính cương, Điều lệ, Tuyên ngôn của Đảng. Lào và Cam-pu-chia sẽ thành lập các đảng cách mạng phù hợp với hoàn cảnh mỗi nước. Đại hội lần này là Đại hội kháng chiến. Trong nhiều nhiệm vụ của Đảng thì hàng đầu, cấp bách là đưa kháng chiến đến thắng lợi.


Về phía Pháp, nhận rõ tình hình xấu đi một cách nghiêm trọng, đặc biệt sau thất bại thảm hại ở Biên Giới, ngày 6 tháng 12 năm 1950 Chính phủ Pháp đã cử Đại tướng Đò Lát đờ Tát-xi-nhi, người ”có tài năng và uy tín nhất" của Pháp lúc đó, làm Cao uỷ và Tổng tư lệnh ở Đông Dương. Đờ Lát vạch kế hoạch ưu tiên củng cố lại quân đội viễn chinh Pháp và xây dựng quân đội quốc gia ngụy, tăng cường quân cơ động và lập một tuyến phòng thủ vững chắc bảo vệ trung du và đồng bằng Bắc Bộ, đẩy mạnh việc bình định vùng kiểm soát, sử dụng có hiệu quả viện trợ Mỹ, chuẩn bị mọi điều kiện sẵn sàng phản công giành lại quyển chủ động chiến lược.

Vừa chân ướt chân ráo tới Việt Nam, Đờ Lát đã phải lao vào đối phó với cuộc tiến công mới của quân dân ta trên hướng trung du và đồng bằng Bắc Bộ.


Chiến dịch Trần Hưng Đạo được mở từ 25 tháng 12 năm 1950 và kết thúc ngày 18 tháng 1 năm 1951 đánh vào phòng tuyến quân Pháp từ Đông Việt Trì, Vĩnh Yên, Phúc Yên đến Tây sông Cầu. Ở vùng duyên hải Đông Bắc và đồng bằng sông Hồng ta tổ chức hoạt động tác chiến phối hợp. Đợt một chiến dịch, ta chặn đánh cuộc hành quân Bê-cát-xin của Pháp ở Xuân Trạch - Liễu Sơn, buộc chúng phải co về thị xã Vĩnh Yên; đồng thời vận động từ xa đến tiến công các cứ điểm Hữu Bằng, Tú Tạo, Yên Phục, Thằn Lằn... Ta đánh các cứ điểm Chợ Thá, Chợ Vàng không thành công, bị tổn thất. Đợt hai, ta tiến hành đánh điểm diệt viện, tiến công cứ điểm Ba Huyện và chặn quân ứng cứu ở Thanh Vân - Đạo Tú, truy kích địch tới thị xã Vĩnh Yên. Pháp đổ quân ứng cứu, hai bên giành giật từng điểm cao ở khu vực núi Đanh. Sau gần một tháng chiến đấu quyết liệt, ta không còn lực lượng dự bị để phát triển, chiến dịch kết thúc. Ta loại khỏi vòng chiến đấu 5.000 tên địch, giải phóng vùng bắc Vĩnh Yên và một phần Phúc Yên.


Tiếp đó, chiến dịch Hoàng Hoa Thám được mở từ 22 tháng 3 đến 7 tháng 4 năm 1951, đánh vào phòng tuyến Trung du của quân Pháp trên đường 18, từ Phả Lại đến Uông Bí. Thực hiện đánh điểm diệt viện, ta tiến công 4 cứ điểm nhỏ ở Bắc Uông Bí là Lán Tháp, Lọc Nước, Máy Nước và Sống Trâu để nhử viện. Chờ 3 ngày địch không ra, ta tiếp tục diệt các cứ điểm Bí Chợ, Tràng Bạch và chuẩn bị tiến công Uông Bí. Quân địch ở Uông Bí rút chạy về Quảng Yên, chúng chạy thoát. Ta đánh vào Mạo Khê mỏ và Mạo Khê phố đều không thành công và bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt viện. Ta lại đánh vào các cứ điểm ở Đông Bắc Phả Lại: Bãi Thảo, Bến Tắm, Hoàng Gián và Hạ Chiểu đều không đạt kết quả. Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.300 địch, ta cũng bị thương vong nhiều và mục tiêu chiến dịch đạt thấp.


Từ ngày 25 tháng 5 đến 20 tháng 6 năm 1951, ta mở chiến dịch Hà Nam Ninh đánh vào phòng tuyến sông Đáy của địch, từ nam Phủ Lý (Hà Nam) đến Yên Mô (Ninh Bình). Đợt 1 chiến dịch, trên hướng chính Ninh Bình, ta diệt địch ở nhà thờ Đại Phong và các cứ điểm Non Nước, Gối Hạc và đánh vào nhiều cứ điểm nhỏ khác. Tại hướng Nam Hà Đông, ta diệt đồn Võ Giàng, đánh viện trên đoạn Đoan Vỹ - Mai Cầu - Kinh Đông. Nhiều cứ điểm ta đánh không thành công, bị tổn thất như Lan Khê, Chùa Cao, Kỳ Cầu và Hưng Công. Quân Pháp dùng lực lượng không quân và pháo binh mạnh hỗ trợ, từ Nam Định phản kích chiếm lại thị xã Ninh Bình và tăng cường phòng thủ các vị trí. Đợt hai, ta đánh cứ điểm Chùa Cao, vẫn không thành công; đánh các cứ điểm Cầu Bút, Ngọc Cầm, không diệt gọn. Chiến dịch kết thúc, địch bị loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 4.000 tên, song ta cũng bị thương vong lớn và chiến dịch đạt hiệu quả thấp.


Trong cả 3 chiến dịch kể trên, ta chỉ thu được kết quả hạn chế. Địch bị thiệt hại nặng, nhưng ta cũng bị tiếu hao lớn. "Nhìn chung các chiến dịch trên không đạt mục đích chiến lược”1 (Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị, tài liệu đã dẫn, tr. 178) và trong không ít trận chiến đấu, có đơn vị chẳng những không tiêu diệt được địch, mà trái lại còn bị tổn thất nặng nề. Tuy có buộc địch phải bị động đối phó, song sức chiến đấu của bộ đội ta cũng bị giảm sút và không phát huy được thế chủ động chiến lược giành được từ chiến dịch Biên Giới. Nguyên nhân chính "là do ta chủ quan, đánh giá không đúng tình hình so sánh lực lượng địch, ta ở địa bàn chiến lược (trung du và đồng bằng)"2 (Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị, tài liệu đã dẫn, tr. 178), tức là chọn hướng chiến dịch tiến công không phù hợp.

Vừa liên tiếp mở các chiến dịch tiến công, ta vừa tiếp tục xây dựng hậu phương, căn cứ địa và phát triển chiến đấu ở vùng sau lưng địch.

Qua 5 năm kháng chiến, hậu phương ta đã mở rộng từ Liên khu Việt Bắc nối thông xuống Liên khu 3, vào Liên khu 4 tạo thành vùng tự do liên hoàn, ở Nam Trung Bộ, nửa tỉnh Quảng Nam và các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên là vùng tự do cùng các căn cứ Ba Tơ, Trà Bồng, Di Lăng, Minh Long, Bác Ái, Sơn Hà tạo thành hậu phương trực tiếp của chiền trường Liên khu 5 và một phần cho Nam Bộ. Các chiến khu Đ, Đồng Tháp, Dương Minh Châu, U Minh của Nam Bộ vẫn giữ vững.


Nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của cuộc kháng chiến, Chính phủ liên tiếp phát động các cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Liên khu 5 vẫn giữ được tuyến đường sắt dài 300 ki-lô-mét và 150 ki-lô-mét đường ô tô phục vụ chiến đấu và xây dựng. Bộ đội ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Hạ Lào, Đông và Tây Nam Bộ tự túc được một phần lương thực, có kế hoạch mùa mưa sản xuất, mùa khô đi chiến đấu. Nhiều địa phương tiến hành tạm cấp đất công, đất vắng chủ, ruộng đất cửa địa chủ gian ác cho dân cày.


Chính phủ còn chấn chỉnh lại chế độ thuế khoá, tài chính, xây dựng các ngành thương nghiệp, ngân hàng. Năm 1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập, ông Nguyễn Lương Bằng làm Tổng giám đốc. Ngày 10 tháng 6 năm 1951, Chính phủ phát hành giấy bạc "Ngân hàng Việt Nam". Ngân hàng ra đời và giấy bạc được phát hành khẳng định nền tài chính của một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, khó khăn của hậu phương, căn cứ còn nhiều bởi kinh tế thấp kém, chưa đáp ứng yêu cầu ngày một cao của chiến tranh.


Bộ máy chính quyền được chấn chỉnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán và chỉ đạo uốn nắn, xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ có hành động sai trái trong khi thi hành chủ trương Tổng động viên, thực hiện cải cách dân chủ hoặc có hành vi tham ô, lãng phí, quan liêu, mệnh lệnh. Toà án nhân dân các cấp đã xét xử hàng chục cán bộ, nhân viên vi phạm tài sản quân đội, cách chức chủ tịch một số thị xã, thị trấn lợi dụng chức quyền chiếm đoạt của công. Trung ương Cục miền Nam phê phán và xử lý kỷ luật nghiêm khắc đối với Bí thư tỉnh uỷ và Chủ tịch Ủy ban kháng chiến một tỉnh vì đã có những chủ trương sai, khiến nhân dân oán thán.


Trong khi đó quân Pháp đẩy mạnh chiến tranh tổng lực, đánh phá dữ dội cơ sở ta ở vùng tạm chiếm, giành giật nhân lực, vật lực ném vào công cuộc xâm lược. Họ tổ chức nhiều cuộc hành quân quy mô lớn đánh vào Vĩnh Bảo (Kiến An), Ninh Giang, Tiên Lữ, Phù Cừ (Hưng Yên), Thanh Miện, Bình Giang (Hải Dương), Tiền Hải, Kiến Xương, Tiên Hưng, Duyên Hà (Thái Bình), Bình Lục, Lý Nhân (Hà Nam), Vụ Bản, Ý Yên (Nam Định), v.v... Qua đó, địch biến nhiều căn cứ du kích, khu du kích thành vùng tạm bị chiếm. Hàng trăm, hàng ngàn vị trí giăng kín các làng xã, thôn xóm, trên các trục đường giao thông, kể cả các trục đường liên huyện, liên xã. Hội tề mọc lại ở khắp nơi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #35 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2021, 09:36:39 am »

Trên chiến trường Nam Trung Bộ, hơn 100 tháp canh kiểu Đờ La-tua được dựng lên. Thường xuyên các đội quân cơ động ứng chiến của địch từ 400 đến 800 tên càn đi, quét lại vùng tạm chiếm và khu du kích, vơ vét tài sản và khủng bố kháng chiến. Ở Khánh Hoà, ta chỉ còn nắm được 9.000 trên 18.000 dân; ở Ninh Thuận, số đó là 10.000 trên 12.0000 dân; còn ở Bình Thuận ta chỉ nắm được 40.000 trên 950.000 dân.


Ở Nam Bộ, đi đối với chính sách kìm kẹp và cướp đoạt, quân Pháp và tay sai ra sức lợi dụng các tôn giáo để mê hoặc lôi kéo quần chúng. Bằng nhiều thủ đoạn, đến tháng 10-1951, chúng đã bắt hàng vạn thanh niên vào lính, xây dựng được 68 tiểu đoàn. Để phá âm mưu địch, ta đẩy mạnh hoạt động du kích. Theo chủ trương của Trung ương Cục miền Nam, các tỉnh thành đều đưa thêm cán bộ, các đội vũ trang tuyên truyền về các địa bàn trọng yếu, vào sâu vùng địch hậu tuyên truyền, địch vận gây được nhiều cơ sở mới.


Tại Sài Gòn, công nhân và đồng bào các tầng lớp đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, hoạt động phối hợp với chiến trường cả nước. Công nhân hãng CARIC bãi công. Các xí nghiệp PACL, Ep-phen, Soa May, Mi-tắc hưởng ứng. Từ tháng 3 năm 1951, công nhân hãng DIT đấu tranh suốt 1 tháng rưỡi, được đồng bào các giới ủng hộ, chủ hãng phải đáp ứng yêu sách. Sau lễ truy điệu Trần Văn Ơn (1-1951), nhiều cuộc đấu tranh ở hãng MIC, ga-ra Ô-lem-pic, trước trường Pê-tơ-ruýt Ký... đã nổ ra. Công nhân các đồn điền Lộc Ninh, Bình Thạnh, Xa Cam, Xa Cát, Mi Mốt bất chấp sự kìm kẹp của địch, giữ vững phong trào đấu tranh, lúc âm ỉ, khi quyết liệt đòi làm 8 giờ một ngày, đòi tăng lương, đòi được bán gạo tốt... Bộ đội Nam Bộ đã tăng cường hoạt động hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của đồng bào: Ta mở các chiến dịch Long Châu Hà (tháng 2 và 3 năm 1951), đánh địch ở Phú Châu (3-1951). Tại Sóc Trăng, trung đội "chiến sĩ hoà bình" (gồm binh lính Âu Phi phản chiến, bỏ ngũ sang phía ta) cùng bộ đội Việt Nam đánh nhiều trận.


Phong trào đấu tranh ở vùng tạm chiếm dần dần hồi phục. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ hai (10-1951) chủ trương chia vùng sau lưng địch thành vùng tạm chiếm và vùng du kích. Vùng tạm chiếm lấy xây dựng cơ sở, đấu tranh chính trị và kinh tế làm chính; vùng du kích lấy đấu tranh vũ trang làm chính, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và kinh tế.


Cuối năm 1951, áp lực về nhiều mặt lại đè nặng lên chính phủ Pháp ở Đông Dương, quân viễn chinh và "quân đội quốc gia" đều tăng, tướng Đờ Lát vẫn chưa làm thay đổi tình thế trên chiến trường. Cùng gánh nặng chiến tranh ở thuộc địa, việc Pháp phải góp 10 sư đoàn cho khối Bắc Đại Tây Dương càng làm cho tình hình kinh tế - xã hội của nước Pháp trở nên căng thẳng.


Để giành lại quyền chủ động trên chiến trường Bắc Bộ, xoay chuyển tình thế cuộc chiến, Bộ chỉ huy Pháp chủ trương một trận đánh có tính chất chiến lược. Hoà Bình1 (Hòa Bình nằm ngoài tuyến phòng thủ boong-ke xây dựng theo kế hoạch Đờ Lát, hoàn thành cuối năm 1951. Tuyến phòng thủ: Hòn Gai, Đông Triều, Lục Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh qua Phúc Yên, Vĩnh Yên, Sơn Tây, Hà Đông đến Ninh Bình, có 80 vị trí với 8000 lô cốt) được chọn làm điểm quyết chiến. Đờ Lát hy vọng với nơi đây, có thể ngăn chặn giao thông của kháng chiến từ Bắc vào Nam, buộc chủ lực đối phương phải giao chiến qua đó giành một thắng lợi quân sự, chính trị vang dội, ổn định tình hình ngụy quân, dựng lại Xứ Mường tự trị ở tỉnh Hoà Bình.


Ngày 14 và 15 tháng 11 năm 1951, gần 30 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh và các đơn vị kỹ thuật tiến ra chiếm đóng các vị trí then chốt trong khu vực Chợ Bến, Hoà Bình - đường số 6, sông Đà - Ba Vì.

Ta quyết định đánh địch ở Hoà Bình. Trong thư gửi cho bộ đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Trước kia ta phải lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất tốt cho ta"1 (Hồ Chí Minh: Với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr.188).


Chiến dịch Hoà Bình bắt đầu ngày 10 tháng 12 năm 1951. Các đại đoàn 308, 312, 304, 351 và lực lượng vũ trang địa phương đánh địch ở phía trước; các đại đoàn 316 và 320 tiến sâu vào địch hậu đồng bằng Bắc Bộ hoạt động. Đợt 1, ta tập trung đột phá tuyến sông Đà, đánh giao thông tiếp tế trên đường số 6, phá càn ở Ba Vì và đánh diệt cứ điểm Tu Vũ. Đợt 2, tiếp tục đánh địch trên sông Đà, Ba Vì, diệt các cứ điểm 600, 400 và 165. Quân Pháp phải tăng viện cho đường 6, bảo vệ thị xã Hoà Bình. Đợt 3, hướng tiến công chủ yếu của ta là đường số 6, đánh địch rút chạy khỏi Hoà Bình. Trận đánh cứ điểm Pheo và Đầm Huống không thành công. Ngày 25 tháng 2 năm 1952, phần lớn quân Pháp chạy thoát về Xuân Mai. Chiến dịch kết thúc, khoảng 6.000 địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, 9 máy bay bị bắn rơi, 18 tàu xuồng chìm, 12 xe tăng bị phá. Ở mặt trận sau lưng địch, ta diệt 15.000 tên, bức hàng bức rút hơn 1.000 đồn bốt, tháp canh, giải phóng 2 triệu dân.


Chiến dịch Hoà Bình chấm dứt thời kỳ địch có thể dễ dàng mở các cuộc hành quân đánh chiếm sâu vào vùng giải phóng, đồng thời mở ra khu du kích liên hoàn ở các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ, giáng đòn đau vào chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch. Sau khi củng cố hậu phương, thực hiện bước đầu chính sách ruộng đất, Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch Tây Bắc. Đây là nơi địch yếu, sơ hở, nhưng lại là nơi hiểm yếu. Sau gần 2 tháng đánh địch (14 tháng 10 đến 10-12-1952), với những trận lớn như đánh tập đoàn cứ điểm Nà sản, Chân Mộng - Trạm Thản... ta diệt và bắt khoảng 10.000 quân địch, giải phóng gần 30.000 ki-lô-mét vuông với 250.000 dân. Âm mưu của Pháp chia rẽ khối đoàn kết dân tộc bằng Xứ Thái, Xứ Nùng "tự trị" phá sản. Vùng giải phóng Tây Bắc nối liền với Việt Bắc và Thượng Lào tạo thế liên hoàn có lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân Lào.


Đầu năm 1953, thiết thực giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Lào, đồng thời củng cố vững chắc vùng giải phóng Tây Bắc, ta đã phối hợp với Quân giải phóng Lào mở chiến dịch Thượng Lào trên địa bàn Sầm Nưa, Xiêng Khoảng. Liên quân Lâo - Việt diệt 3 tiểu đoàn và 11 đại đội địch, giải phóng tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa Lỳ, với diện tích 35.000 ki-lô-mét vuông và hơn 300.000 dân. Căn cứ kháng chiến được mở rộng.


Thắng lợi của các chiến dịch Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào cùng những kết quả của công cuộc xây dựng hậu phương, củng cố cơ sở và lực lượng vùng địch hậu ở cả Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ khiến cho cuộc kháng chiến của Việt Nam và các nước bạn Đông Dương có thêm điều kiện phát triển.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #36 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2021, 09:39:16 am »

d) Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954. Kháng chiến kết thúc thắng lợi

Đến mùa Xuân năm 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã bước sang năm thứ tám và thu được những thắng lợi to lớn, có tầm chiến lược.

Trong gần 8 năm đó, chiến tranh Đông Dương đã hút của nước Pháp bao nhiêu người và tiền của. Khả năng tăng viện của nước Pháp đã ở vào thời kỳ khó khăn nhất. Phía Pháp triệu hồi Xa-lăng và đưa Na-va, Tổng tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Đương sang làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Pháp và Mỹ đang tính đến một âm mưu chiến lược mới nhằm cứu vãn tình thế nguy ngập.


Một hình thái chiến trường mới được xác lập. Tại Bắc Bộ, vùng tự do bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi rộng lớn ở miền Bắc, Tây Bắc (trừ thị xã Lai Châu và Nà Sản vẫn do địch chiếm) và tỉnh Hoà Bình; vùng tạm bị chiếm thu hẹp lại trong phạm vi các tỉnh trung du, đồng bằng và duyên hải Đông Bắc. Ngay trong vùng tạm bị chiếm cũng tồn tại các vùng tự do, khu và căn cứ du kích hoặc vùng tranh chấp. Thực trạng đó được thể hiện trên tấm bản đồ của quân Pháp, trong đó vùng trắng (quân Pháp làm chủ) chỉ chiếm gần 1/4 diện tích, vùng tô hồng (hai bên tranh chấp) chiếm khoảng 1/4 đến 1/3 diện tích, vùng tô đỏ (do ta làm chủ), chiếm một nửa diện tích. Các sĩ quan tham mưu Pháp gọi đó là "bản đồ bệnh sỏi”.


Tại Trung Bộ, hai vùng tự do rộng lớn gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh (Liên khu 4) và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (Liên khu 5) ngày càng được củng cố. Tại các tỉnh khác, chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ.


Tại Nam Bộ, các căn cứ địa kháng chiến, căn cứ du kích vẫn đứng vững trước sự đánh phá của địch. Phong trào du kích lan rộng đến cả nhiều xã nằm sâu trong vùng tạm bị chiếm. Cơ sở kháng chiến được gây dựng ở khắp các vùng nông thôn, đồng bằng và trong các thành thị.


Lực lượng vũ trang ba thứ quân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Riêng bộ đội chủ lực, tiếp theo việc thành lập các đại đoàn 308, 304, 312, ta tập trung cán bộ và cơ sở vật chất xây dựng tiếp được 4 đại đoàn chủ lực: Đại đoàn 320 (2-1951), 351 (3-1951), 316 (5-1951) và đại đoàn 325 (cuối năm 1952) cùng nhiều trung đoàn, tiểu đoàn thuộc các khu. Nhớ đó, lực lượng cơ động chiến lược của ta vượt xa lực lượng cơ động chiến lược của địch.


Nhằm tăng cường bồi dưỡng sức dân, tháng 3 năm 1953, Hội đồng chính phủ thông qua các văn bản về chính sách ruộng đất và phát động quần chúng. Tháng 4, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra các sắc lệnh quy định về giảm tô. thoái tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp, việt gian phản động và lấy ruộng đất hiến, ruộng đất công để chia cho nông dân, tạm giao ruộng vắng chủ cho nông dân cày cấy không phải nộp tô; về việc trừng trị những địa chủ ngoan cố không chấp hành chính sách ruộng đất; về việc thành lập toà án nhân dân đặc biệt ở những nơi phát động quần chúng. Nhờ đó, bà con nông dân thêm tin tưởng vào chế độ mới, phấn khởi thi đua sản xuất, đóng nhanh đóng đủ thuế nông nghiệp, hăng hái đi dân công hoặc tình nguyện tòng quân giết giặc. Các chính sách đó đã động viên mạnh mẽ bộ đội ngoài tiền tuyến.


Kháng chiến càng phát triển thì quân Pháp càng sa lầy với những khó khăn gay gắt khó bề giải quyết: khủng hoảng chính trị, nội các thứ 18 có nguy cơ bị đổ, tài chính và nhân lực không có nguồn bổ sung. Trong khi đó Mỹ ngày càng dấn sâu vào Đông Dương chờ cơ hội hất cẳng Pháp.


Tháng 7 năm 1953, Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua kế hoạch mang tên Na-va, bản kế hoạch có tham vọng và được bảo đảm về chính trị cùng vật chất của Mỹ. Theo đó, trong chiến cuộc 1953-1954, quân Pháp phòng ngự chiến lược ở phía Bắc vĩ tuyến 18, tránh giao chiến toàn diện; thực hành tiến công ở Nam vĩ tuyến 18 nhằm bình định miền Nam và miền Trung Đông Dương, tiến công chiếm đóng vùng tự do Khu 5. Sau khi nắm trong tay ưu thế về lực lượng cơ động, từ mùa thu 1954, sẽ chuyển lên tiến công ở phía Bắc Hoành Sơn, tạo nên cục diện quân sự khiến Pháp có được một giải pháp chính trị cho cuộc chiến tranh1 (Na-va: Đông Dương hấp hối, Nxb Pơ-lông, Pa-ri, 1958).


Để đưa cuộc kháng chiến phát triển đến thắng lợi hoàn toàn, vấn đề đặt ra là phải phá cho được kế hoạch Na-va, cố gắng cao nhất của Pháp và Mỹ.

Vào cuối tháng 9 năm 1953, tại Tỉn Keo dưới chân núi Hồng, huyện Định Hoá, Thái Nguyên, thuộc căn cứ địa Việt Bắc, Bộ Chính trị đã họp bàn về nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953-1954. Quyết kế chỉ đạo quan trọng nhất là làm sao phân tán được khối chủ lực mà địch đang xây dựng và tập trung phần lớn ở đồng bằng; phải chọn hướng chiến lược địch sơ hở nhưng lại là hướng quan trọng. Sao cho quả đấm chủ lực địch mà các ngón phải duỗi ra thành bàn tay xoè. Kế hoạch được xác định là mở các hướng tiến công lên Tây Bắc; phối hợp với bạn Lào đánh vào Thượng Lào và Trung Lào; phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào và bộ đội cách mạng Cam-pu-chia đánh địch ở Hạ Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia; tiến công trên chiến trường rừng núi Tây Nguyên; đẩy mạnh chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và Cực Nam Trung Bộ.


Theo kế hoạch đã định, giữa tháng 11 năm 1953, Đại đoàn 316 tiến lên Tây Bắc, một bộ phận của các đại đoàn 325 và 304 tiến sang Trung Lào.

Được tin chủ lực ta tiến lên Tây Bắc, Na-va lập tức cho quân chiếm Điện Biên Phủ và điều lực lượng ở Bắc Bộ sang đứng chân ở biên giới miền Trung Việt-Lào.

Vậy là, tình huống chiến lược mới đã xuất hiện: một bộ phận địch bị điều lên Điện Biên Phủ, bộ phận khác sang Trung Lào. Bộ Tổng tư lệnh nhận định: địch phải phân tán quân cơ động lên Điện Biên Phủ nhằm giữ Tây Bắc và che chở cho Thượng Lào, có thể giữ chúng ở Điện Biên Phủ và mở chiến dịch ở đó.

Đại đoàn 316 được lệnh gấp rút lên Lai Châu, cắt đứt đường Lai Châu - Điện Biên Phủ. Đại đoàn 308 tiến lên Tây Bắc.

Vào hạ tuần tháng 12 năm 1953, ta giành thắng lợi giòn giã ở Trung Lào. Tháng 1 năm 1954, hướng tiến công Hạ Lào giành thắng lợi. Quân ta tiến xuống phía Nam cùng quân giải phóng Ít-xa-rắc đánh địch ở Đông Bắc Cam-pu-chia, giải phóng phần lớn Công Pông Chàm, tiến sát bờ sông Sơ Lông. Tháng 1, ta mở chiến dịch Tây Nguyên; tháng 2 quét sạch địch ở Bắc Tây Nguyên. Quân Pháp mở chiến dịch Át-lăng đánh chiếm Tuy Hoà (Phú Yên) và bị giam một lực lượng lớn tại đó.


Tại đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, quân và dân ta hoạt động đều khắp, kìm giữ và thu hút bộ phận lực lượng địch.

Na-va tiếp tục đổ quân lên Điện Biên Phủ và tướng lĩnh Pháp nghĩ rằng ta chưa có cách gì đánh bại được hình thức phòng ngự kiên cố và liên hoàn như ở đây. Bài học Nà Sản, Cánh Đồng Chum còn đó, mà Điện Biên Phủ, như sau này được coi là "Nà Sản luỹ thừa mười"1 (Bu-đa-ren và F.Ca-ri-ghi-ô-li: Tướng Giáp xuýt thất bại trong trận Điện Biên Phủ như thế nào, Le nouyel Obrervateuor, ngày 8-4-1983), quân đội Việt Nam cũng không thể tập trung quá 2 đại đoàn với trang bị nặng để tới vùng núi xa xôi, đường sá rất xấu này. Việc tiếp tế thì chắc chắn là bế tắc. Với kiểu tính toán trên, Na-va (và cánh diều hâu Pháp Mỹ) cho rằng Điện Biên Phủ sẽ là cái "máy nghiền", nghiền nát chủ lực Việt Minh, nếu họ muốn đọ sức ở đó. Thế là, Điện Biên Phủ trở thành trung tâm của kế hoạch Na-va một cách không tự giác, nằm ngoài dự kiến trước đó.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #37 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2021, 09:40:49 am »

Ngày 6 tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, trực tiếp làm Bí thư Đảng uỷ và Chỉ huy trưởng mặt trận. Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch Hội đồng cung cấp mặt trận trung ương. Đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách các vấn đề về đường sá và cung cấp của chiến dịch.


Với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", nhân dân ta với nỗ lực cao nhất dồn sức người, sức của cho Điện Biên Phủ. 261.464 dân công miền ngược, miền xuôi với trên 10.301.570 ngày công đã tham gia phục vụ chiến dịch. Nhiều tấm gương tiêu biểu xuất hiện: Ma Văn Thắng (Phú Thọ) thồ bằng xe đạp 352 ki-lô-gam, Cao Văn Ty (Thanh Hoá) chở 320 ki-lô-gam một chuyến, Nguyễn Văn Thành (Vĩnh Phúc), trong lần chuyển hàng đột xuất, vác được 100 ki-lô-gam... 27.000 tấn gạo được huy động cung cấp cho mặt trận, trong đó đồng bào Tây Bắc mới được giải phóng đã góp 7.300 tấn1 (Cứ 5.000 tấn gạo dân công chuyển từ Thanh Hóa lên đến Cò Nòi chỉ còn 4.000 tấn, tức là 8% tới đích. Số còn lại phải dùng ăn suốt dọc đường). Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với bộ đội công binh, mở mới và sửa chữa hàng nghìn ki-lô-mét đường.  Nhiều nhà khoa học, nhà báo, văn nghệ sĩ lên đường ra trận: Các bác sĩ nổi tiếng Tôn Thất Tùng, Vũ Đình Tụng, họa sĩ Tô Ngọc Vân (hy sinh trên đường ra trận), nhà văn Nguyễn Đình Thi, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, v.v... Các phương tiện vận tải được huy động tối đa: 628 ô tô, 11.800 thuyền bè, hơn 20.000 xe đạp thồ, 500 ngựa thồ và hàng nghìn xe trâu bò kéo.


Quá trình chuẩn bị kế hoạch tác chiến cũng là quá trình nghiên cứu xung quanh hai phương châm chỉ đạo tác chiến: một là "đánh nhanh giải quyết nhanh", hai là "đánh chắc tiến chắc”. Khi địch mới nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, chúng còn nhiều sơ hở, lực lượng mỏng, công sự lâm thời, ta chủ trương "đánh nhanh" bộ đội còn sung sức, đỡ tổn thất, giảm khó khăn về tiếp tế lương thực, đạn dược. Nhưng đến trước ngày quân ta dự định nổ súng tiến công (25 tháng 1 năm 1954), tập đoàn cứ điểm này đã được tăng cường 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, nhiều xe tăng, máy bay, ô tô... Địch bố trí thành 49 cứ điểm, khoanh thành 8 khu vực sẵn sàng chi viện, phối hợp lẫn nhau.


Những thay đổi trên khiến phương châm "đánh nhanh” không còn phù hợp. Sau quá trình tìm hiểu thực tế và suy nghĩ nung nấu, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp chủ trì cuộc họp Đảng uỷ mặt trận (26-1-1954) đã kết luận: "Để đảm bảo nguyên tắc cao nhất là "đánh chắc thắng", cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ "đánh nhanh giải quyết nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc"1 (Xem Võ Nguyên Giáp: Quyết định khó khăn nhất, báo Nhân dân chủ nhật, ngày 7 tháng 5 năm 1983, số 13). Phương châm này được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị chuẩn y. Toàn bộ công tác chuẩn bị cho chiến dịch phải làm lại.         


Quân Pháp nóng lòng chờ Việt Minh tiến công để tiêu diệt, mãi không thấy. Họ cho rải truyền đơn và dùng làn sóng vô tuyến điện truyền đi những lời khiêu khích, thách thức đối phương.

Nhưng rồi điều phải đến, cũng đã đến.

Ngày 13 tháng 3 năm 1954, ta mở đợt tiến công thứ nhất vào các cứ điểm vòng ngoài của địch ở phía Bắc và Đông Bắc. Chỉ trong 4 ngày, ta tiêu diệt cứ điểm Him Lam, Độc Lập và uy hiếp gọi hàng địch ở Bản Kéo. Chính ở Him Lam, Phan Đình Giót đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai, tạo điều kiện cho đơn vị tiến vào tung thâm. Hệ thống phòng ngự của phân khu Bắc bị đập vỡ. Pháo binh ta làm cho các trận địa pháo ở khu trung tâm bị tê liệt, 12 khẩu pháo, cối và 5 máy bay trúng đạn bị phá; viên trung tá Gô-sê cùng một số sĩ quan của phân khu Bắc bị diệt.


Đợt tiến công thứ hai bắt đầu lúc 17 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1954. Ta đánh vào các ngọn đồi phía Đông, các vị trí C1, E, D và A1. Đến 9 tháng 4, hai bên trụ bám mỗi bên một phần các ngọn đồi. Lực lượng ta bị tiêu hao, hai trung đoàn 174 và 102 bị thương vong nặng. Đạn dược còn ít, nhất là đạn lựu pháo 105 ly, đơn vị nào muốn bắn một, hai viên đều phải được phép của Tham mưu trưởng chiến dịch. Lương thực chỉ còn cho nửa tháng. Mưa gây khó khăn cho chiến đấu, sinh hoạt và tiếp tế. Ở một số đơn vị bắt đầu nảy sinh tư tưởng hữu khuynh, tiêu cực, mệt mỏi...


Ngày 19 tháng 4, Bộ Chính trị họp quyết nghị "làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này"1 (Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 19 tháng 4 năm 1954. Lưu trữ Bộ Quốc phòng, hồ sơ 173, tờ 49).

Nhiều đồng chí uỷ viên trung ương được cử ra mặt trận và về các địa phương huy động lực lượng vật chất. Bộ đội sinh hoạt chính trị khắc phục tư tưởng hữu khuynh.

Đêm 1 tháng 5 năm 1954, đợt tiến công thứ ba bắt đầu. Ta diệt địch ở vị trí C1 và nhiều vị trí khác. Vòng vây xiết chặt, ta chỉ còn cách sở chỉ huy địch 300 mét. Thấy nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, địch định tổ chức thành 3 cánh quân phá vòng vây tháo chạy sang Lào vào đêm 7 tháng 5.


18 giờ 45 phút ngày 6 tháng 5, quân ta cho nổ khối bộc phá gần một tấn tiêu diệt địch ở hầm ngầm đồi A1, cũng là hiệu lệnh tổng công kích. Ngày 7, rạng sáng, cứ điểm A1, điểm cao cuối cùng bị ta đánh chiếm. 17 giờ 30 cùng ngày, tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng toàn bộ bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống.


Sau 55 ngày đêm chiến đau, quân và dân ta đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. 16.200 tên địch (trong đó 1.766 sĩ quan và hạ sĩ quan) bị diệt và bắt sống; 57 máy bay bị bắn rơi và phá huỷ tại trận, 5 chiếc bị bắn rơi trên tuyến cung cấp mặt trận. Ta thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.


Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ đã đánh bại cố gắng chiến tranh cao nhất, cuối cùng của đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ, đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp.


Chiến thắng Điện Biên Phủ làm cho thế và lực của quân và dân ta được tích luỹ trong 9 năm kháng chiến phát triển lên nhiều, ta nắm quyền chủ động chiến trường yà đang ở giai đoạn phản công.


Tuy vậy, do chiến tranh ác liệt kéo dài, kinh tế nước ta chưa phát triển, viện trợ của Trung Quốc và Liên Xô chiếm tỷ trọng không lớn1 (Hồ sơ viện trợ quốc tế, lưu trữ Tổng cục Hậu cần, cặp số 20, 21 ghi rõ: Năm 1950 Việt Nam nhận được viện trợ quốc tế 3.983 tấn hàng, bằng 18,5% tổng số vật chất mà bộ đội Việt Nam sử dụng; năm 1951: 6.086 tấn (28,3%); năm 1952: 2.160 (10%); năm 1953: 4.400 tấn (20,5%); cả năm 1954: 4.892 tấn (22,7%). Theo so sánh của Phrăng-xoa Gioay-ô trong cuốn "Những người lính da trắng của Hồ Chí Minh" thì viện trợ quốc tế cho Việt Nam so với viện trợ Mỹ cho Pháp từ năm 1950 đến 1953 chỉ bằng 7,2%; so với viện trợ của Mỹ cho Pháp năm 1954 (400 triệu đôla), chỉ bằng 8,5%), việc bồi dưỡng sức dân, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, tự lực tự cường đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, đặt ra những yêu cầu mới. Nhìn chung toàn chiến trường ta chưa đủ sức áp đảo so với địch.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #38 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2021, 09:42:01 am »

Về phía Pháp, chiến tranh gây tổn thất và thương vong lớn, nhiều kế hoạch quân sự - chính trị bị phá sản; phong trào nhân dân Pháp đòi chấm dứt chiến tranh dâng lên mạnh mẽ; viện trợ Mỹ tăng bao nhiêu thì sự lệ thuộc của Pháp vào Mỹ tăng bấy nhiêu. Tiếp tục chiến tranh hẳn Pháp còn thua đau. Xu hướng muốn kết thúc chiến tranh trong chính giới Pháp xuất hiện.


Thế giới có những biểu hiện về hoà dịu Đông-Tây. Cả Liên Xô và Trung Quốc đều muốn làm dịu tình hình căng thẳng, đảm bảo an ninh phát triển đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta đã phân tích tình hình và tương quan lực lượng hai bên, âm mưu mới của Pháp, Mỹ và chiến lược các nước lớn, nhận định: ”Đế quốc Mỹ... hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương"1 (Văn kiện Đảng về kháng chiến chống Pháp, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1988, tập II, tr.361). Ta chủ trương vừa đánh vừa đàm cho đến khi cuộc chiến đấu đến mức ta có ưu thế hơn địch và đạt được một thoả thuận chính trị phù hợp2 (Theo ghi chép của Phan Anh "Về Hội nghị Giơ-ne-vơ". Lưu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam). 


Ngày 8 tháng 5 năm 1954, một ngày sau khi quân Pháp thảm bại ở Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương khai mạc. Tham dự hội nghị có đại diện của 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam dân chủ cộng hoà, Pháp, Mỹ, Anh và ba đoàn của chính quyền bù nhìn Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia. Chủ trương của các đoàn Việt Nam dân chủ cộng hoà, Liên Xô, Trung Quốc, do Việt Nam đề nghị, là giải quyết toàn diện cả hai vấn đề quân sự và chính trị, giải quyết toàn bộ vấn đề ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia. Chủ trương của phía bên kia, do Pháp đề nghị, là chỉ giải quyết vấn đề quân sự và tách vấn đề Lào, Cam-pu-chia khỏi vấn đề Việt Nam. Đến phiên thứ 4, hai phía mới thoả thuận được một số điểm. Do lập trường các bên khác nhau, mỗi đế quốc có một ý đồ riêng nên đến trung tuần tháng 6 năm 1954, qua 7 phiên họp toàn thể và 16 phiên họp hẹp, hội nghị hầu như dậm chân tại chỗ. Kế đó, nhiều phiên họp hẹp và các cuộc tiếp xúc tay đôi, tay ba giữa các trưởng đoàn, các nhân vật đã diễn ra để tháo gỡ bất đồng, tìm ra mẫu số chung của các bên.


Ngày 21 tháng 7 năm 1954, lúc 3 giờ 45 phút, hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và hiệp đình đình chỉ chiến sự ở Lào và tiếp đó là ở Cam-pu-chia được ký kết. Hội nghị thông qua tuyên bố cuối cùng về việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, gồm 13 điều.


Trong số 9 đoàn tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ thì có 8 đoàn tham gia ký kết các văn kiện hội nghị, riêng đoàn Mỹ không ký mà chỉ ra một bản tuyên bố ghi nhận.

Với Hiệp định Giơ-ne-vơ, Pháp và các nước đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Ranh giới quân sự chỉ là tạm thời, không thể coi như một biên giới chính trị hoặc lãnh thổ. Giơ-ne-vơ đã đặt cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn đất nước ta. 


Thắng lợi của ta qua Hội nghị Giơ-ne-vơ là to lớn1 (Cũng có những nhận định khác nhau về thắng lợi của Hiệp định Giơ-ne-vơ, tập trung chủ yếu ở 2 khía cạnh giới tuyến quân sự tạm thời và thời hạn tổng tuyển cử. Theo Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, trong Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sơ thảo, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, tr.257 thì "Giải pháp Giơ-ne-vơ không phản ánh đầy đủ thắng lợi của nhân dân ta trên chiến trường"). Tuy nhiên, "trước bối cảnh quốc tế cực kỳ phức tạp, ta chưa thấu hiểu ý định chiến lược của bạn đồng minh trong bước cuối của cuộc hoà đàm cho nên có phần chưa phát huy được đầy đủ độc lập, tự chủ khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ"2 (Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - thắng lợi và bài học, Sđd, tr.216 và 324).


Riêng các vấn đề thuộc về Lào và Cam-pu-chia, mặc dầu Đoàn ta với quan điểm đúng và hết sức cố gắng, song kết quả thu được còn nhiều hạn chế, do "còn bị động với bối cảnh quốc tế, chưa kiên quyết đấu tranh cho lợi ích chung của cả ba nước Đông Dương"3 (Phrăng-xoa Gioay-ô, trong Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1981, cho rằng điều kiện lịch sử đã chi phối những hạn chế trên).


Từ 23 tháng 9 năm 1945 đến 21 tháng 7 năm 1954, nhân dân ta đã trải qua hơn 3.000 ngày kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, anh dũng và vô cùng tự hào với thắng lợi vĩ đại.

Trên nửa triệu quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu, khoảng 3.000 tỷ Phrăng của nước Pháp (có tài liệu đưa 3.582,4 tỷ) và 2 tỷ 600 triệu đô la Mỹ viện trợ tiêu phí vì chiến tranh; 20 lần Chính phủ Pháp bị đổ, 7 lần Cao uỷ Pháp bị thay thế, 8 Tổng chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau thua trận. Pháp buộc phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, phải rút hết quân khỏi miền Bắc nước ta. Ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp ở ba nước Đông Dương kéo dài hơn 80 năm đã chấm dứt.


Với thắng lợi của cuộc kháng chiến, nhân dân ta đã bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng tháng Tám. Chính quyền mới được bảo vệ, củng cố và phát triển. Chế độ mới, chế độ dân chủ nhân dân được xây dựng và kiện toàn, nhân dân lao động thực sự làm chủ vận mệnh của mình, mọi quyền lợi căn bản của người dân về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá được đảm bảo.


Đây là thắng lợi của ý chí và quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta vì độc lập, tự do và hoà bình. Với cuộc chiến đấu này, nhân dân Việt Nam đã tìm ra đáp số của một bài toán có tính thời đại: một dân tộc nhỏ có thể dùng chiến tranh - chiến tranh nhân dân để đánh thắng chiến tranh xâm lược của một đế quốc to.


Thắng lợi của nhân dân ta góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh vĩ đại của nhân loại tiến bộ: vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Cùng với hai nước láng giềng Lào và Cam-pu-chia, thắng lợi của nhân dân ta không những đập tan ách thống trị thực dân cũ của Pháp trên toàn cõi Đông Dương mà còn lay động mạnh mẽ và làm bùng nổ phong trào đấu tranh tự giải phóng tại nhiều khu vực trên thế giới, mở đầu sự đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên hành tinh. Như thế, nó đã góp phần tích cực làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc và thu hẹp dinh luỹ của chúng. Nó cũng góp phần thức tỉnh nhận thức và lương tri của nhiều người, kể cả nhiều nhân vật chính trị hàng đầu, về sự nghiệp và sức mạnh của các dân tộc bị áp bức. Báo Pháp viết: "Lương tri của một quốc gia cũng được rèn đúc nên trong những thất bại"1 (Nhật báo Pa-ri, ngày 7 tháng 5 năm 1984. Xem bản tin TTXVN, số 111, ngày 14-5-1984). Còn Tổng thống Pháp Mít-tơ-răng, trong chuyến thăm Việt Nam tháng 2-1993 đã phát biểu: "Cuộc chiến tranh đó (chiến tranh Đông Dương 1945-1954-TG) đối với tôi luôn luôn là một sai lầm"2 (TTXVN, Tin tham khảo, số 033, năm 1993). Thắng lợi của nhân dân ta còn tăng cường uy thế và ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội và các phong trào tiến bộ.


Như lời tổng kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 10, tr.12).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #39 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2021, 04:16:36 pm »

II - SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG VÀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ

1. Về tư tưởng quân sự

a) Chiến tranh nhân dân sáng ngời chính nghĩa

Nhân dân làm nên lịch sử. Chân lý ấy sáng ngời trong toàn bộ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Trong bất cứ thời kỳ nào của lịch sử dân tộc, nhân dân Việt Nam đã đi đến nhận thức cơ bản là mỗi khi đất nước bị xâm lăng, chỉ có chiến đấu anh dũng, bất khuất mới bảo vệ được độc lập của Tổ quốc, cuộc sống tự do của dân tộc.


Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là kế tục sự nghiệp của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và ý nghĩa, mục đích chính trị sâu sắc không những đối với dân tộc Việt Nam mà còn cả đối với nhân loại cần lao. Đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa, vì độc lập và thống nhất của dân tộc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh của các dân tộc chống thực dân, đế quốc, bảo vệ hoà bình dân chủ ở Đông Nam Á và thế giới.


Ngọn cờ chính nghĩa của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà giương lên trong cuộc chiến tranh cách mạng chống đế quốc Pháp xâm lược là một dấu hiệu tiêu biểu cho những đặc điểm của thời đại mới: thời đại chế độ thực dân và chủ nghĩa đế quốc ngày càng tan rã, thời đại các nước thuộc địa và phụ thuộc ngày càng thu được những thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh giành tự do và độc lập.


Sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các cơ quan tuyên truyền và báo chí của thực dân Pháp, ở Pháp cũng như ở Đông Dương ra sức kêu gào rằng quân đội Pháp đã bị tấn công bất ngờ, rằng Việt Nam đã gây ra chiến tranh. Đã có một quyển sách của Jean Sainteny với đầu đề "Lịch sử một nền hoà bình bị bỏ lỡ". Đó là thủ đoạn quen thuộc của những kẻ vừa ăn cướp, vừa la làng hòng trút trách nhiệm gây chiến của chúng. Nhưng sự thật hết sức sáng tỏ. Nhiều nhà nghiên cứu, cả phương Đông và phương Tây: King C.Chen, He-ri-xơn, Tôn-nét-xơn... với các cách diễn đạt khác nhau đều cho rằng thực dân Pháp là kẻ gây chiến. King C.Chen vạch rõ nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến tranh Việt - Pháp khi viết: "Việc trở lại chế độ thực dân Pháp mới là nguyên nhân căn bản của cuộc chiến"1 (King C.Chen: Việt Nam và Trung Quốc (1938-1954) Sài Gòn, Cơ sở xuất bản Sử Địa, 1973, tr.180).


Sự thật lịch sử là Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã làm hết mọi việc có thể làm để tránh chiến tranh.

Hội nghị Đà Lạt và Hội nghị Fontainebleau đều thất bại do thái độ ngoan cố của thực dân Pháp quyết duy trì những chính sách lỗi thời của chế độ thuộc địa.

Tạm ước ngày 14-9-1946 giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Marius Moutet, thay mặt chính phủ Pháp, ký chưa ráo mực đã bị phía Pháp vi phạm nghiêm trọng.

Trước tình hình đó, ngày 6-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Quốc hội và Chính phủ Pháp nhắc lại ý nguyện của nhân dân Việt Nam mong muốn hợp tác thân thiện với nhân dân Pháp và nhấn mạnh: "Tôi khẩn thiết kêu gọi Quốc hội và Chính phủ Pháp vì quyền lợi tối cao của nhân dân hai nước Việt - Pháp mà ra lệnh cho các nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam khôi phục ở Hải Phòng, Lạng Sơn tình hình trước ngày 20-11-1946 nhằm thực hiện bản Tạm ước 14-9-1946 và đặt cơ sở cho một sự hợp tác Việt - Pháp chân thành, bền vững. Chiến tranh đã làm đổ quá nhiều máu người Pháp và người Việt Nam và đã gây ra quá nhiều tai hại, tình hình đó không thể để kéo dài mãi".


Trong khi trả lời phỏng vấn của Bernard Dranber, phóng viên báo Paris - Sài Gòn ngày 7-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố thẳng thắn và kiên quyết: "Đồng bào tôi và tôi mong muốn hoà bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh và tôi biết nhân dân Pháp cũng không muốn chiến tranh. Nhưng, nếu người ta bắt buộc chúng tôi thì chúng tôi phải kháng chiến. Chúng tôi biết là nước Pháp có những phương tiện rất mạnh. Cuộc chiến đấu sẽ tàn khốc, nhưng nhân dân Việt Nam sẵn sàng chịu đựng tất cả còn hơn là mất tự do. Nhưng tôi thiết tha hy vọng và mong mỏi rằng chúng ta sẽ không đi đến giải pháp đó"1 (Philippe Devillers: histoire deu Viet Nam de 1940-1952 (Lịch sử Việt Nam từ 1940-1952) Nxb Du Seuil Paris 1952, tr.348).


Ngày 15-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho Le'on Blum, Chủ tịch Chính phủ Pháp đề nghị khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước Việt Nam và Pháp trên cơ sở tôn trọng quyền độc lập của Việt Nam và tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Sợ mất thời cơ gây chiến, bức điện của Ghủ tịch Hồ Chí Minh đã bị Cao uỷ Pháp, Đô đốc d' Argenlieu ngâm lại ở Sài Gòn mãi đến ngày 26-12-1946 mới chuyển về Pháp. Khi được tin, Chính phủ Pháp cử Moutet, Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại, sang điều tra về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố rất mong gặp ông ta để nói rõ ý muốn thành thật hoà bình của nhân dân Việt Nam, nhưng nhà lãnh đạo của Đảng xã hội Pháp đã lẩn tránh cuộc gặp đó. Thật ra, trước khi lên đường sang Việt Nam, theo sự tiết lộ của Max Andr'e trong Đại hội lần thứ ba của đảng Cộng hoà bình dân, Moutet đã chịu sức ép của Đảng này không cho bàn đến chuyện điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh2 (Philippe Devillers. Sách đã dẫn, tr.363).


Ngày 25-4-1947, sau khi Ramadier lên thay Le’on Blum làm Thủ tướng Chính phủ Pháp. Chính phủ Việt Nam đã chủ động gửi Chính phủ Pháp một bức thư đề nghị đình chiến và mở cuộc đàm phán giảng hoà giữa hai nước.


Chính phủ Pháp đã lầm tưởng đó là dấu hiệu thế yếu của Việt Nam, nên ngày 11-5-1947, tại thị xã Thái Nguyên, Cao uỷ mới của Pháp Bollaert đã cử Paul Mus, cố vấn của ông ta, đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và đưa ra những điều kiện ngang ngược không có gì khác buộc ta đầu hàng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết bác bở những điều kiện láo xược đó và trong thư gửi nhân dân Pháp, Người nói rõ: "Bọn quân phiệt, thực dân đã bắt buộc chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng".


Trong khi kiên trì thương lượng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục cho nhân dân phải chuẩn bị sẵn sàng chuyển sang chiến đấu- khi mọi khả năng hoà bình không còn nữa, trước tình hình kẻ thù ngày càng lấn tới và tỏ rõ dã tâm xâm lược nước ta, đã đến lúc nhân dân ta không thể nhân nhượng được nữa. Nhân nhượng nữa tức là từ bỏ chủ quyền của đất nước, là làm hại quyền lợi tối cao của dân tộc.


Chiến tranh nhân dân là tính chất cơ bản và cũng là đặc điểm chủ yếu nhất của cuộc kháng chiến Việt Nam. Bản chỉ thị lịch sử "Toàn dân kháng chiến" của Trung ương Đảng ngày 12-12-1946 đã đặt cơ sở cho những tư tưởng chỉ đạo, những nguyên tắc và đường lối của một cuộc chiến tranh nhân dân dựa trên truyền thống lâu đời: "cả nước đánh giặc" của dân tộc kết hợp với những quan điểm chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM