Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:14:22 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947-Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt  (Đọc 7259 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #140 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:01:19 am »

THỰC HIỆN PHƯƠNG CHÂM "ĐẠI ĐỘI ĐỘC LẬP, TIỂU ĐOÀN TẬP TRUNG", NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT DÙNG BINH TRONG CHIẾN DỊCH PHẢN CÔNG VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Đại tá.TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử tổ chức quân sự,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam



Trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1947), quân đội ta đã thực hiện những trận đánh với các hình thức chiến thuật phòng ngự, đánh ngăn chặn địch trong các thành phố, thị xã, các làng mạc ven đô, quy mô lực lượng từ trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn và tương đương, từng bước ngăn chặn, kìm giữ, tiêu hao, làm chậm bước tiến công của địch. Đến cuối năm 1947, phương châm và cách đánh của quân đội ta có bước chuyên biến sâu sắc về quy mô sử dụng lực lượng và hình thức tác chiến rất hiệu quả, góp phần đánh bại các hình thức chiến thuật trong chiến lược quân sự "Đánh nhanh thắng nhanh" của địch. Bài tham luận này, đề cập đến quá trình hình thành và thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung", một trong những nét đặc sắc về nghệ thuật dùng binh trong chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947.

1. Quá trình hình thành phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng đến việc xây dựng, huấn luyện Vệ quốc đoàn (từ năm 1946 là Quân đội quốc gia Việt Nam, năm 1950 là Quân đội nhân dân Việt Nam), nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thế nhưng, quân đội ta chưa kịp triển khai xây dựng đã phải đương đầu với quân Pháp, một đội quân xâm lược nhà nghề, trang bị vũ khí hiện đại. Thực tiễn giai đoạn đầu chiến đấu ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Hải Phòng và Lạng Sơn từ cuối năm 1945 đến trước khi Toàn quốc kháng chiến, cho thấy, nhiều địa phương tổ chức xây dựng các đơn vị cấp chi đội (tương đương trung đoàn, hoặc tiểu đoàn), trung đoàn, thậm chí đại đoàn như ở Bắc Bộ và Nam Trung Bộ. Nhưng do thiếu quân số và vũ khí trang bị, khả năng cung cấp lương thực và trình độ tác chiến rất hạn chế, ta chưa thể tập trung các đơn vị quy mô cấp chi đội, trung đoàn, đại đoàn để đánh những trận lớn, nên phải giải thể các đại đoàn.


Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các trung đoàn, tiểu đoàn bộ đội chủ lực của ta đã anh dũng chiến đấu hàng mấy tháng liền, tiêu hao một bộ phận sinh lực, kìm giữ quân Pháp ở các thành phố, thị xã lớn. Thực hiện quyết định "tránh mũi dùi chủ lực của địch đề bảo toàn chủ lực và duy trì sức chiến đấu của bộ đội ta"1 (Văn kiện quân sự của Đảng, Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1976, tr. 112, 458) của Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (1-1947), sau hai. ba tháng chiến đấu, các trưng đoàn, tiểu đoàn bộ đội chủ lực ta chuyển về các vùng nông thôn và miền núi, củng cố, phát trien lực lượng, tiếp tục chiến đấu lâu dài.


Những tháng đầu năm 1947, được tăng thêm viện binh, thực dân Pháp mỏ nhiều cuộc hành binh lớn ra các vùng Trung Trung Bộ, Tây Bắc, Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ. Địch kết hợp giữa lực lượng cơ giới với lực lượng đổ bộ đường không, đường thủy, tiến hành những trận đột kích, những mũi thọc sâu vu hồi, tạo gọng kìm bao vây trên khắp các mặt trận, hòng nhanh chóng đánh chiếm cả nước ta.


Theo dõi sát tình hình địch và qua những trận chiến đấu của bộ đội ta, tháng 2-1947, Bộ Tổng Tham mưu ra lệnh bỏ cách đánh dàn quân giữ đất, "tẩy chay hình thức dồn đống và lối bố trí chính quy hoá"1 (Văn kiện quân sự của Đảng, Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 112, 458), chuyển bộ đội về nông thôn cùng dân quân lưu động đánh du kích. Tiếp đó, tháng 4-1947, Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng lần thứ hai chủ trương "hoá một phần bộ đội thành dân quân”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8 (1945-1947), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 184).


Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo đưa một số đơn vị bộ đội xuống các vùng nông thôn cải trang dân quân, bám cơ sở, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chính quyền, chuẩn bị chiến trường cho bộ đội chủ lực tác chiến. Chủ trương này xuất phát từ thực tế sau 4 tháng đầu kháng chiến toàn quốc. Tại một số địa phương, như ở Thừa Thiên, trước sức tiến công của địch có ưu thế về lực lượng, trang bị và trình độ tác chiến, bộ đội chủ lực ta phân tán vào trong dân, bám cơ sở, trụ lại cùng du kích, tự vệ tổ chức thành các đội công tác vũ trang mang tên "Quyết tử quân", tiếp tục hoạt động. Các đội vũ trang chuyển về vùng nông thôn đồng bằng và vào thành phố Huế hoạt động, góp phần gây dựng, phát triển chiến tranh du kích.


Trong khi đó, ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, bộ đội chủ lực phân tán chuyển về đứng chắc tại các địa phương cùng nhân dân đánh địch. Đáng lưu ý là tại vùng địch chiếm ở phía nam tỉnh Bắc Ninh, một đại đội chủ lực độc lập của tỉnh, nhờ dựa vào các làng chiến đấu, bám chắc dân, lúc phân tán thành những trung đội, tiểu đội, khi tập trung đại đội hoạt động, không chỉ duy trì được lực lượng, mà còn tổ chức được các trận tập kích, phục kích địch hiệu quả. Nhờ phân tán kịp thời, bám dân, được nhân dân địa phương che chở, đùm bọc và dân quân du kích giúp đỡ, đại đội chủ lực của tỉnh Bắc Ninh, cũng như nhiều đơn vị ở các địa phương khác, đã duy trì được lực lượng và hoạt động đánh địch, gây cho chúng một số thiệt hại.


Qua 2 năm (9-1945 - 9-1947) kháng chiến chống thực dân Pháp, một vấn đề lớn đặt ra cho Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy và Bộ Tổng Tham mưu là quy mô tác chiến của bộ đội chủ lực đánh vận động chiến nên tổ chức quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn, hay lớn hơn? Thực tiễn năm đầu kháng chiến, nhất là sau ngày Toàn quốc kháng chiến, ý định phân tán bộ đội chủ lực thành những đơn vị nhỏ (tiểu đội, trung đội, đại đội) bám dân hoạt động và qua thảo luận, trao đổi ở các hội nghị, vấn đề sử dụng các đơn vị bộ đội quy mô tổ chức cấp đại đội, tiểu đoàn hoạt động tác chiến ở các vùng địch tạm chiếm từng bước được xác định và ngày càng định hình rõ rệt.


Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ tư (27 - 29-9-1947) nhận định hướng tiến công của địch và xác định "Bắc Bộ sẽ là chiến trường chính, nếu địch không mạo hiểm thì đánh đồng bằng, nếu mạo hiểm chúng sẽ đánh lên Việt Bắc". Trên cơ sở đó, Hội nghị chủ trương "kiên quyết nắm vững bộ đội, giữ gìn chủ lực, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, bảo vệ căn cứ, thực hiện phối hợp giữa các khu"1 (60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 57). Một mặt "dùng đơn vị đại đội để hoạt động trên chiến trường của mỗi địa phương", một mặt "tập trung từng tiểu đoàn chủ lực cơ động đánh vận động chiến"; "tránh phòng ngự chính diện, bộ đội phải ở sau lưng địch, hoá chỉnh vi linh, hoá linh vi chỉnh, hoá trang lẫn vào dân khi cần thiết"2 (60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 57).


Đầu tháng 10-1947, sau khi nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp, Tổng chỉ huy, báo cáo về tình hình hoạt động tác chiến của bộ đội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Phân tán một bộ phận chủ lực để phát động chiến tranh du kích là rất cần. Không phải chỉ đưa các đại đội độc lập vào địch hậu, mà đưa cả về những địa phương nay mai chiến sự sẽ lan tới". Trên cơ sở đó, Người khẳng định "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" là phù hợp với tình hình hiện nay"3 (Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân - Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1995, tr. 159-160). Đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư, cũng nhất trí với phương châm hoạt động này và cho rằng: "Với đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung thì toàn quân nhất định phải dùng du kích và du kích vận động chiến"4 (Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân - Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1995, tr. 159-160).


Quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đầu tháng 10-1947, Bộ Tổng chỉ huy đã ra lệnh điều chỉnh các đơn vị bộ đội chủ lực thành hai lực lượng: đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung. Thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung", các khu ở Việt Bắc (1, 10, 12) chưa kịp triển khai tổ chức thực hiện thì thực dân Pháp mở cuộc tiến công lên Việt Bắc.


Như vậy, phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" được xác định trước ngày thực dân Pháp tiến công Việt Bắc. Việc hình thành phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" xuất phát từ yêu cầu cấp thiết và thực tiễn chiến đấu trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Mặc dù bộ đội ta đã có một số trận thắng lớn trong giai đoạn đầu kháng chiến, nhưng cũng có những trận không thành công ở Nha Trang, Huế, hay đánh tập kích quy mô trung đoàn ở thị xã Hà Đông... Thực tế đó cho thấy, lúc này ta chưa thể tập trung đơn vị quy mô cấp trung đoàn, hay xây dựng đại đoàn để đánh địch, ngược lại, phải mạnh dạn phân tán bộ đội chủ lực đi sâu vào các vùng địch tạm chiếm, bám dân, xây dựng cơ sở, phát triển lực lượng dân quân, phát động chiến tranh du kích. Bộ đội chủ lực cần tiếp tục rèn luyện ở quy mô tiểu đoàn rồi trung đoàn, tiến tới đại đoàn trước khi tác chiến quy mô lớn. Đến những tháng cuối năm 1947, phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" được xác định là đội hình tác chiến phù hợp nhất của bộ đội chủ lực ta trên các chiến trường, mà Việt Bắc chính là nơi chứng minh hiệu quả phương châm do Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đề ra.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #141 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:03:49 am »

2. Thành công của việc tổ chức và chỉ đạo thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" trong chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947

Nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và bộ đội chủ lực ta, chặn đường tiếp tế và liên lạc của ta với bên ngoài, phá hoại kinh tế vùng căn cứ địa, ngày 7-10-1947, thực dân Pháp huy động 12.000 quân (5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 3 đại đội cơ giới, 2 phi đội máy bay với 40 máy bay, 3 thủy đội xung kích với 40 tàu, xuồng), do tướng Xa-lăng (Salan) chỉ huy, chia làm 3 hướng đánh vào Việt Bắc.


Do phán đoán chưa đúng khả năng và thủ đoạn hành binh mạo hiểm của địch, trong tuần đầu, bộ đội ta ham đánh tập trung, vận động từ xa đến, chuẩn bị chưa chu đáo, nên nhiều trận đánh không đạt hiệu quả cao.


Trước tình hình đó, sáng ngày 14-10-1947, các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái - Tổng tham mưu trưởng, họp bàn những vấn đề mà đồng chí Trường Chinh sẽ trình bày tại cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng buổi chiều cùng ngày. Sau khi phân tích chỗ mạnh, yếu của địch, các đồng chí thống nhất đề nghị với Thường vụ Trung ương Đảng một số nhiệm vụ, trong đó xác định thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" đánh địch.


Chiều ngày 14-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng họp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự chỉ đạo hội nghị. Căn cứ vào tình hình sau một tuần địch tiến công Việt Bắc, hội nghị nhận định: "Cuộc tiến công này của Pháp chứng tỏ địch không mạnh, mà vì yếu nên mới phải mạo hiểm. Địch sẽ gặp khó khăn to lớn, nếu ta biết khai thác đánh vào chỗ yếu của địch thì nhất định cuộc tiến công sẽ thất bại". Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” trong chiến dịch phản công Việt Bắc, nhằm thực hiện lối đánh kết hợp tác chiến du kích rộng khắp với tác chiến tập trung trên các mặt trận.


Chấp hành chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 15-10, Bộ Tổng chỉ huy ra huấn lệnh gửi các khu ở Việt Bắc. Huấn lệnh nêu những nguyên tắc mới về tổ chức bộ đội và bố trí lực lượng, trong đó nêu rõ: "Phải thực hiện ngay việc lấy đại đội làm đơn vị bố trí trên các chiến trường địa phương", đồng thời "tập trung từng tiểu đoàn phụ trách từng khu vực"1 (Lịch sử chiến thuật Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1975), Tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 130). Huấn lệnh quy định đại đội độc lập là đơn vị bố trí ở từng địa phương (huyện) có nhiệm vụ "quấy rối, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ của địch, đôn đốc phá hoại trong địa phương, giúp đỡ vũ trang tuyên truyền và phối hợp tác chiến với dân quân địa phương khi địch đến. Phối hợp với bộ đội chủ lực lưu động (tiểu đoàn tập trung) đánh những trận lớn". Tiểu đoàn là đơn vị chủ lực, bố trí ở những nơi cơ động, gần đường giao thông quan trọng, hoạt động tập trung trong từng khu vực, từng mặt trận, có nhiệm vụ "phối hợp với các đại đội độc lập và du kích địa phương tiêu diệt địch ở những vị trí lẻ, hay đang vận chuyển trên đường giao thông"2 (Lịch sử chiến thuật Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1975), Tập 1, Sđd, tr. 130).


Như vậy, đến giữa tháng 10-1947, Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã có đủ cơ sở khẳng định rằng, thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” để đánh địch là phù hợp với khả năng tổ chức và trình độ tác chiến bộ đội ta trên các chiến trường và quyết định bắt đầu thử nghiệm ngay trong chiến dịch phản công Việt Bắc.


Quán triệt chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng, sau một tuần chỉ huy cuộc phản công, Bộ Tổng chỉ huy liên tiếp chỉ đạo phân tán các trung đoàn chủ lực của Bộ và các khu 1, 10, 12, tổ chức thành 30 đại đội độc lập và 18 tiểu đoàn tập trung, bố trí, hình thành thế trận phản công trên cả ba mặt trận (Đường số 3, đường số 4, sông Lô - Đường số 2), làm nòng cốt mở rộng chiến tranh du kích, nhằm tiêu hao sinh lực, hạn chô khá năng càn quét của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ địa Việt Bắc.


Tại Mặt trận Đường số 3 có Trung đoàn 165 (Bộ), Trung đoàn 121 (Thái Nguyên - Phúc Yên), Trung đoàn 72 (Bắc Kạn). Trung đoàn 72 điều động Tiểu đoàn 55 hoạt động từ Bắc Cạn, Nguyên Bình đến Cao Bằng; ở đại đội độc lập hoạt động ở các huyện Chợ Rã, Chợ Đồn, Ngân Sơn, Na Rì, Bạch Thông. Trung đoàn 121 để Tiểu đoàn 25 tập trung hoạt động từ Thái Nguyên đến Phúc Yên; 1 đại đội độc lập ở Đông Anh, Đa Phúc; 1 đại đội ở Kim Anh, Yên Lãng; 5 đại đội ở Phú Bình, Võ Nhai, Chợ Chu, Đại Từ, Đồng Hỷ. Trung đoàn 165 được phân thành các đại đội bố trí ở Chợ Rã, Chợ Đồn và thị xã Bắc Kạn. Nhiệm vụ của các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung trên hướng Mặt trận đường số 3 là bao vây, chia cắt tiếp tế, bức địch rút khỏi các vùng Chợ Đồn, Chợ Rã, bảo vệ an toàn cho các cơ quan Trung ương Đảng.


Trên Mặt trận Đường số 4 có Trung đoàn 74 (Cao Bằng) và Trung đoàn 28 (Lạng Sơn)1 (Có Tài liệu ghi là Trung đoàn 11 (Lạng Sơn)). Trung đoàn 74 để Tiểu đoàn 73 làm nhiệm vụ cơ động từ Cao Bằng đến Đông Khê; còn 6 đại đội phân tán về các huyện Nguyên Bình, Sóc Giang, Hoà An, Quảng Yên, Phực Hoà, Đông Khê. Trung đoàn 28 đề Tiểu đoàn 249 làm nhiệm vụ cơ động đánh địch trên đoạn đường Lạng Sơn đi Thất Khê và Lạng Sơn - Đồng Mỏ. Hai tiểu đoàn được chia thành 6 đại đội lần lượt toả về các huyện Thất Khê, Thoát Lãng, Đồng Đăng, Điềm He, Lộc Bình, Đồng Mỏ. Nhiệm vụ của các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung trên mặt trận này là tổ chức các trận phục kích, tập kích, đánh tiêu diệt quân cơ động địch trên Đường số 4, ngăn chặn việc tiếp tế của địch từ Lạng Sơn lên Cao Bằng.


Ở Mặt trận Sông Lô - đường số 2 có trung đoàn của Khu 10 và một tiểu đoàn chủ lực của Bộ. Các tiểu đoàn tập trung đươc bố trí đánh tàu địch trên sông Lô, đoạn từ Việt Trì đến Tuyên Quang. Các đại đội độc lập bố trí phân tán xuống các huyện phối hợp với du kích và nhân dân đánh địch rộng khắp. Nhiệm vụ của các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung là đánh địch cả trên bộ và trên sông, ngăn chặn tiếp tế và tăng viện của địch từ phía tây.


Thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung", đến cuối tháng 10-1947, trên địa bàn Việt Bắc, có 30 đại đội độc lập được bố trí ở các huyện trọng điểm thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang và 18 tiểu đoàn tập trung được bố trí hoạt động ở các địa bàn trọng yếu. Để có đủ cán bộ chỉ đạo, chỉ huy các đại đội độc lập, Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo các trung đoàn giải tán 1, 2 cơ quan tiểu đoàn bộ, đưa cán bộ xuống tăng cường cho các đại đội; đồng thời, Bộ Tổng Tham mưu cũng cử một số cán bộ có kinh nghiệm xuống các huyện trọng điểm ở Bắc Kạn, Lạng Sơn và Tuyên Quang giúp đỡ các đại đội độc lập. Bên cạnh cán bộ chỉ huy đơn vị, mỗi đại đội còn có một cán bộ địa phương tham gia. Hầu hết chiến sĩ là người địa phương nên thuận tiện cho việc tuyên truyền vận động nhân dân cũng như khi tác chiến và giao thông tiếp tế kịp thời.


Phân tán đại đội độc lập để hoạt động ở các huyện là hình thức thích hợp để hỗ trợ và thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích phát triển. Cán bộ, chiến sĩ các đại đội đến từng địa phương đều được nhân dân tận tình giúp đỡ, che chở, đã nhanh chóng hoà nhập, thực hiện nhiệm vụ được giao. Các đại đội độc lập đi sâu đi sát, giúp đỡ dân quân du kích tổ chức, phát triển lực lượng ở 5 tỉnh Việt Bắc lên tới 4.228 người. Hầu hết các huyện đều có một trung đội du kích tham gia chiến đấu. Cán bộ, chiến sĩ các đại đội thường xuyên bám cơ sở, giúp đỡ nhân dân thực hiện tiêu thổ kháng chiến, đào đường, đắp ụ, đắp kè trên sông, làm "vườn không nhà trống", góp phần phát triển chiến tranh nhân dân ở hầu khắp các địa phương.


Trong quá trình chiến đấu, các đại đội độc lập đã phát huy vai trò nòng cốt của chiến tranh nhân dân địa phương. Cán bộ, chiến sĩ các đại đội giúp đỡ dân quân du kích đeo bám, phục kích, quấy rối tiêu hao, tiêu diệt những đơn vị nhỏ, lẻ của địch, khiến chúng luôn bị động tìm cách đối phó. Trên Mặt trận đường số 3, nhờ các đại đội độc lập hỗ trợ, hoạt động của dân quân du kích ngày càng phát triển.


Qua một tháng hoạt động của các đại đội độc lập, ngày 14-11-1947, Bộ Tổng chỉ huy ra Huấn lệnh "Phát động chiến tranh du kích, nhiệm vụ quân sự căn bản trong giai đoạn này", trong đó nêu rõ một số hạn chế cần khắc phục và chỉ rõ: "ngoài nhiệm vụ thường, đại đội độc lập còn có nhiệm vụ nâng đỡ cho du kích địa phương trưởng thành. Trong phạm vi hoạt động của mình, đại đội độc lập ít nhất là phải giúp đỡ cho 1 trung đội du kích quân trở nên bộ đội địa phương”1 (Văn kiện quân sự của Đảng, Tập 2, Sđd, tr. 551-552).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #142 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:04:55 am »

Quán triệt Huấn lệnh của Bộ Tổng chỉ huy, cuối tháng 11-1947, hoạt động của các đơn vị ngày càng phát triển. Trên Mặt trận Đường số 3, các đại đội độc lập phối hợp với dân quân phục kích địch ở km số 3 và 22-23 (Bắc Kạn - Chợ Mới), các tuyến đường Bắc Kạn đi Cao Bằng, Phủ Thông, Chợ Đồn; đồng thời tiến công các vị trí địch ở Chợ Rã, Chợ Đồn, Chợ Chu, Bản Thi. Đến ngày 20-11-1947, các đơn vị đã đánh hơn 17 trận, gây cho địch thiệt hại nặng. Đáng lưu ý là trận tập kích đồn Phủ Thông (30-11-1947) của Đại đội 395 thuộc Tiểu đoàn 160 Trung đoàn 72, có một trung đội du kích thị xã Bắc Cạn tham gia. Tuy không đạt như kế hoạch đề ra, nhưng đã đánh dấu bước phát triển mới về hình thức chiến thuật tập kích đơn vị cấp đại đội của quân đội ta. Tại Mặt trận đường số 4, các đại đội độc lập giúp đổ nhiều đội du kích tập trung đánh giao thông, tập kích các vị trí địch ở Đông Khê, Thất Khê, Quảng Uyên, Văn Mịch, Hào Lịch, Áng Mò, gây cho địch nhiều thiệt hại.


Đồng thời với việc thực hiện đại đội độc lập đưa về các địa phương hoạt động, Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo các khu triển khai tiểu đoàn tập trung phốĩ hợp với các đại đội độc lập và du kích đánh địch. Trong khi các trung đoàn 72 (Bắc Kạn), 121 (Thái Nguyên - Phúc Yên), 74 (Cao Bằng), 28 (Lạng Sơn), mỗi trung đoàn chỉ để lại một tiểu đoàn làm lực lượng cơ động, thì các trung đoàn chủ lực của Bộ và các khu ở Việt Bắc bố trí các tiểu đoàn 48, 19, 60, 80, 517, 212 sẵn sàng cơ động đánh địch bất cứ nơi nào chúng đến.


Trên Mặt trận Sông Lô - đường số 2, một tiểu đoàn của Bộ và các đơn vị thuộc trung đoàn của Khu 10 đánh tàu địch trên sông Lô, từ Việt Trì đến Tuyên Quang. Hai tiểu đoàn của Bộ cùng các đơn vị thuộc Trung đoàn 147 bố trí lực lượng hoạt động ở phía Nam đường liên tỉnh Tuyên Quang - Thái Nguyên. Tại mặt trận này, ta giành thắng lợi trong trận Khoan Bộ (23-10-1947), khẳng định cách đánh phục kích "đặt gần, bắn thẳng" và trận Đoan Hùng (24-10-1947), mở ra một phương pháp mới "đặt gần, bắn thẳng" của bộ đội pháo binh.


Trên hướng Mặt trận đường số 3, Tiểu đoàn 55 Trung đoàn 72 được giao nhiệm vụ phối hợp với các đại đội độc lập và du kích đánh một số trận ở Khuội Hón, Khuội Tao, Kheo Phay, thị xã Bắc Kạn; đồng thời, Tiểu đoàn 55 còn đánh địch trên đường số 3 từ Bắc Kạn đi Chợ Mới và Bắc Kạn - Phủ Thông, gây cho chúng một số thiệt hại.


Đặc biệt là, tại Mặt trận đường số 4, Tiểu đoàn 2491 (Tiểu đoàn 249 còn có phiên hiệu khác là 374) thuộc Trung đoàn 28 phục kích địch ở đèo Bông Lau - Lũng Phầy (30-10-1947) giành thắng lợi lớn. Ta phá hủy 27 xe, diệt 94 lính Âu - Phi, 55 tên ngụy, bắt 101 tên, thu toàn bộ vũ khí và nhiều quân trang, quân dụng. Sau trận đánh, Tiểu đoàn 249 được Đảng và Chính phủ tặng thương Huân chương Quân công hạng nhì và được mang danh hiệu "Tiểu đoàn Bông Lau". Kinh nghiệm về trận Bông Lau của Tiểu đoàn 249 được Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo phổ biến nhanh tới các đơn vị toàn chiến trường Việt Bắc. Ngày 15-12-1947, Tiểu đoàn 102 thuộc Trung đoàn 165 phục kích địch ở Đèo Giàng, giành thắng lợi lớn, khiến quân địch hết sức kinh hoàng.


Trải qua hơn 2 tháng hoạt động và chiến đấu theo phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung", cán bộ, chiến sĩ các đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung đã vượt qua bao khó khăn gian khổ, chiến đấu dũng cảm, góp phần vào chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta trong chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947. Chiến thắng Việt Bắc làm phá sản chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp, đưa cuộc kháng chiến của quân và dân ta chuyển sang giai đoạn mới.


60 năm đã trôi qua, chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng, thắng lợi của chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947 do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên vấn đề là việc sử dụng các đơn vị bộ đội chủ lực có quy mô tổ chức thích hợp để đánh địch. Đó là do Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị thực hiện tốt phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung". Phương châm này được thực hiện xuất phát từ yêu cầu và kinh nghiệm tác chiến của một số đơn vị bộ đội chủ lực ở các chiến trường. Đầu năm 1947, tại vùng Bắc Ninh, Kiến An (Bắc Bộ) cũng như Bình - Trị - Thiên (Trung Bộ) đã từng thực hiện phân tán bộ đội chủ lực thành đại đội độc lập đế hoạt động. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, trước sức tiến công ồ ạt của địch, mặt trận ta ở nhiều nơi bị vỡ, bộ đội chủ lực phải rút lui ra khỏi vòng vây của địch. Nhưng cũng có một bộ phận chủ lực ở lại bám đất, bám dân, cùng dân quân du kích tổ chức thành những đội "Quyết tử quân", tiếp tục hoạt động, gây dựng lại phong trào, ở Nam Bộ, cũng có một số đơn vị bộ đội "xoay vần đánh địch" ngay trong lòng địch.


Trên cơ sở kinh nghiệm của các địa phương, bước vào chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947, Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã quyết định thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" một cách chủ động trở thành là một trong những phương thức hoạt động hiệu quả của bộ đội chủ lực để phá cuộc tiến công của địch, bảo vệ căn cứ kháng chiến. Thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" là nét đặc sắc, sáng tạo về nghệ thuật dùng binh của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy trong chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947. Các đơn vị chủ lực trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy và các bộ chỉ huy Khu 1, Khu 10, cùng các trung đoàn Vệ quốc đoàn của các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phúc Yên, Tuyên Quang nhanh chóng phân tán thành 30 đại đội độc lập đến các địa phương hoạt động, phát động chiến tranh du kích; đồng thời bố trí 18 tiểu đoàn tập trung ở những nơi cơ động, gần trục đường giao thông, phối hợp với các đại đội độc lập và du kích đánh địch. Nhờ vậy, các đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung đã phát huy được cách đánh thích hợp, tránh chỗ mạnh, đánh chỗ địch yếu, sơ hở, góp phần cùng quân và dân ta trên ba mặt trận thắng nhiều trận, tiến tới đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công chiến lược của địch lên Việt Bắc.


Việc tổ chức và chỉ đạo thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” là nét độc đáo, sáng tạo về nghệ thuật dùng binh, một kinh nghiệm quý báu không chỉ ở tầm chiến dịch mà cả chiến lược, không chỉ trên chiến trường Việt Bắc Thu - Đông 1947 mà trên phạm vi cả nước nhiều năm sau đó trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954 và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #143 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:08:45 am »

MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CỦA CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Đại tá, PGS, TS. DƯƠNG ĐÌNH QUẢNG
Học viện Quốc phòng


Việt Bắc Thu - Đông 1947 là cuộc phản công chiến lược đầu tiên và lớn nhất của quân và dân ta sau chưa đầy một năm ngày Toàn quốc kháng chiến, chúng ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công chiến lược quyết định của thực dân Pháp, với binh lực gần 12 nghìn quân gồm không quân, pháo binh, cơ giới lên Việt Bắc nhằm diệt và bắt cơ quan đầu não kháng chiến của Việt Minh; tìm diệt bộ đội chủ lực; phá tan căn cứ địa Việt Bắc cùng tiềm lực kháng chiến; bịt kín, khóa chặt biên giới Việt - Trung. Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp xâm lược, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta phát triển sang giai đoạn mới.


Những bài học kinh nghiệm của cuộc phản công chiến lược Việt Bắc Thu - Đông 1947 được nêu trong tham luận này, đó là:

- Đánh giá âm mưu chiến lược, phán đoán hướng và hành động tiến công của địch.

Sau hơn nửa năm kể từ khi Toàn quốc kháng chiến bùng nổ (19-12-1946), mặc dù đã có thêm viện binh từ chính quốc sang, những địch cũng chỉ chiếm và đủ sức giữ được các thành phố lớn cùng một số thị xã, song đang vấp phải những khó khăn cả về quân sự và chính trị mà chúng không thể lường hết được. Về quân sự, quân viễn chinh Pháp phải đối phó với một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của một dân tộc với một ý chí và hành động cách mạng thống nhất. Về chính trị, các cuộc thương lượng theo quan điểm thực dân của chúng với Chính phủ Hồ Chí Minh, trở nên thật sự bế tắc, không có lối thoát. Nhiều phương án của các chính khách Pháp được đưa ra nhằm nhanh chóng giành thắng lợi cho cuộc chiến tranh xâm lược này. Cuối cùng, "đại bác và chính quyền tay sai", kết hợp biện pháp quân sự với thủ đoạn chính trị, lấy tiến công quân sự để hỗ trợ cho mục tiêu chính trị, là giải pháp cuối cùng của thực dân Pháp. Một kế hoạch quân sự lớn của địch hình thành, được Hội đồng phòng thủ Đông Dương thông qua, Chính phủ Pháp phê chuẩn.


Về phía ta, cơ bản đã hoàn tất việc chuyển đất nước vào chiến tranh, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận, giam chân quân địch trong các đô thị một thời gian tương đối dài; di chuyển cơ quan lãnh đạo kháng chiến và mọi cơ sở vật chất quốc phòng, dân sinh lên căn cứ địa; sơ tán nhân dân chủ yếu là người già, trẻ em, phụ nữ ốm yếu; phát triển lực lượng vũ trang và nâng cao chất lượng chiến đấu; tiêu thổ kháng chiến; sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được tổ chức đi vào ổn định; hoạt động đối ngoại đã bước đầu làm cho dư luận thế giới, trước hết là nhân dân Pháp hiểu rõ và ủng hộ sự nghiệp kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta...


Căn cứ vào so sánh lực lượng, cũng như những hoạt động quân sự, chính trị của địch trên chiến trường lúc bấy giờ, ta đã có những phán đoán và kết luận là sắp tới chúng sẽ thực hiện một kế hoạch tác chiến chiến lược mới. Đồng thời với việc tích cực hoạt động để mở rộng phạm vị chiếm đóng, nhất là ở vùng đông bắc, tây nam đồng bằng Bắc Bộ, thực dân Pháp gấp rút giải quyết về căn bản chiến tranh ở miền Nam, đưa một phần quân viễn chinh ra Bắc, tăng cường hoạt động trinh sát đường không, huấn luyện quân dù, biệt kích. Phân tích âm mưu và các hoạt động quân sự - chính trị, Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 3 vào trung tuần tháng 6-1947, đã nhận định, trong Thu - Đông năm 1947, địch có thể phát động các cuộc tiến công với quy mô lớn để đánh chiếm những vị trí chiến lược còn lại ở trong tay ta, hoặc là để quét sạch miền trung châu Bắc Bộ, hoặc là để khống chế miền Thanh - Nghệ hay Nam - Ngãi và chúng cũng có thể mưu đồ cuộc đại tiến công vào Việt Bắc. Đồng thời, địch sẽ tăng cường càn quét vùng do chúng kiểm soát để thực hiện âm mưu lập chính quyền bù nhìn và vơ vét của cải, bóc lột và lợi dụng nhân lực của ta để cung cấp cho chiến tranh xâm lược. Mặc dù chưa thật đầy đủ và cụ thể, nhưng những nhận định ban đầu của Bộ Tổng chỉ huy về đòn quân sự của địch sử dụng, là đòn trọng yếu, tập trung lực lượng mở cuộc tiến công quân sự lớn, dùng thắng lợi quân sự để thúc đẩy việc thành lập chính quyền bù nhìn. Đòn tiến công của địch sẽ nhằm vào những vị trí chiến lược mà Hội nghị quân sự dự kiến trước hết sẽ là các căn cứ địa của ta trong đó có căn cứ địa Việt Bắc, nếu địch tiến công lên đây sẽ là một cuộc đại tiến công với quy mô lực lượng lớn. Do vậy, một trong những nhiệm vụ đặt ra, trong đó phải bảo vệ căn cứ địa, là ta phải phá tan âm mưu của chúng bằng cách đánh vào các đô thị, đường giao thông chuẩn bị lực lượng và triển khai thế trận, vận dụng cách đánh để phản công, tiến công quân địch kịp thời có hiệu quả.


Theo dõi và tiếp tục phân tích các động thái mới của địch, nhất là bài phát biểu của Cao ủy Pháp Bô-la (Bollaert), ngày 15-9, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị phải tích cực chuẩn bị chiến dịch mùa Đông về mọi mặt, chủ động đối phó với cuộc tiến công có thể lan rộng và ác liệt của quân Pháp sau mùa mưa này; chuẩn bị chống các cuộc quân địch đánh xuyên mũi dùi, đánh vòng thật rộng, hay nhảy dù, đổ bộ sau lưng ta. Hội nghị Trung ương Quân ủy liền sau đó cũng nhận định tình hình và xác định nhiệm vụ cần kíp của các đơn vị, địa phương là phải nắm chắc lực lượng, khẩn trương và tích cực chuẩn bị đối phó với những cuộc tiến công sắp tới của địch trong Thu Đông 1947.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #144 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:09:44 am »

Sau Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 3, Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 4, vào cuối tháng 9, cũng thống nhất đánh giá về phương hướng tiến công của địch là sẽ đánh mạnh trong Thu - Đông, âm mưu tiêu diệt chủ lực ta, phá căn cứ, cơ quan đầu não, đặt cơ sở cho việc lập chính quyền bù nhìn. Hội nghị nhận định, chiến trường chính sẽ là Bắc Bộ, nếu địch không mạo hiểm thì đánh đồng bằng, nếu mạo hiểm thì chúng sẽ đánh Việt Bắc. Chiến lược của địch là "đánh nhanh, thắng nhanh" nhằm mau chóng kết thúc chiến tranh. Trên cơ sở định hướng của hội nghị, ngày 4-10, Bộ Tổng chỉ huy ra lệnh cho các chiến khu trên cả nước, khẳng định thế nào địch cũng có cuộc hành binh lớn, chúng có thể quét vùng đồng bằng Bắc Bộ, đánh lên căn cứ địa Việt Bắc. Mệnh lệnh nêu rõ phương án tác chiến đối với từng tình huống, riêng dự kiến nếu địch đánh lên Việt Bắc, hướng chính của chúng sẽ là Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Tuyên Quang; hướng kiềm chế hay phối hợp phía tây sẽ là Hòa Bình, Sơn La, phía đông là Bắc Giang, Lạng Sơn. Từ đó, Bộ Tổng chỉ huy giao nhiệm vụ cho các khu 1, 10, 12 và các đơn vị chủ lực của Bộ ở Việt Bắc sẵn sàng đón đánh địch, các đơn vị trên chiến trường toàn quốc đánh mạnh để kiềm chế làm yếu sức địch, phối hợp với Việt Bắc.


Như vậy, việc nhận định, đánh giá âm mưu chiến lược của địch có thể tiến công vào căn cứ địa Việt Bắc đã được phán đoán sớm và có tính liên tục về thời gian, thông qua các nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 3, lần thứ 4, Bản chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương và Mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy trước khi địch bắt đầu đánh vào Việt Bắc. Đây không chỉ là những đánh giá khá sát mà còn là phương hướng và sự chỉ đạo thiết thực cho việc chuẩn bị kế hoạch, lực lượng, tạo thế trận để chủ động phá cuộc tiến công mùa đông của thực dân Pháp. Mặc dù ta còn ít kinh nghiệm và công tác trinh sát, quân báo cũng chưa đáp ứng yêu cầu, nguồn tin chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu qua báo chí, đài phát thanh của địch và phương Tây, nhưng việc dự đoán địch tiến công lên Việt Bắc rõ ràng là được chú ý. Và, mặc dù, trên thực tế, việc phán đoán ý đồ của địch có khó khăn, ta chưa lường được hết kế hoạch tiến công phiêu lưu của địch và chưa xác định đúng hướng tiến công ban đầu của chúng, tuy ta có dự kiến, nên việc bố trí thế trận ban đầu chưa phù hợp, dẫn đến bị bất ngờ, lúng túng. Nhưng khi địch nhảy dù xuống Bắc Kạn, quân bộ và quân thủy tiến vào Việt Bắc, khi đã nắm bắt đúng kế hoạch và hướng tiến công của chúng, ta đã kịp thời chuyển hóa thế trận, điều chỉnh lại lực lượng, chủ động chuyển sang phản công quân địch và suốt cuộc phản công, những nhận định đánh giá của ta về địch đã sát hơn nhiều. 


Từ khi nắm được kế hoạch cuộc hành binh của địch và trong suốt cuộc phản công, ta đều bám sát tình hình, phân tích đánh giá đúng những điểm mạnh, yếu của chúng. Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 15-10, đã phân tích và chỉ ra nhưng điểm yếu cơ bản của địch là cuộc tiến công chỉ ồ ạt lúc đầu và do phải rải quân trên một địa bàn rộng, lực lượng bị dàn mỏng, nên "cuộc tiến công này của địch không tỏ ra chúng mạnh, có đủ sức đánh ta khắp các mặt trận, mà tỏ ra chúng yếu, phải mạo hiểm". Điểm yếu chí mạng của cuộc hành binh mà ta đã sớm phát hiện khi chúng đánh lên Việt Bắc đó là khâu tiếp tế, vận chuyên. Ném hơn một vạn quân lên vùng rừng núi bao la, hiểm trở, giao thông đường sông, đường bộ khá hiếm, khí hậu, thông thổ không quen thuộc, nơi nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp, tự túc; xa hậu phương, địch gặp khó khăn rất lớn trong việc cơ động bằng cơ giới, bảo đảm hậu cần kỹ thuật, tăng viện, ứng cứu. Đây là cơ sở để Bộ Tổng chỉ huy chủ trương đánh mạnh ở cả ba mặt trận, nhất là Mặt trận sông Lô và Đường số 4, phá giao thông vận tải, tiếp tế của địch, kết hợp chặt chẽ với việc phát động nhân dân làm vườn không nhà trống, triệt nguồn tiếp tế, tập trung lực lượng đánh bại hai gọng kìm đông và tây cũng như quân chiếm đóng, đồn trú của chúng.


Do cuộc tiến công bị tổn thất nặng nề cả về người và vũ khí, trang bị, không thực hiện được đúng kế hoạch cuộc hành binh Lê-a, thực dân Pháp chuyển hướng cuộc hành binh, tiến hành vội vã cuộc hành quân Xanh-tuya, càn quét và sục sâu vào căn cứ địa Việt Bắc. Theo dõi và bám sát từng bước hành động của địch, Bộ Tổng chỉ huy nhận định, phán đoán: để phối hợp với cánh quân từ hướng Bắc Kạn xuống Thái Nguyên, có thể địch sẽ nhảy dù xuống Đại Từ, Võ Nhai và thị xã Thái Nguyên. Sự chuyển hướng hành binh này vừa là chuẩn bị cho việc lui quân, vừa là bước hai của cuộc hành binh, nhằm tiếp tục lùng sục cơ quan lãnh đạo kháng chiến, mà địch phán đoán là ta đã di chuyển xuống phía đông đường số 3. Do đó, ta nhanh chóng di chuyển cơ quan Trung ương đến nơi an toàn, điều chỉnh lại lực lượng, giao nhiệm vụ và ra lệnh cho các đơn vị chuyển sang tiến công, đánh địch rút lui trên các hướng: Tuyên Quang, Bắc Kạn - Thái Nguyên, đường số 13.


Việc đánh giá âm mưu chiến lược, phán đoán hướng tiến công, hành động mới của địch trong cuộc chiến là một vấn đề khó, nhất là trong giai đoạn đầu của mọi cuộc chiến tranh, nhưng trong cuộc phản công chiến lược Việt Bắc Thu - Đông 1947, là một thành công rất lớn của ta. Mặc dù, trên thực tế, lúc đầu ta chưa lường hết được kế hoạch tiến công phiêu lưu của địch cũng như dự kiến về hướng tiến công chủ yếu, kể cả khi chúng chuyển hướng cuộc hành binh, nhưng ta cũng đã sớm khắc phục, đánh giá lại tình hình chiến trận, phán đoán đúng toàn bộ cục diện, kịp thời điều chỉnh lực lượng, vận dụng cách đánh phù hợp. Đánh giá tình hình, trước hết là tình hình địch, đây là nội dung nghệ thuật quân sự chủ yếu đầu tiên, làm cơ sở để hạ quyết tâm tác chiến đúng, là một nhân tố có vai trò quyết định thành bại trong chiến đấu, chiến dịch, chiến lược và chiến tranh. Thực tiễn từ trong cuộc phản công chiến lược Việt Bắc Thu - Đông 1947 không những đã minh chứng, mà nó còn là bài học kinh nghiệm quý giá có tác dụng cho các giai đoạn sau của cuộc kháng chiến chống Pháp và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cũng như đặt ra ở tương lai cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #145 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:10:45 am »

- Chọn loại hình tác chiến và tổ chức chỉ đạo, chỉ huy điều hành cuộc phản công chiến lược.

Để làm thất bại cuộc tiến công ồ ạt, mạo hiểm, với ưu thế về binh khí kỹ thuật và tính bất ngờ của địch, đối chiến của ta ngay từ đầu và trong suốt quá trình không phải bằng một cuộc tác chiến phòng ngự để be bờ chặn địch mà bằng một cuộc phản công chiến lược để phá và đánh bại cuộc hành quân đầy tham vọng của chúng. Chọn loại hình phản công, chủ động tiến công lại cuộc hành binh của địch, đây vừa là nghệ thuật dụng binh sáng tạo trong việc lựa chọn hành động tác chiến, với tinh thần kiên quyết, chủ động và kịp thời, vừa quán triệt đúng đắn nguyên tắc tác chiến đã được Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 3 đề ra. Chúng ta phải giữ quyền chủ động, hiểu rõ lực lượng của ta và lực lượng của địch, biết sử dụng lực lượng dự bị, tập trung binh lực khi cần thiết, điều động rất nhanh chóng và kịp thời, bảo toàn lực lượng mình, làm sai phán đoán của địch, khoét sâu nhược điểm của chúng, phối hợp giữa tác chiến của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Các nguyên tắc này không chỉ chỉ đạo tác chiến trong Thu - Đông 1947 mà còn chỉ đạo suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


Chọn loại hình tác chiến này, cũng chính là chúng ta đã kịp thời rút kinh nghiệm cách đánh, khắc phục những thiếu sót qua các trận đánh địch trong mở đầu Toàn quốc kháng chiến, khắc phục việc phân tán dàn quân thành "trận địa chữ nhất", lập tuyến án ngữ địch hoặc chờ địch đến mới đánh. Chọn loại hình tác chiến phản công, một lần nữa chúng ta đề cao tư tưởng tích cực tiến công tiêu diệt địch, đã được nêu rõ trong báo cáo tình hình quân sự và nhiệm vụ cần kíp của ta sáu tháng sắp tới tại Hội nghị quân sự toàn quốc cuối tháng 9-1947, là phá tan kế hoạch tiêu diệt ta của địch, kiên quyết nắm vững bộ đội, giữ gìn chủ lực, gắng tiêu diệt từng bộ phận quán địch, bảo vệ căn cứ nhưng không cố thủ, tranh thủ chủ động và đi đến phối hợp các khu với nhau, phối hợp chiến lược toàn quốc, phá âm mưu chính trị lập ngụy quyền của địch, về cách đánh, hội nghị chủ trương và nhấn mạnh "kiên quyết phát động du kích chiến", "kiên quyết tập trung để đánh vận động chiến", "vừa tập trung từng tiểu đoàn chủ lực cơ động đánh vận động chiến", "tránh phòng ngự chính diện, bộ đội phải ở lại sau lưng địch, hóa chỉnh vi linh, hóa linh vi chỉnh, hóa trang lẫn vào dân khi cần". Đây cũng là những cơ sở lý luận và thực tiễn để khi ứng phó với cuộc hành binh của địch, ta không thể chọn loại hình tác chiến phòng ngự, phòng thủ. Hơn nữa, mục tiêu chủ yếu cuộc tiến công của địch là diệt và bắt cơ quan đầu não kháng chiến, tìm diệt chủ lực ta, phá tan căn cứ Việt Bắc, nếu ta ứng phó bằng cuộc chiến phòng ngự, rõ ràng ta đã sa vào bẫy của địch, chúng sẽ phát huy được ưu thế binh hỏa lực và sức cơ động trên các mũi dùi, vòng xa đánh hiểm vào sau lưng ta trên tất cả các hướng. Chỉ có tiến công, phản công ta mới tước được quyền chủ động của địch, buộc chúng phải phân tán lực lượng bị động đối phó, hạn chế được điểm mạnh, khoét sâu yếu điểm trên tất cả các hướng hành quân, các đơn vị chiếm đóng của chúng.


Một thành công nữa về nghệ thuật quân sự là trong chỉ đạo tác chiến chiến lược, nếu như thắng lợi những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến là ta đã buộc địch phải chấp nhận cuộc tổng giao chiến tại các đô thị sớm hơn một đêm, buộc địch phải bị động giao chiến với ta, thì lần này, ở cuộc chiến Việt Bắc, ta lại giành được thắng lợi do chủ động tránh được những trận đánh lớn, tập trung, đánh chính quy mà kẻ địch cố tình nhắm tới với ý định đánh quỵ chủ lực ta. Bằng chủ trương phát động một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, ta đã kịp thời phán tán một số tiểu đoàn trong các trung đoàn thành các đại đội độc lập, cùng dân quân, du kích và nhân dân đánh địch tại chỗ, bám sát và liên tục đánh địch trên đường cơ động, quấy rối cả nơi địch trú quân; hỗ trợ cho các tiểu đoàn của ta đánh địch trên các mặt trận. Các tiểu đoàn cơ động của các trung đoàn, được tăng cường các đơn vị hỏa lực của Bộ, lấy đánh địch trên đường chúng hành quân bằng phục kích, vận động tiến công là chính nhằm tiêu diệt một số đơn vị địch. Đây là phương châm tác chiến sáng tạo nhất, phù hợp với tình hình thực tiễn về so sánh lực lượng khi ta còn yếu, tác chiến trên địa hình rừng núi có không gian rộng, lực lượng nhiều nhưng trình độ tổ chức chỉ huy cũng như kinh nghiệm tác chiến tập trung cấp trung đoàn hay tương đương trở lên của bộ đội còn rất hạn chế, kể cả hỏa lực chi viện cho trận đánh, phương tiện thông tin liên lạc thiếu. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: "Một kinh nghiệm được rút ra trong chiến tranh cách mạng khi lực lượng còn yếu thì trì hoãn trận đánh quyết định là điều cần thiết, sử dụng nhiều đơn vị vừa và nhỏ nhằm những nơi hiểm yếu mà tiến công tiêu diệt địch".


Với chủ trương phát động chiến tranh du kích là "nhiệm vụ quân sự cơ bản bức thiết", thực hiện nguyên tắc "du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phụ trợ", ta đã tiêu hao quân địch trên khắp chiến trường Việt Bắc, đồng thời tổ chức nhiều trận đánh tiêu diệt, như các trận phục kích điển hình ở Bông Lau trên Mặt trận Cao Bằng - đường số 4; các trận phục kích nhở trên đường Phủ Thông - Bắc Kạn, Chợ Mới - Bắc Kạn ở mặt trận Bắc Kạn - đường số 3; trận Đoan Hùng, trận ở ki-lô-mét số 7 trên Mặt trận sông Lô - đường số 2, tiêu diệt và bắt hàng trăm tên địch, phá hủy và thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng. Kết hợp đánh du kích rộng khắp của mọi lực lượng với đánh phục kích trên bộ, trên sông, tiêu diệt từng đơn vị cơ động địch của bộ đội chủ lực cấp đại đội, tiểu đoàn, với thực hiện tiêu thổ kháng chiến nhất là phá hoại đường sá, thực hiện bao vây, giam chân, không để cho chúng đánh rộng ra, ngăn chặn tiếp tế, tăng viện, ta đã làm thất bại kế hoạch bao vây Việt Bắc của quân Pháp. Cả hai binh đoàn Bô-phơ-rê ở hướng đông và binh đoàn Com-muy-nan ở hướng tây đều bị tổn thất, không thực hiện được kế hoạch hội quân ở Đài Thị vào ngày 13-10. Mãi đến ngày 23-10, khi cánh quân phía đông đến Đài Thị thì cánh quân phía tây vẫn đang bị ta đánh mạnh trên đất Phú Thọ, Tuyên Quang. Ba ngày sau, khi cánh quân phía tây đến được Đài Thị thì cánh quân phía đông đã rút khỏi Đài Thị mấy ngày trước đó.


Kết hợp với chiến trường chính, Bộ Tổng chỉ huy còn chỉ đạo các chiến trường trên toàn quốc đẩy mạnh tác chiến chi viện, phối hợp cùng Việt Bắc. Các chiến trường trên cả nước không chỉ đánh để "chia lửa", kìm chân quân địch, không cho chúng tăng viện cho chiến trường chính, mà thông qua đó đẩy mạnh phong trào kháng chiến phát triển lên một bước mới, cải thiện thế trận có lợi cho chiến trường mình. Chính vì thế mà trong suốt cuộc hành binh lớn của địch lên Việt Bắc, khi lực lượng bị tiêu hao, chúng không còn binh lực để tăng viện, có chăng chỉ điều được lực lượng không quân vận tải trên toàn chiến trường Bắc Bộ để tiếp viện nhưng cũng không có hiệu quả.


Cuộc phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947 là cuộc chiến quy mô lớn đầu tiên, có ý nghĩa quyết chiến chiến lược, diễn ra trong không gian rộng, thời gian rất khẩn trương, trong điều kiện hết sức khó khăn về công tác bảo đảm cho tác chiến nên cấp chiến lược phải trực tiếp điều hành, chỉ đạo và chỉ huy toàn bộ cuộc chiến. Đây là phương án tổ chức chỉ huy hợp lý nhất đối với một trận quyết chiến chiến lược, khi mà mọi tình hình đều hết sức đặc biệt, cuộc chiến quy mô lớn nhất thiết phải thắng lợi. Chỉ có lúc đó, với trình độ, quyền hạn và khả năng của Bộ Tổng chỉ huy, mới có đủ điều kiện để tổ chức, thực hành đấu trí, đấu lực kịp thời, mau lẹ và thành công. Không chỉ đối với toàn bộ cuộc phản công chiến lược, mà trên từng mặt trận của cuộc phản công, do tính chất, nhiệm vụ có tác dụng quyết định đến thắng lợi của toàn cục, nên chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp các mặt trận đều là những đồng chí chỉ huy của Bộ Tổng chỉ huy phái xuống.


Đặc điểm cơ bản của phản công chiến lược Việt Bắc là tiến công quân địch đang tiến công ta, mà quyền tiến công ban đầu thuộc về địch, chúng lại có ưu thế về lực lượng và nhất là binh khí kỹ thuật. Để giành thắng lợi, đòi hỏi nghệ thuật quân sự của ta phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó chọn loại hình tác chiến phản công một cách sáng tạo và tổ chức chỉ đạo, chỉ huy điều hành cuộc phản công chiến lược một cách linh hoạt là thành công nhất. Trong phản công Việt Bắc, ta vận dụng phương thức "đại đội độc lập" và "tiểu đoàn tập trung" là một nét sáng tạo. Đã là phản công, phải tạo ra và cần có lực lượng tại chỗ, lực lượng cơ động đều mạnh và kết hợp chặt chẽ hai lực lượng này trong thực hiện cách đánh phản công. Kinh nghiệm này và cùng với kinh nghiệm nhiều cuộc phản công sau đó qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã được tổng kết, trở thành một nội dung chủ yếu trong nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam. Về tổ chức chỉ huy, điều hành phản công linh hoạt trên chiến trường Việt Bắc, đây là cách thức điều hành có hiệu quả nhất, mà sau này đã trở thành một trong những cách thức tổ chức chỉ đạo, chỉ huy tác chiến chiến lược của Bộ Tổng chỉ huy và cơ quan tham mưu chiến lược thời kỳ đầu của chiến tranh là: Bộ Tổng chỉ huy xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược, giao nhiệm vụ cho từng mặt trận, chiến trường và chỉ đạo các mặt trận, chiến trường tác chiến, có phối hợp với nhau ở mức độ nhất định.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #146 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:11:39 am »

- Bảo vệ căn cứ địa, hậu phương, cơ quan đầu não kháng chiến.

Việt Bắc có vị trí địa - chiến lược đặc biệt quan trọng. Nằm về phía bắc của Tổ quốc, Việt Bắc rất gắn bó chặt chẽ với trung tâm đất nước, vùng châu thổ Bắc Bộ, là vùng cửa ngõ, hành lang nối liền nước ta với phía Bắc. Nơi đây, các yếu tố địa lý - địa hình, chính trị - văn hóa, kinh tế - xã hội khá thuận lợi, nên Việt Bắc - "cái nôi" của Cách mạng Tháng Tám, một lần nữa được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm căn cứ địa đứng chân vững chắc của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy để chỉ đạo mọi hoạt động kháng chiến.


Nhận rõ vị trí chiến lược của căn cứ Việt Bắc cũng như các vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Nam - Ngãi - Bình - Phú và hệ thống căn cứ, khu du kích, cơ sở chính trị trong vùng địch chiếm và vùng tranh chấp, trong điều kiện phải đương đầu với thực dân Pháp có quân đông, vũ khí hiện đại, trang bị dồi dào, ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định rất rõ vai trò to lớn của hậu phương, căn cứ địa kháng chiến. Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 2 (4-1947) đã nhìn nhận: "Việt Nam không thể có căn cứ địa rộng rãi và vững chắc như Tàu. Những căn cứ địa ở Việt Nam đều có thể bị đánh xuyên mũi dùi vào hoặc bao vây. Nhưng Việt Nam đã có một mặt trận đoàn kết toàn dân, nhân dân đã được hướng chế độ dân chủ rộng rãi và liều chết giữ vững chế độ ấy. Tình hình Pháp lại đặc biệt nguy khốn và nước Pháp xa Việt Nam hàng vạn cây số, nên Việt Nam vẫn có thể kháng chiến và nắm chắc thắng lợi bằng cách mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay cả sau lưng địch, trong ruột địch và tổ chức căn cứ địa không những ở rừng núi mà ở cả đồng bằng". Bởi vậy, việc bảo vệ căn cứ địa, hậu phương kháng chiến nói chung, nhất là bảo vệ an toàn tuyệt đối cho cơ quan đầu não lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến, phải được đặt lên hàng đầu.


Thực hiện đúng kế hoạch, tháng 3-1947, các cơ quan, ban, ngành của Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Trung ương Quân ủy, Bộ Quốc phòng, các đơn vị quân đội, kho tàng, xí nghiệp, công xưởng Nhà nước cùng hàng vạn đồng bào, từ các nơi tụ về Việt Bắc theo các vị trí đã được xác định, trong đó có khu vực trọng yếu nhất là các an toàn khu (ATK) của Trung ương. Để bảo đảm tuyệt đối an toàn và thuận lợi nhất cho nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành kháng chiến của cơ quan đầu não, tại trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, ta đã chọn một số địa điểm nằm trên vùng giáp ranh ba tỉnh (Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang): Định Hóa, Chợ Đồn, Sơn Dương, Chiêm Hóa làm nơi xây dựng các an toàn khu của Trung ương. Mỗi ATK đều có hai, ba vị trí dự phòng. Nằm sâu giữa vùng núi rừng bạt ngàn, ATK giữ được bí mật, tránh được sự đánh phá của kẻ thù, lại có điều kiện sản xuất tự cấp. Đóng trên địa bàn giáp ranh 3 tỉnh, nơi đây, có mạng đường, nhất là đường mòn men theo hẻm núi, từ ATK tỏa đi các huyện, các tỉnh, bảo đảm cho việc tiếp tế, cơ động cũng như bảo đảm sự chỉ đạo của Trung ương, Chính phủ, Bộ Tổng chỉ huy tới các vùng, miền, địa phương trên cả nước được mau chóng và cũng có thể dễ dàng di chuyển từ địa phương này sang địa phương khác khi tình thế bắt buộc.


Tại đây, công tác xây dựng và bảo vệ căn cứ địa nói chung, bảo vệ các cơ quan Trung ương nói riêng, được triển khai thực hiện nhanh chóng. Ngoài việc bố trí địa điểm cho các cơ quan quân, dân, chính, Đảng sao cho hợp lý trong một căn cứ của Trung ương, bảo đảm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thì việc triển khai đồng bộ một loạt các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ căn cứ địa, cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục... cũng được thực hiện có hiệu quả. Ví như, công tác giữ bí mật, bảo đảm an toàn được xây dựng thành quy chế chặt chẽ; công tác tuyên truyền giáo dục đề cao cảnh giác, phòng gian giữ bí mật được tiến hành sâu rộng ở tất cả các cấp; vấn đề cơ động, di chuyển, bảo vệ nơi ở và làm việc cũng được đặt thành kế hoạch cụ thể.


Khi địch cho quân dù đổ bộ xuống Bắc Kạn, Bộ Tổng chỉ huy đã kịp thời thông báo tình hình chiến sự ở Việt Bắc cho các khu, khẳng định cuộc tiến công của địch chỉ là phiêu lưu, mạo hiểm, không có lợi thế tiến công, đồng thời nhanh chóng giải quyết một loạt những nhiệm vụ quân sự, chính trị và kinh tế cần kíp của quân, dân ở Bắc Kạn nhằm chống lại cuộc tiến công của địch, bảo vệ căn cứ địa kháng chiến, bảo vệ cơ quan lãnh đạo Trung ương. Đồng thời, sử dụng lực lượng bộ đội, dân quân du kích và toàn dân bao vây, giam chân địch; thực hiện phòng gian, phong tỏa tin tức, canh gác, kiểm soát đi lại nhất là các cửa ngõ dẫn vào ATK; thường xuyên thay đổi nơi ở, nơi làm việc của các cơ quan, thực hiện canh phòng cẩn mật; hỗ trợ tích cực cho các cơ quan di chuyển ra vùng an toàn.


Nói đến bảo vệ tức là nói đến cả hai mặt tự bảo vệ và được bảo vệ. Như vậy mới gọi là bảo vệ vững chắc, bảo vệ tốt nhất. Cả hai mặt đó trước hết thuộc về "thiên thời, địa lợi, nhân hòa" của vùng căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi". Chúng ta đã bảo vệ an toàn căn cứ địa kháng chiến, bảo vệ an toàn tuyệt đối cơ quan đầu não kháng chiến. Bài học thành công là ta biết dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân, có kế hoạch bảo vệ chu đáo, kết hợp kế hoạch tác chiến tại chỗ với kế hoạch tác chiến phản công địch, vận dụng sáng tạo các hoạt động mưu kế lừa địch, chủ động tiến công địch để bảo vệ, để giành lấy thắng lợi.


Cuộc phản công chiến lược Việt Bắc Thu - Đông 1947 là một cuộc đấu trí, đấu lực diễn ra trong điều kiện địch mạnh, ta yếu, cả về binh lực và kinh nghiệm điều hành chiến tranh. Nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào, lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy của ta vẫn tin tưởng vào sức mạnh của toàn dân, bình tĩnh, sáng suốt tìm biện pháp thoát khỏi thế bất lợi, từng bước đảo lộn thế cờ, giành lại quyền chủ động đánh địch và cuối cùng đã làm thất bại cuộc hành binh đầy tham vọng của chúng. Cơ quan lãnh đạo kháng chiến được bảo vệ an toàn, bộ đội chủ lực được bảo toàn và trưởng thành trong chiến đấu, căn cứ địa được giữ vững. Thắng lợi đó đã góp phần quan trọng củng cố lòng tin vào tiền đồ của cuộc kháng chiến. Về mặt nghệ thuật quân sự, nhất là về chiến lược đã đem lại những bài học quý báu về nhận định, đánh giá tình hình địch; chọn loại hình tác chiến và tổ chức chỉ đạo, chỉ huy điều hành cuộc phản công chiến lược; bảo vệ căn cứ địa, hậu phương, cơ quan đầu não kháng chiến. Đây là những kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn, tuy chưa thật đầy đủ, nhưng là cơ sở để tiếp tục bổ sung, phát triển lên thành nghệ thuật chỉ đạo chiến lược trong suốt những năm tiếp sau của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và vẫn còn có ý nghĩa thời sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #147 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:17:25 am »

TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN THẮNG VIỆT BẮC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP


TS. ĐINH QUANG HẢI
Trưởng phòng Lịch sử hiện đại, Viện Sử học Việt Nam


Chiến tranh là một cuộc đọ sức quyết liệt, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế và văn hóa giữa hai bên. Trong đó, đòn tiến công và giành thắng lợi về quân sự có ý nghĩa quan trọng quyết định làm thay đổi thế và lực của mỗi bên; đồng thời làm thay đổi cục diện chiến trường và thay đổi cả chiến lược chiến tranh.


Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 là một đòn phản công chiến lược của quân và dân ta mang tất cả những ý nghĩa trên đây. Chiến thắng Việt Bắc đã làm thất bại "cuộc tiến công chiến lược mang nhiều tham vọng nhất của Pháp trong suốt quá trình chiến tranh xâm lược Đông Dương"1 (Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân - Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1995, tr. 205). Đó là mốc đánh dấu chấm hết cho chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh" của Bộ chỉ huy quân Pháp, buộc chúng phải chuyển sang chiến lược "đánh lâu dài”, thực hiện chính sách "Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", về phía ta chiến thắng Việt Bắc đã tạo đà cho cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới với những bước phát triển mới và thắng lợi ngày càng to lớn.


Như trên đã nói, cuộc tiến công vào Việt Bắc Thu - Đông 1947 là cuộc tiến công mang nhiều tham vọng nhất của thực dân Pháp. Tham vọng đó xuất phát từ những âm mưu và phán đoán sai lầm của giới chỉ huy quân sự Pháp về tình hình thực tế chiến trường Đông Dương. Mặc dù cho đến trước Thu - Đông năm 1947, quân Pháp đã chiếm được một số thành phố, thị xã quan trọng ở Bắc vĩ tuyến 16 như Huế, Đồng Hới, Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hòn Gai, Tiên Yên, Lạng Sơn, Lai Châu... và lập đồn bốt trên một số trục đường giao thông chính, nhưng chúng vẫn không thể làm chủ được các vùng nông thôn rộng lớn xung quanh các thành phố, thị xã, còn ở những vùng rừng núi chúng càng không thể với tới được.


Chỉ riêng việc thay chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Bắc Đông Dương tới 7 lần1 (Thay đổi 7 người lần lượt là: Salan (Xa-lăng), Valluy, Crépin (Cơrêpanh), Morliere (Moóc-li-e), Debès (Đe-bơ), Goine (Goanh) (tạm thay khi Đe-bơ chết), Xa-lăng) chỉ trong vòng 1 năm (từ tháng 6-1946 đến tháng 5-1947) đã chứng tỏ tình hình không bình thường. Thế nhưng, Bộ trưởng Chiến tranh Pháp Coste Floret, sau chuyến đi công cán ở Đông Dương, trở về vào tháng 5-1947, đã mạnh mẽ tuyên bố: "Ở Đông Dương không còn vấn đề quân sự, thắng lợi của quân đội chúng ta là hoàn toàn"2 (Viện Sử học Việt Nam. Lịch sử Việt Nam, Tập 10 (1945-1950), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, tr. 318). Thậm chí, tướng Xa-lăng, khi có được binh lực trong tay, trước lúc mở cuộc tấn công lên Việt Bắc, đã chủ quan tuyên bố: "Sẽ hoàn tất mục tiêu trong ba tuần lễ"1 (Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Sđd, tr. 206).


Từ những phán đoán không đúng, thực dân Pháp đã quyết định thông qua kế hoạch tiến công Việt Bắc, do tướng Xa-lăng vạch ra, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt quân chủ lực của ta, phá hoại kho tàng, mùa màng, cướp bóc lúa gạo, triệt phá đường tiếp tế, bao vây và khóa chặt biên giới Việt - Trung, cố giành một thắng lợi về quân sự để tập hợp lực lượng phản động lập chính phủ bù nhìn tay sai và hy vọng kết thúc chiến tranh, đặt lại ách thống trị thực dân trên toàn cõi Việt Nam.


Theo kế hoạch đó, ngày 7-10-1947, thực dân Pháp đã huy động 12.000 quân tinh nhuệ gồm cả lục quân, thủy quân, pháo binh, xe cơ giới và hầu hết máy bay ở Đông Dương, mở cuộc hành quân mang mật danh Lê-a theo ba cánh tiến công lên Việt Bắc. Nhưng quân Pháp đã vấp phải cuộc phản công quyết liệt của quân và dân ta với tinh thần quyết thắng và quyết tâm bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến. Sau 75 ngày đêm chiến đấu anh dũng, quân và dân ta đã giành được thắng lợi. Các gọng kìm của địch ở Việt Bắc đã bị bẻ gãy. Thực tế chiến trường đã chứng tỏ quân Pháp đã không thể thực hiện được kế hoạch như dự kiến. Cuộc hành quân Lê-a thất bại nặng nề, ngày 19-11-1947, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ra lệnh cho các binh đoàn thực hiện kế hoạch Xanh-tuya (Ceinture) với ảo tưởng "lùng bắt cơ quan đầu não Việt Nam, tiêu diệt chủ lực Việt Minh". Nhưng kế hoạch Xanh-tuya cũng không tránh khỏi thất bại. Chiếc vành đai quanh khu tứ giác không những không siết chặt được mà còn bị chặt ra làm nhiều đoạn. Đại bộ phận quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Bắc, âm mưu nhanh chóng kết thúc chiến tranh của thực dân Pháp bị thất bại hoàn toàn.


Chiến thắng Việt Bắc đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của cuộc kháng chiến, trước hết là trên lĩnh vực quân sự. Kết quả, ta đã "loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7.000 tên địch (trong đó diệt 3.300 tên, làm bị thương 3.900 tên, bắt hàng 270 tên), bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến, ca nô, phá hủy 255 xe cơ giới, 100 khẩu pháo, cối, hàng nghìn súng, thu hơn 2.000 súng các loại (trong đó có 5 khẩu pháo, 42 khẩu côi...), hàng chục tấn quân trang quân dụng"1 (Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh thuộc Bộ Chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 524-525). Thiệt hại đó của quân Pháp thật to lớn, nhưng "Thất bại lớn của quân Pháp không phải ở số lượng binh lính bị tiêu diệt, những dụng cụ chiến tranh bị mất hay bị phá hủy, ở chỗ không những không tiêu diệt được khu cố thủ Việt Minh, mà còn không đạt được một mục tiêu chủ yếu nào đã đề ra cho cuộc tiến công"2 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Sđd, tr. 207).


Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã có tác động lớn đối với cuộc chiến tranh, đặc biệt là sự tác động về mặt chính trị đối với thực dân Pháp. Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước Pháp hết sức khó khăn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nội bộ Chính phủ lủng củng, có nhiều mâu thuẫn, thì thất bại ở Việt Bắc là một đòn đau đánh vào tinh thần giới chức Chính phủ và quân đội Pháp. Nội bộ Chính phủ vốn đã mâu thuẫn lại càng mâu thuẫn thêm. Từ thất bại quân sự đã kéo theo một loạt khó khăn khác làm tình hình chính trị nước Pháp càng thêm bối rối: Nội các Ramadier đổ, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương là Va-luy bị triệu hồi, phong trào đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương ngày càng lan rộng trên đất Pháp và các nước trong khối Liên hiệp Pháp.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #148 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:18:31 am »

Ngay tại chiến trường Đông Dương, tinh thần, tư tưởng của sĩ quan, binh lính Pháp hoang mang dao động. Từ chỗ hung hăng, ngạo mạn, họ đã chuyển sang lo sợ, sa sút về tinh thần, thất vọng, không tin tưởng vào cuộc chiến tranh. Bộ chỉ huy quân Pháp từ đây không thể ảo tưởng vào một thắng lợi bằng đòn tiến công quân sự chớp nhoáng để sớm kết thúc chiến tranh. Những trận đánh ở Việt Bắc đã trở thành nỗi kinh hoàng đối với quân Pháp. Đại úy Buốc-đô (Bourdeaux) đã viết trong cuốn nhật ký của mình rằng: "Đây là cuộc chiến đấu của những toán quân nhỏ trên rừng núi. Nó đã gây cho ta những tổn thất nặng nề..."1 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Sđd, tr. 207); hay viên đội Noel đã viết: "Tôi mong rằng xong trận này thì họ sẽ để chúng tôi về Pháp. Máu đổ nhiều rồi, bao giờ hòa bình trở lại"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5 (1947-1949), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 359).


Sau khi rút khỏi Việt Bắc, quân Pháp tiếp tục lâm vào tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng về quân số do việc hồi hương 7.000 lính Pháp vào đầu năm 1948. Theo tài liệu của Bộ Tham mưu Pháp, số quân Pháp chỉ còn 68 tiểu đoàn bộ binh và biệt kích (trong đó có 38 tiểu đoàn lính ngụy)3 (Viện Sử học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, Tập 10, Sđd, tr. 424)... Với số quân như vậy thì mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng là tất yếu. Nếu tập trung quân để đánh bộ đội chủ lực thì không có quân để giữ đất, nếu bố trí quân giữ đất thì không có quân để đánh bộ đội chủ lực của ta. Mâu thuẫn đó đã đeo đuổi quân Pháp cho đến ngày kết thúc chiến tranh.


Bị đòn đau ở Việt Bắc, quân Pháp thấy rõ rằng chiến tranh sẽ kéo dài. không sớm kết thúc. Do đó, chúng quyết định tập trung lực lượng để bình định củng cố vùng chiếm đóng, xúc tiến mạnh việc lập chính quyền bù nhìn và quân đội tay sai; đồng thời ra sức càn quét, cướp bóc, vơ vét kinh tế để phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược.


Trong suốt những năm 1948, 1949, 1950, quân Pháp không thể mở những cuộc tiến công quy mô lớn như trận tiến công lên Việt Bắc, Thu - Đông năm 1947, mà quay về bình định vùng chiếm đóng bằng cách phân tán lực lượng trên hệ thống các đồn bốt dày đặc. Quân Pháp tiến hành các cuộc càn quét, đánh thọc sâu vào vùng nông thôn, mở rộng thêm phạm vi chiếm đóng, khống chế phần lớn vùng đồng bằng Bắc Bộ, tuyến đồng bằng ven biển và Nam Trung Bộ. Ở Nam Bộ, tướng Đờ La-tua (De Latour) đã cho xây dựng các vị trí chiếm đóng thành các tháp canh (Tour de garde). Hơn 1.300 tháp canh đã mọc lên tại các vị trí và các tuyến giao thông quan trọng "cứ cách từ 1 - 2 km lại có 1 tháp canh"1 (Viện Sử học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, Tập 10, Sđd, tr. 424).


Song song với các hoạt động về quân sự, thực dân Pháp xúc tiến mạnh mẽ việc tổ chức xây dựng ngụy quân, ngụy quyền, tăng cường bắt lính và sử dụng khá hiệu quả lực lượng hương dũng ở các địa phương; đồng thời ra sức cướp bóc về kinh tế, thi hành chính sách dồn lúa, dồn dân thông qua các hệ thống đồn bốt, tháp canh kết hợp với các đội ứng chiến nhỏ ở các tỉnh. Các hoạt động đó của thực dân Pháp đã gây nhiều khó khăn cho ta.


Nhìn chung cuộc kháng chiến trong những năm từ 1948-1950, thế chủ động trên chiến trường toàn quốc, cũng như trên chiến trường chính Bắc Bộ, vẫn thuộc về phía quân Pháp.


Về phía ta, chiến thắng Việt Bắc là thắng lợi của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân toàn diện, của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn Việt Bắc, cùng với sự phối hợp chiến đấu của chiến trường toàn quốc. Thắng lợi ở Việt Bắc là dấu mốc lịch sử có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc. Thắng lợi đó đưa cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới mà "điều quan trọng nhất của chiến thắng Việt Bắc là giữ được căn cứ kháng chiến chiến lược của cả nước, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến và lực lượng chủ lực của ta, giữ vững niềm tin của toàn dân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, với Đảng, với Chính phủ, với tiền đồ thắng lợi của cuộc kháng chiến"1 (Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Tập 1 (1945-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 211).


Tháng 1-1948, Hội nghị Trung ương Đảng (mở rộng) đã đánh giá: "Cuộc phản công thắng lợi ở Việt Bắc và chiến tranh nổi mạnh ở miền Nam đã gây thêm tinh thần nỗ lực phấn khởi trong toàn dân, càng thêm tin tưởng ở tiền đồ kháng chiến vẻ vang của dân tộc. Nó chứng tỏ Việt Nam nước nhỏ, không có căn cứ địa chắc chắn, biên giới có thể bị bao vây, vũ khí kém nhưng với sự đoàn kết và cố gắng của toàn dân, dưới chế độ dân chủ cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Hồ Chí Minh và của Hội, vẫn có thể kháng chiến thắng lợi"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 9 (1948), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 20-21).


Sau chiến thắng Việt Bắc, Trung ương Đảng ta chủ trương động viên toàn dân, toàn quân đẩy mạnh kháng chiến trên tất cả các mặt trận với mục đích làm cho ta mạnh lên, địch yếu đi, so sánh lực lượng thay đổi ngày càng có lợi cho ta, từ chỗ ngăn chặn, tiến lên đẩy lùi và thu hẹp phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp, về quân sự, nhiệm vụ chiến lược của quân và dân ta là phát động chiến tranh du kích rộng khắp, biến hậu phương địch thành tiền phương của ta, buộc địch phải căng lực lượng ra đối phó, phối hợp với các chiến dịch tiến công của ta trên các hướng địch yếu và sơ hở, góp phần phá vỡ các kế hoạch của địch, làm thất bại âm mưu thâm độc của thực dân Pháp.


Để thực hiện chủ trương trên, bộ đội ta phân tán phần lớn các đơn vị chủ lực chính quy thành những "đại đội độc lập" và các đội vũ trang tuyên truyền đi sâu vào vùng sau lưng địch vận động, tổ chức quần chúng phá tề, trừ gian, phá chính quyền bù nhìn, vô hiệu hóa tiến tới thủ tiêu chính quyền cơ sở của địch, phát triển chiến tranh du kích ngày càng mạnh mẽ trên khắp các chiến trường toàn quốc.


Kết hợp với phong trào du kích chiến tranh ở vùng sau lưng địch, bộ đội chủ lực đã mở những chiến dịch tiến công quy mô nhỏ và vừa ở chiến trường chính nhằm tiêu diệt từng bộ phận địch, giải phóng đất đai và dân, mở rộng vùng tự do. Qua đó đã rèn luyện cho bộ đội cách đánh vận động, đánh tập trung dài ngày, giúp bộ đội chủ lực ngày càng trưởng thành hơn. Chỉ tính từ năm 1948 đến giữa năm 1950, quân và dân ta đã mở hàng chục chiến dịch và đợt hoạt động quy mô nhỏ và vừa trên khắp các chiến trường, có sự kết hợp chiến đấu cùng dân quân du kích tiêu diệt địch. Các làng chiến đấu, khu chiến đấu ở các huyện, tỉnh đã xuất hiện và chống lại các cuộc càn quét của địch rất hiệu quả. Cho đến lúc đó, tuy ta không có những trận đánh lớn, nhưng kết quả hoạt động liên tục của ta trên các chiến trường đã chứng tỏ lực lượng của ta không ngừng phát triển, ngày càng lớn mạnh.


Cùng với các hoạt động vũ trang ngày càng tăng, các cuộc đấu tranh kinh tế và chính trị của quần chúng nhân dân đã nổ ra nhiều nơi ở vùng sau lưng địch, có sự phối hợp chặt chẽ với các đợt hoạt động vũ trang, nên đã gây cho địch nhiều tổn thất và khó khăn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #149 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:19:01 am »

Để tạo chuyển biến mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Biên Giới Thu - Đông 1950, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần vùng biên giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, đánh thông đường liên lạc quốc tế với các nước xã hội chủ nghĩa.


Sau 29 ngày đêm chiến đấu anh dũng của quân và dân ta, chiến dịch Biên Giới đã kết thúc thắng lợi. Năm 1950 đã cắm thêm một mốc lớn đánh dấu bước phát triển mới quan trọng của cuộc kháng chiến. Chiến thắng Biên Giới năm 1950 đã tạo nên một tình thế mới và mở ra những triển vọng mới cho cuộc kháng chiến. Đó là lần đầu tiên ta tiêu diệt gọn được một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn, đó cũng là lần đầu tiên quân đội ta giành quyền chủ động chiến dịch trên chiến trường chính Bắc Bộ. Thành quả của chiến dịch Biên Giới đã đáp ứng kịp thời những yêu cầu cấp thiết của chiến lược, đã làm cho tình huống chiến tranh chuyển sang một thời kỳ mới. Nếu chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã mở đầu cho giai đoạn cầm cự, thì với chiến thắng Biên Giới năm 1950, hình thái phản công cục bộ của cuộc kháng chiến đã bắt đầu xuất hiện.


Từ sau chiến dịch Biên Giới thắng lợi, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước vào giai đoạn mới, giai đoạn quân đội ta nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, chủ động tiến công và phản công ngày càng lớn. Từ đây, thế bao vây bốn phía của các thế lực đế quốc, thực dân đã bị phá tan. Chúng ta đã có điều kiện để thúc đẩy mọi mặt của cuộc kháng chiến phát triển thuận lợi, làm cơ sở để tiếp tục phấn đấu, tiến lên giành thắng lợi mới ngày càng to lớn hơn.


Tiếp theo thắng lợi của chiến dịch Biên Giới, từ tháng 12-1950 đến đầu năm 1954, quân và dân ta liên tục mở các chiến dịch lớn tấn công vào vùng Trung du, Đường số 18, đồng bằng Bắc Bộ, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào, Đông Cam-pu-chia, Tây Nguyên và chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Các chiến dịch được mở ra liên tiếp và giành thắng lợi đã chứng tỏ sự lớn mạnh của quân đội ta cả về số lượng và chất lượng, thế và lực của ta đã được nâng lên, ta đã giành và củng cố vững chắc quyền chủ động và liên tục mở các chiến dịch tấn công tiêu diệt địch. Thắng lợi đó đã đẩy cuộc kháng chiến của ta mau tới thắng lợi cuối cùng.


Cho đến những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh, mặc dù được Mỹ hà hơi tiếp sức, thực dân Pháp tập trung tăng cường lực lượng và trang bị vũ khí cho quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, nhất là ở chiến trường chính Bắc Bộ, nhưng quân Pháp vẫn không thể đối phó được với đà phát triển ngày càng mạnh mẽ của cuộc kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng, có đường lối kháng chiến đúng đắn, tinh thần đoàn kết hiệp đồng chiến đấu của quân và dân ta, biết sử dụng những chỗ mạnh của ta, khai thác chỗ yếu của địch, tập trung lực lượng tiến đánh những nơi địch yếu và sơ hở, nên ta đã giành được những thắng lợi to lớn. Ta đã giành được thế chủ động, đẩy địch vào thế bị động đối phó. Các kế hoạch Rơ-ve (Revers), kế hoạch Đờ Tát-xi-nhi (De Tassigny) rồi kế hoạch Na-va (Navarre) nối nhau sụp đổ, quân Pháp vẫn không thể giành lại được thế chủ động trên chiến trường mà ngày càng lún sâu hơn vào thế bị động lúng túng.


Quân và dân ta càng đánh càng mạnh, lực lượng của ta ngày càng trưởng thành và trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ, ta đã giành được thắng lợi vào ngày 7-5-1954. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc oanh liệt cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 của quân và dân ta, đánh bại kế hoạch quân sự Na-va, làm sụp đổ niềm hy vọng về một chiến thắng quyết định của giới quân sự và chính trị ở Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Giơ-ne-vơ thắng lợi, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đi tới thắng lợi hoàn toàn.


Nhìn lại toàn bộ chặng đường phát triển của cuộc kháng chiến, từ sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, đến những thắng lợi liên tiếp sau đó, mà đỉnh cao là thắng lợi ở Điện Biên Phủ năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã trải qua những bước đấu tranh đầy khó khăn gian khổ. Từ trong khó khăn gian khổ đó, nhân dân ta đã nhận thấy con đường kháng chiến của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là con đường vinh quang đầy hứa hẹn. Dù phải trải qua bao nhiêu khó khăn thử thách, cuối cùng cũng sẽ giành được thắng lợi. Sự thật lịch sử đã chứng minh chân lý đó là đúng đắn.


Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hiện nay, những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, mà nhân dân ta đã đạt được, đều bắt nguồn và là sự tiếp nối những thắng lợi hào hùng đó của ông cha trong lịch sử.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM