Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:16:36 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên - Quân Đoàn 3 (1964-2005)  (Đọc 7490 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #80 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2021, 10:23:28 am »

        Các trung đoàn binh chủng trực thuộc Bộ tư lệnh Quân đoàn, tuy thời gian ra đời khác nhau, nhưng đều lập nhiều thành tích trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, có truyền thống vẻ vang, vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Tây Nguyên.

    * Trung đoàn đặc công 198 (Đoàn đặc công hậu cứ) thành lập theo quyết định số 454/QĐ ngày 19 tháng 8 năm 1974 của Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Tuy mới ra đời, nhưng các phân đội trong trung đoàn đều đã chiến đấu nhiều năm trên Chiến trường Tây Nguyên, lập nhiều thành tích. Tiểu đoàn 20 (đặc công hậu cứ) trước đây là phân đội cùng tên trực thuộc B3; Tiểu đoàn 3 (đặc công hậu cứ) do Đoàn 3018 và Đại đội đặc công 19 thuộc Trung đoàn 66 hợp thành; Tiểu đoàn 37 (đặc công cơ động) vốn là đơn vị trực thuộc B3 và Sư đoàn 10, nay được bổ sung thêm Đại đội đặc công 19 Trung đoàn 24; Tiểu đoàn 33 pháo ĐKB đã chiến  đấu nhiều năm ở Tây Nguyên; Đại đội đặc công chuyên đánh trong thị xã được chuyển gọn từ Đại đội đặc công 19 Trung đoàn 28; bốn đại đội: trinh sát, thông tin, quân y, vận tải và ba ban tham mưu, chính trị, hậu cần được chuyển gọn từ các đơn vị bạn về, cán bộ, chiến sĩ có nhiều nghiệm chiến đấu công tác binh chủng. Trung đoàn 198 vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Tây Nguyên. Ban chỉ huy trung đoàn gồm các đồng chí, đại úy Trần Kình - trung đoàn trưởng, đại úy Lê Văn Tích - chính ủy.

   * Trung đoàn xe tăng 273 (Đoàn Sơn Lâm) thành lập theo quyết định số 442/QĐ ngày 3 tháng 2 năm 1973 của Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, trên cơ sở lực lượng Tiểu đoàn xe tăng 297 của B3 và hai tiểu đoàn xe  tăng (2,3) của Trung đoàn xe tăng 201 Bộ tư lệnh Thiết giáp chi viện cho Chiến trường Tây Nguyên. Tháng 9 năm 1974, Trung đoàn 273 tiếp nhận thêm Tiểu đoàn xe tăng 4 do Trung đoàn xe tăng 574 Quân khu 5 chi viện. Tuy ra đời muộn so với các trung đoàn xe tăng của các quân đoàn bạn, nhưng Trung đoàn xe tăng 273 tích cực xây dựng, trưởng thành nhanh chóng. Một lực lượng xe tăng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ phối thuộc cho Sư đoàn 320 trừng trị quân địch lấn chiếm vùng giải phóng trên hướng đường 19 tây, 5b, tiêu diệt cứ điểm Chư Nghé; tham gia đội hình Đoàn 260 tiến công làm chủ cụm cứ điểm Đắc Pét. Trong  chiến dịch Tây Nguyên, Trung đoàn 273 là lực lượng đột kích mạnh trong đội hình binh chủng hợp thành tiến công trên bốn hướng, giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Ma Thuột; sau đó cơ động về phía đông tăng cường cho Sư đoàn 10 đập tan lực lượng phản kích của địch trên đường 21, giải phóng Khánh Dương, Ninh Hòa, Nha Trang, Cam Ranh và cùng Sư đoàn 320 thần tốc truy kích địch trên đường 7, làm nên chiến thắng Cheo Reo - Củng Sơn, phát triển đánh chiếm thị xã Tuy Hòa. Khi đứng trong đội hình Quân đoàn 3, Trung đoàn 273 có 4 tiểu đoàn: 1, 2, 3, 4 và một số phân đội trực thuộc; đồng chí Lê Mai Ngọ làm trung đoàn trưởng và đồng chí Vũ Đình Tư làm chính ủy.

   * Trung đoàn pháo binh 40 thành lập theo quyết định số 18/A3 ngày 5 tháng 2 năm 1967 của Bộ tư lệnh Chiến trường Tây Nguyên. Buổi đầu thành lập, trong trung đoàn có 4 tiểu đoàn: 30 (súng máy phòng không 12,7mm), 31 (sơn pháo 75mm), 32 (cối 120mm), 34 (vận tải), 2 đại đội trinh sát, thông tin. Đây là những đơn vị đã lập nhiều chiến công xuất sắc trong những năm đầu đánh quân Mỹ ở Tây Nguyên. Ban chỉ huy trung đoàn gồm các đồng chí: Nguyễn Đức Giá - trung đoàn trưởng, Sơn Hùng - chính ủy, Nguyễn Xô và Nguyễn Thái Lai - trung đoàn phó. Từ năm 1967 đến tháng 3 năm 1975, Trung đoàn 40 vượt qua nhiều khó khăn thử thách, vừa chiến đấu vừa xây dựng, tham gia tất cả các chiến dịch và nhiều trận đánh trên chiến trường; góp phần quan trọng cùng quân và dân trên địa bàn đánh bại địch từng bước, tiến lên giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên. Do lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc, Trung đoàn pháo binh 40, Đại đội 42 súng máy phòng không (Tiểu đoàn 30) và hai đồng chí: liệt sĩ Nguyễn Hồng Quảng, Trần Phúc Yên được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Cuối tháng 3 năm l975, tổ chức biên chế của trung đoàn gồm: ban chỉ huy và 3 cơ quan, 4 tiểu đoàn pháo (1, 2, 3, 4) và các đại dội bảo đảm phục vụ. Đồng chí Nguyễn Hữu Vinh làm trung đoàn trưởng và thiếu tá Mai Sinh Giá làm chính ủy.

   * Trung đoàn pháo binh 675 (Đoàn pháo binh Anh Dũng) là trung đoàn pháo binh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, tổ chức tháng 9 năm 1950 tại Trùng Khánh (Cao Bằng) với tên gọi Trung đoàn 95,  gồm 3 tiểu đoàn sơn pháo (40, 178, 253); chính thức làm lễ thành lập ngày 20 tháng 11 năm 1950 tại bản Nà Tấu, huyện Quảng Yên (nay là huyện Quảng Hòa) tỉnh Cao Bằng với tên gọi Trung đoàn 675, gồm 6 liên đội sơn pháo 75 (751, 752, 753, 754, 755, 756). Quyền trung đoàn trưởng và chính ủy đầu tiên: đồng chí Nguyễn Thước và đồng chí Hoàng Phương. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Trung đoàn 675 tham gia các chiến dịch: Biên giới (1950); Hoàng Hoa Thám, Quang Trung (1951); Hòa Bình, Tây Bắc (1952), Thượng Lào (1953) và chiến dịch Điện Biên Phủ. Với thành tích xuất sắc, ngày 25 tháng 2 năm 1952, Trung đoàn vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng danh hiệu ''Trung đoàn pháo binh Anh Dũng''. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung đoàn tham gia các chiến dịch Khe Sanh (1968) Đường 9  Nam Lào (1971), chiến dịch bắc Tây Nguyên (1972) và chiến dịch Tây Nguyên (1975), lập nhiều chiến công. Cuối tháng 3 năm 1975, tổ chức biên chế Trung đoàn 675 gồm có: ban chỉ huy và 3 cơ quan, 4 tiểu đoàn pháo và các phân đội bảo đảm,  phục vụ; trung đoàn trưởng Trần Đình Sai, chính ủy Nguyễn Xuân Dục.

   * Trung đoàn phòng không 234 (Đoàn Tam Đảo) thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1963 tại thôn Bảo Sơn, xã Hạnh Phúc, thị xã Vĩnh Yên (theo quyết định số 01/QPQĐ ngày 5.2.1963 của Bộ Quác phòng). Khi mới thành lập, Trung đoàn 234 có 5 đại đội pháo phòng không 57mm, 1 đại đội chỉ huy và một số phân đội bảo đảm, phục vụ. Ban chỉ huy gồm các đồng chí: Trần Trung Tín - trung đoàn trưởng, Nguyễn Ruyến - chính ủy, Trần Nghị - trung đoàn phó. Mùa mưa năm 1964, Trung đoàn 234 làm nhiệm vụ quốc tế ở mặt trận Cánh Đồng Chum - Xiêng Khỏang (nước bạn Lào), bắn rơi nhiều máy bay địch, góp phần bảo vệ vùng giải phóng của bạn. Từ năm 1965 đến năm 1972, Trung đoàn cơ động chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng, phà Ghép, sân bay Sao Vàng (Thanh Hóa), thành phố Hà Nội, thị xã Nam Định, cầu Đáp Cầu (Bắc Ninh), cầu Bắc Giang, ga Đồng Mỏ (Lạng Sơn), thị xã Đồng Hới, đèo Lý Hòa (Quảng Bình). Từ tháng 2 năm 1973 đến dầu năm 1975, trung đoàn trực thuộc Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, tích cực chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh, cầu Diên Bình, đường 220, tham gia Đoàn 260 tiến công giải phóng Đắc Pét, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Tây Nguyên. Đứng trong đội hình Quân đoàn 3, Trung đoàn 234 có 3 tiểu đoàn pháo phòng không hỗn hợp (1, 2, 3), phân đội tên lửa A72, các phân đội bảo đảm phục vụ và ba cơ quan; trung đoàn trưởng Vũ Văn Lương, chính ủy Vũ Xuân Sắc.

   * Trung đoàn phòng không 593 được bổ sung cho Mặt trận Tây Nguyên cuối năm 1974, tham gia và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Tây Nguyên. Trong trung đoàn có 3 tiểu đoàn pháo phòng không hỗn hợp. Ban chỉ huy trung đoàn gồm các đồng chí: Nguyễn Duy Sơn - trung đoàn trưởng, Phạm Minh Mẫn - chính ủy.

   * Trung đoàn phòng không 232 là một đơn vị của bộ tư lệnh 559, được bổ sung cho Mặt trận Tây Nguyên đầu năm 1975, tham gia và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Tây Nguyên. Ngày 27 tháng 3 năm 1975, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam ra quyết định (số 156/QĐ-TM) điều động Trung đoàn phòng không 232 về trực thuộc Quân đoàn 3. Khi về Quân đoàn, Trung đoàn 232 có 3 tiểu đoàn pháo phòng không hỗn hợp. Ban chỉ huy trung đoàn gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Hách - trong đoàn trưởng, Trần Đình Khánh - chính ủy.

   * Trung đoàn công binh 7 (Đoàn Hùng Vương) thành lập ngày 13 tháng 12 năm 1965 tại Hà Nội, theo quyết định số 203/QĐ-QP (12.11.1965) của Bộ Quốc phòng, với tên gọi Công trường 7 trực thuộc Bộ tư lệnh Công Binh. Trung đoàn trưởng và chính ủy đầu tiên: Lê Văn Sương và Bùi Khắc Doãn. Từ tháng 4 năm 1968 đến tháng 11 năm 1971, Trung đoàn 7 thuộc Đoàn 559 và từ tháng 12 năm 1971 trực thuộc Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Trung đoàn đã mở đường, bảo đảm giao thông, tham gia chiến đấu trên các mặt trận Cánh Đồng Chum - Xiêng Khỏang (1965-1967), Trị Thiên - Huế (1967-1971); đặc biệt trong chiến dịch Khe Sanh (1968) cán bộ, chiến sĩ đã mở được 267km đường mới, bảo đảm thông đường trên 152km, gỡ nhiều bãi mìn, khắc phục chướng ngại vật bảo đảm cho bộ binh xe tăng ta chiến đấu thắng lợi. Trong hơn 3 năm ở Mặt trận Tây Nguyên (12.1971 - 3.1975), Trung đoàn 7 mở hàng trăm kilômét đường, xây dựng nhiều cầu, tổ chức các bến phà hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch bắc Tây Nguyên (1972), chiến dịch Tây Nguyên (1975) và nhiều nhiệm vụ khác. Do những thành tích đặc biệt xuất sắc, Trung đoàn 7, Đại đội 1 (Tiểu đoàn 1), Đại đội 4 (Tiểu đoàn 2) và các đồng chí Nông Văn Việt, Bùi Ngọc Dương được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Khi đứng trong đội hình Quân đoàn 3, Trung đoàn 7 có 4 tiểu đoàn (1, 2, 3, 4) và các phân đội trực thuộc khác; đồng chí Lê Hữu Công làm trung đoàn trưởng và đồng chí Đoàn Văn Khóat làm chính ủy.

   * Trung đoàn công binh 575 được bộ tư lệnh Trường Sơn quyết định thành lập tháng 1 năm 1975 để tham gia chiến dịch Tây Nguyên. Tuy mới thành lập nhưng cán bộ, chiến sĩ phát huy truyền thống của bộ đội công binh 559, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mở đường,  bảo đảm cho các đơn vị của ta tiến công và truy kích địch trên hướng tây bắc Buôn Ma Thuột và khu vực Phước An, góp phần vào thắng lợi chung. Ngày 27 tháng 3 năm 1975 Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định (số 156/QĐ-TM) điều động Trung đoàn công binh 575 về trực thuộc Quân đoàn 3.

   *Trung đoàn thông tin 29 thành lập ngày 2 tháng 9 năm 1974 theo quyết định số 441/QĐ của Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Tuy mới ra đời, nhưng các đơn vị nòng cốt (3 tiểu đoàn 26, 2, 16 trực thuộc B3 và 2 đại đội 36, 39 thuộc Phòng Tham mưu B3) hợp thành trung đoàn đều có nhiều năm làm nhiệm vụ và có nhiều thành tích, kinh nghiệm hoạt động ở Chiến trường Tây Nguyên. Cuối tháng 3  năm 1975, trong trung đoàn có 3 tiểu đoàn thông tin hỗn hợp (1, 2, 3), Đại đội 39 thông tin tiếp sức; đồng chí Lê Đức Đệ làm trung đoàn trưởng, đồng chí Đỗ Giả làm chính ủy.

   * Trường Quân chính Quân đoàn 3 thành lập ngày 20 tháng 8 năm 1966 với tên gọi Trường Huấn luyện cán bộ B3, theo quyết định (ngày 5 tháng 8 năm 1966) của Bộ tư lệnh Chiến trường Tây Nguyên. Ban đầu, tổ chức biên chế của trường gồm: ban giám hiệu, 3 ban: tham mưu, chính trị, hậu cần; 2 tổ giáo viên: quân sự, chính trị và 2 đại đội huấn luyện (gọi là lớp). Hiệu trưởng: thượng úy Hồ Bắc, chính ủy: thượng úy Đoàn Trọng Thông, hiệu phó quân sự: thượng úy Phạm Công Cửu. Với chức năng là trung tâm đào tạo bồi dưỡng cán bộ phân đội cho lực lượng vũ trang Tây Nguyên, 9 năm gian khổ trụ bám giữa lòng chiến trường bom đạn khốc liệt, vừa huấn luyện  vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu và sản xuất, nhiều lần di chuyển địa điểm, Trường Quân chính B3 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, tổ chức được 12 khóa học, đào tạo bồi dưỡng được 6.365 cán bộ sơ cấp, trung cấp cho các đơn vị bộ đội chủ lực và hơn l.000 cán bộ cho lực lượng vũ trang địa phương 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc; đồng thời tham gia nhiều chiến dịch, lập nhiều chiến công. Với thành tích xuất sắc, Trường Quân chính B3 đã được tặng 5 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất và hạng nhì. Khi đứng chân trong đội hình Quân đoàn 3, Trường Quân chính Quân đoàn gồm có: ban giám hiệu, 4 ban: huấn luyện, chính trị, hậu cần, hành quản; hai khoa giáo viên: quân sự, chính trị và 7 đại đội học viên. Hiệu trưởng: Trần Quốc Biên, chính ủy Nguyễn Minh Khang, hiệu phó Nguyễn Quốc Phiên, phó chính ủy Bùi Sĩ Dũng. Trường Quân chính Quân đoàn 3 kế tục truyền thống vẻ vang: ''Tự lực, Tự cường - Dũng cảm, Sáng tạo - Đoàn kết, Kỷ luật - Dạy tốt, Học tốt'' của Trường Quân chính B3. Vị trí đứng chân: khu vực sân bay Cù Hanh, thị xã Plei Ku, tỉnh Gia Lai.

   Do đã được chuẩn bị từ trước và thực hiện chuyển gọn 3 cơ quan cùng các đơn vị thuộc khối chủ lực B3 đang trong quá trình phát triển chiến dịch Tây Nguyên, nên ngay từ khi mới thành lập, Quân đoàn 3 đã là một binh đoàn chủ lực binh chủng hợp thành hoàn chỉnh; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, đồng bộ, ổn định, sức cơ động cao, hỏa lực mạnh, có trình độ và kinh nghiệm tác chiến hiệp đồng binh chủng; có thể độc lập tiến hành một chiến dịch hoặc đảm nhiệm hướng chủ yếu trong đội hình chiến dịch lớn của cấp trên, làm lực lượng quyết định trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược. Sinh ra từ khối chủ lực Mặt trận Tây Nguyên, ngay trên vùng đất chiến lược vừa hoàn toàn giải phóng, Quân đoàn 3 mang trong mình truyền thống quý báu: Quyết thắng, sáng tạo, đoàn kết, thống nhất, nghiêm túc, tự lực của bộ đội chủ lực, của quân và dân Tây Nguyên bất khuất, của Quân khu 5 kiên cường anh dũng và truyền thống chung của dân tộc anh hùng, quân đội anh hùng do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, rèn luyện. Đại tướng Văn Tiến Dũng đã khẳng định: ''Quân đoàn 3 ra đời giữa lúc cuộc chiến tranh đang đi vào bước ngoặt... trong lúc cuộc tiến công đang phát triển đánh dấu một nét rất mới là ta càng đánh càng mạnh trong quá trình chiến dịch cũng như trong quá trình cuộc tiến công chiến lược''1.




------------------------------------------------------------------
1. Đại tướng Văn Tiến Dũng. Đại thắng Mùa Xuân. Sđd, tr. 152.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #81 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2021, 10:27:18 am »

2. Quân đoàn 3 trong chiến dịch Hồ Chí Minh  lịch sử.

   Sau những thắng lợi rất to lớn của quân và dân ta ở Tây Nguyên, Trị -Thiên, Đà Nẵng, so sánh thế và lực trên chiến trường đã có sự chuyển biến vượt bậc, hoàn toàn có lợi cho ta, không có lợi cho địch. Chỉ trong một tháng tiến công và nổi dậy (4.3-3.4.1975) quân và dân miền Nam đã xóa sổ 2 trong 4 quân khu của địch, với 46% số sư đoàn bộ binh (6/13), 40% số trung đoàn xe tăng xe thiết giáp (9/22); 50% số tiểu đoàn pháo binh (33/66), 36% số liên đoàn bảo an (15/41), 38% lực lượng dân vệ, 18% tổng số máy bay (310/1683 chiếc), thu 4.625 xe vận tải; loại khỏi vòng chiến đấu 269.000 tên địch (chiếm 38% tổng số 690.000 tên). Vùng giải phóng của ta đã chiếm ba phần tư diện tích, với 17 tỉnh (trong tổng số 44 tỉnh) và hơn 9,8 triệu người (trong tổng số 19 triệu người) của toàn miền Nam1.

   Trước những tổn thất nặng nề về binh lực, tan rã lớn về tổ chức và giảm sút rất nghiêm trọng về tinh thần chiến đấu, nhưng tập đoàn cầm quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn rất ngoan cố. Chúng ra sức tập hợp tàn quân từ quân khu 1 và 2 chạy về, cửng cố các đơn vị của quân đoàn 3 và 4, bố trí lại lực lượng. Để giữ Sài Gòn, địch gấp rút tổ chức 3 tuyến phòng thủ: tuyến ngoài (5 sư đoàn, 2 lữ đoàn),tuyến ngoại vi (1 sư đoàn biệt động quân mới thành lập) và tuyến nội đô (lực lượng cảnh sát, dân vệ và tại chỗ). Ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, địch tập trung các sư đoàn bộ binh, lực lượng thiết giáp và không quân giữ phòng tuyến Tân An - Mỹ Tho. Về phía Mỹ, tuy khó có khả năng đưa quân trở lại Việt Nam, nhưng trong những ngày tàn của chế độ Sài Gòn, chúng vẫn cố tìm mọi cách nhằm kéo dài cơn hấp hối của bọn tay sai. Ngày 28 tháng 3 năm 1975, tướng Uây-oen tham mưu trưởng lục quân Mỹ đến Sài Gòn vạch kế hoạch phòng thủ cho quân ngụy, đồng  thời Mỹ lập cầu hàng không chở vũ khí (từ Thái Lan và Mỹ) đến Sài Gòn; đưa tàu sân bay Hen-cốc và 300 lính thủy đánh bộ vào biển Đông.

   Nắm vững tình hình mọi mặt, kịp thời phân tích đánh giá toàn diện khách quan khoa học, ngày 1 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp, kết luận: ''Cả về thế chân lược và lực lượng quân sự, chính  trị, ta đã có sức mạnh áp đảo quân địch, còn địch thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn tình thế sụp đổ đến nơi của nguy. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ chiến lược để tiến hành cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chàm muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà''. Đồng thời Bộ Chính trị hạ quyết tâm: ''Nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 năm 1975, không thể để chậm''2.

   Để động viên mọi mặt lực lượng của cả nước quyết giành thắng lợi nhanh chóng và hoàn toàn trong trận quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn - Gia Định, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện chiến trường do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và lập Bộ chỉ huy mặt trận Sài Gòn - Gia Định do Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng - Ủy viên Bộ Chính trị làm chính ủy; các đồng chí: Thượng tướng Trần Văn Trà; Trung tướng Lê Trọng Tấn, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện làm Phó tư lệnh, Trung tướng Lê Quang Hòa làm Phó chính ủy. Tiếp đó, theo đề nghị của Bộ tư lệnh chiến dịch, ngày 14 tháng 4 năm 1975 Bộ Chính trị quyết định chiến dịch tiến công Sài Gòn - Gia Định mang tên ''Chiến dịch Hồ Chí Minh''.

   Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị và kế hoạch chiến dịch, trong nửa đầu tháng 4 năm 1975, Quân đoàn 4, Đoàn 232 và lực lượng địa phương đẩy mạnh tiến công tạo thế; các quân đoàn 1, 2, 3 gấp rút hành quân bằng cơ giới từ Tam Điệp, Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột, Tuy Hòa, Nha Trang rầm rập tiến về phía nam, vào vị trí tập kết trên các hướng chiến dịch, khẩn trương triển khai công tác chuẩn bị sẵn sàng bước vào chiến đấu. Cùng thời gian này, Bộ tư lệnh Chiến dịch hoàn chỉnh quyết tâm, các kế hoạch chiến dịch và giao nhiệm vụ cho các quân đoàn. Quán triệt phương châm, tư tưởng chỉ đạo tác chiến chiến dịch ''Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng'', Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định tiến công Sài Gòn - Gia Định từ năm hướng tây bắc, bắc - đông bắc, đông, đông nam, tây - tây nam; sử dụng cách đánh: thực hiện chia cắt, bao vây tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn địch phòng thủ ở vòng ngoài không cho chúng co cụm về nội thành, đồng thời đánh chiếm các cầu lớn, mở đường cho các binh đoàn binh chủng hợp thành đột kích cơ giới mạnh tiến nhanh theo các trục đường lớn đánh thẳng vào 5 mục tiêu chủ yếu: bộ tổng tham mưu ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, tổng nha cảnh sát, dinh Độc Lập, tiêu diệt và làm chủ mục tiêu trong thời gian ngắn nhất. Về sử dụng lực lượng, bốn quân đoàn chủ lực và Đoàn 232 được tăng cường binh khí kỹ thuật, có sự phối hợp của lực lượng vũ trang địa phương tiến công địch trên năm hướng:

   - Quân đoàn 1: tiến công hướng bắc - đông bắc.
   - Quân đoàn 2: tiến công hướng đông nam.
   - Quân đoàn 3: tiến công hướng tây bắc.
   - Quân đoàn 4: tiến công hướng đông.
   - Đoàn 232: tiến công hướng tây và tây nam.

   Là một trong năm binh đoàn chủ lực, ngày 12 tháng 4 Quân đoàn 3 được Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ: ''Quân đoàn 3 (với lực lượng trong biên chế) có pháo và cao xạ của chiến dịch chi viện đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu nhất của chiến dịch từ tây bắc vào Sài Gòn với nhiệm vụ:

   1. Dùng lực lượng cỡ sư đoàn đến sư đoàn tăng cường đánh trận thôi động tiêu diệt căn cứ sư đoàn 25 ở Đồng Dù, chặn và tiêu diệt lực lượng sư đoàn 25 từ Củ Chi đến Trảng Bàng, không cho chúng co cụm về Sài Gòn.

   2. Tổ chức lực lượng đột kích mạnh binh chủng hợp thành cỡ sư đoàn tăng cường thọc thẳng vào Sài Gòn đánh chiếm mục tiêu chủ yếu là sân bay Tân Sơn Nhất, phát triển hiệp đồng với quân bạn đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy, đánh chiếm và làm chủ Quận 3, phát triển sang Quận 1 hiệp đồng với quân bạn đánh chiếm dinh Độc Lập, phát triển sang Quận 10 hiệp đồng với quân bạn đánh chiếm biệt khu thủ đô ngụy. ây là nhiệm vụ chủ yếu của Quân đoàn.

   3. Giữ vững các khu vực mục tiêu đã giao sau khi chiếm được, bảo vệ kho tàng, ổn định trật tự an ninh''3.




-----------------------------------------------------------------
1. Số liệu dẫn theo Điện số 10 (ngày 13.4.1975) của Bộ Quốc phòng gửi các quân khu.
2. Cuộc kháng chiến chống Mỹ... Sđd, tr. 321, 322.
1. Lịch sử Bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên - Quân đoàn 3. Biên niên sự kiện. Sđd, tr. 369, 370.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #82 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2021, 10:32:26 am »

*

   Hướng tiến công của Quân đoàn 3 tương đối dài và hẹp. Từ vị trí xuất phát thuộc tỉnh Tây Ninh đến hết chiều sâu nhiệm vụ là các mục tiêu chính trong nội đô Sài Gòn dài khỏang 100km; chiều rộng từ bờ tây sông Sài Gòn đến đường số 1 và đường số 22 khỏang từ 7km đến 10 km. Nhìn chung địa hình trên hướng Quân đoàn đảm nhiệm tương đối bằng phẳng, chia ra hai khu vực rõ rệt. Khu phía bắc, từ quận lỵ Dầu Tiếng về phía bắc có nhiều rừng cây thấp, đồn điền cao su khá rộng và kín đáo, đất đồi cứng thuận lợi cho tập kết những lực lượng lớn, cơ động xe tăng, pháo xe kéo và bố trí kho tàng... nhưng phải vượt sông Sài Gòn. Khu vực phía nam, từ quận lỵ Dầu Tiếng đến bắc Củ Chi, Phú Hòa Đông, Hoóc Môn, đồi và ruộng xen kẽ, có 2 con kênh lớn là Bến Mương và kênh Sáng chạy ngang qua các con đường cơ động vào Sài Gòn; kênh rộng từ 50m đến 70m, hai bên sình lầy ruộng nước rộng từ 3km đến 4km. Từ Hoóc Môn đến sân bay Tân Sơn Nhất, địa hình trống tráng, ruộng khô xen kẽ là những làng mạc và một số vườn cây ăn quả, dân cư đông đúc. Càng vào sâu càng có nhiều đường ngang, phố xá công trình kiến trúc dày đặc, phức tạp, nhiều nhà cao tầng dễ bị lạc. Trên hướng tiến công của Quân đoàn chỉ có hai trục đường vào được Sài Gòn. Trục chính là quốc lộ 1, đoạn Củ Chi - Sài Gòn, phải qua cầu Bông. Trục thứ hai là tỉnh lộ số 15 đoạn từ Tân Phú Trung đến Phú Hòa Đông, Tân Quy, qua cầu Sáng về Hoóc Môn, Tân Sơn Nhất.

        Đây là hai con đường độc đạo, quá trình chiến đấu ta phải giữ được cầu Bông, cầu Sáng; nếu bị địch phá cầu sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng được sự giúp đỡ của địa phương, nhất là lực lượng vũ trang khu du kích nổi tiếng Củ Chi, Bời Lời phối hợp, được các đội biệt động thành phố Sài Gòn - Gia Định đưa đường, tạo thuận lợi cho Quân đoàn dưa những đơn vị luồn sâu, ém sẵn đánh chiếm trước các cây cầu và một số mục tiêu trên hai trục đường cơ động, bảo đảm cho lực lượng thọc sâu binh chủng hợp thành tiến công hành tiến từ ngoài vào nội đô.

   Cuối tháng 4 năm 1975, lực lượng địch trên hướng tiến công của Quân đoàn còn khá đồng và mạnh, bao gồm: sư đoàn bộ binh 25 (có 3 trung đoàn bộ binh 46, 49, 50 và trung đoàn thiết giáp 10), lữ dù 4 (thiếu), 2 liên đoàn biệt động quân 9 và 23, chỉ huy liên đoàn biệt động quân 33, liên đoàn 5 công binh, trung tâm huấn luyện Quang Trung, 1 tiểu đoàn biệt kích dù, 20 tiểu đoàn bảo an (ở Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Gia Định), thiết đoàn 3 thuộc trung đoàn 15, 4 tiểu đoàn và 3 đại đội pháo ( 86 khẩu đại bác 105, 175mm), sư đoàn 5 không quân (178 máy bay chiến đấu và vận tải), bộ tư lệnh dù, bộ tư lệnh không quân, bộ tư lệnh thiết giáp ở sân bay Tân Sơn Nhất và lực lượng bảo vệ ở bộ tổng tham mưu ngụy, với tổng quân số khỏang 24.000 tên. Với binh lực trên, địch tổ chức phòng thủ trên hướng tây bắc Sài Gòn - Gia Định thành ba tuyến:

   - Tuyến phòng ngự vòng ngoài, gồm các khu vực Tây Ninh, Trảng Bàng, Củ Chi, Đồng Dù, Hậu Nghĩa do sư đoàn bộ binh 25 và một lực lượng biệt động quân, bảo an đảm nhiệm. Trong đó bộ tư lệnh sư đoàn 25, ban chỉ huy trung đoàn 50, tiểu đoàn 2 bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp, 1 chi đội xe tăng, tiểu đoàn 25 công binh và 5 tiểu đoàn bảo đảm phục vụ khác, trường huấn luyện hạ sĩ quan... ở căn cứ Đồng Dù; trung đoàn 46 ở Bến Kéo, trung đoàn 49 ở Trảng Lớn, trung đoàn 50 ở Trảng Bàng, trung đoàn 10 thiết giáp ở Tây Ninh. Đây là tuyến phòng ngự mạnh của địch trên hướng tây bắc Sài Gòn, trong đó căn cứ lớn Đồng Dù là ''cánh cửa thép'' án ngữ trục quốc lộ số 1.

   - Tuyến ngoại vi, bao gồm các khu vực: cầu Bông, Hoóc Môn, thành Quang Trung... do lực lượng bảo an, biệt động, biệt kích dù, công binh, tân binh đang huấn luyện và tàn quân từ các nơi khác chạy về phòng giữ. Lực lượng này tuy khá đông, nhưng khả năng chiến đấu hạn chế.

   - Tuyến phòng ngự bên trong có lữ đoàn dù 4 (thiếu), lực lượng bảo vệ và tại chỗ của sư đoàn 5 không quân, các bộ tư lệnh binh chủng ở sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ tổng tham mưu ngụy. Đây là lực lượng hỗn hợp tương đối đông, có xe tăng xe thiết giáp, dựa vào lô cốt và các công trình kiến trúc chống trả, nhưng dễ bị cô lập, sức chiến đấu không mạnh.

   Nhìn chung trên hướng tiến công của Quân đoàn 3, quân số của địch còn đông, binh khí kỹ thuật nhiều, phòng ngự theo chiều sâu, có nhiều cứ điểm công sự vững chắc được tổ chức từ lâu, lợi dụng kiến trúc trong thành phố phức tạp lập thêm các điểm chốt chặn mới, bọn chỉ huy ngoan cố ra sức đốc lính ''tử thủ'' và chuẩn bị sẵn thủ đoạn đối phó. Chúng sẽ chống trả quyết liệt khi bị tiến công. Song địch phải rải quân trên một tuyến dài để đối phó, đội hình dễ bị chia cắt, cô lập. Cách bố trí mạnh ở vòng ngoài, yếu ở bên trong, khi lực lương bên ngoài bị vây chặt, tiêu diệt, lực lượng bên trong dễ bị tan vỡ. Đặc biệt, vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, quân địch liên tiếp bị thất bại, tinh thần suy sụp lớn; khi biết những tên cầm đầu ngày quận, ngụy quyền tháo chạy, bọn lính càng hoang mang tan rã nhanh.

   Thực hiện quyết tâm và kế hoạch thống nhất của Bộ tư lệnh chiến dịch, thượng tuần và trung tuần tháng 4 năm 1975 Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 khẩn trương triển khai công tác nắm địch, xây dựng và hoàn chỉnh quyết tâm, phương án tác chiến; đồng thời tập trung mọi nỗ lực cơ động nhanh các đơn vị và vật chất từ các tỉnh Tây Nguyên, Phú Yên, Khánh Hòa về tây bắc Sài Gòn..

   Ngay sau khi nhận nhiệm vụ đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu do Bộ tư lệnh chiến dịch giao (12.4), Bộ tư lệnh Quân đoàn khẩn trương tổ chức quán triệt nhiệm vụ, xây dựng quyết tâm và phương án tác chiến, giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 316 và Sư đoàn 320, chỉ huy các binh chủng, (ngày 14, 15.4) tổ chức trinh sát chỉ huy khu vực Củ Chi, Đồng Dù (17.4). Để hoàn chỉnh quyết tâm chiến đấu cho trận đánh quan trọng tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy - trận mở màn của Quân đoàn 3 trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Tư lệnh Vũ Lăng, Phó tư lệnh Nguyễn Kim Tuấn, Phó chính ủy Phí Triệu Hàm và cơ quan Tham mưu Quân đoàn đã cùng đoàn trinh sát của Sư đoàn 320 trực tiếp trinh sát thực địa khu vực Đồng Dù. Sáng ngày 23 tháng 4, Thiếu tướng Vũ Lăng và đại tá Đặng Vũ Hiệp báo cáo quyết tâm và nhận nhiệm vụ chính thức tại sở chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau khi nghe Tư lệnh quân đoàn 3 báo cáo quyết tâm chiến đấu, các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng dành nhiều thời gian để phân tích và chỉ thị những vấn đề chinh mà Quân đoàn cần quan tâm giải quyết; động viên đơn vị phát huy chiến thắng Tây Nguyên hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trên hướng chính của chiến dịch lịch sử mang tên Bác kính yêu. Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: ''Nhiệm vụ chủ yếu của Quân đoàn 3 là tổ chức lực lượng mạnh đột kích liên tục, đánh ngã địch chiếm các mục tiêu then chốt trong thành phố. Đánh sư đoàn 25 ở ngoài chỉ là điều kiện, không thể... dùng nhiều lực lượng, hoặc giằng co mất nhiều thời gian. Đánh ngoài và đột vào trong là đồng thời, không chia thành bước. Nhiệm vụ chính là bên trong...; mục tiêu chính... là sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ tổng tham mưu. Còn Phủ tổng thống là sau khi cơ bản làm xong hai mục tiêu trên. Vì phủ tổng thống là nhiệm vụ chủ yếu của một đơn vị khác. Nếu họ giải quyết xong rồi thì Quân đoàn 3 không phải vào''.1 Ngày 24 tháng 4, Bộ tư lệnh chiến dịch chính thức phê chuẩn quyết tâm, phương án tác chiến, kế hoạch sử dụng lực lượng của Quân đoàn 3. Nội dung cụ thể:

   - Trước ngày tổng công kích, Quân đoàn chủ động sử dụng một lực lượng của Sư đoàn 316 cùng với lực lượng địa phương tỉnh Tây Ninh chặn cắt giao thông đường số 22 đoạn Trà Võ, tiêu hao tiêu diệt giam chân sư đoàn 25 ngụy, không cho chúng co cụm về Sài Gòn, buộc chúng phải bị động đối phó. Đồng thời sẵn sàng cơ động lực lượng tiến công tiêu diệt sư đoàn 25 ngụy khi chúng rút chạy.

   - Tổ chức pháo binh đánh diệt các trận địa pháo địch trên toàn tuyến từ Đồng Dù dện nam Tây Ninh, bảo đảm an toàn cho các lực lượng của Quân đoàn vào tập kết và triển khai chiếm lĩnh.

   - Khi bắt đầu tổng công kích, dùng Sư đoàn 316 vây cắt giam chân địch ở khu vực Phước Mỹ, Sư đoàn 320 đánh chiếm thật nhanh căn cứ Đồng Dù, đồng thời đưa Trung đoàn 198 đặc công và Trung đoàn 64 luồn sâu đánh chiếm cầu Bông, cầu Sáng và bàn đạp. Nắm chắc thời cơ, cơ động nhanh lực lượng đột kích chủ yếu gồm Sư đoàn 10 và lực lượng binh khí kỹ thuật tăng cường theo hai trục đường số 1 và số 15, đánh lướt qua tuyến phòng thủ ngoại vi, tiến công hành tiến thọc sâu chiếm sân bay Tân Sơn Nhất.

   Phương châm, tư tưởng chỉ đạo tác chiến của Quân đoàn là: "Mạnh bạo, chắc thắng, đánh mạnh, đánh liên tục, nắm chắc thời cơ thọc sâu phát triển nhanh''.

   Cùng với quá trình chuẩn bị chiến trường và hoàn chỉnh quyết tâm, kế hoạch tác chiến, Bộ tư lệnh Quân đoàn gấp rút điều động lực lượng từ các hướng cơ động về tây bắc Sài Gòn tham gia chiến dịch. Được Đoàn 559 và chính quyền, nhân dân hai tỉnh Đắc Lắc, Khánh Hòa giúp đỡ, Quân đoàn đã huy động gần 3.000 chuyến xe ô tô2 để chở bộ đội, đạn dược, lương thực từ các tỉnh Tây Nguyên và Tuy Hòa, Nha Trang về Đồng Xoài. Tuy đây là lần đầu tiên Quân đoàn hành quân bằng cơ giới đường dài, nhiều ngả, nhiều hướng phức tạp, luôn bị máy bay địch đánh phá... nhưng với tinh thần chủ động, sáng tạo, tổ chức chặt chẽ, bố trí cung trạm phù hợp, có lực lượng và biển chỉ dẫn chu đáo, vừa cơ động vừa đánh máy bay nên đã lần lượt dưa các đơn vị vào vị trí tập kết an toàn bảo đảm thời gian quy định.

        Ngày 3 tháng 4, Sư đoàn 316 và một bộ phận đi trước chuẩn bị chiến trường của Quân đoàn xuất phát từ Đắc Lắc theo quốc lộ số 14 tiến về phía nam. Sau 2 ngày hành quân bộ đội vào đến vị trí tập kết ở Đồng Xoài và ngày 10 tháng 4 di chuyển về Dầu Tiếng, Chơn Thành. Tiếp đó, từ ngày 8 đến ngày 14 tháng 4, Sư đoàn 320 rời vị trí tạm dừng ở khu vực Củng Sơn hành quân bằng cơ giới ngược đường số 7, rồi theo quốc lộ số 14 qua Buôn Ma Thuột, Đức Lập, Bu Prăng, Bình Long vào Chơn Thành an toàn. Đến ngày 16 tháng 4, các đơn vị: Trung đoàn pháo binh 675, Trung đoàn pháo binh 40, Trung đoàn phòng không 232, Trung đoàn phòng không 593, Trung đoàn công binh 575 và Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn công binh 7), Trung đoàn thông tin 29, Trung đoàn đặc công 198 và lực lượng hậu cần Quân đoàn có mặt ở vị trí tập kết chiến dịch, khẩn trương triển khai công tác chuẩn bị chiến đấu.

   Riêng Sư đoàn 10, Trung đoàn phòng không 234, Trung đoàn công binh 7 (thiếu), Trung đoàn xe tăng 273 (thiếu) quá trình cơ động gặp một số khó khăn. Lúc đầu, các đơn vị trên hướng Cam Ranh, Nha Trang được lệnh cơ động toàn bộ lực lượng theo đường 450 do Trung đoàn công binh 7 vừa mở, theo đường 11 về tập kết ở Bảo Lộc. Được Cục Hậu cần Quân đoàn, Ủy ban quân quản và nhân dân Cam Ranh, Nha Trang giúp đỡ phương tiện vận chuyển, sau 72 giờ chuẩn bị ngày 11 tháng 4 khối hành quân thứ nhất của Sư đoàn 10 gồm Trung đoàn 28 và một tiểu đoàn xe tăng rời Cam Ranh. Hai ngày tiếp sau, khối hành quân thứ hai (gồm sư đoàn bộ Sư đoàn 10, Trung đoàn pháo binh 4, Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 234) và khối thứ ba (Trung đoàn 24) cũng xuất phát. Phát hiện ta cơ động lực lượng theo đường 450, địch huy động 30 lần chiếc máy bay mỗi ngày, ném bom đánh chặn rất ác liệt làm 77 cán bộ, chiến sĩ thương vong, 21 xe ô tô và 6 xe chở phà bị cháy hỏng, 20 máy điện thoại và 76 km dây thông tin bị phá hủy. Đường 450 trở thành tọa độ lửa. Trước sự đánh phá của địch, các khối hành quân kiên quyết đánh trả máy bay, tích cực khắc phục hậu quả sau trận bom, dũng cảm tiến nhanh về phía trước. Trung đoàn phòng không 234 triển khai hai tiểu đoàn vừa cơ động vừa chiến đấu bảo vệ đội hình hành quân. Tiểu đoàn 2 đặt pháo 23mm ngay trên mặt đường đánh trả nhiều đợt oanh tạc của máy bay địch, hạ l chiếc trực thăng. Ngày 13 tháng 4, khi Trung đoàn 24 vừa tiến vào đường 450 và hai khối đi đầu gồm Trung đoàn 28, Trung đoàn xe tăng 273, sư đoàn bộ Sư đoàn 10, một bộ phận của Trung đoàn pháo binh 4 đến Đơn Dương thì Sư đoàn 10 được lệnh không tập kết ở Định Quán trên đường 20, phải quay trở lại Cam Ranh, Nha Trang cơ động theo đường 21 về Buôn Ma Thuột rồi theo đường 14 vào nam quận lỵ Chơn Thành.

   Nhận thấy hai khối đi đầu hành quân quay trở lại Cam Ranh, Nha Trang sẽ rất khó khăn vì máy bay địch đánh phá ác liệt và được Bộ tư lệnh Quân đoàn chấp thuận, Sư đoàn 10 tổ chức hành quân trên hai hướng. Các đơn vị đã đến Đơn Dương tiếp tục cơ động theo đường 20 đi Di Linh, Gia Nghĩa về Kiến Đức. Lực lương còn lại ở Cam Ranh, Nha Trang gồm Trung đoàn 24, Trung đoàn 66, một bộ phận sư đoàn bộ hành quân theo đường 21 lên Buôn Ma Thuột, qua Đức Lập về Kiến Đức. Ngày 20 tháng 4, hai cánh quân gặp nhau ở Kiến Đức và ngày 23 Sư đoàn 10, trung đoàn 273, Trung đoàn 234, Trung đoàn 7 có mặt tại vị trí tập kết ở huyện Dầu Tiếng tỉnh Tây Ninh. Riêng 63 xe ô tô huy động của nhân dân Nha Trang, Cam Ranh, khi tới Kiến Đức đã được Sư đoàn 10 cấp nhiên liệu, lương thực thực phẩm, giấy chứng nhận phục vụ, họp mặt động viên lái xe và cử cán bộ đưa trả về địa phương đầy đủ, an toàn.




------------------------------------------------------------------
1. Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp. Ký ức Tây Nguyên. Nxb QĐND; H. 2000, tr. 470.
2. Quân đoàn huy động 2.486 xe, trong đó có 313 xe của Đắc Lắc, Nha Trang, Cam Ranh. Đoàn 559 chi viện 851 xe.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #83 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2021, 10:35:41 am »

*

   Thực hiện kế hoạch đánh địch trước ngày tổng công kích toàn chiến dịch, bảo đảm thuận lợi cho các đơn vị của Quân đoàn triển khai lực lượng, chiếm lĩnh trận địa, ngày 20 tháng 4, Trung đoàn 148 Sư đoàn 316 bất ngờ đánh chiếm cứ điểm Bầu Nâu, Trà Võ, sau đó đánh bại lực lượng địch phản kích, làm chủ một đoạn dài 7km trên đường 22 từ Cẩm An đến Bến Mương. Từ ngày 22 đến ngày 28 tháng 4, Trung đoàn 148 có pháo phòng không của Trung đoàn 232 và lực lượng vũ trang địa phương hỗ trợ tiếp tục cắt giao thông và đánh một số trận cấp tiểu đoàn có hỏa lực tăng cường với các hình thức chiến thuật: tiến công địch trong công sự vững chắc, vận động tiến công kết hợp chốt. Với cách đánh linh hoạt, kiên quyết trong 9 ngày đầu nổ súng Trung đoàn đã diệt 495 tên địch, bắt 1 tên, bắn rơi 1 máy bay, bắn cháy 1 xe tăng và 10 xe vận tải, phá hủy 1 khẩu pháo 105mm và hơn 100 súng các loại.1

   Trong khi Trung đoàn 148 đánh địch, 2 trung đoàn 149 và 174 Sư đoàn 316 triển khai thế trận vây ép trên hướng Phước Mỹ, Suối Sâu, Phước Hiệp, Trảng Bàng. Ngày 26 tháng 4, phát hiện thấy sư đoàn 25 ngụy có triệu chứng co về Đồng Dù, Hoóc Môn, Bộ tư lệnh Quân đoàn ra lệnh cho Sư đoàn 316 đưa toàn bộ lực lượng ra ngăn chặn giam chân địch. Lập tức Trung đoàn 149 cắt đứt đường số 1 ở đông Trảng Bàng, vây chặt và sẵn sàng tiến  công tiêu diệt quân địch ở căn cứ này. Cùng lúc Trung đoàn 174 cắt đường số 1 ở khu vực Phước Mỹ và sẵn sàng đánh chiếm cứ điểm. Những trận đánh cắt giao thông, tạo thế của Sư đoàn 316 và lực lượng vũ trang địa phương trước ngày tổng công kích toàn chiến dịch đã cắt dứt hoàn toàn đường số 22 và đường số 1b, cô lập giam chân toàn bộ sư đoàn 25 và lực lượng biệt động quân địch trên hướng tây bắc với Sài Gòn; tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng của Quân đoàn vào triển khai chiếm lĩnh trận địa.

   Phối hợp nhịp nhàng với các trận đánh tạo thế của bộ binh, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 4, các cụm pháo binh của Quân đoàn và 2 sư đoàn 316, 320 gồm 27 khẩu pháo từ 85mm đến 155mm và 12 khẩu súng cối 120mm, 82mm bắn phá mạnh vào các trận địa pháo địch ở Đồng Dù, Phước Mỹ, Đồng Chùa, Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ, Bến Kéo, Khiêm Hạnh. Thấy kết quả bắn chưa đạt ý định, Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định tập trung pháo binh bắn phá thêm cả ngày 28 tháng 4. Sau 4 ngày bắn phá, pháo binh Quân đoàn đã bắn 2.227 quả đạn các loại, diệt 11 trong tổng số 18 trận địa pháo địch, làm tê liệt hoàn toàn 7 trận địa pháo còn lại; phá hủy 22 khẩu pháo 105mm, 12 khẩu 155mm, làm cháy 12 kho và diệt một số sinh lực địch. Trong các đợt diệt pháo, phá thế dựa của sư đoàn 25 ngụy, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 Trung đoàn pháo binh 40 lập chiến công xuất sắc diệt gọn 3 trận địa pháo cố định và cơ động của địch ở Trảng Bàng và Đồng Chùa bằng 48 quả đạn. Đây là trận đấu pháo lớn đầu tiên và cuối cùng của Quân đoàn 3 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

   Trong khi Sư đoàn 316 và pháo binh đánh địch, các đơn vị tranh thủ thời gian gấp rút tiến vào chiếm lĩnh trận địa và hoàn thành những công việc chuẩn bị chiến đấu. Hai trung đoàn công binh 575 và 7 dồn sức mở đường, ghép phà để bộ đội, xe pháo vượt sông Sài Gòn. Đêm 20 tháng 4, Đại đội công binh 11 (Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 7) ghép xong phà 50 tấn qua Bến Củi; Đại đội 5 cũng hoàn thành chiếc phà thứ 2 qua Bến Tranh. Đêm 24 Đại đội 2 (Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 7) bắc xong cầu tải trọng 12 tấn dài 62 mét qua Bến Tranh. Đến ngày 27 tháng 4, các trục đường cơ động số 4, 5 (dọc), các đường nhánh 71, 72 cơ bản hoàn thành, sẵn sàng đón lực lượng thọc sâu cơ động. Cùng thời gian này, Trung đoàn thông tin 29 cũng triển khai xong các đường dây liên lạc từ Sở chỉ huy Quân đoàn đến các đơn vị, hai bến phà và thành đội Sài Gòn - Gia Định. Đường cơ động và thông tin liên lạc đã thông, chủ động triển khai lực lượng và đề phòng máy bay địch đánh phá cầu phà, lúc 20 giờ ngày 21 tháng 4 Bộ tư lệnh Quân đoàn ra lệnh cho các đơn vị vượt sông Sài Gòn. Từ ngày 21 đến ngày 23 các đơn vị binh khí kỹ thuật hoàn thành vượt sông, bí mật tiến vào các vị trí tập kết phía bờ tây. Ngày hôm sau (24.4) sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn do Phó tư lệnh Nguyễn Kim Tuấn phụ trách triển khai ở Nhuận Đức; Sư đoàn 320 hoàn thành tập kết lực lượng khẩn trương làm công tác chuẩn bị tiến công cứ điểm Đồng Dù; Sư đoàn 10 và các đơn vị xe tăng, phòng không tăng cường vào khu vực Bến Tranh, Bến Củi gấp rút nhận xe, bố trí đội hình tiến công thọc sâu binh chủng hợp thành, tranh thủ huấn luyện bổ sung, kiểm tra các mặt bảo đảm. Lực lượng hậu cần Quân đoàn lập xong 3 tuyến bảo đảm Z1 (Minh Hòa, tây Chơn Thành), Z2 (Dầu Tiếng), Z3 (An Nhơn Tây) và chuẩn bị sẵn sàng lập tuyến Z4 (Hoóc Môn) trong quá trình tổng tiến công; triển khai 2 bệnh viện dã chiến, 3 đội điều trị, bảo đảm thu dung 2500 thương bệnh binh. Quá trình chuẩn bị chiến dịch, Cục Hậu cần Quân đoàn chủ động sáng tạo đem theo hạt lửa đạn 155mm vừa thu của địch, vận chuyển 1.500 viên đạn pháo 155mm ở Chơn Thành kịp thời đưa vào sử dụng, khắc phục được khó khăn do đường trơn vận tải chiến lược chưa chuyển kịp. Với những cố gắng cao, đến ngày 29 tháng 4, Ngành Hậu cần đã bảo đảm được 1.807 tấn đạn các loại (trong đó có 30.049 viên đạn pháo lớn), 776 tấn xăng dầu và 900 tấn lương thực, thực phẩm, cơ bản đáp ứng nhu cầu của toàn Quân đoàn trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

   Để lãnh đạo, chỉ đạo Quân đoàn hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu trong trận quyết chiến, chiến lược lịch sử, ngày 21 tháng 4 Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn chỉ thị ''Về công tác chính trị chiến dịch Hồ Chí Minh'', xác định 8 nội dung chủ yếu công tác chính trị chiến dịch làm cơ sở cho các đơn vị, cơ quan triển khai thực hiện:

   "1. Giáo dục động viên xây dựng quyết tâm kiên quyết hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

   2. Lãnh đạo tổ chức thực hiện, tổ chức chiến dịch, chiến đấu cho tốt.

   3. Phát huy đầy đủ chức năng đội quân công tác, làm tốt công tác tranh thủ nhân dân, phát triển sâu rộng ảnh  hưởng chính trị của cách mạng.

   4. Tích cực tiến hành công tác địch vận.

   5. Làm tốt công tác chính sách.

   6. Lãnh đạo bảo đảm vật chất, bảo đảm kỹ thuật phục vụ đầy đủ kịp thời cho yêu cầu chiến dấu.

   7. Tiến hành tốt công tác bảo vệ.

   8. Khẩn trương củng cố bộ đội về tư tưởng và tổ chức để liên tục chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn''2.

   Trong những ngày sôi động chuẩn bị chiến dịch, cán bộ, chiến sĩ được quán triệt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, ý nghĩa lớn lao của chiến dịch, nhiệm vụ và cách đánh của đơn vị, được học tập 7 điều dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, lời dạy của Người ngày 5 tháng 9 năm 1954 khi bộ đội chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Ai cũng thấy rõ vinh dự và trách nhiệm trước giờ phút lịch sử, nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, kiên quyết khắc phục khó khăn, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ trong chiến dịch mang tên Bác kính yêu, thực hiện di huấn thiêng liêng của Người: ''Đánh cho ngụy nhào'' giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Để kịp có sơ đồ thành phố Sài Gòn và khẩu hiệu cổ động cho bộ đội, cán bộ, chiến sĩ Xưởng in Quân đoàn làm việc liên tục suốt ngày đêm. Cờ giải phóng nửa đỏ nửa xanh ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh được chuẩn bị cắm lên các xe; bộ đội khâu băng đỏ đeo bên cánh tay trái và nắm chắc mật khẩu khi gặp nhau: hỏi ''Hồ Chí Minh'', đáp ''muôn năm''.

   Cũng trong thời gian này, Quân đoàn hiệp đồng chặt chẽ với Thành đội Sài Gòn - Gia Định và lực lượng vũ trang địa phương thống nhất kế hoạch phối hợp tác chiến, ký ám hiệu tìm người dẫn đường và cơ sở cách mạng khi tiến công thọc sâu vào nội đô3. Ngày 27 tháng 4, các chiến sĩ biệt động Sài Gòn - Gia Định, trong đó có nữ biệt động Nguyễn Thị Trung Kiên đã có mặt tại Sở chỉ huy Sư đoàn 10, sẵn sàng dẫn dường cho bộ đội đánh vào nội đô. Đặc biệt quân và dân đất thép Củ Chi, Trảng Bàng sau bao năm kiên cường bám trụ kháng chiến, chịu bao mất mát hy sinh, vô cùng phấn khởi được đón những đoàn quân cách mạng hùng dũng tiến về giải phóng quê hương. Thanh niên nam, nữ nô nức giúp bộ đội xây dựng trận địa, đào công sự cho pháo; các mẹ các chị bất chấp những trận phản pháo ác liệt của địch, tích cực lấy lá ngụy trang và nấu nước tiếp tế cho các đoàn quân. Đêm 28 tháng 4, nhiều thanh niên tự động ra thường trực ở Xa Nhỏ, Đồng Lớn, ngã tư Bàu Bàng chỉ đường cho các khối cơ động tiến công thọc sâu của Quân đoàn. Sự phối hợp chặt chẽ, giúp đỡ hết lòng và tình cảm yêu thương nồng thắm của quân và dân địa phương là nguồn cổ vũ lớn, tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 hăng hái tự tin bước vào trận quyết chiến chiến lược lịch sử.




-----------------------------------------------------------------
1. Trong các trận đánh này, Trung đoàn 148 có 37 cán bộ, chiến sĩ hy sinh và 187 đồng chí bị thương.
2. Lịch sử bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên... Sđd, tr. 368.
3. Theo quy định: ai cầm vải đỏ, hoặc vải xanh, quần áo, khăn mặt phất 3 lần là người của ta bố trí dẫn đường; nhà ai treo cờ giải phóng có chữ ''Ủy ban nhân dân cách mạng" là nhà cơ sở cách mạng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #84 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2021, 02:28:56 pm »

*

        Sài Gòn - Gia Định đêm trước giải phóng thật náo động khác thường. Ngày 21 tháng 4, Xuân Lộc thất thủ, Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức Tổng thống ngụy, chạy trốn ra nước ngoài cùng với số của cải lớn vơ vét được. Trần Văn Hương làm bước đệm rồi chuyển chức Tổng thống ngụy cho Dương Văn Minh - người mà chúng hy vọng đối phương có thể chấp nhận thương lượng. Đối với Mỹ lúc này chỉ còn việc gấp rút di tản bằng cầu hàng không, vì theo Tổng thống Mỹ G.Pho: ''Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã chấm dứt đối với Mỹ''1. Trước đó, ngày 17 tháng 4, Mỹ cũng phải cam chịu thua cuộc ở Cam-pu-chia. Nhưng cũng vào những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, một số thế lực ngoại bang ra sức hoạt động hy vọng vớt vát quyền lợi, song âm mưu ''đục nước béo cò'' của chúng không mang lại kết quả. Giờ cáo chung của chế độ tay sai bán nước đã điểm.

   17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức mở màn. Từ 4 hướng, 5 cánh quân lớn của ta dũng mãnh đồng loạt tiến công vào tuyến phòng thủ ngoại vi Sài Gòn. Trên hướng đông nam, từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 4, Quân đoàn 2 đánh chiếm trường huấn luyện thiết giáp, căn cứ Nước Trong, quận lỵ Long Thành, Thái Lạc, Phước Tường, Phú Lộc, Nhơn Trạch, thị xã Bà Rịa. Lực lượng vũ trang địa phương phối hợp tiến công giải phóng Bình Ba, Hòa Long, Long Phước, Phú Nhơn hoàn toàn làm chủ khu vực Long Hải - Bà Rịa. Cùng thời gian này Quân đoàn 4 tiến công mạnh trên hướng đông Sài Gòn, chiếm căn cứ Trảng Bom, làm chủ từ Suối đến ga Long Lạc, phát triển tiến công Hố Nai.

       Các đơn vị đặc công đánh chiếm cầu Ghềnh, Rạch Cát, cầu Xa Lộ qua sông Đồng Nai. Pháo binh chiến dịch bắn phá làm tê liệt sân bay Biên Hòa, buộc địch phải di tản máy bay về sân bay Tân Sơn Nhất, sở chỉ huy quân đoàn 3 ngụy phải bỏ Biên Hòa chạy về Gò Vấp. Hướng bắc, Quân đoàn 1 tiến hành bao vây căn cứ Phú Lợi, cắt đứt đường số 13, chặn sư đoàn 5 ngụy. Lực lương vũ trang địa phương giải phóng tây nam Bến Cát và tây nam Tân Uyên. Đoàn 115, Tiểu đoàn Gia Định làm chủ lộ Đại Hàn (đoạn Bình Phước - Quán Tre) mở thông cửa phía bắc sân bay Tân Sơn Nhất. Không quân ta dùng 5 máy bay A37 ném bom và đặc công bắn trên 400 viên ĐKB vào sân bay Tân Sơn Nhất. Ở hướng tây và tây nam Sài Gòn, Đoàn 232 và Quân khu 8 cắt đứt hoàn toàn đường số 4, thu hút và ngăn chặn 3 sư đoàn địch (7, 9, 22) rồi vượt sông Vàm Cỏ Đông vào tập kết ở Bầu Cong, Mỹ Thạch, Đức Hòa chuẩn bị thọc vào nội đô từ hướng nam. Phối hợp nhịp nhàng với toàn chiến dịch, Quân đoàn 3 tập trung Sư đoàn 316 đánh cắt giao thông đường số 1 và số 22, dùng pháo binh đánh phá các trận địa pháo địch, chặn vây cô lập sư đoàn 25 ngụy ở tây bắc Sài Gòn, đồng thời đẩy nhanh triển khai lực lượng, chuẩn bị cho trận tổng công kích toàn mặt trận.

   Trong 2 ngày đầu tiến công đồng loạt và mạnh mẽ, quân ta đã tiêu diệt nhiều đơn vị chủ lực địch, đánh chiếm làm chủ nhiều căn cứ và mục tiêu quan trọng, phá vỡ các khu vực phòng thủ ngoại vi, bao vây cô lập triệt để Sài Gòn, tạo thế có lợi để thực hành tổng tiến công vào nội đô. Thời cơ mở trận tổng công kích trên toàn mặt trận đã đến. Đêm 28 tháng 4, Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh ra lệnh cho các cánh quân đồng loạt tiến công vào sáng ngày 29, đồng thời chỉ thị cho 2 quân khu (8 và 9) phối hợp tiến công và nổi dậy giải phóng đồng bằng tây Nam Bộ. 5 giờ sáng ngày 29 tháng 4, Bộ Chính trị -gửi điện nhiệt liệt khen ngợi các đơn vị lập được chiến công lớn trong những ngày qua, kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên nhanh chóng đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của địch với khí thế hùng mạnh của một đội quân trăm trận trăm thắng, kết hợp tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn thành phố Sài Gòn - Gia Định, giành thắng lợi triệt để chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại. Lời kêu gọi của Bộ Chính trị và tin chiến thắng được truyền nhanh đến bộ đội đang bừng bừng khí thế tiến công càng thêm sôi sục trào dâng.

   Thực hiện mệnh lệnh tổng tiến công của Bộ tư lệnh chiến dịch, đêm 28 tháng 4, Thường vụ Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định cho Sư đoàn 320 và Sư đoàn 10 hành quân chiếm lĩnh trận dịa đúng thời gian, kế hoạch hiệp đồng chung; đồng thời lệnh cho Sư đoàn 316 áp sát, vây chặt nắm chắc thời cơ chuyển sang tiến công đánh chiếm làm chủ chi khu Trảng Bàng, các cụm pháo binh chuẩn bị sẵn phần tử bắn vào Đồng Dù và sẵn sàng cơ động chi viện cho lực lượng thọc sâu đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, công binh chuẩn bị đầy đủ sẵn sàng bắc lại cầu Bông, cầu Sáng nếu bị địch phá sập. Để kịp thời chỉ huy các đơn vị chiến đấu, sở chỉ huy Quân đoàn chuyển từ Dầu Tiếng về Hố Bò.

   Đêm 28 rạng ngày 29 tháng 4, Sư đoàn 320 (thiếu) được tăng cường 1 tiểu đoàn xe tăng (thiếu), 1 tiểu đoàn pháo 155m (thiếu), Trung đoàn phòng không 593 (thiếu) do sư đoàn trưởng Bùi Đình Hòe và chính ủy Bùi Huy Bổng chỉ huy bí mật triển khai trận địa tiến công căn cứ Đồng Dù. Bộ tư lệnh Quân đoàn cử đại tá Nguyễn Kim Tuấn - Phó tư lệnh trực tiếp xuống sở chỉ huy Sư đoàn 320 giúp đơn vị trong trận đánh quan trọng này.

   Đồng Dù là căn cứ hỗn hợp quy mô lớn có vị trí rất quan trọng, nằm trên trục quốc lộ số 1, án ngữ phía tây bắc Sài Gòn. Đây vốn là hang ổ của sư đoàn 25 Mỹ (Tia chớp nhiệt đới) được xây dựng từ lâu, có hình bầu dục, chu vi gần 8.500m, xung quanh là vùng trắng bằng phẳng trống trải hoang tàn. Khi Sư đoàn 320 tiến công, lực lượng địch trong căn cứ Đồng Dù gồm có: bộ tư lệnh sư đoàn 25, ban chỉ huy trung đoàn 50, tiểu đoàn 2 bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo hỗn hợp, l chi đoàn xe tăng và hậu cứ trung đoàn 10 thiết giáp, các tiểu đoàn công binh, thông tin, vận tải, chiến tranh chính trị, quân y, tiếp cận, chỉ huy căn cứ Củ Chi, trường huấn luyện hạ sĩ quan binh sĩ. Tổng quân số khỏang 3.000 tên, trang bị có 34 xe tăng xe bọc thép, gần 5.000 khẩu súng các loại trong đó có 18 khẩu pháo lớn (có 4 khẩu 175mm - vua chiến trường). Cậy có quân đông, lắm xe, nhiều súng, lại dựa vào hệ thống lô cốt công sự kiên cố bên trong và hệ thống vật cản bao quanh với gần chục hàng rào kẽm gai các loại có gài mìn dày đặc, nên chuẩn tướng Lý Tòng Bá (sư đoàn trưởng sư đoàn 25) rất ngoan cố, bắt quân lính ''tử thủ'' đến cùng. Song trong cơn hấp hối của chế độ bán nước, quân địch ở Đồng Dù tinh thần hoang mang dao động, sa sút, bị cô lập hoàn toàn, khả năng phòng giữ có hạn không thể chống đỡ nổi trước sức tiến công mạnh mẽ của Sư đoàn 320.

   Đúng 5 giờ 30 phút, pháo binh Sư đoàn 320 đồng loạt bắn vào căn cứ Đồng Dù và kéo dài trong suốt 2 giờ liền. Trong tiếng gầm dữ dội của đại bác, xe tăng và pháo phòng không cơ động vào tuyến xuất phát xung phong, bộ binh trên các hướng nổ mìn định hướng và đánh bộc phá liên tục mở bung nhiều lớp rào. Sau 30 phút pháo kích, địch phát hiện được hướng cửa mở của ta và phản ứng mạnh. Chúng điều động bộ binh, xe tăng ra bịt lấp các cửa mở, đồng thời dùng máy bay, pháo cối có cả đạn hóa học đánh vào đội hình tiến công của Sư đoàn 320.

   Trên hướng tiến công chủ yếu tây bắc, Trung đoàn 48 do trung đoàn trưởng Lê Quang Bình và chính ủy Đinh Hữu Tấn chỉ huy, chiến sự diễn ra quyết liệt ngay từ những phút đầu. Tại cửa mở số 1l, Đại đội 3 (tiểu đoàn 1) dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Trần Nhật Tăng và chính trị viên Đào Xuân Sáng, khi mở những hàng rào trong cùng bị địch tập trung hỏa lực bắn chặn dữ dội. Được pháo cối cấp trên chi viện kịp thời, trung đội trưởng Trung đội 7 Nguyễn Hữu Gióng dũng cảm chỉ huy phân đội đánh bộc phá liên tục mở thông cửa mở. Khi hàng rào cuối cùng bị phá tung cũng là lúc các bộc phá viên Nguyễn Khắc Bảo, Nguyên Văn Lĩnh anh dũng hy sinh. 7 giờ 30 phút, pháo cối ngừng bắn, bộ binh xung phong lên cửa mở nhưng bị hỏa lực xe tăng địch trong công sự bắn chặn làm một số chiến sĩ thương vong, không phát triển được. Trước tình hình đó, trung đội trưởng Trung đội 9 Vũ Văn Sơn quan sát mục tiêu, nhanh chóng chọn cách đánh rồi bất ngờ đứng thẳng dậy bắn một quả B40 tiêu diệt chiếc xe tăng. Lập tức bộ đội ào ạt xung phong đánh chiếm đầu cầu. Lúc 8 giờ, 4 xe tăng ta tiến đến khu vực cửa mở, nhưng bị địch bắn cháy 2 chiếc, 1 chiếc hỏng máy dừng lại, chỉ còn 1 chiếc vượt qua cửa mở cùng bộ binh đột phá vào 496 các mục tiêu bên trong cứ điểm. Sau khi đưa toàn bộ lực lượng còn lại vào phát triển tiến công, đến 8 giờ 30 phút Tiểu đoàn 1 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Quang Vinh và chính trị viên Nguyễn Văn Thư chỉ huy đã đánh chiếm được khu vực bãi xe của tiểu đoàn công binh, nhưng bị địch chặn lai. Cùng thời gian này, hướng cửa mở số 2 của Trung đoàn 48 do Tiểu đoàn 3 đảm nhiệm gặp khó khăn. Đại đội 11 mở thông 5 hàng rào, khi mở tiếp 2 hàng rào trong cùng bị xe tăng địch ngăn chặn. Không chút do dự, đại đội trưởng Nguyễn Công Bạ và xạ thủ B41 Nguyễn Tiến Ngọ dũng cảm diệt xe tăng và dập tắt hỏa điểm địch trước cửa mở, tạo điều kiện cho bộc phá viên Lê Văn Sử đánh tung những hàng rào cuối cùng. 7 giờ 30 phút, Tiểu đoàn 3 chiếm được tuyến công sự thứ nhất làm bàn đạp rồi phát triển vào bên trong.

   Ở hướng tiến công thứ yếu tây nam, Trung đoàn 9 do trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Ân chỉ huy, tổ chức mở hai cửa mở nhưng đều gặp khó khăn, bộc phá viên lên đánh hai hàng rào cuối cùng bị địch ngăn chặn không tiếp cận được.

   Lúc 9 giờ, qua đài trinh sát kỹ thuật, ta nắm được tin Lý Tòng Bá ra lệnh cho trung đoàn 46 nguy ở Trảng Bàng, tiểu đoàn 3 (trung đoàn 50) ở Xóm Mới và một chi đội xe tăng ở Củ Chi đi cứu nguy cho Đồng Dù. Trước tình hình diễn biến chiến đấu ở Đồng Dù và âm mưu mới của địch, Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 quyết định tập trung lực lượng trên hướng chính do Trung đoàn 48 đảm trách: đưa Tiểu đoàn 2 cùng 8 xe tăng vào hướng Tiểu đoàn 1 tiến công thọc sâu tiêu diệt sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy rồi phát triển sang các hướng Tiểu đoàn 3 và Trung đoàn 9. Đồng thời nhanh chóng xốc lại đội hình Trung đoàn 9 tiếp tục đột phá, sử dụng Tiểu đoàn 4 và Tiểu đoàn 16 súng máy phòng không ngăn chặn quân dịch tăng viện.

   Thực hiện ý định chiến đấu mới, từ 9 giờ 30 phút đến 10 giờ 30 phút, Tiểu đoàn 2 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu Hạ chỉ huy cùng lực lượng xe tăng phối hợp chặt chẽ với Tiểu đoàn 1 liên tục tiến công đột phá, lần lượt đánh chiếm khu vực hậu cứ trung đoàn 46, khu truyền tin, nhà máy điện, đập tan những ô đề kháng trên đường tiến công thọc sâu. Lúc 10 giờ 30 phút, Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 và Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 đánh chiếm làm chủ sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy. Chuẩn tướng Lý Tòng Bá và ban tham mưu của y đã bỏ chạy. Bộ đội tỏa ra các hướng tiếp tục phát triển tiến công. Ở hướng Tiểu đoàn 3, bộ binh và xe tăng phối hợp đánh chiếm làm chủ các mục tiêu: trận địa pháo, sở chỉ huy trung đoàn 50, khu thiết giáp và sân bay. Cùng thời gian này, Trung đoàn 9 sử dụng Đại đội 7 Tiểu đoàn 5 cùng một bộ phận dự bị của Tiểu đoàn 16 súng máy phòng không đánh bại lực lượng phản kích của tiểu đoàn 3 trung đoàn 50 từ Xóm Mới và 1 chi đội xe tăng ở Củ Chi lên, diệt 100 tên bắt 135 tên, trong đó có tên tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó tiểu đoàn 3 địch. Được phân đội bạn bảo vệ phía sau, 10 giờ 30 phút Tiểu đoàn 5 đột phá được vào bên trong cứ điểm, nhanh chóng đánh chiếm khu huấn luyện, bắt 200 tên địch. Tiểu đoàn 4 không mở được cửa mở, đã cơ động lực lượng qua khu vực nhà thờ Bắc Hà đánh thẳng vào cổng phía nam căn cứ Đồng Dù, chiếm khu tiểu đoàn vận tải, quân y; sau đó phối hợp với phân đội bạn chiếm các mục tiêu còn lại: khu thiết giáp, sân bay và lùng quét tàn binh. 11 giờ ngày 29 tháng 4 năm 1975, Sư đoàn 320 làm chủ hoàn toàn căn cứ Đồng Dù. Lá cờ truyền thống của Đoàn Đồng Bằng phấp phới bay tại trung tâm chỉ huy sư đoàn 25 ngụy báo hiệu trận đánh đã toàn thắng.

   Như vậy chỉ trong 5 giờ tiến công bộ tư lệnh sư đoàn 25 và các lực lượng địch trong căn cứ Đồng Dù đã bị đập tan, 500 tên địch bị chết, 2.269 tên bị bắt làm tù binh, 4.909 khẩu súng các loại (có 9 khẩu đại bác 175, 155, 105mm) 100 máy thông tin, 2 máy bay bị tịch thu, 423 xe quân sự (có 23 xe tăng xe bọc thép) bị thu và phá hủy. Ngày hôm sau (30.4), được nhân dân Củ Chi giúp đỡ, ta đã tóm gọn chuẩn tướng Lý Tòng Bá (sư đoàn trưởng) và đại tá Trần Thắng Chức (sư đoàn phó) cùng một số sĩ quan tham mưu sư đoàn 25 ngụy. Căn cứ Đồng Dù bị đánh chiếm, cánh cửa thép án ngữ tây bắc Sài Gòn đã mở, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng tiến công thọc sâu binh chủng hợp thành của Quân đoàn đánh thẳng về phía nội đô và Sư đoàn 316 tiêu diệt những lực lượng còn lại của địch ở vòng ngoài trên hướng tây bắc Sài Gòn.

   Nắm chắc thời cơ địch ở Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ hoang mang giao động mạnh khi biết tin căn cứ Đồng Dù thất thủ, Sư đoàn 316 kịp thời chuyển từ vây ép và đánh phản kích sang tiến công tiêu diệt các cụm địch. 11 giờ ngày 29 tháng 4, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 148 tiến công làm chủ hoàn toàn khu vực Trà Võ, rồi đánh chiếm Bến Mương, truy kích địch về hướng Gò Dầu Hạ, Bến Đền diệt và bắt hàng trăm tên địch, thu, phá hủy 4 khẩu pháo 105mm và 3 xe tăng. Trung đoàn 149 tiến công làm chủ sở chỉ huy chi khu Trảng Bàng lúc 17 giờ 15 phút, sau đó phát triển đánh chiếm trận địa pháo, chặn đánh liên đoàn 32 biệt động quân rút chạy, diệt 76 tên, bắt 668 tên trong đó có tên liên đoàn trưởng Lê Khải Toàn, thu 2 khẩu pháo 155mm, 6 khẩu cối 106,7mm và hàng trăm súng các loại. Trên hướng Gò Dầu Hạ, Trung đoàn 174 liên tục tiến công, làm chủ toàn bộ khu vực Lào Táo, Phước Hiệp, Cây Trôm, Suối Sâu diệt 100 tên địch, bắt 700 tên, thu toàn bộ vũ khí, kho tàng2. Đến 17 giờ 30 phút, Sư đoàn 316 cùng lực lương vũ trang Tây Ninh cơ bản tiêu diệt và làm tan rã 3 trung đoàn 46, 49, 50 liên đoàn biệt động quân 32, lực lượng bảo an, dân vệ và sẵn sàng cơ động lực lượng vào phát triển tiến công các mục tiêu địch trong thành phố Sài Gòn.

   Phối hợp chặt chẽ với Sư đoàn 320 và Sư đoàn 316 tiến công tiêu diệt địch trên tuyến phòng ngự vòng ngoài, Sư đoàn 10 - lực lượng thọc sâu binh chủng hợp thành của Quân đoàn do sư đoàn trưởng Đoàn Hồng Sơn và chính ủy Lã Ngọc Châu chỉ huy, được tăng cường Trung đoàn 64 Sư đoàn 320, Trung đoàn đặc công 198, Trung đoàn phòng không 234, Trung đoàn xe tăng 273 (thiếu), 1 tiểu đoàn pháo 155mm, 6 cơ cấu A72 được 2 cụm pháo binh (số 4 và 6) chi viện, đánh vào tuyến phòng thủ ngoại vi Sài Gòn từ rất sớm. Phương châm tư tưởng chỉ đạo tác chiến của Sư đoàn là: ''Mạnh bạo, chắc thắng, đánh mạnh, nắm vững thời cơ thọc sâu phát triển nhanh, đánh hiểm, đánh trúng dứt điểm nhanh''. Để mở đường cho chủ lực Sư đoàn cơ động đánh thọc sâu vào sân bay Tân Sơn Nhất, đêm 28 rạng sáng ngày 29 tháng 4 Trung đoàn đặc công 198 và Trung đoàn 64 thực hành luồn sâu áp sát các mục tiêu cầu Bông (trên đường số 1), cầu Sáng (trên đường số 15) và một số mục tiêu khác dọc hai tuyến đường huyết mạch này. Hướng cầu Bông, lúc 3 giờ 30 phút ngày 29, Tiểu đoàn 20 đặc công Trung đoàn 198 với lối đánh luồn lót sở trường bất ngờ tập kích quân địch ở đầu cầu.
 
        Sau những phút dầu chóang váng, tiểu đoàn 81 biệt kích dù ngoan cố chống trả và tổ chức phản kích. Bộ tư lệnh Sư đoàn 10 kịp thời đưa Đại đội 10 Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 vào tiếp sức. Trận đánh kéo dài 50 phút, ta làm chủ hoàn toàn cầu Bông. Trên hướng cầu Sáng, do đường xa, lại phải luồn lách tránh địch tuần phục nên đến 5 giờ sáng ngày 29 chỉ có 1 trung đội đặc công vào được vị trí triển khai và nổ súng. Bọn địch giữ cầu Sáng bị dồn về phía nam cầu nhưng ra sức chống cự. Chủ động phối hợp chiến đấu, Đại đội 3 Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64 đang đến cách cầu hơn 1km đã vận động nhanh, bất ngờ đánh vào cụm địch, cùng lực lượng đặc công làm chủ cầu Sáng. Sau khi lám chủ 2 cây cầu quan trọng trên đường số 1 và số 15, Trung đoàn đặc công 198 có Đại đội 10 Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 phối hợp triển khai lực lượng phòng giữ, khẩn trương gỡ các khối thuốc nổ địch gài dưới chân cầu và phát triển đánh chiếm thành Quan Năm. Trung đoàn 64 sử dụng cả 3 tiểu đoàn đánh vào các mục tiêu: Tiểu đoàn 7 phát triển theo đường 15 tiến công quận lỵ Hoóc Môn, cùng đơn vị bạn làm chủ hoàn toàn căn cứ này lúc 12 giờ; Tiểu đoàn 8 và Đại đội 11 Tiểu đoàn 9 tiêu diệt tiểu đoàn 99 biệt động quân; 10 giờ 20 phút làm chủ Ấp Chợ, sau đó đánh tan một đoàn xe địch từ hướng Hậu Nghĩa về cầu Bông.

   Trong khi tiếng súng mở đường còn đang nổ vang trên hướng cầu Bông, cầu Sáng và ở căn cứ Đồng Dù, lúc 5 giờ 50 phút, đội hình thọc sâu binh chủng hợp thành của Sư đoàn 10 gồm 347 xe cơ giới các loại, trong đó có 49 xe tăng xe bọc thép, 42 xe kéo pháo và 80 xe kéo pháo phòng không, mình tươi lá ngụy trang, phấp phới cờ giải phóng chia làm hai cánh rời vị trí xuất phát, rồi rầm rập tiến về hướng Sài Gòn. Từ ngày nhân dân Nam Bộ vạt ngọn tầm vông, Đứng lên kháng chiến đã 30 năm, đến nay nhân dân vùng tây bắc Sài Gòn mới được chứng kiến cảnh tượng oai hùng, sức mạnh diệu kỳ của một dân tộc quyết không chịu sống đời nô lệ cho ngoại bang, thực hiện bằng được ý nguyện và Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào'' giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trong giờ phút lịch sử tiến vào cửa ngõ Sài Gòn, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 bồi hồi xúc động nhớ đến công lao trời biển của Bác, ai cũng thầm hứa với Người sẽ đem lá cờ quyết chiến quyết thắng cắm lên dinh lũy cuối cùng của bè lũ bán nước.

   Khối cơ động thọc sâu binh chủng hợp thành thứ nhất gồm Trung đoàn bộ binh 24 và các lực lương tăng cường (tiểu đoàn xe tăng, 2 khẩu pháo 85mm, 2 khẩu cối 120mm và 106,7mm, 1 tiểu đoàn pháo phòng không 37mm, 2 cơ cấu A72 và 2 súng phun lửa) với 137 xe cơ giới và gần 2.000 cán bộ, chiến sĩ chia làm 4 thê đội, do trung đoàn trưởng Vũ Văn Tài và chính ủy Bùi Văn Hòe chỉ huy xuất kích từ 5 giờ 50 phút ngày 29 tháng 4. Trên đường hành tiến, Trung đoàn 24 đập tan các lực lượng địch ngăn chặn, rồi theo đường 1 lướt qua Củ Chi, tiêu diệt cụm địch rút chạy ở Tân Phú Trung (diệt 28 xe bọc thép và 5 xe tăng), vượt qua thành Quan Năm, mở đường qua trung tâm huấn luyện Quang Trung, chiếm nhà máy dệt Vinatecco tiếp giáp đầu phía tây sân bay Tân Sơn Nhất lúc 18 giờ. Phát hiện thấy lực lượng thọc sâu của ta, địch tập trung 1 tiểu đoàn bảo an, 1 tiểu đoàn dù và 1 chi đội xe tăng, lợi dụng nhà xưởng, đồn bảo an, công trình kiến trúc ở khu vực tiếp giáp phía tây sân bay lập tuyến phòng ngự mới, ngăn chặn quyết liệt. Chúng dùng cả đạn hóa học bắn mạnh vào đội hình hành tiến của ta làm Trung đoàn 24 phải dừng lại. Trước tình hình đó, trung đoàn trưởng Vũ Văn Tài nhanh chóng điều chỉnh lại đội hình chiến đấu, đưa pháo 85mm lên bắn thẳng vào các hỏa điểm, mục tiêu. Từ 18 giờ đến 19 giờ 30 phút, Trung đoàn 24 và lực lượng xe tăng, pháo binh đánh lui 3 lần phản kích của bộ binh xe tăng địch, rồi chuyển sang tiến công đánh chiếm khu vực ngã ba Bà Quẹo, dồn địch về hướng ngã tư Bảy Hiền. Cùng thời gian này, pháo binh của ta bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất, 2 kho bom và kho đạn pháo 105mm nổ tung, làm rung chuyển cả vùng tây bắc Sài Gòn. 21 giờ ngày 29, Bộ tư lênh Quân đoàn điện thông báo Trung đoàn 24 là mũi tiến công thọc sâu vào Sài Gòn sớm nhất, vượt thời gian quy định.

   Khối cơ động thọc sâu binh chủng hợp thành thứ hai gồm Trung đoàn bộ binh 28, một tiểu đoàn xe tăng (thiếu), 2 khẩu pháo 85mm, 2 khẩu cối 120, 106,7 mm và 1 tiểu đoàn phòng không 37mm do trung đoàn trưởng Nguyễn Đức Cẩm và chính ủy Nguyễn Ngọc Xuân chỉ huy, có 103 xe cơ giới các loại và gần 1.900 cán bộ, chiến sĩ, được tổ chức thành hai thê đội và lực lượng dự bị, hỏa lực xuất phát lúc 6 giờ 30 phút. Theo lộ tiêu và đường công binh làm sẵn, toàn khối nhanh chóng tiến về phía Phú Hòa Đông. Đến đây, lộ tiêu bị mất, ta phải tạm dừng; địch ở Tân Quy dùng 4 khẩu pháo 105mm bắn dồn dập vào đội hình. Trước tình hình dó, trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 quyết định cho bộ binh, xe tăng đánh thẳng vào Phú Hòa Đông mở đường cơ động. Sau 30 phút tiến công, lúc 11 giờ 30 phút, ta làm chủ hoàn toàn đồn bảo an, phát triển chiếm Tân Quy rồi hành tiến theo đường số 15 về hướng Hoóc Môn. 12 giờ 50 phút, 3 xe tăng đi liền nhau vượt cầu Sáng đã làm gãy cầu, đội hình phải dừng lại. Thấy hai bên đường sình lầy khó cơ động xe pháo, trong khi công binh chưa đến kịp, đơn vị phải cơ động gấp nên Bộ tư lệnh Sư đoàn 10 quyết định cho Trung đoàn 28 hành quân ngược trở lại Tân Quy, theo đường 8 ra quốc lộ số 1 tiến về Hoóc Môn. Đến 18 giờ ngày 29, đội hình khối cơ động thứ hai đến khu vực trung tâm huấn luyện Quang Trung thì dừng lại để tìm đường cơ động sang đường số 15 và chuẩn bị đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất.

   Cũng trong ngày 29 tháng 4, trên các hướng chiến dịch, các quân đoàn bạn đều phát triển tiến công thuận lợi, cơ bản đúng như dự kiến, kế hoạch hiệp đồng. Hướng bắc, Quân đoàn 1 tiến công căn cứ Phú Lợi, chiếm Tân Uyên rồi chia làm hai cánh tiến về bắc Lái Thiêu. Hướng đông và đông nam, Quân đoàn 2 đánh chiếm làm chủ căn cứ Nước Trong, Long Bình, chi khu Nhơn Thạch, Thành Tuy Hạ, căn cứ hải quân Cát Lái, giải phóng thị xã Vũng Tàu, dùng pháo tầm xa bắn phá sân bay Tân Sơn Nhất, lực lượng thọc sâu cơ động chuẩn bị đột phá vào nội đô; Quân đoàn 4 tiến công sân bay Biên Hòa, căn cứ thiết giáp Yên Thế, căn cứ pháo binh Hốc Bà Thức và đánh vào tuyến phòng thủ Hố Nai. Ở hướng tây và tây nam, Đoàn 232 chiếm thị xã Hậu Nghĩa, diệt chi khu Đức Hòa, bức rút chi khu Đức Huệ và căn cứ Trà Cúc, vượt sông Vàm Cỏ Đông đưa một lực lượng thọc sâu vào Bà Lai, tuyến đê Đại Hàn, bắc Bà Hom, bắn 200 viên ĐKB vào Tân Sơn Nhất. Phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực tiến công trên các hướng, lực lượng đặc công đánh chiếm và giữ các cây cầu quan trọng chuẩn bị cho các binh đoàn thọc sâu tiến vào nội đô. Thành ủy Sài Gòn đưa hơn 1.700 cán bộ, chiến sĩ biệt động vào thành phố và các xã vùng ven cùng lực lượng vũ trang tại chỗ đánh địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở cơ sở.
   
   23 giờ ngày 29 tháng 4, Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh điện giao nhiệm vụ bổ sung cho Bộ tư lệnh Quân đoàn 3: dùng lực lượng đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy và đây là nhiệm vụ chính thức, không phải nhiệm vụ phát triển hiệp đồng như trước. Vinh dự được cấp trên tin tưởng giao thêm nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang, Bộ tư lệnh Quân đoàn đánh giá tình hình diễn biến chiến đấu, thực lực khả năng tác chiến của đơn vị, cân nhắc phương án tiến công hiệu quả nhất... đã đề nghị Bộ tư lệnh Chiến địch cho Quân đoàn tiến công sân bay Tân Sơn Nhất vào lúc trăng lên, không chờ đến sáng 30 tháng 4. Nhưng xét thấy việc hiệp đồng giữa Quân đoàn 3 với các trận địa pháo chiến dịch ở Nhơn Trạch đánh vào Tân Sơn Nhất có khó khăn, không bảo đảm an toàn nên Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định Quân đoàn 3 vẫn đánh theo kế hoạch đã hiệp đồng vào sáng 30 tháng 4.

   Tranh thủ thời gian quý giá trong đêm, toàn Quân đoàn gấp rút chuẩn bị cho đợt tổng công kích cuối cùng. Sư đoàn 10 dâng đội hình Trung đoàn 24 áp sát các mục tiêu, tăng cường hỏa lực cho các đại đội sẵn sàng đánh chìm sân bay Tân Sơn Nhất; giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 28 sau khi phối hợp đánh chiếm sân bay chuyển sang tiến công Bộ tổng tham mưu ngụy, gấp rút cơ động Trung đoàn pháo binh 4 và Trung đoàn 66 vào triển khai ở vị trí quy định. Sư đoàn 320 sẵn sàng cơ động vào Hoóc Môn làm nhiệm vụ đột kích nội đô theo hướng Biệt khu Thủ đô, dinh Độc lập và bộ tổng tham mưu ngụy.

        Sư đoàn 316 cơ động một lực lượng vào tây nam Hóc Môn làm dự bị cho Quân đoàn, sẵn sàng bước vào phát triển tiến công sân bay Tân Sơn Nhất khi Sư đoàn 10 gặp khó khăn. Lực lượng hậu cần, bảo đảm tập trung vận chuyển đủ đạn dược, phương tiện chiến đấu cho các đơn vị. Để kịp thời chỉ huy chiến đấu trong nội đô, 5 giờ 25 phút ngày 30, sở chỉ huy cơ bản của Quân đoàn 3 chuyển đến tây nam quận lỵ Hoóc Môn. Bộ đội đã sẵn sàng nổ súng.

   7 giờ 15 phút ngày 30 tháng 4, Thiếu tướng Vũ Lăng - Tư lệnh Quân đoàn ra lệnh tiến công. Lập tức các trận địa pháo cối của Quân đoàn và Sư đoàn 10 đồng loạt trút bão lửa xuống sân bay Tân Sơn Nhất và bộ tổng tham mưu ngụy. 8 giờ 30 phút, pháo chiến dịch cũng tham gia bắn vào sân bay. Pháo binh ta bắn chính xác làm cho bộ tư lệnh dù, bộ tư lệnh không quân, bộ tư lệnh thiết giáp và nhiều mục tiêu khác trong sân bay Tân Sơn Nhất chìm trong khói lửa. Giữa lúc quân địch hoang mang dao động, Trung đoàn 24 và xe tăng đột phá vào ngã tư Bảy Hiền. Tại khu vực này, địch có tiểu đoàn dù 8, lực lượng bảo vệ biệt khu Thủ đô và 1 chi đội xe tăng; lợi dụng của sổ nhà gác, sân thượng, ngõ hẻm, ngã ba, ngã tư bố trí lực lượng dày đặc, nhiều tầng ngoan cố chống cự, làm chiến sự diễn ra quyết liệt ngay từ những phút đầu. Đại đội 7 Tiểu đoàn 5 do đại đội trưởng Lê Hồng Tư chỉ huy và 11 xe tăng xe thiết giáp của Đại đội 1 và Đại đội 11 Trung đoàn 273 do đại đội phó (Đại đội 1) Nguyễn Hồng Tư chỉ huy, dũng cảm đột kích mở đường. Mưu trí, gan dạ đại đội trưởng Lê Hồng Tư vừa chỉ huy phân đội cùng xe tăng đánh chính diện, vừa cho một trung đội có chiến sĩ biệt động thành dẫn đường mở một mũi vu hồi trên hướng bệnh viện ''Vì dân'', thọc sâu vào sườn địch. Các chiến sĩ đoàn Trung Dũng phát huy sở trường đánh gần, đánh giáp lá cà giành giật với địch từng căn nhà, góc phố. Trong một lần chỉ huy đột phá, Lê Hồng Tư anh dũng hy sinh. Tấm gương chiến đấu quên mình của người đại đội trưởng quả cảm trước giờ toàn thắng đã thôi thúc cán bộ, chiến sĩ anh dũng tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Hai chiến sĩ Tố và Việt tuy mới nhập ngũ nhưng đã dũng cảm dùng B40 và AK vượt lên trước xe tăng táo bạo đánh địch mở đường.

   Bị đánh mạnh, 2 tiểu đoàn địch vừa chống trả vừa lui dần, bỏ lại xác hàng chục tên và 10 xe tăng, xe ô tô bốc cháy. Phát huy thắng lợi, đại đội phó xe tăng Nguyễn Hồng Tư dẫn đầu phân đội đột kích, dùng khẩu đại liên thu được của địch ở ngã ba Bà Quẹo đặt lên cửa trưởng xe bắn quét vào đội hình địch, rồi cho xe 979 đột phá về hướng cổng số 5 sân bay Tân Sơn Nhất. Nhưng khi vừa phát triển được 100m, xe 979 trúng đạn, cả kíp xe anh dũng hy sinh. Lúc này, xe tăng 985 cũng vừa kịp lên, song khẩu pháo trên xe bị địch bắn hỏng. Thấy xe địch ở cự ly quá gần, trưởng xe Mai Trọng Hoạt lệnh cho lái xe Phùng Văn Tính lao thẳng xe vào đám tăng địch, rồi ép chiếc M48 vào tường, buộc bọn địch ở trong xe mở cửa xin hàng. Lúc 8 giờ 5 phút, một chiếc máy bay L19 của địch xuất hiện trên bầu trời, các chiến sĩ Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 234 kịp thời bắn những loạt đạn chính xác, làm nó bùng cháy rồi lao xuống hè phố Lê Thánh Tông. Đây là chiếc máy bay cuối cùng của địch bị bắn rơi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

   Sau gần 1 giờ chiến đấu, lúc 8 giờ 45 phút, Trung đoàn 24 và lực lượng xe tăng pháo binh phòng không tăng cường đá hoàn toàn làm chủ khu vực ngã tư Bảy Hiền, rồi nhanh chóng phát triển về cổng số 5 sân bay Tân Sơn Nhất. Nhận thấy tình hình chiến đấu có nhiều thuận lợi, trung đoàn trưởng Vũ Văn Tài yêu cầu pháo cấp trên thôi bắn, đồng thời lệnh cho Tiểu đoàn 5 và xe tăng đánh chiếm mục tiêu. Lập tức tiểu đoàn 5 do tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Chuyển chỉ huy phối hợp với Tiểu đoàn 1 xe tăng của tiểu đoàn trưởng Chu Khánh Tồn thực hành đột phá. Khi ta tiến đến cách địch khỏang 100m bị hỏa lực B90, ĐKZ, hỏa tiễn X202, xe tăng thiết giáp từ trong cổng số 5, các lô cốt ven đường và các tay súng ở nhà tầng bắn chặn xối xả. 2 xe tăng và 1 xe K63 của ta bốc cháy. Đại đội 7 xung phong liền mấy lần nhưng vẫn không đột phá được qua cổng, một số chiến sĩ thương vong. Trước tình hình đó, trung đoàn phó Trung đoàn 24, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn trưởng xe tăng lên nắm tình hình và tổ chức lực lượng tiếp tục đột phá. Chỉ huy trung đoàn điều thêm 4 xe tăng và 2 pháo 85mm lên trực tiếp chi viện cho Đại đội 5 tiến công. Khi xe kéo pháo 85mm vừa tiến vào vị trí triển khai thì bị địch bắn trúng thùng xe làm đạn nổ, xe cháy, súng hỏng, pháo thủ thương vong. Sau ít phút triển khai, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 1 xe tăng tập trung hỏa lực bắn mãnh liệt vào các hỏa điểm, lô cốt chi viện cho Đại đội 5 và xe tăng đột phá. Khi phát triển sang bên trái nghĩa trang, ba xe tăng đi đầu của ta bị địch bắn hỏng nằm cản đường tiến của các xe phía sau. Mặc dù xe hỏng, bom đạn ác liệt, nhưng các kíp xe vẫn kiên quyết bám trụ dùng súng 12,7mm và đại liên trên xe đánh địch. Pháo thủ xe tăng Nguyễn Trần Đoàn bị thương dập nát cánh tay, nhờ động đội cắt bỏ cánh tay hỏng cho khỏi vướng, rồi tiếp tục chiến dấu. Tấm gương quả cảm của Nguyễn Trần Đoàn đã cổ vũ thôi thúc đồng đội xông lên tiêu diệt địch.

   Sau 1 giờ tiến công đột phá, 9 giờ 45 phút Đại đội 5 do chính trị viên Đỗ Trọng Lợi chỉ huy đã chiếm được cổng số 5 sân bay Tân Sơn Nhất rồi cùng Đại đội 6 phát triển đánh vào bên trong, Đại đội 7 chốt giữ khu vực cổng. Trên đường tiến công, Đại đội 5 chia thành 3 mũi nhanh chóng đánh chiếm khu truyền tin, bộ tư lệnh sư đoàn 5 không quân, câu lạc bộ, chia cắt địch ở sân bay Tân Sơn Nhất với bộ tổng tham mưu ngụy. 10 giờ 30 phút, mũi một Đại đội 5 bắt được 57 tên địch, trong đó có 3 đại tá: Lê Hữu Tiền (chỉ huy trưởng khu truyền tin), Trần Quang Thái (phụ trách chiến tranh tâm lý) và Nguyễn Duy Phụng (sư đoàn phó sư đoàn 5 không quân). Lợi dụng kết quả chiến đấu của đơn vị bạn, Đại đội 6 đánh chiếm khu cố vấn, ra đa, điện nước và tiến vào khu để máy bay3.

   Ngay khi Tiểu đoàn 5 và xe tăng đánh qua cổng số 5 vào bên trong sân bay, Trung đoàn 24 kịp thời đưa 2 tiểu đoàn 4 và 6 vào phát triển chiến đấu. Nhưng do nhận lệnh không rõ ràng, đường sá mới lạ, địch đánh phá ngăn chặn nên bị lạc, sau đó quay lại tiến đánh dọc theo đường Hoàng Hoa Thám. 9 giờ, Tiểu đoàn 4 bắt đầu đột phá vào sân bay Tân Sơn Nhất, nhanh chóng đánh chiếm bộ tư lệnh dù, bắt liên lạc với phái đoàn quân sự của ta ở trại Đa-vít, chiếm sân bay trực thăng và khu tiểu đoàn 2 công vụ. 10 giờ 30 phút, một cuộc hội ngộ cảm động đã diễn ra giữa những người lính trên hai mặt trận chiến đấu và ngoại giao.

        Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn (Trưởng phái đoàn quân sự của ta) ôm hôn các chiến sĩ đoàn Trung Dũng quần áo sạm màu thuốc súng giữa lúc tiếng đạn vang rền khắp sân bay mà ai cũng nước mắt lưng tròng. Theo yêu cầu của trưởng đoàn quân sự, Đại đội 9 được lệnh ở lại chốt giữ trại Đa-vít, bảo vệ phái đoàn quân sự.

   Đúng 10 giờ 35 phút, lá cờ chiến thắng được các chiến sĩ Đại đội 10 và Đại đội 11 Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 24 kéo lên đỉnh cột cờ của bộ tư lệnh không quân ngụy, phấp phới bay trong nắng báo hiệu sân bay Tân Sơn Nhất đã hoàn toàn thuộc về ta. Bộ đội tỏa ra các hướng tiếp tục truy lùng tàn binh địch và chốt giữ các mục tiêu.

   Trên hướng Trung đoàn 28, do bộ phận đi đầu đi nhầm vào trại Quang Trung, đến 8 giờ 20 phút quay trở lại vị trí xuất phát, sau đó cơ động về hướng tây bắc sân bay Tân Sơn Nhất. 9 giờ, đội hình đi đầu của Trung đoàn 28 đến ngã tư Bảy Hiền, tiến qua khu vực Lăng Cha Cả gặp Trung đoàn 24 đang đánh vào sân bay. Thấy đường Võ Tánh bị xe cháy làm tắc nghẽn, sư đoàn phó Võ Khắc Phụng và trung đoàn phó Đỗ Công Mùi cho đội hình hành tiến theo đường Trương Minh Ký, qua nhà thờ Tân Châu Sa, rẽ sang đường Thoại Ngọc Hầu rồi trở lại đường Võ Tánh đánh vào Bộ tổng tham mưu ngụy. Tại dinh lũy cuối cùng của quân ngụy, bộ binh xe tăng địch dựa vào công sự, nhà gác ngoan cố chống cự bịt cổng chính và cơ động một mũi từ phía nam tới phản kích. 10 giờ Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 28 cùng xe tăng thiết giáp do tham mưu phó trung đoàn Lê Ngọc Tùng chỉ huy đánh thẳng vào cổng chính Bộ tổng tham mưu ngụy. Xe tăng 815 do đại đội phó Đỗ Hồng Kỳ chỉ huy bắn cháy chiếc xe tăng đi đầu của địch và diệt thêm 1 chiếc xe M113. Trước sức tiến công áp đảo của ta, 3 xe tăng, xe bọc thép của địch bị bắn cháy, hàng chục tên địch bị tiêu diệt, đại đội giữ cổng bộ tổng tham mưu ngụy đầu hàng, số còn lại hỏang loạn tháo chạy. Thừa thắng, hai mũi tiến công của Trung đoàn 28 đánh qua cổng chính và cổng phía đông nam vào bên trong. Xe tăng số 982 do chính trị viên Nguyễn Hữu Thìn và xe tăng số 815 của Đỗ Hồng Kỳ dẫn đầu đội hình tiến công lao thẳng lên thềm tòa nhà chính của tổng hành dinh quân ngụy. Cùng lúc, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320B Quân đoàn 1 do trung đoàn trưởng Đoàn Trưng và chính ủy Lê Xuân Yến chỉ huy, sau khi đánh chiếm được nhiều mục tiêu trong khu vực Bộ tổng tham mưu ngụy, cũng đang áp sát tòa nhà này. 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 lá cờ chiến thắng được trung đội phó Trần Lựu và tiểu đội trưởng Nguyễn Duy Tân thuộc Đại đội 10 anh hùng Trung đoàn 28 kéo lên đỉnh cột cờ chính giữa tầng thượng ngôi nhà ''Bộ tổng tham mưu quân lực Việt Nam cộng hòa'', tung bay trong gió. Tiếp đó, tổ cắm cờ của Lại Đức Lưu, Hoàng Xuân Yến, Nguyễn Văn Đông thuộc Trung đoàn 48 cũng cắm một lá cờ giải phóng ở phía bên góc trái tầng thượng ngôi nhà. Ngay sau đó, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 28 tỏa ra kiểm soát mục tiêu vừa chiếm. Dưới sự chỉ huy của chính ủy trung đoàn Nguyễn Ngọc Xuân và chính trị viên Tiểu đoàn 3 Nguyễn Văn Quý, các chiến sĩ Trung đoàn 28 tiến vào các phòng làm việc, thu gậy chỉ huy, giấy thông hành, lon ''trung tướng'' và con dấu ''Tổng thống'' của Nguyên Văn Thiệu; thanh kiếm chỉ huy của Cao Văn Viên cùng nhiều tài liệu quan trọng của bộ máy chỉ huy quân sự đầu não địch, những chứng tích tội ác của bè lũ bán nước.

   Trong khi Trung đoàn 24 và Trung đoàn 28 phát triển tiến công, để hỗ trợ cho đơn vị bạn, Bộ tư lệnh Sư đoàn 10 cho Trung đoàn 64 cơ động về hướng nhà máy dệt Vinatecco và nam sân bay Tân Sơn Nhất. Nhưng trên đường cơ động, đơn vị bạn đã đánh vào sân bay. Lúc 9 giờ 45 phút, ta nhận được tin Tổng thống ngụy Dương Văn Minh đề nghị ngừng bắn để thương lượng, Bộ tư lệnh Quân đoàn lệnh cho 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 64 và 1 đại đội xe K63 do phó chính ủy Quân đoàn Phí Triệu Hàm và tham mưu phó Quân đoàn Nguyễn Quốc Thước trực tiếp chỉ huy đánh thẳng về dinh Độc Lập. Nhưng lực lượng của Trung đoàn 64 chưa đến kịp, đồng chí Phí Triệu Hàm và đồng chí Nguyễn Quốc Thước cho đại đội xe K63 tiến theo đường Lê Văn Duyệt rẽ sang đường Hồng Thập Tự vào phía sau dinh Độc Lập. Lúc này Quân đoàn 2 đã làm chủ mục tiêu, nên đại đội xe K63 quay lại. Cùng lúc này, Trung đoàn 64 chia làm hai mũi tiến công, nhờ xe của nhân dân cơ động đánh địch. Mũi thứ nhất gồm Tiểu đoàn 9 và hỏa lực tăng cường đánh vào phía nam dinh Độc Lập. 12 giờ 15 phút, Đại đội 10 chiếm một số nhà thuộc trung tâm thi hành Hiệp định Pa-ri và cổng phía tây nam dinh Độc Lập, rồi tỏa ra chiếm Quận 3. Mũi thứ hai của Trung đoàn 64 phát triển theo đường Công Lý vào nhà Dương Văn Minh, đến cư xá sĩ quan Mỹ (cách dinh Độc Lập 300m) gặp địch từ các nhà cao tầng hai bên đường ngoan cố bắn chặn. Các chiến sĩ triển khai đội hình chiến đấu ngay trên hè phố đánh địch. Đến 14 giờ, có lực lượng xe tăng chi viện, ta đánh chiếm làm chủ mục tiêu tòa đại sứ Mỹ và các mục tiêu lân cận. Trong đợt chiến đấu này, Trung đoàn 64 có 4 chiến sĩ hy sinh và 12 chiến sĩ bị thương. Đây là những mất mát hy sinh cuối cùng của Quân đoàn 3 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

   Cũng trong sáng ngày 30 tháng 4, trên các hướng tiến công khác của chiến dịch Hồ Chí Minh, các quân đoàn 1, 2, 4, Đoàn 232 cùng quân và dân Sài Gòn - Gia Định tổng công kích và nổi dậy mạnh mẽ, nhanh chóng đập tan sự kháng cự của địch, đánh chiếm các mục tiêu chiến lược và giành chính quyền ở cơ sở. 11 giờ 30 phút, lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 2 đã đánh chiếm, làm chủ dinh Độc Lập, bắt Tổng thống ngụy Dương Văn Minh và toàn bộ nội các ngụy quyền Sài Gòn. Cờ giải phóng tung bay trước tòa nhà chính của dinh Độc Lập, đánh dấu chế độ ngụy quyền Sài Gòn đã hoàn toàn sụp đổ, thành phố Sài Gòn được hoàn toàn giải phóng, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Ngụy quân, ngụy quyền trung ương đầu hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân đồng bằng sông Cửu Long tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn vùng đất cực nam của Tổ quốc vào ngày 2 tháng 5, hoàn thành trọn vẹn cuộc Tổng tiến công lịch sử mùa xuân năm 1975.

   Trải qua 10 ngày đêm chiến đấu gian khổ, ác liệt với những mất mát hy sinh, Quân đoàn 3 đã diệt, bắt, gọi hàng 19.084 tên địch (không kể khỏang 2 vạn tên đang huấn luyện). Tiêu diệt 1 sư đoàn (25), 1 thiết đoàn xe tăng (10), 3 liên đoàn biệt động quân (32, 9, 33), diệt và làm tan rã lữ đoàn dù số 4, trại huấn luyện Quang Trung, 14 tiểu đoàn bảo an, 1 liên đoàn công binh (5) và toàn bộ lực lượng cảnh sát, dân vệ của các quận Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ (Tây Ninh), Củ Chi, Hoóc Môn (Gia Định), Phú Hòa (Bình Dương). Quân đoàn đã đánh chiếm và làm chủ Gò Dầu Hạ, Trảng Bàng, Đồng Dù, Hoóc Môn, Thành Quan Năm, trung tâm huấn luyện Quang Trung, sân bay Tân Sơn Nhất, bộ tổng tham mưu ngụy, Quận 3 Sài Gòn; phá hủy phá hỏng 1.063 súng, 63 xe tăng xe bọc thép, 136 xe ô tô, bắn rơi 6 máy bay; thu 6.830 khẩu súng các loại (có 61 pháo cối lớn) 24 xe tăng xe bọc thép, 500 ô tô và toàn bộ sân bay Tân Sơn Nhất với trên 300 máy bay các loại.

   Để làm nên chiến công chói lọi, góp phần xứng đáng vào chiến thắng huy hoàng ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn Quân đoàn có 382 cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, 1.139 đồng chí bị thương trước giờ toàn thắng. Tổ quốc và nhân dân mãi mãi ghi nhớ công ơn những chiến sĩ đã không tiếc máu xương vì nền độc lập, tự do dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

   




--------------------------------------------------------------------
1. Lời tuyên bố của Tổng thống Mỹ G.Pho ngày 23.4.1975 tại Trường đại học New Orleans.
2. Trích điện số 38 (ngày 7.5.1975) báo cáo ''Tóm tắt kết quả và diễn biến chiến đấu của Sư đoàn 2''Lịch sử Sư đoàn 316, tập 2. Nxb QĐND, H.1986, tr. 314, 315.
3. Lịch sử Trung đoàn 24, Sư đoàn 10 (1945-1995). Nxb QĐND, H. 1997, tr. 210, 211.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #85 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2021, 02:32:05 pm »

        Đánh giá cao những thành tích và cống hiến hy sinh của cán bộ, chiến sĩ, các đơn vị của Quân đoàn 3 trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Quốc hội, Chính phủ đã tặng 5 Huân chương Quân công giải phóng hạng nhất cho Sư đoàn 10, Sư đoàn 320, Trung đoàn 48, Trung đoàn 24, Trung đoàn xe tăng 273; tặng 6 Huân chương Quân công giải phóng hạng nhì cho Sư đoàn 316, Trung đoàn 28, Trung đoàn 64, Trung đoàn đặc công 198, Trung đoàn pháo binh 675, Trung đoàn pháo binh 40; tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng ba cho các trung đoàn 148, 149, 174, 178 (Sư đoàn 316), 9, 54 (Sư đoàn 320); 4 (Sư đoàn 10), Trung đoàn công binh 7, Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Hậu cần; các tiểu đoàn: 1 (Trung đoàn 48), 9 (Trung đoàn 64), 5 và 6 (Trung đoàn 24), 1 (Trung đoàn 148), 5 (Trung đoàn đặc công 198), 1 (Trung đoàn xe tăng 273); 827 (Cục Hậu cần), 2 (Trung đoàn 675), 2 (Trung đoàn 40), 1 (Trung đoàn 234), Tiểu đoàn 28 trinh sát (Bộ Tham mưu), các đại đội 10 (Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 28), 9 (Tiểu đoàn 3) và 5 (Tiểu đoàn 2) Trung đoàn xe tăng 273.

        Tặng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất cho các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của 3 sư đoàn (10, 320, 316), các tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 64), 3 ( Trung đoàn 174), 4 (Trung đoàn 148), 9 (Trung đoàn 149), 12 (Trung đoàn 178), 99 (Trung đoàn 232), 12 (Trung đoàn 54), 3 (Trung đoàn 675), 1 (Trung đoàn 40), 2 (Trung đoàn 7), 33 (Trung đoàn 40): Hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ được tặng Huân chương Chiến công các hạng.

   Tổng kết chiến địch Hồ Chí Minh, Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh đã nhận xét: ''Quân đoàn 3... đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, có thể nói là đặc biệt xuất sắc''1.

   Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đoàn 3 lần thứ nhất (5.1976) đã khẳng định: ''Trong chiến dịch lịch sử mang tên Bác... toàn Quân đoàn ra quân với một khí thế cách mạng sôi nổi chưa từng có, với một sức mạnh mới và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao, góp phần tích cực vào thắng lợi lịch sử của chiến dịch Hồ Chí Minh... Trải qua chiến dịch này, Quân đoàn đã xây dựng bộ đội tiến lên một bước mới: cơ động từ xa đến đánh tập trung... vào thành phố lớn, nhịp độ tấn công cao, thời gian chuẩn bị ngắn, kết hợp hoàn chỉnh các thủ đoạn đột phá, thọc sâu luồn sâu trong chiều sâu tương đối lớn, khi dứt điểm lực lượng Quân đoàn còn sung sức''2.

*

   Ra đời vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cơ sở chuyển gọn khối bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên vừa hoàn thành xuất sắc chiến dịch Tây Nguyên, Quân đoàn 3 vừa mang những đặc điểm chung của một binh đoàn chủ lực cơ động binh chủng hợp thành của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, vừa có những nét độc đáo riêng. Ngay từ khi thành lập, Quân đoàn đã có tổ chức ổn định, chặt chẽ, cân đối, sức cơ động cao, khả năng đột phá mạnh. Bộ tư lệnh, 3 cơ quan Quân đoàn, các đơn vị và cán bộ, chiến sĩ đều đã được tôi luyện và lớn lên trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, lập nhiều chiến công oanh liệt. Sau chiến dịch Tây Nguyên trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng và đánh độc lập được nâng cao, nhiều kinh nghiệm tổ chức chỉ huy và chiến đấu được tích lũy, truyền thống ''Quyết thắng, Sáng tạo, Đoàn kết, Thống nhất, Nghiêm túc, Tự lực" của lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên được kế thừa và phát huy trong điều kiện mới.

   Thành lập chưa đầy 10 ngày, Quân đoàn 3 đã vinh dự nhận nhiệm vụ đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Quán triệt sâu sắc quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân đoàn nhanh chóng cơ động toàn bộ lực lượng từ các tỉnh Tây Nguyên và duyên hải miền Trung Trung Bộ vừa giải phóng về hướng tây bắc Sài Gòn, kịp thời tham gia chiến dịch.

        Với quyết tâm rất cao, khí thế sục sôi cách mạng, nắm vững phương châm ''Mạnh bạo, chắc thắng, đánh mạnh, đánh liên tục, nắm chắc thời cơ thọc sâu phát triển nhanh'', trong đội hình chiến dịch lớn, cán bộ, chiến sĩ quân đoàn tiến công địch với thế áp đảo hoàn toàn. Vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm và nghệ thuật tiến công địch trong chiến dịch Tây Nguyên, Quân đoàn tiến hành đồng thời giữa tiến công, bao vây, tiêu diệt địch ở vòng ngoài với tiến công thọc sâu của các khối cơ động binh chủng hợp thành mạnh vào nội đô; kết hợp chặt chẽ giữa tiến công của bộ đội chủ lực với đánh địch rộng khắp của lực lượng vũ trang địa phương và nổi dậy đồng loạt của quần chúng; biết dựa vào địa phương để khắc phục những khó khăn về chiến trường mới lạ; đồng thời vận dụng linh hoạt nhiều hình thức chiến thuật, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Quân đoàn và các đơn vị đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại nhất, trọn vẹn nhất, đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, kết thúc 30 năm chiến tranh lâu dài, gian khổ chống ngoại xâm của dân tộc.

   Những chiến công to lớn vừa lập được trong chiến dịch Hồ Chí Minh, không những đánh dấu bước trưởng thành mới vượt bậc của Quân đoàn, để lại những bài học kinh nghiệm vô giá, mà còn mãi mãi là niềm tự hào nâng bước người chiến sĩ binh đoàn Tây Nguyên vững bước tiến vào kỷ nguyên mới của cách mạng Việt Nam: Một chặng đường mới của Quân đoàn 3 lại bắt đầu.




--------------------------------------------------------------------

1. Phát biểu của Đại tướng Văn Tiến Dũng tại Hội nghị tổng kết của Quân đoàn 3 tháng 7 năm 1975, tr. 1.
2. "Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đoàn 3 lần thứ nhất", tr.4,5.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #86 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2021, 02:34:50 pm »

Chương sáu
XÂY DỰNG CHÍNH QUY,
CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM
VÀ LÀM NHIỆM VỤ QUỐC TẾ Ở CAM-PU-CHIA
(5.1975 - 6.1979)


   1. Xây dựng chính quy, nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo vệ các địa bàn được giao (5.1975 - 9.1977).

   Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta. Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới: độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Với khí thế cách mạng vô cùng sôi nổi, tràn đầy phấn khởi và niềm tin quân và dân ta tiếp tục tiến lên dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ''Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".

   Ngày 1 tháng 5 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ cụ thể trong thời kỳ quân quản thành phố Sài Gòn cho các quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232, Đoàn 559. Trong đó trọng tâm trước mắt là tiếp tục truy quét tàn binh, tiếp quản giữ gìn các cơ sở quân sự, hậu cần, kỹ thuật của địch, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Quân đoàn 3 được giao đảm nhiệm các khu vực nam Tây Ninh, Củ Chi, Hóc Môn, sân bay Tân Sơn Nhất và Quận 3.

   Là một đơn vị chủ lực, nhiều năm làm nhiệm vụ chiến đấu, quen thuộc địa bàn rừng núi Tây Nguyên; nay chuyển sang phòng giữ các mục tiêu quan trọng trong thành phố, bảo vệ kho tàng trang thiết bị kỹ thuật, tài sản của Nhà nước và truy quét tàn binh, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội... cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn không khỏi bỡ ngỡ. Lần đầu tiên làm nhiệm vụ và xây dựng trong hòa bình với những thuận lợi cơ bản, nhưng bên cạnh cũng còn một số khó khăn: công việc bề bộn và mới mẻ song kinh nghiệm còn hạn chế, điều kiện mới hoàn cảnh mới cũng nảy sinh diễn biến tâm lý tư tưởng phức tạp ở không ít cán bộ, chiến sĩ, trong khi đó kẻ địch tuy đã bị đánh đổ hoàn toàn nhưng vẫn không từ bỏ âm mưu đen tối chống phá cách mạng. Trong tháng 5 và đầu tháng 6, khu vực Quân đoàn 3 phụ trách xảy ra 37 vụ hoạt động của địch: ném lưu đạn, bắn lén, gài mìn, thả thuốc độc vào thức ăn, nước uống, bắt cóc, giả danh bộ đội trấn lột cướp của... làm 15 người chết (có 4 chiến sĩ Sư đoàn 10), hàng chục người bị thương, 3 người ngộ độc. Hàng nghìn tên ngụy quân ngụy quyền không chịu ra trình diện chính quyền cách mạng. Được những tên CIA, phủ đặc ủy tình báo trung ương cũ của ngụy, đặc vụ nước ngoài chỉ đạo, chúng thay tên đổi họ, chuyển nơi ẩn náu, tập hợp lực lượng, củng cố tổ chức, toan tính những mưu đồ đen tối thời hậu chiến. Lợi dụng lúc chính quyền cơ sở của ta đang trong giai đoạn hoàn chỉnh, ở một số nơi bọn phản động dựng lên những chính quyền ''tự quản'', mở trụ sở, giương cờ cách mạng để khống chế, lừa mị quần chúng, tập họp băng đảng và tranh chấp chính quyền với cách mạng; hoặc tìm mọi cách chui vào bộ máy chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương âm mưu tính kế lâu dài. Hòa trong ''bản đồng ca'' phản cách mạng, các thế lực cơ hội chính trị nặn ra cái gọi là ''mặt trận nhân dân Việt Nam tranh thủ hòa bình'', ''lực lượng tự do'', ''lực lượng hòa giải''... đòi có địa vị trong chính quyền mới, hòng "đục nước béo cò''. Những âm mưu và hoạt động chống phá cách mạng đó đã làm ảnh hưởng đến trật tự an ninh và cuộc sống của nhân dân, cần được kiên quyết ngăn chặn, xóa bỏ.

   Để hoàn thành tốt nhiệm vụ mới, ngày 2 tháng 5 năm 1975 Bộ tư lệnh Quân đoàn ra chỉ thị (số 368/M2) thống nhất quản lý, chỉ đạo, chỉ huy công tác quân quản và giao nhiệm vụ cho các đơn vị, cơ quan đảm nhiệm 6 khu vực. Khu vực 1 gồm Quận 3 nội thị, sân bay Tân Sơn Nhất đến ngã ba Bà Quẹo do Sư đoàn 10 (có 1 tiểu đoàn xe tăng phối thuộc) phụ trách. Khu vực 2 từ ngã ba Bà Quẹo, đến Thành Quan Năm, do Cục Hậu cần, Trung đoàn xe tăng 273, Trung đoàn phòng không 234, Trung đoàn công binh 7 đảm nhiệm và thủ trưởng Cục Hậu cần chỉ huy chung. Khu vực 3 gồm địa bàn cầu Bông, cầu Sáng đến Đồng Dù, Củ Chi, do: Sư đoàn 320, Trung đoàn phòng không 593, Trung đoàn pháo binh 40 đảm nhiệm và Bộ tư lệnh Sư đoàn 320 chỉ huy. Trung đoàn pháo binh 675 và Trung đoàn đặc công 198 phụ trách khu vực 4: Tân Quy, xóm Hành, ấp Chánh, Ngã Ba. Trung đoàn công binh 575 đảm nhiệm khu vực 5: Phú Hòa Đông. Sư đoàn 316 và trung đoàn phòng không 232 phụ trách khu vực 6: Phước Mỹ, Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ, do Bộ tư lệnh Sư đoàn 316 chỉ huy, Trường Quân chính tham gia giữ gìn an ninh chính trị trật tự xã hội ở thị xã Plei Ku tỉnh Gia Lai. Tiếp đó, trong tháng 5, Bộ tư lệnh Quân đoàn ra các chỉ thị "Về giáo dục rèn luyện kỷ luật tác phong, nâng cao ý thức cảnh giác sẵn sàng chiến đấu'', về thu hồi chiến lợi phẩm và giao cho các đơn vị đảm nhiệm thu hồi trong từng khu vực cụ thể.

   Thực hiện các chỉ thị trên, những ngày đầu tháng 5 các đơn vị, cơ quan khẩn trương điều chỉnh, bố trí lại đội hình đứng chân, triển khai kế hoạch tác chiến tại chỗ, bảo vệ mục tiêu, thống nhất chỉ huy, tổ chức lùng quét làm trong sạch địa bàn. Hàng chục đội công tác cấp trung đội, đại đội nhanh chóng tỏa về các địa phương làm nhiệm vụ. Được sự giúp đỡ, phối hợp chặt chẽ của cấp ủy Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang, nhân dân địa phương, các đội công tác vừa kiên quyết trấn áp, vừa tích cực tuyên truyền thuyết phục vận động đã buộc hàng trăm tên ngụy quân ngụy quyền đang lẩn trốn ra trình diện, chặn đứng nhiều âm mưu tội ác manh nha, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chính quyền cách mạng và cuộc sống bình yên của nhân dân. Song song với các hoạt động lùng quét tàn binh địch, toàn Quân đoàn triển khai thống nhất hệ thống trực chỉ huy, trực ban, trực chiến, canh gác, tuần tra, kiểm soát quân sự, chế độ báo cáo giao ban. Tại khu vực trọng điểm sân bay Tân Sơn Nhất, Trung đoàn phòng không 234 triển khai các trận địa ở phía bắc, sẵn sàng bắn máy bay địch. Sư đoàn 10 phòng giữ sân bay, tổ chức các vọng gác nghiêm ngặt, mỗi vọng gác có từ 4 đến 6 chiến sĩ, có cán bộ trung đội trở lên trực tiếp chỉ huy; các tiểu đoàn đều có đội tuần tra hoạt động thường xuyên và lực lượng trực chiến, đầy đủ phương tiện cứu hỏa. Vì vậy, đơn vị đã vô hiệu hóa các hoạt động phá hoại của địch, bàn giao đầy đủ máy bay, xe cộ, thiết bị, kho tàng, nhà xưởng cho các đơn vị của quân chủng Phòng không - Không quân và Bộ Tổng tham mưu; trong đó có khu ''quy chuẩn vật lý'' với trang thiết bị quý hiếm còn nguyên vẹn.

   Bên cạnh những nhiệm vụ trên, Quân đoàn còn hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện cho 4 khối diễu binh gồm 518 cán bộ, chiến sĩ, tham gia lễ mừng chiến thắng (15.5.1975) tại thành phố Sài Gòn; bắc xong cầu Sáng dài 42m, rộng 4,5m, tải trọng 20 tấn nối thông đường số 15 từ Củ Chi đi Sài Gòn, bước đầu thu hồi vũ khí trang bị của địch, khắc phục chướng ngại trên một số khu vực, dò gỡ được 200 quả mìn. Cùng thời gian này, Quân đoàn triển khai công tác tổng kết chiến dịch và chiến đấu trong chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh, giải quyết chính sách, tổ chức bình công khen thưởng và làm công tác vận động nhân dân.

   Giữa những ngày sôi động, phấn khởi làm nhiệm vụ trên địa bàn tây bắc Sài Gòn vừa giải phóng, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 rất xúc động được Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Tổng tham mưu trưởng, Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trần Quốc Hoàn đến thăm Quân đoàn bộ tại sân bay Tân Sơn Nhất. Các đồng chí đã ân cần thăm hỏi cán bộ, chiến sĩ, biểu dương Quân đoàn 3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong hai chiến dịch Tây Nguyên và Hồ Chí Minh lịch sử; đồng thời căn dặn cán bộ, chiến sĩ phải luôn luôn nhớ và biết ơn Đảng, Bác Hồ vĩ đại, biết ơn các anh hùng, liệt sĩ đã hiến dâng cả đời mình cho cách mạng, biết ơn nhân dân cả nước đã cưu mang, đùm bọc, nuôi dưỡng. Về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong giai đoạn mới, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ rõ: ''Tích cực xây dựng lực lượng quốc phòng hùng mạnh để bảo vệ thành quả cách mạng; đồng thời hăng hái tham gia lao động sản xuất, tạo ra nhiều của cải cho đất nước. Trước mắt, phải rèn luyện tư tưởng thống nhất trong cả nước, trong Đảng, trong quân đội; rèn luyện tinh thần đoàn kết nhất trí cao trong toàn dân, toàn Đảng và trong toàn thể cán bộ, chiến sĩ; trên cơ sở đó đưa cách mạng tiến lên''.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #87 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2021, 02:43:40 pm »

*

   Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, đầu tháng 6 năm 1975, Quân đoàn 3 bàn giao địa bàn sân bay Tân Sơn Nhất, Quận 3 và ngoại vi tây bắc Sài Gòn cho đơn vị bạn, di chuyển đội hình về tỉnh Thủ Dầu Một và vùng Củ Chi. Thời gian này Bộ tư lệnh Quân đoàn tiến hành điều chỉnh vị trí đóng quân một số đơn vị cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Quân đoàn bộ, Trung đoàn 29 thông tin, Viện Quân y 211, tiểu đoàn cảnh vệ và tiểu đoàn trinh sát pháo binh ở thị xã Phú Cường và thành Công Binh. Sư đoàn 320, Trung đoàn công binh 7, Trưng đoàn pháo binh 40, Trung đoàn xe tăng 273 đóng quân ở căn cứ Đồng Dù. Sư đoàn 10 ở căn cứ Phú Lợi và huyện Lái Thiêu. Sư đoàn 316 và Trung đoàn phòng không 234 ở Lai Khê, Bến Cát. Cùng thời gian này, Trung đoàn đặc công 198 và nhiều phân đội pháo binh lần lướt được Bộ điều động rời khỏi Quân đoàn, bổ sung cho các quân binh chủng bạn.

      Sư đoàn 320 bàn giao Trung đoàn bộ binh 9 cho Sư đoàn 968 và tiếp nhận Trung đoàn bộ binh 52 từ Quân khu 5 về đội hình. Ở khu vực Tây Nguyên, các kho được thu gọn dần vào ba khu vục: tây bắc thị xã Kon Tum, tây và tây nam thị xã Plei Ku, bắc và tây bắc thị xã Buôn Ma Thuột; Đoàn hậu cứ 75 và Trường Quân chính chuyển về khu vực sân bay Cù Hanh; Đoàn sản xuất 74 ỏ ngã ba Phước Thiện (đông Đức Cơ).

   Ngày 11 tháng 6, tại vị trí đóng quân mới ở thị xã Phú Cường, Đảng ủy Quân đoàn họp đánh giá tình hình lãnh đạo 6 tháng đầu năm 1975 và đề ra phương hướng công tác trong thời gian tới. Về nhiệm vụ trước mắt của Quân đoàn, Đảng ủy xác định:

   "1. Ra sức củng cố xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt theo phương hướng xây dựng quân đội cách mạng chính quy hiện đại.

   2.Tích cực chủ động tham gia xây dựng vùng mới giải phóng, cụ thể giúp đỡ xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương, phối hợp với địa phương giữ vững trật tự an ninh, trấn áp bọn phản cách mạng, bọn tàn quân rã tại chỗ hoạt động chống đối và bọn lưu manh côn đồ phá rối''.

   Thực hiện nhiệm vụ thứ nhất: xây dựng Quân đoàn theo hướng cách mạng chính quy hiện đại, ngày 19 tháng 6 năm 1975 Bộ tư lệnh Quân đoàn tiến hành chấn chỉnh tổ chức biên chế các sư đoàn bộ binh, các trung đoàn thiết giáp, pháo binh, công binh theo mẫu biên chế thống nhất của Bộ Quốc phòng. Theo đó, các sư đoàn 10, 316, 320 đều được kiện toàn thống nhất về tổ chức biên chế, trang bị. Mỗi sư đoàn gồm có: chỉ huy sư đoàn, 3 phòng: tham mưu, chính trị, hậu cần; 3 trung đoàn bộ binh (mỗi trung đoàn có 3 tiểu đoàn bộ binh và một số phân đội hỏa lực bảo đảm, mỗi tiểu đoàn có 3 đại đội bộ binh và Đại đội 15 hỏa lực hỗn hợp ĐKZ, cối 82mm); 1 trung đoàn pháo binh (có 4 tiểu đoàn: lựu pháo xe kéo, pháo cối hỗn hợp, phòng không 37mm, súng máy phòng không 12,7mm); các tiểu đoàn trực thuộc cơ bản vẫn như cũ, có điều chỉnh: tổ chức 1 tiểu đoàn huấn luyện, lực lượng vận tải tổ chức thành 1 tiểu đoàn vận tải ô tô và vận tải bộ; đưa trung đội hóa học vào đại đội vệ binh. Trung đoàn thiết giáp 273 gồm: chỉ huy trung đoàn, 4 ban: tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và tiểu ban tài vụ; 4 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp, 1 tiểu đoàn công binh; các đại đội trực thuộc: trinh sát, quân y, thông tin, sửa chữa và 1 trung đội vận tải ô tô. Trung đoàn pháo binh 40 trong biên chế có: chỉ huy trung đoàn, 3 ban: tham mưu, chính trị, hậu cần và tiểu ban tài vụ; 2 tiểu đoàn pháo Đ74, 2 tiểu đoàn pháo 155mm, 1 tiểu đoàn huấn luyện, 1 đại đội B72, các phân đội trực thuộc: đại đội chỉ huy, công binh, quân y, trung đội vận tải ô tô, trạm sửa chữa xe pháo và trung đội vệ binh. Trung đoàn công binh 7 có: chỉ huy trung đoàn, 4 ban: tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và tiểu ban tài vụ; 4 tiểu đoàn (cầu phà, xe máy, công trình, huấn luyện); các đại đội trực thuộc: trinh sát, thông tin, vận tải ô tô, quân y và trạm sửa chữa.

   Tiếp đó, ngày 1 tháng 9 Bộ tư lệnh Quân đoàn ra các quyết định (số 668/QĐ, 669/QĐ, 670/QĐ) thành lập Lữ đoàn xe tăng 273, Lữ đoàn pháo binh 40, Lữ đoàn công binh 7 trực thuộc Bộ tư lệnh Quân đoàn, trên cơ sở các trung đoàn 273 (xe tăng), 40 (pháo binh) và 7 (công binh) phát triển thành.

   Lữ đoàn xe tăng 273 tổ chức biên chế gồm có bộ tư lệnh, 4 phòng (tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật),  4 tiểu đoàn xe tăng thiết giáp (1, 2, 3, 4), 5 đại đội trực thuộc (trinh sát, công binh, thông tin, sửa chữa, quân y) và 1 trung đội vận tải ô tô. Trung tá Trần Doãn Kỷ (chủ nhiệm tăng - thiết giáp Bộ tham mưu) được bổ nhiệm làm lữ đoàn trưởng, trung tá Vũ Đình Tư (chính ủy Trung đoàn 273) làm chính ủy lữ đoàn. Lữ đoàn xe tăng 273 kế thừa truyền thống "Đoàn kết, quyết thắng, kiên cường, nghiêm túc, tự lực, đột kích mạnh, cơ động cao, hiệp đồng tốt. Đã ra quân là đánh thắng'' của Trung đoàn xe tăng 273. Địa bàn đóng quân của Lữ đoàn ở căn cứ Phú Lợi tỉnh Thủ Dầu Một.
 
   Lữ đoàn pháo binh 40: tổ chức, biên chế gồm có bộ tư lệnh 3 phòng (tham mưu, chính trị, hậu cần), 4 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn huấn luyện, 3 đại đội trực thuộc (công binh, chỉ huy, quân y), 1 trung đội vận tải ô tô, 2 trạm sửa chữa. Lữ đoàn trưởng: trung tá Nguyễn Hữu Vinh, chính ủy: trung tá Mai Sinh Giá. Lữ đoàn pháo binh 40 kế thừa truyền thống "Quyết thắng, kiên cường, sáng tạo, đoàn kết, nghiêm túc, tự lực'' của Trung đoàn pháo binh 40. Địa bàn đóng quân của lữ đoàn ở căn cứ Đồng Dù.

   Lữ đoàn công binh 7: tổ chức biên chế gồm: bộ tư lệnh, 4 phòng (tham mưu, chính trị, hậu cần, khí tài), 4 tiểu đoàn công trình, 1 tiểu đoàn cầu thuyền, 1 tiểu đoàn xe máy, 1 tiểu đoàn huấn luyện, 4 đại đội trực thuộc (trinh sát, thông tin, vận tải ô tô, quân y) và trạm sửa chữa xe máy. Ban chỉ huy lữ đoàn gồm các đồng chí: trung tá Lê Hữu Công (lữ đoàn trưởng), trung tá Trần Thể (chính ủy). Lữ đoàn công binh 7 kế thừa truyền thống ''Mở đường thắng lợi'' của Trung đoàn công binh 7. Địa bàn đóng quân của lữ đoàn ở căn cứ Đồng Dù. Ngày 19 tháng 11, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 224/QĐ-QP) chuyển Trung đoàn phòng không 234 thành Lữ đoàn phòng không 234, đồng thời chấn chỉnh hai trung đoàn phòng không 232 và 593 thành một trung đoàn làm nhiệm vụ sản xuất. Hợp thành Lữ đoàn phòng không 234 gồm toàn bộ Trung đoàn phòng không 234, một số phân đội của Trung đoàn phòng không 593 và Đại  đội 45 Trung đoàn phòng không 232. Biên chế của Lữ đoàn gồm: bộ tư lệnh, 3 phòng (tham mưu, chính trị, hậu cần), 4 tiểu đoàn pháo phòng không hỗn hợp (1, 2, 3, 4, trang bị pháo 37 và 57mm) và các đại đội trực thuộc. Lữ đoàn trưởng: Hoàng Hách, chính ủy: Trịnh Thế Cường. Lữ đoàn phòng không 234 kế thừa truyền thống của Trung đoàn phòng không 234. Địa bàn đóng quân của Lữ đoàn ở Bến Cát. Cũng vào nửa cuối năm 1975, Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định giải thể nhiều đơn vị: Đoàn thu mua 671, Trường Văn hóa thiếu nhi Tây Nguyên (bàn giao một số giáo viên và toàn bộ học sinh người dân tộc thiểu số Tây Nguyên cho Quân khu 5), Liên đội công tác 200, Liên đội công tác 300, Khung trại quản lý tù hàng binh, Tiểu đoàn 23 thu dung, Tổ Quốc tế Bến Hét; bàn giao cho đơn vị bạn Bệnh viện 2491, 2 tiểu đoàn bảo vệ kho, đại đội tên lửa phòng không A72, hai liên trại và 21 trại quản giáo tù binh (618 sĩ quan và 330 hạ sĩ quan binh sĩ khung). Đồng thời thành lập Ban Kiến thiết cơ bản thuộc Cục Hậu cần và giao nhiệm vụ cho 3 sư đoàn 10, 320, 316 và Cục Hậu cần đào tạo lái xe hệ chính quy.

   Thực hiện chính sách về phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1975 Quân đoàn đã giải quyết cho hơn 11.000 cán bộ, chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ trong những năm chiến tranh trở về địa phương, chuyển sang các cơ quan dân chính đảng, xí nghiệp quốc doanh. Việc tổ chức cho ra quân ''ồ ạt'' sau giải phóng đã dẫn đến thiếu nhiều cán bộ cơ sở có kinh nghiệm, thiếu cán bộ chuyên môn kỹ thuật, ảnh hưởng đến khả năng sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị và Quân đoàn.

   Đồng thời với quá trình ổn định vị trí đóng quân, thực hiện tổ chức biên chế mới, Quân đoàn nhanh chóng xây dựng các phương án cơ động tác chiến trên các hướng theo mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng và giao nhiệm vụ, xác định khu vực phụ trách cho từng đơn vị. Sư đoàn 10 và Lữ đoàn xe tăng 273 (thiếu) đảm nhiệm 3 huyện Lái Thiêu, Châu Thành và Tân Uyên; hướng cơ động tác chiến là tỉnh Quảng Đức và khu vực từ biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia tới Đắc Đam. Sư đoàn 316 và một bộ phận của Lữ đoàn xe tăng 273 phụ trách khu vực huyện Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng, hướng cơ động xa là Bình Phước, biên giới tỉnh Tây Ninh và Quảng Đức. Sư đoàn 320 đảm nhiệm các huyện Củ Chi, Hoóc Môn, Phú Hòa; hướng cơ động xa theo trục đường số 1 và ngã tư Bảy Hiền, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tổng tham mưu ngụy cũ và đồng bằng sông Cửu Long. Quân đoàn bộ và các phân đội trực thuộc phụ trách khu vực tỉnh lỵ Bình Dương. Nhằm nâng cao hiệu quả công tác sẵn sàng chiến đấu và đưa mọi hoạt động vào nền nếp, Bộ tư lệnh Quân  đoàn quy định thống nhất chế độ sẵn sàng chiến đấu, trực chỉ huy, trực ban, trực chiến. Về sẵn sàng chiến đấu tại chỗ, Quân đoàn quy định rõ: ''Các đơn vị từ tiểu đội trở lên đóng quân bất cứ ở chỗ nào, đều phải có kế hoạch tác chiến tại chỗ ngay, đồng thời phải chủ động... hiệp đồng kế hoạch chiến đấu tại chỗ cùng lực lượng vũ trang địa phương... với những đơn vị bạn trong khu vực trú quân... Nguyên tắc tác chiến lực lượng chiến đấu tại chỗ phải có lực lượng phòng giữ bảo vệ mục tiêu quan trọng, lực lượng sẵn sàng cơ động, lực lượng truy lùng bọn lẩn trốn tháo chạy để tiêu diệt''.

   Phát huy truyền thống, kinh nghiệm chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, Bộ tư lệnh Quân đoàn và các đơn vị khẩn trương quán triệt nhiệm vụ, nghiên cứu thực địa, địch tình và phối hợp với địa phương xây dựng kế hoạch tác chiến tại chỗ, các kế hoạch cơ động tác chiến trên các hướng cơ động xa; duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu như trực chỉ huy, trực ban, trực chiến, canh gác, tuần tra, báo động luyện tập theo phương án; hoàn chỉnh hệ thống thông tin liên lạc, tổ chức nắm địch. Tháng 9 năm 1975 các phương án tác chiến của đơn vị được Bộ tư lệnh Quân đoàn thông qua. Việc luyện tập theo phương án được duy trì thường xuyên mỗi tháng từ 1 đến 2 lần ở tất cả các cấp. Thời gian báo động cấp tiểu đoàn rút ngắn từ 20 phút xuống 15 phút, cấp đại đội từ 7 phút xuống 4 phút. Các trạm kiểm soát quân sự được thiết lập ở các trục giao thông thủy, bộ khu vực Tân Uyên và nam Bến Cát. Lực lượng thông tin hoàn thành ba đường dây trần từ Quân đoàn bộ đến sở chỉ huy các sư đoàn ở Đồng Dù, Lai Khê, Phú Lợi.

   Để bảo vệ chính quyền cách mạng và biên giới quốc gia, phát động quần chúng, truy quét FULRO và tàn binh ngụy, giữa tháng 7 năm 1975 Trung đoàn 66 Sư đoàn 10 do thiếu tá Trương Văn Việt (trung đoàn trưởng) và thiếu tá Lê Xuân Thanh (chính ủy) chỉ huy, cơ động từ Phú Lợi lên tỉnh Quảng Đức, triển khai đội hình từ Đức Xuyên đến thị xã Gia Nghĩa và ngã ba Kiến Đức. Trung tuần tháng 9, đồng chí Tổng tham mưu phó Quân đội nhân dân Việt Nam và đại tá Tư lệnh phó Quân đoàn Nguyễn Kim Tuấn lên Quảng Đức kiểm tra, bổ khuyết phương án đánh địch của Trung đoàn 66. Được sự chỉ đạo thường xuyên của cấp trên và sự phối hợp chặt chẽ của cấp ủy Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang, nhân dân địa phương, trong 3 tháng đầu làm nhiệm vụ trên địa bàn mới, Trung đoàn 66 đã truy quét, gọi hàng được 125 tên FULRO (có 2 tên quận trưởng và 3 tên quận phó), thu 50 khẩu súng AR15, một khẩu ĐKZ75, năm máy thông tin PRC25, bảy gùi đạn các loại. Ngoài ra, đơn vị còn giúp địa phương phát hiện, loại ra khỏi chính quyền cơ sở 14 tên FULRO, bồi dưỡng lựa chọn được 18 người vào lực lượng an ninh và đưa 54 người vào chính quyền của 9 xã, vận động được 855 thanh niên và 1039 phụ nữ vào các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, khám chữa bệnh cho hàng trăm lượt người... được nhân dân tin yêu mến phục.

   Xác định huấn luyện chiến đấu là nhiệm vụ trung tâm trong thời bình, ngày 23 tháng 6, Bộ tư lệnh Quân  đoàn ra chỉ thị ''Tổ chức huấn luyện chiến đấu''... chỉ rõ yêu cầu huấn luyện chung và cụ thể cho các đối tượng là cán bộ chỉ huy, hạ sĩ quan binh sĩ, cơ quan, phân đội. Đồng thời phân cấp huấn luyện, quy định thời gian, tổ chức phương pháp, công tác bảo đảm... cho các đơn vị thuộc quyền. Trên cơ sở kế hoạch huấn luyện chiến đấu toàn diện và thực tiễn triển khai nhiều nhiệm vụ trên địa bàn mới sau ngày giải phóng, Quân đoàn chỉ đạo huấn luyện có trọng tâm trọng điểm với nội dung cụ thể trong từng thời gian phù hợp với đặc điểm tình hình đơn vị.

        Tháng 6 tập trung huấn luyện điều lệnh và thể lực; 1.304 cán bộ từ cấp trung đội đến tiểu đoàn và cơ quan trung đoàn, sư đoàn được tập huấn; bộ đội dược huấn luyện bốn điều lệnh: đội ngũ, nội vụ, cảnh bị, kỷ luật. Quá trình huấn luyện được gắn chặt với cuộc vận động chấp hành điều lệnh, rèn luyện kỷ luật tác phong, thực hiện thống nhất 7 chế độ trong ngày và các chế độ trong tuần. Hai tháng (7 và 8 ) huấn luyện điều lệnh đội ngũ, thể lực và bắn AK bài 1; 31 lớp với gần 2.000 cán bộ các cấp được tập huấn; 3 trường bắn, 2 thao trường chiến thuật, 1 bãi tập thể lực được xây dựng. Nhưng do phương pháp huấn luyện, động tác chỉ huy của cán bộ còn yếu, quán triệt phương châm chưa sâu, chưa kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện với rèn luyện tác phong chính quy... nên chất lượng huấn luyện chiến đấu những tháng đầu còn hạn chế. Sư đoàn 10 kiểm tra bắn AK bài 1 cho cán bộ chỉ đạt 60% yêu cầu trở lên; Trung đoàn 52 Sư đoàn 320 có 50% lấy được đường ngắm cơ bản và đường ngắm đúng, 40% chệch choạc, 10% chưa biết ngắm. Nghiêm khắc rút kinh nghiệm huấn luyện chiến đấu, tìm ra nguyên nhân yếu kém, kịp thời đề ra biện pháp khắc phục... trong 4 tháng cuối năm 1975, toàn Quân đoàn tổ chức gần 50 lớp tập huấn cho trên 4.000 lượt cán bộ từ tiểu đội đến tiểu đoàn và cán bộ cơ quan trung, sư đoàn. Cán bộ được bồi dưỡng thống nhất về nội dung phương pháp huấn luyện, nắm vững thực hành động tác cá nhân, kỹ thuật bắn, chiến thuật từ cá nhân đến tổ, tiểu đội... công tác quản lý bộ đội trong huấn luyện. Do chuẩn bị chu đáo về cán bộ, đội mẫu, kế hoạch, nội dung, giáo án, vật chất, thao trường, kiểm tra chặt chẽ nên kết quả huấn luyện liên tục được nâng cao. Tháng 9 kiểm tra bắn đạn thật ba phân đội (mỗi phân đội 40 đến 47 chiến sĩ) của ba trung đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn 316, kết quả có 2 phân đội đạt loại giỏi, 1 phân đội khá; trung đội bắn chiến đấu của Trung đoàn 148 đạt loại giỏi. Tháng 11, kiểm tra bắn AK bài 1 cho 134 đại đội, đạt 100% yêu cầu trở lên, trong đó có 96 đại đội đạt loại giỏi, 15 đại đội loại khá; kiểm tra bắn trung liên và đại liên 47 lướt đại đội của Sư đoàn 316 đều đạt đơn vị khá. Các nội dung huấn luyện binh chủng như: vượt sông, cầu Be-lây (Lữ đoàn công binh 7), hiệp đồng khẩu đội thao tác bắn trong các phương pháp (Lữ đoàn phòng không 234), bắn bài 4 (gián cách nhỏ), đo góc phương vị, góc tù, góc hướng, tính toán lượng sửa ở trận địa, khẩu đội chấp hành lệnh bắn (Lữ đoàn pháo binh 40), kỹ thuật xe tăng, sử dụng thông tin và bắn pháo trên xe, cơ động xe tăng trên các địa hình (Lữ đoàn xe tăng 273) đều đạt kết quả tốt. Cuối năm 1975, Quân đoàn tổ chức hội thao quyết thắng lấn thứ nhất. Sư đoàn 316 giành giải nhất về bóng đá, Sư đoàn 10 giành giải nhất về bóng chuyền.

   Mặc dù còn một số hạn chế, nhưng kết quả huấn luyện chiến đấu tương đối toàn diện của Quân đoàn 3 trong nửa cuối năm 1975 rất có ý nghĩa. Nó không những nâng cao sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu, đẩy mạnh xây dựng chính quy, tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành các nhiệm vụ khác; mà còn đặt nền móng đầu tiên cho công tác huấn luyện chiến đấu - một nhiệm vụ trung tâm của Quân đoàn và các đơn vị trong thời bình.
   
   Thực hiện quyết định (ngày 13 tháng 5 năm 1975) của Thường vụ Quân ủy Trung ương về một số công tác trước mắt của quân đội, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 đã triển khai công tác tổng kết chiến dịch và chiến đấu trong chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh từ cấp đại đội đến Quân đoàn. Mục đích tổng kết là: ''xác định đúng đắn các sự kiện đã xảy ra và kết quả để có cơ sở biên soạn diễn biến chiến đấu, chiến dịch, chiến lược. Đánh giá đúng mức các ưu điểm, khuyết điểm, tìm ra được nguyên nhân, rút ra được các bài học kinh nghiệm chiến dịch và chiến đấu của toàn Quân đoàn và các đơn vị, binh chủng các ngành. Chuẩn bị tham gia tổng kết của toàn quân. Có cơ sở để xây dựng Quân đoàn trong giai đoạn mới của cách mạng. Góp phần xây dựng lý luận khoa học quân sự Việt Nam"2 quán triệt yêu cầu ''phản ánh đầy đủ kinh nghiệm, hết sức khách quan, toàn diện, lãnh đạo chặt chẽ, khẩn trương kịp thời'', từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 6 năm 1975, các sư đoàn bộ binh; lữ đoàn, trung đoàn binh chủng và cơ quan Quân đoàn hoàn thành tổng kết đến cấp đại đội. Tiếp đó, từ ngày 2 đến ngày 19 tháng 7 tại thị xã Bình Dương, Quân đoàn 3 tổ chức hội nghị tổng kết chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh. Dự hội nghị có 214 cán bộ cấp trung đoàn, sư đoàn và Bộ tư lệnh, cơ quan Quân đoàn. Đại tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị Phó Bí thư Quân ủy Trung Ương, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, đại diện Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo chiến dịch Tây Nguyên, Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, đến dự.
   
   Tại hội nghị Thiếu tướng Vũ Lăng - Tư lệnh Quân đoàn đọc báo cáo tổng kết, nêu toàn bộ quá trình diễn biến, kết quả, những thành công, thiếu sót trong quá trình thực hành hai chiến dịch, rút ra một số kinh nghiệm trong tác chiến. Hội nghị cũng nghe và thảo luận một số báo cáo chuyên sâu về các trận then chốt: Buôn Ma Thuột, Cheo Reo, Khánh Dương - Chư Cúc, Tân Sơn Nhất, Đồng Dù, công tác bảo đảm cho bộ đội cơ động đường dài trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng...

   Phát biểu tại hội nghị, Đại tướng Văn Tiến Dũng nói: "Quân đoàn 3 tham gia từ đầu đến cuối cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975... Quân đoàn 3... đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, có thể nói là đặc biệt xuất sắc. Tổng kết của các đồng chí tương đối kỹ. Tuy nhiên những kinh nghiệm đó cũng chưa phải đến đó là dừng mà còn phải suy nghĩ tìm hiểu và nâng cao... Bài học đã tổng kết chẳng những giúp vào xây dựng Quân đoàn, đồng thời cũng là những bài học góp vào kho tàng khoa học quân sự Việt Nam, nghệ thuật quân sự về chiến dịch của Việt Nam... Trách nhiệm xây đựng nền khoa học quân sự Việt Nam là trách nhiệm của tất cả chúng ta... Quân đoàn 3 cần nhanh chóng củng cố tổ chức, tiến lên chính quy hiện đại, đủ sức cơ động trên khắp chiến trường, hoàn thành mọi nhiệm vụ''4.

   Là những chiến sĩ đã nhiều năm chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên gian khổ, ác liệt, lại trực tiếp sử dụng có hiệu quả vũ khí phương tiện của địch trong các chiến dịch mùa xuân 1975, hiểu rõ đất nước còn nhiều khó khăn, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 rất thấm thía giá trị và tích cực thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương ''Về công tác thu hồi quản lý, bảo quản sử dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật lấy được của địch trong vùng giải phóng''. Sau khi hoàn thành tốt đợt thu hồi, giao nộp chiến lợi phẩm trong tháng 5 năm 1975, ngày 23 tháng 9 Bộ tư lệnh Quân đoàn chỉ thị cho các đơn vị tiến hành thu hồi, quản lý, bảo quản, sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật của địch trên địa bàn mới. Đồng thời Bộ tư lệnh Quân đoàn thành lập Ban chỉ huy tiếp quản thu hồi do đại tá Nguyễn Kim Tuấn - Tư lệnh phó Quân đoàn làm trưởng ban, các đồng chí thượng tá Lê Minh (Tham mưu phó Quân đoàn), thượng tá Đặng Văn Khóat (Phó chủ nhiệm Hậu cần) lám phó ban. Thành lập ba đội thu hồi chuyên trách về xe tăng thiết giáp, khí tài công binh, xe máy trực thuộc Lữ đoàn xe tăng 273, Lữ đoàn công binh 7 và Phòng Quản lý xe (Cục Hậu cần). Thực hiện chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân đoàn, từ cuối tháng 9 đến cuối tháng 10 các đơn vị tích cực chủ động thu hồi, phân loại, giao nộp cho các đội chuyên trách. Sư đoàn 10 phụ trách dọc trục đường số 13 từ Sài Gòn về Phú Lợi. Sư đoàn 316 đảm nhiệm khu vực Lai Khê - An Lộc, Chơn Thành - Đồng Xoài. Sư đoàn 320 tiếp tục thu hồi từ Củ Chi đến Phú Cường. Lữ đoàn 234 phụ trách khu vực Lai Khê đến thị xã Thủ Dầu Một. Cục Hậu cần đảm nhiệm đoạn thị xã Phú Cường đến thị xã Thủ Dầu Một. Đoàn hậu cứ 75 thu hồi trong các khu vực đóng quân của Quân đoàn ở Tây Nguyên. Tính đến tháng 11 năm 1975, Quân đoàn 3 đã thu nộp lên trên 3.130 tấn vũ khí đạn dược, 308 tấn vật tư xe máy, hàng trăm tấn sắt thép vụn, 1.236 xe cơ giới (có 118 xe tăng, xe bọc thép).

   Từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, những biểu hiện công thần thỏa mãn dừng lại, giảm sút nhiệt tình cách mạng và tinh thần trách nhiệm, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng hưởng lạc, quan liêu cục bộ, xa rời quần chúng thường nảy nở phát sinh. Quân đoàn 3 cũng không nằm ngoài quy luật đó, đồng thời còn chịu những tác động mạnh về tâm tư tình cảm do việc tổ chức cho phục viên, chuyển ngành ra quân ''ồ ạt' và thực hiện một số chính sách mới. Vốn có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy đơn vị trước những bước ngoặt lớn của lịch sử, Đảng ủy, Bộ tư lệnh và Cục Chính trị Quân đoàn đã chủ động, tích cực triển khai công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng cho bộ đội. Đặc biệt, trong dịp học tập Nghị quyết 23 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng ủy Quân đoàn quyết định mở một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong cán bộ, chiến sĩ. Nhằm tiếp tục quán triệt cho bộ đội sâu sắc thêm tình hình nhiệm vụ cách mạng của Đảng, nhiệm vụ quân sự trong tình hình mới và các nhiệm vụ đánh địch, tham gia củng cố chính quyền cách mạng; đẩy mạnh hơn nữa công tác bồi dưỡng cán bộ, giáo dục rèn luyện đảng viên, xây dựng nề nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức Đảng; đồng thời tổng kết công tác xây dựng chi bộ và công tác chính trị, thực hiện tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng bộ, xây dựng cơ quan đơn vị vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

   Bằng những cố gắng liên tục và biện pháp tổng hợp, Đảng ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp đã quán triệt cho bộ đội các nghị quyết của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Quân đoàn, pháp luật của Nhà nước, học tập đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh... tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, từ đó xác định rõ trách nhiệm của bản thân, yên tâm phấn khởi với nhiệm vụ, tích cực khắc phục khó khăn, đoàn kết thân ái, đưa phong trào thi đua của đơn vị và toàn Quân đoàn tiến lên mạnh mẽ, tạo thành một cao trào thi đua với khí thế và hành động cách mạng sôi nổi.

   Bên cạnh những thành công trong công tác giáo dục quản lý bộ đội, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong nửa năm đầu sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng ''Tư tưởng cá nhân chủ nghĩa tương dối phổ biến, biểu hiện dưới nhiều hình thức mức độ và khía cạnh'' khác nhau chậm được đấu tranh và chưa có biện pháp khắc phục hữu hiệu nên đã gây ''trở ngại trong việc đưa Quân đoàn tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chính quy, hiện đại''4.




------------------------------------------------------------------
1. Bệnh viện 249 thành lập trên cơ sở các bộ phận còn lại của Viện 1, Viện 2, Viện 10, Đội điều trị 25 và bộ phận phía sau của Viện Quân y 211 ở Tây Nguyên.
2. Lịch sử bộ đội Chủ lực Mặt trận Tây Nguyên... Sđd, tr. 377,
3. Lịch sử bộ đội Chủ lực mặt trận Tây Nguyên... Sđd, tr. 377, 386.
4. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đoàn 3 lần thứ nhất'' ngày 25.5.1976, tr. 17.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #88 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2021, 02:46:43 pm »

*

   Trong khi ra sức củng cố xây dựng đơn vị về mọi mặt theo hướng ''cách mạng, chính quy, hiện đại'', Quân đoàn 3 còn tích cực chủ động tham gia xây dựng vùng mới giải phóng. Cũng như nhiều địa phương khác ở miền Nam sau ngày giải phóng, trên khu vực đóng quân mới của Quân đoàn, cái thây ma của chủ nghĩa thực dân mới vẫn còn làm ô nhiễm nhiều nơi: Hàng nghìn tên ngụy quân, ngụy quyền cũ chưa chịu ra trình diện, những thành phần cặn bã con đẻ của xã hội cũ như lưu manh côn đồ, xì ke ma túy, gái mại dâm, trẻ bụi đời vất vưởng khắp đó đây.

        Kinh tế vốn đã què quặt, phiến diện phục vụ chiến tranh, nay bị tư sản mại bản ngoại kiều ra sức chi phối với những ý đồ thâm hiểm mới. Thực hiện kế hoạch ''hậu chiến'' của chủ cũ và sự tiếp tay của bọn phản động quốc tế, những tổ chức ''Đảng công nông Việt Nam'', ''Hồng Hà, Non Nước'', ''Bình Nam, phạt Bắc''... mọc ra, cùng với bọn ác ôn, FULRO lẩn khuất trong hang sâu núi thẳm và trà trộn trong dân chúng trỗi dậy ráo riết hoạt động. Chỉ trong tháng 8 năm 1975, chúng đã 10 lần cắt dây điện thoại của Sư đoàn 10 xuống các huyện Châu Thành, Lái Thiêu, 2 lần rải truyền đơn ở xã Phú Hòa, kích động quần chúng nhẹ dạ cả tin gây ra 30 vụ tụ tập bất hợp pháp ở địa bàn Sư đoàn 320 làm nhiệm vụ. Lợi dụng nỗi lo âu và sự hiểu biết còn hạn chế về chính sách đường lối cách mạng của 48.761 gia đình (chiếm 70% trong tổng số 61.877 hộ ở Thủ Dầu Một và vùng Củ Chi) có người thân tham gia bộ máy chế độ cũ; bọn ác ôn, phản động đội lốt nhà tu hành tuyên truyền xuyên tạc, khống chế làm cho bao người thấp thỏm lo sợ về một cuộc ''tắm máu'', ''trả thù''.

   Trước tình hình dó, nhiệm vụ bảo vệ củng cố chính quyền cách mạng cơ sở non trẻ, lập lại và giữ gìn cuộc sống bình yên cho nhân dân trở nên cấp bách, đòi hỏi phải truy quét làm trong sạch địa bàn. Thực hiện chỉ thị của Tổng cục Chính trị về việc bộ đội tham gia xây dựng củng cố vùng mới giải phóng, chấp hành nghị quyết của Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và nghị quyết của Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn 3, Bộ tư lệnh Quân đoàn nhanh chóng triển khai công tác phát động quần chúng trên các địa bàn đóng quân. Sau khi làm tốt bước lựa chọn, tổ chức, bồi dưỡng 5 bước phát động và học tập các quy định về công tác dân vận; từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975, 2.162 cán bộ đảng viên thuộc các đơn vị và cơ quan Quân đoàn tỏa xuống 300 ấp, 68 xã thuộc 8 huyện thuộc hai tỉnh Thủ Dầu Một, Quảng Đức và huyện Củ Chi phối hợp cùng địa phương phát động quần chúng, xây dựng chính quyền cách mạng cơ sở. Trong bộ quân phục màu xanh lá cây giản dị, chiếc ba lô ''con cóc'' trên vai, phát huy truyền thống và kinh nghiệm xây dựng căn cứ địa ở Tây Nguyên, cán bộ, chiến sĩ len lỏi trong các khóm, ấp của vùng trái cây nổi tiếng Lái Thiêu, vùng đất trắng Tam giác sắt Củ Chi và vùng chiến khu Đ cũ huyện Tân Uyên thực hiện ''ba cùng'' với nhân dân. Bằng sự kiên trì tuyên truyền vận động và việc làm thiết thực của các đội công tác, nhân dân vùng mới giải phóng hiểu được 10 chính sách của chính phủ, chính sách 7 điểm đối với gia đình có người thân tham gia bộ máy chế độ cũ, thấy được ý nghĩa to lớn của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhận rõ âm mưu thủ đoạn mới của kẻ địch... từ đó yên tâm phấn khởi, tích cực khắc phục khó khăn ổn định đời sống, phục hồi sản xuất, thực hiện  nếp sống văn minh, tham gia các hoạt động xã hội và công tác cách mạng. Cùng với vận động quần chúng, các đội công tác phối hợp chặt chẽ với địa phương củng cố và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của chính quyền cách mạng cơ sở, xây dựng các đội du kích, tổ an ninh, các đoàn thể quần chúng cách mạng như đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân, đội thiếu niên, đội văn nghệ.

   Trong 3 tháng làm nhiệm vụ, được sự giúp đỡ phối hợp chặt chẽ của cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương, các đội công tác của Quân đoàn đã tuyên truyền chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cho gần 2,2 triệu lượt người dân, bồi dưỡng được 733 cán bộ xã, 799 cán bộ ấp, 767 cán bộ và 28.278 hội viên hội nông dân xã ấp, 546 cán bộ và 29.554 hội viên hội phụ nữ, 271 huynh trưởng thiếu niên nhi đồng và 27.855 cháu, 173 cán bộ xã đội và 4.133 du kích. Đồng thời, Quân đoàn cùng địa phương phát hiện và loại khỏi chính quyền, các đoàn thể ở xã, ấp gần 800 người là ngụy quân ngụy quyền và các phần tử xấu, tổ chức cải tạo học tập cho 35.439 ngụy quân ngụy quyền cũ, truy bắt và vận động 1.338 tên còn lẩn trốn ra trình diện, giáo dục 102 tên cờ bạc, ma túa quậy phá, 40 tên trộm cắp, 40 gái điếm; thu 795 khẩu súng các loại, 305 quả lựu đạn, 10 quả mìn, 23.005 viên đạn và 118 máy vô tuyến điện, Được bộ đội tuyên truyền giải thích về chính sách của cách mạng, các gia đình có người thân là ngụy quân, ngụy quyền còn đang lẩn trốn đã tự nguyện đi tìm, vận động được l.459 tên ra trình diện chính quyền.

   Cùng với những hoạt động trên, Quân đoàn còn huy động 4 đại đội công binh dò gỡ mìn trong một tháng, giải phóng 53 km đường giao thông thuộc quốc lộ 13 (đoạn Lai Khê - Phú Giáo), đường số 20 (Bến Cát - Thị Tính), đường số 7 (Bến Cát - Rạch Bắp) và đường số 6; sử dụng 2.600 công đào đắp 4.800m khối đất làm đê chống nước mặn ở xã An Sơn huyện Lái Thiêu, xây dựng 2 cống tưới tiêu nước cho 500 héc-ta đất; dò gỡ hàng vạn quả mìn, giải phóng 10.000 héc-ta đất canh tác cho nhân dân. Ngoài ra cán bộ, chiến sĩ các đơn vị còn thường xuyên giúp đỡ nhân dân trên địa bàn đóng quân, đã làm 7 cây cầu, trồng hàng vạn gốc sắn, bắt 187kg châu chấu, trồng trên 2 vạn cây lấy gỗ, làm 89 căn nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách, neo đơn, giúp dân 18.596 ngày công thu hoạch mùa màng, trợ cấp cứu đói hơn 5 tấn gạo và 2,3 triệu đồng, vận động được 2.745 gia đình (với 15.650 nhân khẩu) đi xây dựng vùng kinh tế mới; xây dựng nhiều bệnh xá và chữa bệnh cho 4.975 lượt người dân, làm nhiều trường học và tổ chức 280 lớp học văn hóa, xóa mù chữ cho 14.095 người, dựng 417 cổng chào, kẻ 14.268 khẩu hiệu, chiếu 117 tối phim và tổ chức 10 tối biểu diễn văn nghệ phục vụ 192.000 lượt người xem.

   Sau đợt phát động quần chúng, chính quyền cơ sở xã ấp được củng cố, ''hầu hết các xã bước đầu có khả năng giải quyết công việc trong điều kiện bình thường''; các đoàn thể quần chúng đi vào hoạt động có nề nếp, ngày càng phát huy hiệu quả. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và cuộc sống bình yên của nhân dân được bảo đảm. Cùng với màu xanh của lúa và cây trái hồi sinh trở lại trên các vành đai trắng, là sự ''hồi sinh'' của bao kiếp người thóat khỏi cảnh đời nô lệ tay sai cho đế quốc, trở về cuộc sống làm chủ và tự do.

   Sau gần một năm chiến đấu và xây dựng rất sôi động, ngày 15 tháng 12 năm l975 Đại hội mừng công toàn Quân đoàn khai mạc tại thị xã Thủ Dầu Một. Tham dự Đại hội có trên 300 Anh hùng, Chiến sĩ thi đua, cá nhân xuất sắc trong toàn Quân đoàn, đại biểu cấp trên, các đơn vị bạn và địa phương. Trong 3 ngày làm việc khẩn trương, các đại biểu đã nghe và thảo luận báo cáo tổng kết phong trào thi đua Quyết thắng trong 2 năm 1974-1975 của Quân đoàn do đại tá Đặng Vũ Hiệp - Chính ủy Quân đoàn trình bày; nghe 13 bản báo cáo điển hình của tập thể các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn và các cá nhân tiêu biểu: Bùi Văn Bịn, Nguyễn Quang Trung, Nguyễn Vi Hợi, Mai Trọng Hoạt, Nguyễn Đức Tuân, Tống Viết Bá...

   Thiếu tướng Vũ Lăng - Tư lệnh Quân đoàn công bố quyết định khen thưởng, biểu dương thành tích của những đơn vị và cá nhân trong phong trào thi đua quyết thắng 1974-1975; đồng thời phát động phong trào thi đua mới và 3 mục tiêu: 1-Huấn luyện sẵn sàng chiến đấu giỏi, 2-Tham gia sản xuất, góp phần xây dựng kinh tế giỏi, 3- Kỷ luật nghiêm, nếp sống đẹp, công tác quần chúng giỏi. Trong những tháng cuối năm 1975 và đầu năm 1976, nhiều tin vui lớn liên tiếp đến với cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3. Ngày 12 tháng 9 năm 1975, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Tôn Đức Thắng ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 59 đơn vị và 6 cá nhân, trong đó có 9 đơn vị và 2 cá nhân thuộc Quân đoàn 3: Sư đoàn bộ binh 10, Sư đoàn bộ binh 320, Trung đoàn phòng không 234, Trung đoàn bộ binh 48, Trung đoàn bộ binh 148, Trung đoàn pháo binh 675, Đại đội pháo binh 4 (Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 40), Đại đội thông tin 6 (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 29), Đội điều trị 3 (Cục Hậu cần); và hai đồng chí: thiếu úy Đoàn Sinh Hưởng (đại đội trưởng Đại đội 9 thiết giáp, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 273), thiếu tá Nguyễn Đình Kiệp (trung đoàn trưởng Trung đoàn 66 sư đoàn 10). Tiếp đó, ngày 15 tháng 1 năm 1976 có 8 đơn vị và 3 cá nhân thuộc Quân đoàn 3 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Sư đoàn bộ binh 316, Trung đoàn bộ binh 28, Trung đoàn bộ binh 64, Tiểu đoàn bộ binh 4 (Trung đoàn 24), Tiểu đoàn bộ binh 1 (Trung đoàn 48), Đại đội pháo binh 5 (Tiểu đoàn 11, Trung đoàn 4 Sư đoàn 10), Đại đội 1 súng máy phòng không 12,7mm (Tiểu đoàn 14 Sư đoàn 316), Đại đội công binh 4 (Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 7); và các đồng chí: trung úy Bùi Văn Bịn (tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 24), chuẩn úy Trần Hùng Vách (trung đội trưởng thuộc Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 273), thượng sĩ Nguyễn Vi Hợi (trung đội phó, Đại đội 9, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64). Thành tích toàn diện trong năm 1975 còn được Bộ Quốc phòng ghi nhận, tặng danh hiệu ''Đơn vị Quyết thắng năm 1975'' cho 46 đơn vị thuộc Quân đoàn 3. Những phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng trao tặng là niềm hạnh phúc lớn lao, vô cùng phấn khởi tự hào, cổ vũ thôi thúc cán bộ, chiến sĩ toàn Quân đoàn hăng hái thi đua hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

   Thể theo nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ toàn Quân đoàn 3, ngày 25 tháng 12 năm 1975 Đảng ủy Quân đoàn đã họp, quyết định đặt tên truyền thống cho Quân đoàn là "Binh đoàn Tây Nguyên"; đồng thời chọn 12 chữ vàng truyền thống của Quân đoàn là: ''Quyết thắng, Sáng tạo, Đoàn kết, Thống nhất, Nghiêm túc, Tự lực". Từ đây, tên ''Binh đoàn Tây Nguyên'' được gắn liền với mỗi bước đi, trong những chặng đường xây dựng và chiến đấu của Quân đoàn 3. Đó vừa là niềm tin yêu, là mềm tự hào vừa là nguồn động viên nhắn nhủ mỗi cán bộ, chiến sĩ dũng cảm vượt qua mọi khó khăn thử thách, không ngừng phấn đấu vươn lên giữ vững và xứng đáng với truyền thống cao đẹp của một binh đoàn mang tên một vùng đất chiến lược của Tổ quốc.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #89 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2021, 02:56:26 pm »

*

   Năm 1976 - năm thứ hai đất nước sống trong độc lập tự do, đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại. Ngày 25 tháng 4, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI thành công rực rỡ. Tại kỳ họp đầu tiên (24.6-3.7) Quốc hội khóa VI đã long trọng tuyên bố hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước và quyết định lấy tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tháng 12 năm 1976, Đảng lao động Việt Nam tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Đây là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, là Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là Đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã quyết định đổi tên đảng thành Đảng cộng sản Việt Nam. Về phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong giai đoạn mới, Đại hội quyết nghị: ''Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng dự bị rộng rãi và được huấn luyện tốt, có quân đội nhân dân chính quy hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết; có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương; có lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu''1.

   Thực hiện các nghị quyết 23, 24, Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, các chỉ thị, mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; với khí thế ra quân sôi nổi và mạnh mẽ, đầu năm 1976 Quân đoàn 3 triển khai cuộc vận động ''Xây dựng đơn vị cơ sơ vững mạnh toàn diện'', tập trung vào 3 nội dung: xây dựng về quân sự, xây dựng về chính trị và xây dựng về hậu cần; nhằm đưa Binh đoàn Tây Nguyên trở thành ''Quân đoàn gương mẫu của Quân đội nhân dân Việt Nam".

        Trong khi sẵn sàng chiến đấu cao, đẩy mạnh huấn luyện, tăng cường rèn luyện bộ đội theo các phương án cơ động tác chiến trên các hướng được phân công, Quân đoàn dành một lực lượng thích hợp cho lao động sản xuất, tập trung trồng cây lương thực; đồng thời tổ chức tìm kiếm, cất bốc, quy tập được trên 5.000 mộ liệt sĩ trên Chiến trường Tây Nguyên vào các nghĩa trang địa phương.

   Giữa những ngày thi đua sôi động lập thành tích chào mừng các ngày lễ lớn và kỷ niệm một năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, từ ngày 25 đến ngày 29 tháng 5 năm 1976 Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đoàn 3 lần thứ nhất được tiến hành tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Dự Đại hội có 142 đại biểu chính thức thay mặt cho 8.126 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đồng chí Văn Tiến Dũng- Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương đã về dự và chỉ đạo Đại hội. Với tinh thần cách mạng tiến công, khẩn trương, nghiêm túc, đoàn kết, thống nhất cao trong hơn bốn ngày làm việc Đại hội đã kiểm điểm đánh giá sự lãnh đạo của Đảng bộ trong 2 năm (1974 - 1975), rút ra 4 bài học kinh nghiệm; động thời đề ra phương hướng xây dựng Quân đoàn trong thời gian tới.

   Về phương hướng xây dựng Quân đoàn trong thời gian tới Đại hội quyết nghị: ''Ra sức phấn đấu xây dựng Quân đoàn 3 trở thành một Quân đoàn gương mẫu của Quân đội nhân dân Việt Nam:

   Chính quy hiện đại.
   Có sức đột kích mạnh, sức cơ động lớn.
   Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giỏi.
   Đồng thời lao động xây dựng đất nước giỏi.
   Vận động nhân dân giỏi.
   Đoàn kết nội bộ.
   Đoàn kết quân dân.

   Luôn luôn nêu cao bản chất cách mạng và truyền thống ''Quyết thắng, Sáng tạo, Đoàn kết, Thống nhất, Nghiêm túc, Tự lực'' hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới''2.

   Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ (Đảng ủy) Quân đoàn nhiệm kỳ mới gồm 13 ủy viên chính thức: Đặng Vũ Hiệp (Chính ủy Quân đoàn), Vũ Lăng (Tư lệnh Quân đoàn), Phí Triệu Hàm (Phó chính ủy Quân đoàn), Nguyễn Kim Tuấn (Tư lệnh phó Quân đoàn), Lã Ngọc Châu (chủ nhiệm chính trị Quân đoàn), Nguyễn Quốc Thước (Tham mưu phó Quân đoàn), Đoàn Hồng Sơn (Sư đoàn trưởng Sư đoàn 10, Lưu Quý Ngữ (Chính ủy Sư đoàn 10), Nguyễn Hải Bằng (Sư đoàn trưởng Sư đoàn 316), Hà Quốc Tỏan (Chính ủy Sư đoàn 316), Bùi Huy Bổng (chính ủy Sư đoàn 320), Nguyễn Hữu Hưu (chính ủy Cục Hậu cần), Nguyễn Minh Khang (Chính ủy Trường Quân chính); và 2 ủy viên dự khuyết: Bùi Đình Hòe (Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320), Bùi Tố Tọa (Chính ủy Lữ đoàn 40). Ban Thường vụ Đảng ủy Quân đoàn gồm ba đồng chí: Đặng Vũ Hiệp - Bí thư Đảng ủy, Vũ Lăng - Phó Bí thư Đảng ủy và Phí Triệu Hàm - ủy viên Thường vụ Đảng ủy. Đồng thời Đại hội bầu 15 đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Quân đội, trong đó có Đại tướng Văn Tiến Dũng; đồng chí Đặng Vũ Hiệp làm trưởng đoàn.

   Về Đại hội Đảng bộ Quân đoàn 3 lần thứ nhất, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã nhận xét: ''Đại hội Đảng bộ Quân đoàn 3 đã làm tốt nhiệm vụ kiểm điểm công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trong thời gian qua, quán triệt tình hình nhiệm vụ cách mạng, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và Quân ủy Trung ương, quán triệt nhiệm vụ Quân đội và nhiệm vụ Quân đoàn... đã bầu ra được Ban Chấp hành Đảng bộ mới gồm những đồng chí ưu tú của Đảng bộ... đã thể hiện được tinh thần đoàn kết nhất trí, trên cơ sở đường lối nhiệm vụ mới, trên tình đồng chí, trên cơ sở mở rộng dân chủ nội bộ, đẩy mạnh tinh thần tự phê bình và phê bình...''3.

   Tin vui Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đoàn lần thứ nhất thành công tốt đẹp và thư của Đại hội ''gửi cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên toàn Quân đoàn'' được truyền nhanh đến bộ đội. Nghị quyết của Đại hội được biến thành những hành động cụ thể của người chiến sĩ ngày đêm cầm chắc tay súng canh giữ mục tiêu, hăng hái luyện tập trên thao trường, đổ thêm mồ hôi cho những luống cày mới, vượt đèo cao suối sâu đi tìm mộ đồng đội. Tiếp đó, một tin vui lớn lại đến với cán bộ, chiến sĩ Binh đoàn Tây Nguyên: ngày 3 tháng 6 năm 1976, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký quyết định tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 90 đơn vị và 13 cá nhân, trong đó có 13 đơn vị và 1 cá nhân thuộc Quân đoàn 3: Trung đoàn bộ binh 24, Trung đoàn bộ binh 52, Trung đoàn đặc công 198, Trung đoàn xe tăng 273, Tiểu đoàn bộ binh 3 (Trung đoàn 28), Tiểu đoàn bộ binh 6 (Trung đoàn 52), Tiểu đoàn bộ binh 3 (Trung đoàn 174), Tiểu đoàn phòng không 16 (Trung đoàn 54), Tiểu đoàn pháo binh 4 (Lữ đoàn 40), Đại đội bộ binh 3 (Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 48), Đại đội bộ binh 3 (Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 64), Đại đội hỏa lực 15 (Trung đoàn 66), Đại đội bộ binh 2 (Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 148) và thượng sĩ Vũ Thanh Sơn (trung đội trưởng, thuộc Đại đội 3, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 48). Trong niềm hạnh phúc lớn lao, cán bộ, chiến sĩ toàn Quân đoàn hăng hái bước vào nhiệm vụ mới với tinh thần tất cả vì sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

   Đầu tháng 6 năm 1976, Bộ Quốc phòngg ra lệnh cho Quân đoàn 3 bàn giao địa bàn phụ trách cho Quân khu 7, cơ động toàn bộ đội hình về nam Quân khu 5 làm nhiệm vụ dự bị chiến lược; đồng thời bàn giao Sư đoàn bộ binh 316 về Bộ tư lệnh Quân khu 1. Tiếp đó, ngày 30 tháng 6, Quân đoàn được lệnh dùng lực lượng của Sư đoàn 10 phối hợp với địa phương truy quét FULRO tại tỉnh Lâm Đồng.

   Thực hiện mệnh lệnh của Bộ, tháng 6 năm 1976 Quân đoàn bàn giao gọn Sư đoàn 316 với 8.192 cán bộ, chiến sĩ và toàn bộ vũ khí trang bị, mang theo một phần ba cơ số đạn nhỏ, một phần mười cơ số đạn lớn về Quân khu 1 bảo đảm đúng thời gian quy định, an toàn. Sau một năm rưỡi chiến đấu, xây dựng cùng khối chủ lực Tây Nguyên và đứng trong đội hình Quân đoàn 3, cán bộ và chiến sĩ Sư đoàn 316 phát huy cao độ truyền thống quý báu: ''Kiên quyết triệt để cách mạng - Dũng cảm kiên cường - Chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn - Bền bỉ vững chắc, trung thực vô tư - Khiêm tốn đoàn kết, chủ động sáng tạo'' lập nên những chiến công oanh liệt. Các địa danh Buôn Ma Thuột, Trảng Bàng, Tây Ninh, Củ Chi, Lai Khê, Bến Cát gắn liền với mỗi bước đường chiến đấu và xây dựng của Sư đoàn trong mùa Xuân 1975 lịch sử và năm đầu sau giải phóng. Ra đời và lớn lên từ quê phương cách mạng Việt Bắc, nay được trở về nơi chôn nhau cắt rốn, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 316 vô cùng phấn khởi, nhưng trước khi rời ''ngôi nhà chung'' Binh đoàn Tây Nguyên với biết bao kỷ niệm gắn bó thân thương ai cũng bịn rịn luyến tiếc. Người đi và người ở đều hứa với nhau tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp của Quân đoàn 3 hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

   Sau khi hoàn thành đợt một di chuyển đội hình trong tháng 6, từ đầu tháng 7 đến giữa tháng 8 năm 1976 Quân đoàn 3 tổ chức đợt hành quân thứ hai, chuyển toàn bộ lực lượng từ Quân khu 7 lên vị trí đóng quân mới ở nam Quân khu 5. Do địa bàn đứng chân của các đơn vị nằm trên bốn tỉnh: Lâm Đồng, Thuận Hải, Phú Khánh, Đắc Lắc, các phương tiện bảo đảm hành quân có hạn, đường cơ động từ 200km đến 500km, thời gian di chuyển khá dài nên Quân đoàn tổ chức hành quân bằng cả ba phương tiện: ô tô, tàu hỏa và tàu thủy. Lực lượng hành quân bằng ô tô gồm Quân đoàn bộ, Sư đoàn 104, Trung đoàn thông tin 29 và một bộ phận của các đơn vị còn lại. Khối đi tàu hỏa có Sư đoàn 320, Lữ đoàn pháo binh 40, Lữ đoàn công binh 7, Lữ đoàn xe tăng 273. Riêng số xe tăng của Lữ đoàn 273 được chở bằng tàu hải quân từ bến Bạch Đằng ra Phan Rang. Cùng thời gian này Trường Quân chính cũng hoàn thành chuyển vị trí đóng quân từ Plei Ku (Gia Lai) về khu vực Lam Sơn, Dục Mỹ huyện Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa.

        Ngày 12 tháng 8 năm 1976 cuộc hành quân di chuyển của Quân đoàn cơ bản hoàn thành, 30.887 cán bộ, chiến sĩ và 24.400 tấn vũ khí trang bị vật chất, hàng nghìn xe cộ đã chuyển đến vị trí đóng quân mới an toàn. Các lực lượng còn lại: Trường hạ sĩ quan Sư đoàn 320, Xưởng X112, Xưởng X114, một lực lượng của Cục Hậu cần ở Bình Dương, hơn 20 xe tăng ở Phú Lợi, bộ phận thu hoạch mùa màng của các đơn vị cũng được chuyển hết trong tháng 9. Qua đợt hành quân di chuyển vị trí đóng quân lần thứ hai trong thời bình, quân đoàn rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý, làm cơ sở cho những cuộc hành quân lớn về sau.

   Giữa tháng 8, đội hình đóng quân của Quân đoàn đã cơ bản ổn định trên 5 khu vực: Bộ tư lệnh và 3 cơ quan Quân đoàn, Trung đoàn thông tin 29, Viện Quân y 215 ở Nha Trang; Sư đoàn 10 ở tỉnh Lâm Đồng; Sư đoàn 320, Lữ đoàn pháo binh 40, Trường Quân chính, Trường Hạ sĩ quan1 ở huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; Lữ đoàn phòng không 234 và Lữ đoàn xe tăng 273 ở Phan Rang; Lữ đoàn công binh 7 ở Cam Ranh. Chủ động và tích cực khắc phục khó khăn do doanh trại xuống cấp, nhà cửa thiếu, nước sinh hoạt không bảo đảm6, thời tiết khắc nghiệt, giá cả leo thang, quân số tiếp tục biến động,
tình hình chính trị xã hội phức tạp do FULRO và các tổ chức phản động trỗi dậy... Quân đoàn từng bước ổn định nơi ăn chốn ở, triển khai huấn luyện giai đoạn 2, lao động sản xuất và truy quét địch.

   Hưởng ứng phong trào thi đua quyết thắng do Bộ tư lệnh Quân đoàn phát động nhân dịp kỷ niệm 31 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2.9, cán bộ, chiến sĩ toàn binh đoàn đồng loạt tiến quân vào các ''mặt trận'', lập nhiều thành tích mới. Trên ''mặt trận'' quân sự, các chế độ sẵn sàng chiến đấu được duy trì nghiêm túc, chặt chẽ; các phương án đánh địch tại chỗ và cơ động tác chiến được tập dượt, xây dựng và bổ sung ngày càng hoàn chỉnh. Công tác huấn luyện được triển khai theo một kế hoạch thống nhất, kết quả ngày một cao: Lữ đoàn công binh 7 kiểm tra nổ mìn đạt 100% khá giỏi; Lữ đoàn pháo binh 40 bắn đạn thật đạt 100% yêu cầu, trong đó có 90,1% khá giỏi; Sư đoàn 320 kiểm tra 2 đại đội bắn pháo đều đạt khá giỏi, có Khẩu đội 4 đạt ưu tú. Để hoàn thành tốt huấn luyện khóa 13 theo biểu thời gian 14 tháng, Trường Quân chính có sáng kiến và tổ chức thành công thi giáo viên dạy giỏi, đại úy Phí Đình Tơm giáo viên kỹ thuật bộ binh được công nhận là giáo viên dạy giỏi đầu tiên của trường.

   Trên ''mặt trận'' xây dựng và sản xuất, phong trào thi đua diễn ra rất sôi động. Nhiều kỷ lục mới xuất hiện, nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật ra đời: các chiến sĩ Trung đoàn 52 Sư đoàn 320 đưa năng suất vận chuyển vật liệu xây dựng từ 1 chuyến với 40 tàu lá cọ lên 2 chuyến, mỗi chuyến 60 tàu lá cọ trong một ngày; chi đoàn thanh niên Xưởng X114 đã cải tiến máy cắt tôn thép sản xuất ra nhiều công cụ lao động; Lữ đoàn công binh 7 có sáng kiến thu lượm sắt thép phế liệu làm lưỡi cày cho máy kéo; Trung đoàn 24 tìm cách đưa nước vào làm nguội máy sản xuất gạch, tăng thời gian làm việc của máy từ 1 ca lên 2 ca mỗi ngày. Sau một năm nỗ lực phấn đấu, toàn Quân đoàn cơ bản hoàn chỉnh hệ thống doanh trại, những ngôi nhà xây bằng gạch máy ngói đỏ tươi từng bước thay thế cho những nhà tạm mái tranh vách đất; đã thu được một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm, gồm: 1.160 tấn gạo, 230 tấn thịt cá, 30 tấn đậu lạc, 2300 tấn rau xanh, 150 con trâu, 2.400 con bò, 2.500 con lợn và hàng vạn gia cầm.

   Thành quả lao động sản xuất không những trực tiếp góp phần giải quyết khó khăn về ăn, ở và nâng cao sức khỏe cho bộ đội mà còn tạo điều kiện xây dựng chính quy, nâng cao chất lượng huấn luyện và thực hiện nhiệm vụ chiến đấu truy quét FULRO làm trong sạch địa bàn.




------------------------------------------------------------------
1. 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam. Nxb QĐND; H.1999, tr.386.
2. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đoàn 3 lần thứ nhất, tr. 38.
3. Đề cương nói chuyện của Đại tướng Văn Tiến Dũng tại Đại hội Đảng bộ Quân đoàn 3 lần thứ nhất, tr. 6.
4. Sư đoàn 10 sử dụng 420 chuyến xe và thuê 30 chuyến xe của dân.
5. Trường Hạ sĩ quan Quân đoàn được thành lập tháng 9 năm 1976. Hiệu trưởng: Đặng Dự Nhượng, chính ủy: Nguyễn Gia Hưu.
6. Thời gian này Lữ đoàn pháo binh 40 phải dùng xe téc chở nước từ xa về nấu ăn. Trung đoàn 52 đào 4 giếng đều không có nước. Trung đoàn thông tin 29 có đợt 4 ngày liền không có nước phải cho bộ đội đi bộ 3km từ đèo Rù Rì xuống cầu xóm Bóng để tắm. Bệnh sốt rét, sốt xuất  huyết lan tràn, có ngày Lữ đoàn 40 có 120 người sốt và Trung đoàn 52 có 40 người sốt.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM