Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:40:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947-Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt  (Đọc 7261 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #90 vào lúc: 05 Tháng Tư, 2021, 10:56:37 am »

AN TOÀN KHU Ở TUYÊN QUANG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC


GIANG VĂN HUỲNH
Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tuyên Quang


Tuyên Quang là vùng đất lịch sử, là vùng căn cứ địa trong Cách mạng Tháng Tám 1945 và trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

1. An toàn khu ở Tuyên Quang, nơi ở, làm việc của Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan trung ương

Từ khi ra đời, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân, Đảng ta sớm nhận thức rằng chúng ta không những phải có mục đích chính trị đúng đắn mà còn phải xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang nhân dân đồng thời phải xây dựng chỗ đứng chân và thực lực của cách mạng nhằm đảm bảo cung cấp sức người, sức của để tiến hành chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược.


Điểm tựa đó phải được xây dựng ở nơi có địa hình, giao thông phức tạp khó khăn đối với địch khi chúng tiến đánh, nhưng thuận lợi cho ta trong hoạt động tác chiến, đảm bảo bí mật; là nơi có nền kinh tế đáp ứng được những nhu cầu tại chỗ về hậu cần cho lực lượng của ta trong buổi ban đầu; đó cũng là nơi sự kiểm soát, cơ cấu chính quyền địch tương đối yếu và lỏng lẻo hơn so với ở đô thị hay nông thôn miền xuôi. Thực hiện chủ trương đó, vùng núi rừng Việt Bắc được xây dựng thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, trong đó một số huyện của Tuyên Quang là trung tâm, đóng vai trò quan trọng vào thành công trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.


Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp của nhân dân ta bùng nổ trong điều kiện tiềm lực kinh tế và quân sự của ta còn nhiều hạn chế. Ngược lại, thực dân Pháp có một đội quân viễn chinh nhà nghề, giàu kinh nghiệm đi xâm lược, được trang bị vũ khí hiện đại, nước Pháp có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Trong điều kiện so sánh lực lượng vật chất hết sức chênh lệch giữa ta và địch, muốn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, chúng ta không thể "... Đem toàn lực dốc vào một vài trận hòng phân thắng bại" mà phải có thời gian để chuyển hóa lực lượng.


Để kháng chiến lâu dài, vấn đề cơ bản đối với ta là phải bảo tồn và phát triển lực lượng kháng chiến, phải xây dựng được những khu căn cứ vững chắc, an toàn, không những chỉ có vị trí, địa hình thuận lợi, có cơ sở và phong trào quần chúng vững mạnh, mà còn phải đáp ứng được những yêu cầu cần thiết về sức người, sức của cho cuộc kháng chiến.


Trong bối cảnh đó, Tuyên Quang cùng Việt Bắc được chọn làm một trong những căn cứ địa trung tâm của cuộc kháng chiến chống Pháp; một số huyện của Tuyên Quang trở thành An toàn khu (ATK) của Trung ương.


Nhận rõ dã tâm của thực dân Pháp muốn cướp nước ta một lần nữa, sau Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng, cuối tháng 10-1946, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để chuẩn bị địa điểm xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Một số địa điểm thuộc các huyện: Định Hoá, Đại Từ (Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Kạn), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) được chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ trong trưòng hợp phải ròi Thủ đô Hà Nội đi kháng chiến.


Giữa tháng 12-1946, một số cán bộ trong Đội công tác đặc biệt lần lượt lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ. Cùng thời gian trên, các cơ quan Trung ương; các cơ quan, cơ sở hậu cần, kinh tế, đơn vị quân đội được chuyển ra vùng ven các thành phố, thị xã rồi chuyển dần lên Việt Bắc. Đầu năm 1947, đợt tổng di chuyển cơ bản hoàn thành. Các cơ quan Trung ương, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Quốc phòng, các cơ quan kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế... đều lần lượt rời Thủ đô Hà Nội lên căn cứ địa Việt Bắc...


Ngày 2-4-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở lại Sơn Dương. Đây là nơi ở, làm việc đầu tiên khi Người trở lại Việt Bắc, lãnh đạo cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, để đảm bảo bí mật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tục di chuyển, thay đổi chỗ ở, làm việc tại gần 20 địa điểm khác nhau trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.


Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt và nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ, ban, ngành cũng từng về ở và làm việc tại nhiều địa điểm trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đã có 11 trong số 12 bộ, 65 cơ quan Trung ương đã từng đặt trụ sở và nơi làm việc tại Tuyên Quang. Địa điểm đặt trụ sở làm việc của các cơ quan, từ năm 1947, ở các địa phương cụ thể như sau:

Tại huyện Sơn Dương: Văn phòng Tổng Bí thư, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên huấn Trung ương, Ban Nông vận Trung ương, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam... đóng tại xã Tân Trào. Ban Thường trực Quốc hội và Mặt trận Liên Việt, Bộ Lao động, Bộ Nội vụ, Thông tấn xã Việt Nam... đóng tại xã Trung Yên. Nha Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Nha Thông tin, Trung ương Đoàn, báo Tiền phong, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Ban tiếp tế ATK, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam... đặt tại xã Minh Thanh. Văn phòng Chủ tịch phủ - Thủ tướng phủ, Văn phòng Phó Thủ tướng, Ban Thanh tra Chính phủ, Bộ Công thương... đóng ở xã Bình Yên. Nhà in, toà soạn và trị sự báo Cứu quốc, kho cất giữ vàng bạc của Trung ương, Bộ Giao thông công chính... đóng ở xã Hợp Thành. Bộ Tài chính, Trạm cung cấp 19 - ATK, Đài Tiếng nói Việt Nam... ở xã Tú Thịnh. Ban nghiên cứu Không quân ở xã Đông Thọ, Nha nghiên cứu Kỹ thuật ở xã Cấp Tiến. Xưởng quân giới TĐ64 đóng ở xã Quyết Thắng; Khu B Nhà máy sản xuất vũ khí TK1 đặt ở xã Hào Phú; Khu A Nhà máy sản xuất vũ khí TK1 đóng ở xã Đông Lợi; Phòng Trung ương liên lạc miền Nam, Cục Tiếp tế vận tải ở xã Hợp Hoà...

Tại huyện Yên Sơn: Văn phòng Trung ương Đảng, Nhà xuất bản Sự thật, Bộ Kinh tế, báo Nhân dân... đóng ở xã Kim Quan. Bộ Y tế đóng tại xã Tân Long. Xưởng quân giới J1 đặt ở xã Xuân Vân. Trường Nguyễn Ái Quốc đóng tại xã Tân Tiến. Trường Ngoại ngữ Việt Bắc, Trạm giao thông ATK, Nha Ngân khố Trung ương... đặt ở xã Phú Thịnh. Bộ Canh nông tại xã Thái Bình. Trường quân chính Hoàng Hữu Nam, Nhà máy MK1 đóng tại xã Mỹ Bằng. Hội Văn nghệ đóng tại xã Trung Môn...,

Ở thị xã Tuyên Quang: Bộ Thương binh - Cựu binh đóng tại xã Tràng Đà. Xưởng quân giới J1, Bộ Canh nông, Nha Thông tin, Xưởng XF21 đóng ở xã Nông Tiến. Nha Nghiên cứu Kỹ thuật ở phường Minh Xuân...

Tỉnh huyện Hàm Yên: Xưởng quân giới TĐ31 đặt ở xã Minh Hương; Xưởng quân giới J3 ở xã Thái Sơn...

Tại huyện Chiêm Hoá: Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Tổng bí thư, đoàn cố vấn Trung Quốc, đoàn cán bộ cách mạng Lào, Ban Kinh tế Chính phủ, Ban Dân vận Trung ương... đóng tại xã Kiên Đài. Ban Kinh tế - Tài chính Trung ương đóng ở xã Kim Bình. Nhà máy in tiền Khánh Thi thuộc Bộ Tài chính đóng ở xã Hùng Mỹ. Trường Đại học Y khoa và bệnh viện thực hành, Ban Thường trực Quốc hội, Trường đại học Khoa học cơ bản, Trường Công an, một bộ phận Bộ Tư pháp, Ban Chế tạo dụng cụ y được đặt ở xã Xuân Quang. Xưởng quân giới J2 và Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, sân bay Soi Đúng; Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo... đóng tại xã Vinh Quang. Nha Bưu điện đóng tại xã Phúc Thịnh. Bộ Quốc gia Giáo dục đóng tại xã Yên Nguyên, sở đúc tiền đóng tại xã Bình Nhân...

Ở huyện Na Hang: Cơ quan ấn loát đặc biệt Trung ương thuộc Bộ Tài chính đóng ở xã Trùng Khánh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #91 vào lúc: 05 Tháng Tư, 2021, 10:57:28 am »

2. An toàn khu ở Tuyên Quang là nơi diễn ra những sự kiện quan trọng, nơi ra đời nhiều quyết sách quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược

Từ ngày 3 đến ngày 6-4-1947, tại Làng Sảo, xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng họp bàn việc cụ thể hóa đường lối kháng chiến và rút kinh nghiệm những tháng đầu kháng chiến.


Ngày 15-5-1947, cũng tại Làng Sảo, Hội đồng Chính phủ họp bàn về vấn đề ngoại giao với Pháp; nghe báo cáo của Bộ Quốc phòng về tình hình các mặt trận.


Từ tháng 10 đến tháng 12-1947, tại thôn Khuôn Đào, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương và thôn Khuổi Tấu, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương đã tập trung lãnh đạo các mặt trận chiến đấu, đánh bại cuộc tiến công càn quét của địch trong chiến dịch phản công Thu - Đông 1947, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp bước sang thời kỳ mới.


Ngày 19-12-1948, tại thôn Khuổi Tấu, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm 2 năm kháng chiến toàn quốc; gửi điện đến nhân dân Pháp, tố cáo những tội ác của thực dân Pháp, nêu cao quyết tâm chiến đấu của dân tộc ta.


Ngày 6-5-1949, tại Khấu Lấu - Vực Hồ, thôn Bòng, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, Hội nghị Trung ương mở rộng được tổ chức để thảo luận các đề án chính trị, chính quyền, kinh tế..., chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II.


Từ ngày 14 đến 16-6-1949, cũng tại địa điểm trên, Hội đồng Chính phủ họp nhận định tình hình thế giới, trong nước, bàn một số vấn đề về Quốc phòng, Tài chính, Nội chính. Cũng tại đây, ngày 13-4-1950, Hội đồng Chính phủ họp, thảo luận các vấn đề: tình hình thế giới, trong nước, thực hiện chương trình ba tháng đầu năm và ra nghị quyết về công tác ngoại giao, giáo dục, cải tổ bộ máy tư pháp, giao thông công chính, nội vụ...


Từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tiến hành tại Kim Bình - Chiêm Hoá. Kể từ khi thành lập, đây là Đại hội đầu tiên của Đảng được tổ chức trong nước. Cũng tại đây, đã diễn ra các sự kiện: Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt (3-1951); Hội nghị Liên minh nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và thành lập khối liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương (3-1951); Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ Thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất (5-1952).


Ngày 27-9 đến ngày 5-10-1951, tại Khấu Lấu - Vực Hồ, thôn Bòng, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (khoá II) họp, thảo luận về tình hình thế giới, quyết định các nhiệm vụ về quân sự, công tác trong vùng địch và kinh tế tài chính.


Cũng tại địa điểm này đã diễn ra các sự kiện: Hội đồng Chính phủ họp, nghe báo cáo của Bộ Tài chính về vay thóc vụ chiêm và các vấn đề về thuế, trong đó có việc miễn thuế nông nghiệp năm 1951 cho những vùng đặc biệt, việc chuẩn bị triệu tập Hội nghị Chiến sĩ Thi đua và tổng động viên nhân lực, chế độ doanh nghiệp quốc gia, các vấn đề thuộc về lương bổng và một số vấn đề kinh tế, tài chính khác (14 đến 16-11-1951). Hội đồng Chính phủ họp nghe báo cáo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về tình hình chiến sự ở Bắc Bộ trong ba tháng qua; phê duyệt ngân sách năm 1952; bàn việc phát động phong trào thi đua lập công, thông qua đề án chỉnh đốn bộ máy chính quyền Trung ương và địa phương, biên chế cơ quan các ngành, các cấp (15-2-1952). Hội đồng Chính phủ họp, thảo luận và quyết định một số vấn đề quan trọng: ban hành chế độ doanh nghiệp quốc gia và chế độ quản lý dân chủ xí nghiệp; tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp và bọn Việt gian cho nông dân; việc bồi dưỡng các Chiến sĩ Thi đua toàn quốc và vấn đề trừng trị bọn Việt gian phản động (18 đến 20-8-1952).


Trong tháng 8-1952, Chính phủ họp bàn về kế hoạch tác chiến Chiến dịch Tây Bắc.

Tại thôn Khuôn Điển, xã Kim Quan, huyện Yên Sơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ đã ở, làm việc từ đầu năm đến tháng 8-1954. Tại đây, đã diễn ra nhiều phiên họp của Bộ Chính trị, Hội đồng Chính phủ, lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta giành thắng lợi trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn. Bộ Chính trị họp, chỉ định cơ quan lãnh đạo chỉ huy chiến dịch, triển khai kế hoạch điều động lực lượng lên Tây Bắc (1-1-1954). Hội đồng Chính phủ kiểm điểm công tác năm 1953, đặt chương trình công tác năm 1954 và thông qua ngân sách năm 1954 (7-1-1954). Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ (14-3-1954), chỉ rõ nhiệm vụ trong chiến dịch này là "rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang" và tin tưởng rằng cán bộ và chiến sĩ ta sẽ "Phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới". Cùng ngày, Hội đồng Chính phủ họp, nghe báo cáo về Hội nghị Giơ-ne-vơ, về vấn đề quân sự, ngân sách, cải cách ruộng đất.


Bộ Chính trị họp, bàn về chủ trương đàm phán ở Hội nghị Giơ-ne-vơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo "Hiện nay súng ở trên mặt trận bắn càng nhiều, càng trúng địch chừng nào thì trên bàn họp Giơ-ne-vơ ta lại càng thêm lợi thêm chừng ấy. Giải quyết vấn đề theo nguyên tắc có lợi cho ta và địch có thể thừa nhận, nhưng trước hết là có lợi cho ta. Giải quyết vấn đề là phải có quan điểm toàn cục. Trong Hội nghị Giơ-ne-vơ ít nhất phải tranh thủ được thắng lợi chính trị" (5-1954). Hội đồng Chính phủ bàn về tình hình và nhiệm vụ mới, chỉ rõ: "Công tác mới nhiều, phức tạp, khó khăn. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ, về mặt nhận thức phải toàn diện, đồng thời lại phải có sự nghiên cứu tỉ mỉ từng bộ phận" (13 đến 14-7-1954). Hội nghị lần thứ 6 (mở rộng) Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp (15-7-1954). Tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản báo cáo quan trọng gồm 2 phần Tình hình mới và Nhiệm vụ mới. Người khẳng định: "Mỹ là kẻ thù chính của hoà bình thế giới, ta phải tập trung lực lượng chống đế quốc Mỹ", "Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt - Miên - Lào". Người nhấn mạnh: Trước tình hình mới hiện nay, ta không thể giữ cương lĩnh cũ. Trước kia khẩu hiệu của ta là "Kháng chiến đến cùng". Nay vì tình hình mới, ta cần nêu khẩu hiệu mới là "Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ"... "Bất kỳ hoà bình hoặc chiến tranh ta củng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, phải chuẩn bị trước". Trong báo cáo, Người cũng đề ra 3 nhiệm vụ, 10 công tác và vấn đề điều chỉnh khu vực Pháp rút quân, đề phòng tư tưởng "tả" hoặc "hữu khuynh" có thể nảy sinh.


Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ toàn quốc sau khi Hội nghị Giơ-ne-vơ thành công. Người chỉ rõ những nguyên nhân thắng lợi và nêu quyết tâm "chúng ta phải ra sức đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc", về việc thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, Người nhấn mạnh việc điều chỉnh khu vực chỉ là tạm thời và khẳng định "Chúng ta quyết làm đúng những điều đã ký kết với Chính phủ Pháp, đồng thời chúng ta đòi Chính phủ Pháp phải làm đúng những điều họ đã ký kết với ta".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #92 vào lúc: 05 Tháng Tư, 2021, 10:58:16 am »

3. An toàn khu ở Tuyên Quang cùng với Căn cứ địa Việt Bắc là niềm tin, là nguồn động viên to lớn về chính trị, tinh thần, cổ vũ toàn quân, toàn dân ta nuôi chí bền gan chiến đấu cho đến thắng lợi hoàn toàn

An toàn khu ở Tuyên Quang là một trong những nơi đầu tiên thực hiện chế độ dân chủ mới, chế độ dân chủ nhân dân, cũng là một trong những đầu mối quan hệ giữa Trung ương với toàn quốc, giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và các tổ chức tiến bộ và nhân dân trên thế giới.


Trong những năm kháng chiến, chiến trường toàn quốc bị chia cắt, vùng tự do và vùng bị tạm chiếm xen kẽ nhau, việc giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn vì bị địch phong toả. Mặc dù vậy, sự liên hệ giữa khu Căn cứ địa Việt Bắc với các địa phương, các chiến trường khắp ba miền Bắc - Trung - Nam vẫn được giữ vững.


Trung tuần tháng 9-1948, một phái đoàn đại diện Đảng và Nhà nước, do đồng chí Lê Đức Thọ làm Trưởng đoàn, rời Tân Trào, lên đường vào Nam Bộ, mang theo nhiều tài liệu quan trọng. Sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương đã giúp cho phong trào kháng chiến ở Nam Bộ vượt qua thời kỳ khó khăn và chuyển bước phát triển mới.


Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 4 được tổ chức tại Tân Trào - Tuyên Quang (14 đến 18-8-1949), Đảng ta đã nêu rõ nhiệm vụ giúp đỡ cách mạng nhân dân Lào, Campuchia "Mở rộng mặt trận Lào, Miên, vì: Lào, Miên không độc lập thì nền độc lập của Việt Nam khó mà đảm bảo".


Quán triệt Nghị quyết Hội nghị của cán bộ Trung ương Đảng lần thứ 4, tại cuộc Hội nghị cán bộ quân sự và chính trị cấp cao, Tổng Chỉ huy kiêm Tổng Chính ủy Võ Nguyên Giáp trình bày kế hoạch quân sự trong năm 1949. Bản kế hoạch nêu rõ nhiệm vụ cụ thể cho từng chiến trường. Khu 10 có nhiệm vụ giúp bạn xây dựng phát triển một số căn cứ du kích ở Bắc Lào; Khu 4 có nhiệm vụ giúp bạn phát triển cơ sở ở Hạ Lào, nhằm xây dựng căn cứ Bô Lô Ven. Đối với Campuchia, Bộ Tư lệnh Nam Bộ có nhiệm vụ tăng thêm cán bộ chính trị và lực lượng vũ trang vào nội địa, giúp bạn mở rộng thêm cơ sở và căn cứ du kích, tiến tới nối liền căn cứ Đông Nam với Đông Bắc.


An toàn khu ở Tuyên Quang là nơi diễn ra nhiều cuộc đón tiếp, gặp gỡ giữa những nhà lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam với đại biểu nước ngoài như các cuộc đón tiếp, làm việc với Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Lào yêu nước Ítxala, đoàn cố vấn Trung Quốc, đại diện các Đảng Cộng sản: Pháp, Thái Lan, Liên Xô,...


Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng tiếp phái viên của đồng chí Chu Ân Lai - nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, bàn về phối hợp chiến đấu giúp đỡ lẫn nhau giữa quân đội hai nước. Sau đó, vào tháng 4-1949, lãnh đạo phong trào du kích Quảng Tây (Trung Quốc) đề nghị Quân đội nhân dân Việt Nam phối hợp chiến đấu, giúp đỡ Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đánh quân Tưởng, giải phóng khu Ung - Long - Khâm.


Ngày 14-1-1950, tại Tân Trào, thay mặt Chính phủ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời tuyên bố gửi Chính phủ các nước trên thế giới: "Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính phủ hợp pháp duy nhất của nước Việt Nam... và sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các nước trên cơ sở tôn trọng chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia bình đẳng".


Ngày 15-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tuyên Quang sang Bắc Kạn rồi bí mật theo đường Phục Hoà (Cao Bằng) qua Thủy Khẩu sang huyện Long Châu, mở đầu chuyên đi thăm Trung Quốc, Liên Xô, nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa và lực lượng tiến bộ trên thế giới đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.


Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã cử một số cố vấn sang Việt Nam, thường xuyên làm việc tại Tuyên Quang, giúp đỡ Chính phủ và nhân dân ta về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính.


Cũng từ vùng ATK ở Tuyên Quang, qua làn sóng điện của Đài Tiếng nói Việt Nam, lập trường chính nghĩa cùng những thắng lợi trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta được truyền đi khắp thế giới.


Có thể nói, nhìn về ATK ở Tuyên Quang và toàn bộ Việt Bắc, nhân dân cả nước ngày càng được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh, nhân dân thế giới ngày càng hiểu rõ và đồng tình ủng hộ sự nghiệp "kháng chiến, kiến quốc" của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #93 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2021, 08:40:36 am »

HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THựC DÂN PHÁP (1945-1954)


NGUYỄN ĐÌNH QUANG
Bí thư Huyện ủy huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang


Sơn Dương là một huyện nằm ở phía Nam tỉnh Tuyên Quang. Phía Bắc giáp huyện Yên Sơn; phía Nam và Tây Nam giáp các huyện Đoan Hùng, Phù Ninh (Phú Thọ), Lập Thạch (Vĩnh Phúc); phía Đông giáp huyện Đại Từ và huyện Định Hóa (Thái Nguyên). Toàn huyện có tổng diện tích tự nhiên là 789,26km2.

Đến năm 2007, dân số toàn huyện có gần 18 vạn người với 10 dân tộc: Kinh, Tày, Cao Lan, Nùng, Dao, Sán Chỉ, Sán Dìu, Mông, Hoa, Mường sinh sống gắn bó, đoàn kết tại 33 xã, thị trấn.

Sơn Dương là một huyện có truyền thống yêu nước và cách mạng.

1. Huyện Sơn Dương trước và trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Với truyền thống yêu quê hương, yêu đất nước vốn có tự lâu đời, sau ngày Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, nhân dân các dân tộc huyện Sơn Dương một lòng một dạ đi theo Đảng, quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập, tự do.


Thực hiện Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, ngày 10-3-1945, nhận thấy thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã chín muồi, Phân khu ủy Phân khu Nguyễn Huệ họp dưới sự chủ trì của đồng chí Song Hào - Bí thư Phân khu ủy, đã quyết định chọn Thanh La (nay là xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương) làm nơi khởi nghĩa giành chính quyền đầu tiên trong cả vùng.


Đêm 10-3-1945, ta đã giải phóng hoàn toàn xã Thanh La. Thừa thắng, quân cách mạng tiến về giải phóng đồn Đăng Châu, huyện lỵ Sơn Dương và các xã lân cận. Ngay sau khi Đăng Châu được giải phóng, Phân khu ủy Nguyễn Huệ tổ chức mít tinh tại Đình Thanh La, tuyên bố thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời châu Tự Do.


Sau khi cuộc khởi nghĩa Thanh La thắng lợi, đồn Đăng Châu được giải phóng, châu Tự Do được thành lập, phong trào cách mạng phát triển cực kỳ nhanh chóng. Từ châu Tự Do, các đoàn quân khởi nghĩa được lệnh toả đi giải phóng các nơi, như: Đại Từ, Định Hóa, Yên Sơn, Chiêm Hóa, Nà Hang, Phù Ninh, Đoan Hùng...


Đầu tháng 5-1945, dưới sự chỉ huy của các đồng chí Lê Dục Tôn, Hoàng Bắc Dũng, Kim Ngọc, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn vùng trung và hạ huyện Sơn Dương, chính quyền cách mạng các xã nhanh chóng được thành lập. Tại cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại thôn Đồng Khuôn, xã Phú Lương (15-5-1945), đồng chí Lê Dục Tôn, thay mặt Phân khu ủy Phân khu Nguyễn Huệ, đã tuyên bố thành lập châu Kháng Địch, bao gồm khu vực trung, hạ huyện Sơn Dương và một phần Đoan Hùng, Phù Ninh (Phú Thọ), Lập Thạch (Vĩnh Phúc).


Sơn Dương được giải phóng, đã kết thúc ách thống trị tàn bao dã man của chế độ đế quốc, phong kiến; ước mong tự do độc lập bao đời nay của người dân đã trở thành hiện thực. Thắng lợi này đã tạo ra bước phát triển vượt bậc của phong trào cách mạng trong huyện, là điều kiện quan trọng tiên quyết để Bác Hồ cùng Trung ương Đảng quyết định về Sơn Dương - Tân Trào hoạt động cách mạng.


Ngày 21-5-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) về đến Tân Trào, Sơn Dương để lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Tại đây, Người chỉ thị thành lập Khu giải phóng, gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang với Tân Trào là trung tâm, trở thành Thủ đô của Khu giải phóng. Nhân dân Sơn Dương có sứ mệnh mới, xây dựng một chế độ mới - hình ảnh thu nhỏ của một nước Việt Nam mới.


Thời cơ Tổng khởi nghĩa xuất hiện, từ ngày 13 đến 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào, quyết định lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập. Ngày 16-8-1945, Quốc dân Đại hội được triệu tập tại Tân Trào. Đại hội biểu thị ý chí quyết tâm sắt đá giành độc lập dân tộc của đồng bào cả nước và bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng - do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.


Từ Tân Trào - Sơn Dương, lệnh Tổng khởi nghĩa được truyền đi. Cả nước nhất loạt đứng lên giành chính quyền, giải phóng quê hương. Ngày 19-8-1945, Hà Nội tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 22-8-1945, Bác Hồ ròi Tân Trào về Hà Nội. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #94 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2021, 08:42:04 am »

2. Sơn Dương trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)

Sau ngày nước ta giành được độc lập, cách mạng Việt Nam lại đứng trước những thử thách hết sức gay go, phức tạp, phải đối đầu với thù trong, giặc ngoài. Tình thế cách mạng như ngàn cân treo sợi tóc.


Ở Sơn Dương, đời sống kinh tế xã hội của địa phương đang hết sức khó khăn, nạn đói diễn ra trầm trọng, kẻ thù luôn tìm mọi thủ đoạn phá hoại. Trước tình hình đó, cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể bám sát quần chúng và cơ sở tuyên truyền vận động, hướng dẫn nhân dân bình tĩnh đấu tranh với quân Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch, đồng thời kiên quyết trừng trị bọn phỉ và tay sai của địch.


Cùng với chống giặc ngoại xâm, diệt giặc đói, giặc dốt là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Các tổ chức Mặt trận Việt Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc tích cực tuyên truyền vận động hội viên phát huy tinh thần tương thân, tương ái. Học tập Chủ tịch Hồ Chí Minh mỗi tuần nhịn ăn một bữa, các gia đình hàng ngày khi nấu cơm đều dành một nắm gạo bỏ vào hũ gạo cứu đói, đến cuối tuần, dồn số gạo trong hũ nộp cho tổ chức cứu đói; động viên nhân dân tích cực tăng gia sản xuất với khẩu hiệu "tấc đất tấc vàng"; đồng thời thực hiện các biện pháp để khắc phục nạn đói.


Mặc dù còn nhiều khó khăn, đồng bào các dân tộc trong huyện vẫn hăng hái tham gia Tuần lễ vàng do Chính phủ phát động để xây dựng nền tài chính quốc gia. Nhiều người không ngần ngại đóng góp cả những đồ vật quý giá của gia đình ủng hộ cách mạng. Nhân dân trong huyện còn tự nguyện đóng Đảm phụ quốc phòng, xây dựng Quỹ Độc lập, góp phần khôi phục xây dựng đất nước, quê hương.


Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh "những người biết chữ hãy dạy cho người chưa biết chữ... những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết", Sơn Dương tích cực đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ. Mặt trận Việt Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc là lực lượng xung kích trong vận động nhân dân tham gia phong trào bình dân học vụ. Cán bộ, hội viên vừa tích cực tham gia học tập, vừa động viên tạo điều kiện cho những người thân trong gia đình đi học. Những người biết chữ thì xung phong làm chiến sĩ "diệt dốt", các lớp bình dân học vụ được mở ở khắp nơi, lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân tham gia.


Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, ở Sơn Dương thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác để mở rộng việc học tập lý luận chính trị, văn hóa trong Đảng và nhân dân. Sách báo của Đảng được lưu truyền rộng rãi. Các lớp lý luận Cộng sản sơ giải đã bước đầu trang bị và nâng cao giác ngộ chủ nghĩa cộng sản cho cán bộ đảng viên.


Thời kỳ này, huyện còn chỉ đạo xây dựng chính quyền cơ sở thông qua việc giải thích, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về chính quyền cách mạng. Từ đó, lựa chọn bầu những đại biểu xứng đáng vào chính quyền các cấp, vận động nhân dân hăng hái tham gia cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của đất nước, nhiều cán bộ đảng viên của huyện đã đến tận các làng bản vận động, tổ chức nhân dân đi bỏ phiếu.


Lúc này, toàn huyện mới có 5 đồng chí đảng viên nên các mặt công tác còn gặp nhiều khó khăn. Song, với sự hoạt động tích cực của Chi bộ Đảng, cán bộ các cấp từ huyện đến cơ sở trực tiếp tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là các chỉ thị, nghị quyết về công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc. Nhờ sự hoạt động tích cực của Huyện ủy và của toàn thể cán bộ, đảng viên trong huyện, năm 1946 đã có 16.900 trên tổng số 17.500 dân số toàn huyện được học tập các chủ trương, đường lối của Đảng; có 8.500 người trong huyện hăng hái tham gia các tổ chức cứu quốc.


Nhờ sự hoạt động tích cực của mình, huyện luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần cùng toàn Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh giữ vững thành quả cách mạng, bước đầu xây dựng chế độ mới và cùng cả nước vững vàng bước vào cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp.


Với địa thế hiểm yếu, phong trào cách mạng vững chắc được xây dựng từ thời kỳ Cách mạng Tháng Tám 1945, Sơn Dương - Tân Trào lại vinh dự được chọn làm một trong những nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc chống thực dân Pháp xâm lược.


Ngày 2-4-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến làng Sảo, xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương. Cùng với Người, các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, như: Tôn Đức Thắng, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt... và trên 40 cơ quan Trung ương của Đảng, Chính phủ cũng đã từng về ở, làm việc tại Sơn Dương như: Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng, Ban Tổ chức Trung ương, Văn phòng Trung ương, Văn phòng Chủ tịch phủ, Thủ tướng phủ, Ban Thường trực Quốc hội, Nha Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Công thương. Bộ Giao thông công chính, Ban Thi đua ái quốc, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, Mặt trận Việt Minh - Liên Việt, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Ban Nông vận Trung ương, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc,...


Sơn Dương - Tân Trào là một phần của trung tâm căn cứ địa kháng chiến của cách mạng Việt Nam. Đây là một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng vô cùng vinh dự của Đảng bộ và nhân dân Sơn Dương trong việc bảo vệ an toàn tuyệt đối nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ và các cơ quan Trung ương trong những năm tháng hoạt động tại địa phương. Mặt khác, đây cũng là điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng của huyện. Đến trước tháng 10-1947, toàn huyện đã có 49 đồng chí đảng viên, 558 dân quân du kích. Hơn 80% dân số toàn huyện được học tập chủ trương, đường lối kháng chiến, kiến quốc của Đảng, Chính phủ.


Thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến của Trung ương, những ngôi nhà thân yêu bị phá đi, các thôn xóm ở địa bàn xung yếu trở thành bãi hoang cạm bẫy, chướng ngại vật được dựng lên khắp nơi trên các trục đường Bình Ca - Đăng Châu - Thái Nguyên, Đăng Châu - Thiện Kế - Phan Lương... hàng loạt bãi chông, với hàng vạn ngọn chông chống địch nhảy dù, đã mọc lên ở Trung Yên, Sơn Nam, Lâm Xuyên, Sầm Dương, Hồng Lạc, Kỳ Lâm...


Hưởng ứng thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (15-10-1947), quân và dân Sơn Dương đoàn kết một lòng, sát cánh cùng bộ đội chủ lực anh dũng chiến đấu và phục vụ chiến đấu.


Ngày 11-10-1947, quân dân các xã ven sông Lô, vùng hạ huyện Sơn Dương, tham gia chiến đấu đánh chặn địch tại Sóc Đăng (Đoan Hùng). Ngày 12-10-1947, quân ta phục kích bắn cháy tàu chiến địch tại Bình Ca, xã Vĩnh Lợi, huyện Sơn Dương. Ngày 13-10, quân ta nổ súng tiêu diệt gần 20 tên địch tại Thượng Ấm.


Chiến thắng Bình Ca, ngày 12 và 13-10-1947, báo hiệu sự chuyển biến mới về chiến cuộc trên Mặt trận Sông Lô, chứng tỏ ta có đủ sức mạnh và mưu trí để đánh thắng giặc. Chiến thắng Bình Ca cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của quân dân Việt Bắc.


Sau chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, Tổng Chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã tặng thưởng Tiểu đoàn 42 đánh trận Bình Ca lá cờ đỏ thêu dòng chữ "Trận Bình Ca Tiểu đoàn 42 đã đánh lui một trận đổ bộ của giặc, xung phong cướp súng, bắn chìm pháo thuyền ghi một chiến công đầu tiên, mở đầu cho những chiến công rực rỡ khác cho chiến thắng Sông Lô". Tiểu đoàn 42 được mang danh hiệu "Tiểu đoàn Bình Ca".


Ngày 3-11-1947, thực dân Pháp dùng ca nô chở 200 quân đổ bộ lên Bình Ca hòng tiến sâu vào Sơn Dương, nhưng bị quân dân Sơn Dương chặn đánh quyết liệt ở nhiều nơi, diệt hơn 100 tên, buộc chúng phải rút lui, hủy bỏ kế hoạch hành quân. Không thực hiện được mưu đồ lại bị tổn thất nặng nề, ngày 21-11-1947, quân Pháp rút khỏi thị xã Tuyên Quang, đồng thời phối hợp với các cánh quân từ Vĩnh Yên, Việt Trì lên và từ Thái Nguyên sang để càn quét vùng căn cứ địa Sơn Dương. Quân dân Sơn Dương đã phối hợp với bộ đội chủ lực, tổ chức các trận đánh du kích nhỏ lẻ, tiêu hao sinh lực địch, ngăn chặn đường tiếp tế của chúng.


Từ bến phà Bình Ca, địch cho quân tiến vào Đăng Châu phối hợp với cánh quân từ Thái Nguyên sang. Tại Phan Lương, hai cánh quân từ Tuyên Quang và Việt Trì lên gặp nhau rồi tiến về xã Thiện Kế, phối hợp với cánh quân từ Vĩnh Yên cùng đánh ngược lên Đăng Châu. Dân quân du kích địa phương phối hợp cùng bộ đội chủ lực bám sát địch nhằm quấy rối, tiêu hao và đẩy chúng vào tình thế bị động.


Ngày 2-12-1947, quân Pháp đóng tại huyện lỵ Sơn Dương tổ chức càn quét ra vùng xung quanh, bị ta phục kích tại Bắc Lũng và Đèo Khế, diệt gần 30 tên.


Quân Pháp ở Đăng Châu luôn bị ta đánh phá, cắt đứt đường tiếp tế nên chỉ dám càn quét vùng lân cận và buộc phải dùng máy bay thả dù tiếp tế. Ngày 15-12-1947, địch rút chạy khỏi Sơn Dương bằng hai đường qua Đèo Khế về Thái Nguyên và qua Đèo Mon về Vĩnh Yên.


Tóm lại, trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, quân và dân Sơn Dương đã tham gia đánh địch 8 trận lớn nhỏ, tiêu diệt gần 300 tên, bắn cháy 3 tàu chiến, thu nhiều vũ khí trang bị. Toàn huyện đã đóng góp hơn 10.000 ngày công, đặc biệt chị em trong tổ chức phụ nữ huyện, thường xuyên giúp đỡ bộ đội qua lại địa phương, chăm sóc thương bệnh binh chu đáo. Ngoài ra, Hội phụ nữ cứu quốc huyện còn tiếp tế cho bộ đội 1.200 chiếc bánh chưng và ủng hộ thương binh được 500 đồng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #95 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2021, 08:44:38 am »

Sau chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, Sơn Dương tích cực thực hiện chủ trương "vừa kháng chiến vừa kiến quốc".


Để thu hút chủ lực và phá hậu phương kháng chiến của ta, tháng 5-1949, quân Pháp mở cuộc hành quân Pô-môn đánh lên Phú Thọ, Tuyên Quang. Do nắm được âm mưu của địch, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Sơn Dương, quân dân Sơn Dương phồì hợp chặt chẽ cùng bộ đội chủ lực chống lại phá tan cuộc hành quân Pô-môn của chúng.


Ngày 25-5-1949, tại xóm Tây Vực, xã Đông Lợi, toán địch lọt vào trận địa phục kích của ta. Bằng lựu đạn, súng kíp, lực lượng du kích xã Đông Lợi đã nổ súng tiêu diệt 8 tên. Tại xã Tam Đa, lực lượng du kích phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, tổ chức phục kích bằng địa lôi do du kích xã tự chế, bố trí tại Cầu Giềng, tiêu diệt 34 tên. Cùng ngày, một toán quân địch từ Kim Xuyên rút chạy về Phan Lương, bị du kích các xã Sầm Dương, Lâm Xuyên phục kích diệt 15 tên, thu nhiều chiến lợi phẩm. Cùng với bộ đội chủ lực, lực lượng dân quân du kích huyện Sơn Dương đã mưu trí, dũng cảm, sáng tạo nhiều cách đánh khác nhau, phối hợp với quân dân trong tỉnh Tuyên Quang góp phần đánh bại cuộc hành quân Pô-môn của địch, bảo vệ vững chắc hậu cứ kháng chiến, tạo điều kiện để xây dựng và phát triển về mọi mặt, phục vụ kháng chiến trường kỳ thắng lợi.


Huyện Sơn Dương tập trung xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, tăng cường công tác an ninh trật tự vững chắc từ cơ sở. Huyện đã hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ bí mật, an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo và các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ đóng tại địa phương.


Từ tháng 4-1947 đến tháng 12-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc 48 tháng tại 5 địa điểm khác nhau ở Sơn Dương như: Làng Sảo (Hợp Thành), Khuôn Đào (Trung Yên), Lũng Tẩu, Khấu Lấu, Hang Bòng (Tân Trào)...


Từ ngày 1 đến ngày 4-12-1953, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 3 đã họp tại Thác Dẫng, làng Lập Binh, xã Bình Yên, huyện Sơn Dương, dưới sự chủ tọa của quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội Tôn Đức Thắng, với sự tham gia của 166 đại biểu. Kỳ họp đã nghe Báo cáo tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và Báo cáo của Chính phủ về thành tích khảng chiến và dự thảo Luật Cải cách ruộng đất do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng trình bày. Ngày 4-12-1953, Quốc hội khóa I chính thức biểu quyết thông qua Luật Cải cách ruộng đất. Ngày 19-12-1952, Chủ tịch nước ký sắc lệnh 197/SL ban bố Luật Cải cách ruộng đất.


Trong thời gian ở và làm việc tại Sơn Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì nhiều cuộc họp của Đảng, Chính phủ, quyết đáp những vấn đề quan trọng của cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đất và người Sơn Dương còn lưu giữ mãi những hình ảnh sinh động về hoạt động của Người và các đồng chí lãnh đạo cách mạng, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính Phủ trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp hào hùng của dân tộc.


Với khẩu hiệu "Vì cả nước", quân và dân Sơn Dương hăng hái thi đua lao động sản xuất, tích cực ủng hộ sức người, sức của góp phần để kháng chiến thắng lợi. Năm 1952, toàn huyện có 150 thanh niên tình nguyện tham gia bộ đội; 1.000 người tham gia dân quân du kích; đóng góp cho Nhà nước được 264 tấn thóc; ủng hộ bộ đội được 20 vạn đồng; tặng thương binh được 320.225 đồng; giúp đỡ bộ đội địa phương được 298.775 đồng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Sơn Dương đã đóng góp hàng chục vạn ngày công, hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm phục vụ kháng chiến. 76 người được tặng Bằng Có công với nước; 36 gia đình được tặng danh hiệu Gia đình có công với nước. Có 2.470 thanh niên tình nguyện tham gia bộ đội; trong đó, 145 liệt sĩ, 132 thương binh đã cống hiến hy sinh, xương máu của mình cho quê hương đất nước.


Ngày 21-7-1954, Hiêp định Giơ-ne-vơ được ký kết, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Cùng cả nước, huyện Sơn Dương đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang trong những năm kháng chiến. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, huyện Sơn Dương và hai xã Tân Trào, Minh Thanh đã vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Kiên trì con đường đúng đắn mà Đảng và Bác Hồ đã chọn - con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, ngay sau hoà bình, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Sơn Dương nỗ lực vượt qua thử thách, gian khổ, đoàn kết một lòng, phát huy truyền thống quê hương cách mạng Tân Trào; xây dựng quê hương Sơn Dương ngày càng phát triển; đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế, xã hội liên tục phát triển; văn hóa xã hội có nhiều lĩnh vực đạt thành tựu cao. An ninh - quốc phòng luôn ổn định. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên. Niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng ngày càng được củng cố.


Những kết quả đạt được trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng đất nước có ý nghĩa hết sức quan trọng, là nền tảng để Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Sơn Dương có những bước tiến mạnh mẽ trong thời kỳ đổi mới; khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh về đất đai, lao động, tài nguyên khoáng sản, văn hóa lịch sử; nhất là các khu di tích lịch sử cách mạng đặc biệt quan trọng của quốc gia, với 183 điểm di tích, chiếm tới 40% tổng số các điểm di tích lịch sử văn hóa toàn tỉnh, để đẩy mạnh phát triển kinh tế với cơ cấu công nghiệp, nông lâm nghiệp, dịch vụ thương mại và du lịch; sớm đưa huyện Sơn Dương vươn lên thành huyện có kinh tế phát triển bền vững, đời sống nhân dân được nâng cao, tương xứng với vị thế của địa phương đã vinh dự là Thủ đô Khu giải phóng trong Cách mạng Tháng Tám và là một bộ phận của ATK trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Trong phát triển kinh tế, huyện xác định phát triển công nghiệp và du lịch, lịch sử văn hoá, sinh thái làm động lực phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp chế biến lâm sản, nông sản; quản lý tốt việc khai thác và chế biến khoáng sản, tập trung phát triển sản xuất vật liệu xây dựng; mở rộng và phát triển tiểu thủ công nghiệp, tạo ra ngành nghề mới thu hút lao động tại địa phương.


Đồng thời, nâng cao hiệu quả sản xuất nông, lâm nghiệp, chú trọng công tác thủy lợi; phát triển vùng nguyên liệu mía đường, trồng rừng, chăn nuôi đại gia súc; tích cực, chủ động thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển nông lâm nghiệp của huyện theo hướng sản xuất hàng hoá. Tiếp tục chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo; chăm sóc sức khoẻ nhân dân; tạo việc làm, giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở để phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân; giữ vững khối đại đoàn kết các dân tộc trong huyện.


Tổ chức thực hiện tốt cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Mình, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng chính quyền từ huyện đến cơ sở vững mạnh. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và thực hiện các nhiệm vụ tại địa phương.


Với truyền thống, kinh nghiệm và thành tựu đạt được trong công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước; Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Sơn Dương đoàn kết một lòng, quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp văn minh, mãi mãi xứng đáng là huyện Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, với truyền thống quê hương cách mạng có di tích Tân Trào lịch sử.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #96 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2021, 08:49:38 am »

BẮC KẠN TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


MAI THẾ DƯƠNG
Ủy viên Ban Chấp hành trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Bắc Kạn


Bắc Kạn là một tỉnh miền núi, có địa hình hiểm trở, núi rừng trùng điệp, giao thông không thuận tiện. Đường số 3 là con đường huyết mạch xuyên suốt Bắc Kạn, trở về xuôi đi xuống Thái Nguyên, về Hà Nội và ngược lên phía Bắc đến Cao Bằng tới biên giới Việt - Trung. Ngoài ra, còn có các đường tỉnh lộ nối trung tâm tỉnh lỵ với các huyện Ba Bể, Chợ Đồn, Na Rì.


Nhân dân các dân tộc Bắc Kạn vốn có truyền thống yêu nước và cách mạng, là tỉnh có cơ sở phong trào cách mạng phát triển kế tiếp sau các tỉnh khác ở Việt Bắc. Do ở vào vị trí cửa ngõ phía Bắc, là điểm huyết mạch nối liền giữa Cao Bằng với Thái Nguyên và toàn quốc, nên trong thời kỳ vận động cách mạng giải phóng dân tộc, cơ sở phong trào cách mạng ở Bắc Kạn đã nhanh chóng được xây dựng và phát triển. Trước khi Cách mạng Tháng Tám thành công, hầu hết các địa phương của tỉnh Bắc Kạn đã thành lập chính quyền cách mạng.


Nằm ở trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, Bắc Kạn có thể chiến lược "tiến có thể đánh, lui có thể giữ", với đặc điểm "địa lợi, nhân hoà" nên được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm chỗ đứng chân của các cơ quan Trung ương, địa điểm xây dựng các kho tàng, công xưởng, nơi tập kết các đơn vị quân đội và đón tiếp hàng vạn đồng bào từ các tỉnh miền xuôi tản cư lên.


Trong cuộc hành binh chiến lược lên Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, với mưu đồ chụp bắt cơ quan lãnh đạo tối cao, tiêu diệt chủ lực, phá căn cứ kháng chiến để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, thực dân Pháp đã chọn vùng xung quanh thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới làm địa điểm nhảy dù đổ bộ vào căn cứ địa Việt Bắc - mở màn cho cuộc hành binh chiến lược, kết hợp hải, lục, không quân từ hai hướng đánh lên Việt Bắc.


Sáng ngày 7-10-1947, quân Pháp đã bất ngờ huy động một số lượng lớn máy bay ném bom, bắn phá thị xã Bắc Kạn để dọn bãi, sau đó bằng hai đợt đổ quân liên tiếp, hơn 800 quân dù đã ồ ạt nhảy xuống chiếm các điểm cao không chế thị xã, đánh chiếm các vị trí quan trọng trong thị xã và các vùng phụ cận. Trong khi đó, nhân dân, các cơ quan công sỏ và lực lượng vũ trang trong thị xã đang hoạt động với nhịp sống thời bình của một hậu phương nằm sâu trong căn cứ địa.


14 giờ 30 phút cùng ngày, 200 lính dù Pháp tiếp tục được ném xuống đánh chiếm thị trấn Chợ Mới, khống chế tuyến đường Thái Nguyên đi Bắc Kạn.


Ngày 8-10, hơn 200 lính dù Pháp nhảy xuống đánh chiếm huyện lỵ Chợ Đồn. Như vậy, ngay những ngày đầu của cuộc tiến công lên Việt Bắc, ba vị trí trọng yếu của Bắc Kạn đã bị địch chiếm đóng, tuyến đường số 3 về xuôi bị cắt đứt.


Hoàn toàn bất ngờ khi bị địch đánh phá bằng không quân và đổ bộ đường không vào đúng vị trí được coi là an toàn nhất, nhân dân địa phương, đồng bào tản cư và cán bộ, nhân viên hoảng hốt sơ tán mỗi người một ngả; du kích, tự vệ lúng túng về tổ chức và chỉ huy, bộ đội của Chiến khu 1 và của Bộ hầu hết đều bố trí ở phía nam thị xã nên không kịp thời đánh quân nhảy dù. Nhìn chung, tình hình ta phổ biến là bị động, lúng túng.


Trước tình hình khẩn cấp của cuộc chiến đấu, cần phải thoát khỏi tình thế bị động bất ngờ, tập hợp lại lực lượng, tổ chức chiến đấu, bảo vệ an toàn các cơ quan Trung ương và nhân dân, nhanh chóng giành quyền chủ động, giữ vững địa bàn, tạo điều kiện cho phản công và tiến công quân địch. Đây là một nhiệm vụ nặng nề, một thử thách quyết liệt nhất đối với Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Bắc Kạn.


Ngay sau khi rút khỏi thị xã, tối ngày 7-10, Tỉnh ủy Bắc Kạn triệu tập các đồng chí cán bộ chủ chốt của tỉnh họp tại Bản Áng, xã Dương Quang (huyện Bạch Thông). Trên cơ sở nắm bắt sơ bộ tình hình, hội nghị đã đề ra những nhiệm vụ trước mắt là: tập hợp và huy động ngay các lực lượng vũ trang và toàn dân tham gia đánh giặc, giữ vững tinh thần cho quân và dân, giúp đỡ, di chuyển ngay các cơ quan, kho tàng, xí nghiệp của cả Trung ương và địa phương đến nơi an toàn; bảo vệ và giúp đỡ nhân dân tản cư...


Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, sau khi ra khỏi thị xã, đã soạn thảo Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và giao cho Tỉnh ủy Bắc Kạn tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ cần kíp: "Dùng lực lượng bộ đội, dân quân du kích và toàn dân kịp thời bao vây, giam chân địch ở tỉnh lỵ, không cho chúng toả ra, đặc biệt ngăn địch trên các đoạn đường từ Bắc Kạn đi Chợ Đồn, Chợ Rã, Cao Bằng, Chợ Mới, Na Rì, Chợ Chu. Triệt để phá hoại, tổ chức những đội chuyên phục kích, đánh địa lôi. Tập hợp lực lượng phản công địch ngay ở trong thị xã và những nơi chúng mới chiếm đóng".


Ngày 9-10, tại bản Đán, xã Đôn Phong, huyện Bạch Thông, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã họp, trên cơ sở tình hình thực tế và thực hiện chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đề ra chủ trương, biện pháp cấp bách:

- Đẩy mạnh chiến tranh du kích, tổ chức lực lượng chiến đấu, tiêu diệt sinh lực địch, ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét của địch;

- Tổ chức thông tin liên lạc với Trung ương và Khu ủy, bảo vệ và giúp đỡ nhân dân thu hoạch vụ mùa; vận động nhân dân "tiêu thổ kháng chiến” làm vườn không nhà trống; tổ chức phá hoại đường sá, cầu cống; phát động toàn dân thực hiện triệt để khẩu hiệu ba không "Không tiếp tế cho địch, không dẫn đường cho địch, không làm việc cho địch".


Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, các đơn vị dân quân du kích đã khẩn trương tập hợp lực lượng, củng cố lại thế trận và chủ động tổ chức chiến đấu. Lực lượng dân quân du kích và tự vệ, cùng nhân dân giúp đỡ di chuyển các kho tàng, xí nghiệp từ trong thị xã lên phía nam Chợ Rã, Cao Kỳ và xung quanh Chợ Mới. Nhân dân trong vùng bị địch chiếm đóng tiếp tục tản cư ra vùng tự do, việc thu hoạch lúa mùa được tiến hành khẩn trương để góp phần bảo đảm lương thực cho du kích và bộ đội. Nhiều trạm gác quanh thị xã và trên đường Bắc Kạn đi Nà Cù được thiết lập để theo dõi chặt chẽ các hoạt động của địch. Các bãi chông, mìn, cạm bẫy được bố trí ở nhiều nơi, đã làm cho quân Pháp đi đến đâu cũng vấp phải thế trận chiến tranh nhân dân, khiến cho chúng ngày càng rơi vào cảnh khó khăn lúng túng, sinh lực bị tiêu hao, lương thực, thuốc men thiếu thốn, tinh thần binh lính sa sút.


Hệ thống giao thông liên lạc, thông báo báo động được thiết lập ở mỗi bản làng, nối xã này với xã khác và từ xã với cấp trên. Công tác bảo vệ căn cứ được đồng bào thực hiện nghiêm ngặt, đã bảo đảm an toàn, bí mật nơi ở và làm việc của các cơ quan, kho tàng, nhà máy...


Công tác tiêu thổ kháng chiến tiếp tục được đẩy mạnh, những nơi địch chiếm đóng, nhân dân đều thực hiện vườn không nhà trống, khiến cho chúng không thể tận dụng được nguồn lương thực, thực phẩm tại chỗ. Các địa phương đã huy động đông đảo nhân dân ở cả phía trước, phía sau, có dân quân du kích hỗ trợ, phá hoại nhiều đoạn đường nơi hiểm trở làm cho sự cơ động, liên lạc, tiếp tế giữa các cứ điểm của địch bị hạn chế, tạo điều kiện cho dân quân du kích và bộ đội phục kích đánh địch.


Lực lượng vũ trang địa phương đã liên tục bám đường, bám địch, mưu trí, linh hoạt đánh địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, với nhiều quy mô, ở các loại địa hình. Bằng nhiều hình thức chiến thuật, bộ đội và dân quân tự vệ đã liên tục tổ chức phục kích địch trên đường giao thông, tập kích quấy rối tiêu hao sinh lực, cản bước tiến và giam chân chúng tại vị trí đóng quân.


Sự kịp thời, nhạy bén và chủ động trong chỉ đạo kháng chiến của Tỉnh ủy đã nhanh chóng ổn định được tình hình tư tưởng trong nhân dân; tập hợp và chấn chỉnh lại lực lượng dân quân tự vệ, du kích và tổ chức đánh địch rộng khắp.


Sau bất ngờ ban đầu, du kích thị xã, Đoàn cảnh vệ Bắc Kạn, Tiểu đoàn 49 tân binh, học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn đã kịp thời nổ súng chiến đấu tiêu diệt và làm bị thương một số tên, cản bước chân địch, bảo vệ cho cán bộ, nhân dân và các cơ quan rút ra khỏi thị xã.


Ngày 9-10, địch huy động hàng trăm quân đến cướp phá kho tàng, công xưởng của ta ở khu vực xã Yên Định, hai tiểu đội du kích xã Yên Định và thị trấn Chợ Mới đã kiên cường tổ chức chặn đánh chúng ở cánh đồng Yên Định, diệt 5 tên, làm bị thương 6 tên, buộc chúng phải quay về Chợ Mới.


Ngày 10-10, trung đội du kích Chợ Đồn phối hợp với học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn phục kích đánh địch tại Kéo Phay, diệt 2 tên Pháp khi chúng càn quét vào Bản Thi... Tiếp đó, đêm 13-10, trung đội du kích xã Bằng Viên tập kích, quấy rối địch ở châu lỵ huyện Chợ Đồn.


Từ ngày 10 đến ngày 13-10-1947, dân quân du kích tổ chức phục kích tại nhiều vị trí hiểm yếu trên đường số 3, buộc địch phải bỏ dở các cuộc càn quét và quay về vị trí đóng quân. Đặc biệt, đại đội du kích Cao Kỳ - Hoà Mục, do đồng chí Nguyễn Văn Sù chỉ huy, đã đánh một trận phục kích giao thông có hiệu suất chiến đấu cao, phá hủy 3 xe ô tô quân sự và diệt 50 tên địch.


Đêm 13-10, du kích Ngân Sơn phục kích ở đèo Khau Khang, phá hủy 1 xe vận tải, diệt 7 tên địch. Tiếp sau đó, du kích xã Láng Ngâm (Ngân Sơn) tổ chức phục kích đoàn xe tiếp tế của địch tại khu vực Đèo Giàng trên đường số 3, diệt 5 tên địch, phá hủy 1 xe tăng.


Ngày 14-10, từ Chợ Mới, 2 đại đội địch hành quân ngược đường số 3 lên Bắc Kạn, đại đội du kích xã Cao Kỳ - Hoà Mục đã lợi dụng địa hình, tổ chức phục kích tại khu vực núi Khau Chừn (đoạn km 23 Bắc Kạn - Chợ Mới), diệt 15 tên địch và làm nhiều tên khác bị thương.


Do biết phát động quần chúng, khơi dậy được truyền thống yêu nước và cách mạng của đồng bào các dân tộc, với truyền thống "Làng giữ làng, nước giữ nước", sự dũng cảm, mưu trí trong chiến đấu của dân quân du kích và bộ đội, sự nhạy bén trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp bộ Đảng, với sự chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy và Khu ủy, chỉ trong một tuần sau khi Pháp nhảy dù xuống thị xã, từ thế bị động đối phó, quân và dân Bắc Kạn đã chuyển sang thế chủ động phản công tiêu diệt địch. Thực hiện chỉ thị: "Phải phá tan cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp", ngày 15-10-1947 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ Bắc Kạn đã lãnh đạo lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc Bắc Kạn sát cánh cùng quân và dân Việt Bắc tiến hành chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #97 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2021, 08:51:05 am »

Mở đầu cho chiến dịch phản công, đêm 16-10-1947, du kích xã Yên Định và du kích thị trấn Chợ Mới đã phối hợp với Tiểu đoàn 19 bộ đội chủ lực tập kích vào quân địch đồn trú ở cứ điểm Chợ Mới. Đây là lần đầu tiên "tiểu đoàn tập trung" phối hợp cùng du kích mở cuộc tiến công vào cứ điểm có 1 đại đội, được bố phòng tương đối vững chắc của địch. Trận đánh không diệt gọn được địch, không chiếm được cứ điểm, nhưng ta đã làm thương vong gần 100 tên, đốt cháy 2 kho đạn trong cứ điểm này.


Khi các đại đội độc lập của Bộ và Khu 1 được điều về hoạt động trên địa bàn tỉnh, được sự hỗ trợ và phối hợp của các "đại đội độc lập", hoạt động chiến đấu của dân quân du kích địa phương ngày càng phát triển và rộng khắp. Việc các lực lượng nhỏ cỡ trung đội của địch liên tục bị ta tiến công, tiêu hao, tiêu diệt đã căng địch ra trên diện rộng, vừa buộc chúng phải co cụm để chống đỡ, buộc phải thu hẹp phạm vi chiếm đóng, rút bỏ một số vị trí và hạn chế các cuộc hành quân lùng sục. Do vậy, quân Pháp ngày càng khó khăn, lúng túng, không giữ được thế chủ động như khi mới đổ quân vào hậu phương của ta.


Ngày 19-10, đại đội du kích Cao Kỳ - Hoà Mục (Bạch Thông), đã phối hợp với công binh phục kích bằng địa lôi tại km 23, phá hủy 3 xe, diệt hơn 62 tên địch, trong đó có tên thiếu tá Phô-tơ-ni. Đây là trận đánh đạt hiệu quả cao của du kích Bắc Kạn.


Ngày 21-10, đại đội độc lập và du kích phối hợp với Tiểu đoàn 102 (Trung đoàn 165) tập kích địch ở Chợ Đồn, diệt và làm bị thương 2 trung đội địch. Trận đánh tuy không dứt điểm, nhưng bước đầu đã rút ra được kinh nghiệm về phối hợp, hiệp đồng giữa bộ đội chủ lực và dân quân du kích địa phương.


Ngày 30-11-1947, Đại đội 395 thuộc Trung đoàn 72 (Bắc Kạn) đã phối hợp với trung đội du kích thị xã Bắc Kạn, tiểu đội du kích xã Vi Hương (Bạch Thông) tiến hành tập kích đồn Phủ Thông. Sau gần 1 giờ chiến đấu, ta diệt 50 tên địch, thu 2 súng máy, 1 súng trường.


Đặc biệt, ngày 15-12-1947, tại Đèo Giàng (km 187 - 188) trên đường số 3, lực lượng vũ trang Bắc Kạn đã tổ chức trận phục kích giao thông đạt hiệu suất chiến đấu cao, bắn cháy và phá hủy 17 xe cơ giới các loại, diệt 60 tên địch, trong đó có 2 trung úy, làm bị thương nhiều tên và thu một số quân trang, quân dụng cùng 2 triệu đồng tiền Đông Dương. Đây là một trong những trận đánh điển hình của lực lượng vũ trang Bắc Kạn trên chiến trường Việt Bắc, và cũng là một chiến công lớn trong chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947.


Ngày 19-12-1947, chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 kết thúc thắng lợi, đánh dấu thất bại của chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp, buộc chúng phải chuyển sang kế hoạch bình định và chiếm đóng hòng bám sâu vào trong lòng Việt Bắc. Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã tạo đà cho quân và dân Bắc Kạn vững bước đi lên và liên tiếp giành thắng lợi trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ và anh dũng của dân tộc.


Sau hai tháng rưỡi liên tục chiến đấu, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Bắc Kạn đã dũng cảm, ngoan cường, khi chiến đấu độc lập, lúc phối hợp chiến đấu cùng bộ đội chủ lực, đã đánh 68 trận, diệt và làm bị thương gần 1.000 tên địch, bắn cháy và phá hủy hàng chục xe tăng, xe quân sự, thu nhiều vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng. Nhân dân các dân tộc Bắc Kạn đã góp trên 5 vạn ngày công đào công sự, hầm hào giao thông đánh địch, đào hàng vạn hố chướng ngại cản giao thông của địch, với khối lượng trên 200.000m3 đất đá; cắm hàng vạn mũi chông chống địch nhảy dù; chuẩn bị hàng trăm địa điểm sẵn sàng phục kích địch, đồng thời làm tốt công tác vận chuyển tiếp tế lương thực và cứu chữa, tải thương.


Từ trong tình thế hiểm nghèo, từ bị động và lúng túng, quân và dân Bắc Kạn đã nhanh chóng chuyển sang thế chủ động đánh địch, lập công. Thành công trên được bắt nguồn từ nhiều nguyên nhăn, trong đó có nguyên nhân quan trọng là từ thành quả xây dựng chế độ mới và chuẩn bị thực lực kháng chiến của Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Bắc Kạn từ khi giành được chính quyền.


Sau ngày toàn quốc kháng chiến, thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân trong tỉnh đã triển khai nhiều công việc, chuẩn bị một cách thiết thực cho công cuộc "kháng chiến, kiến quốc", tiếp tục củng cố xây dựng hậu phương căn cứ địa.


Đó là công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền, đoàn thể. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương tháng 4-1947, Tỉnh ủy ra nghị quyết về cuộc vận động chính trị "Thi đua phát triển Đảng", tiến hành từ tháng 4 đến hết tháng 6-1947. Tiếp theo cuộc vận động "Thi đua phát triển Đảng”, thực hiện chỉ thị ngày 28-7-1947 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh triển khai đợt phát triển Đảng "lớp Tháng Tám". Qua 2 đợt phát triển Đảng nói trên, Đảng bộ Bắc Kạn đã kết nạp được 375 quần chúng tiêu biểu vào Đảng. Đây là tiền đề quan trọng để Đảng bộ xúc tiến kiện toàn bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng các cấp, làm cho bộ máy đủ sức lãnh đạo nhân dân các dân tộc đối phó với tình hình chiến sự lan rộng.


Nhân dân các dân tộc Bắc Kạn sôi nổi hưởng ứng các cuộc vận động, các phong trào "Tuần lễ vàng" và gây "Quỹ độc lập", nhân dân các dân tộc Bắc Kạn, tuy còn nghèo khó, nhưng đã góp được 100 lạng vàng, bạc, 70 vạn đồng, 500 tấm vải và 100 con trâu, bò cho kháng chiến.


Thấm nhuần quan điểm "tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự cấp tự túc", "vừa kháng chiến vừa kiến quốc", Đảng bộ Bắc Kạn luôn chú trọng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế của địa phương. Giữa năm 1947, tỉnh lần lượt thành lập các cơ quan chuyên môn như: Khuyến nông, Túc mễ, Khai hoang di dân, Tín dụng sản xuất, Thú ngư và Lâm chính. Thông qua các cơ quan chuyên môn và các đoàn thể quần chúng, Đảng bộ lãnh đạo đồng bào các dân tộc đẩy manh sản xuất, nhằm đảm bảo nhu cầu về lương thực, thực phẩm của tỉnh và đóng góp phần mình cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, tạo nguồn hậu cần tại chỗ cho cuộc kháng chiến lâu dài.


Phát huy quyền làm chủ và nghĩa vụ công dân dưới chế độ mới, tỉnh mở chiến dịch "Chống giặc dốt", nâng cao trình độ cho nhân dân. Phong trào bình dân học vụ, chống nạn mù chữ diễn ra sôi nổi. Các đoàn thể cứu quốc vận động hội viên thực hiện "đời sống mới'’, xoá bỏ các tập tục lạc hậu. Những biện pháp trên thực sự có ý nghĩa, giúp đồng bào các dân tộc nâng cao hiểu biết, gắn bó với Đảng, chính quyền và góp phần có hiệu quả hơn vào cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ địa kháng chiến.


Công tác phá hoại, tiêu thổ kháng chiến được Đảng bộ tỉnh quan tâm lãnh đạo. Thực hiện chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, cuối năm 1946, tỉnh thành lập "Ban phá hoại". Đầu năm 1947, những địa bàn được xác định là trọng điểm triển khai công tác phá hoại đã thành lập các ban phá hoại ở cơ sở, vận động, hướng dẫn nhân dân sinh sống dọc các trục giao thông tiến hành phá hoại giao thông và làm vườn không nhà trống.


Để giúp đỡ đồng bào tản cư, tỉnh thành lập Ủy ban tản cư và di cư. Ủy ban tản cư và di cư đã vận động nhân dân các dân tộc trong tỉnh đón tiếp, bố trí chỗ ở và giúp đỡ công ăn việc làm cho khoảng 2 vạn đồng bào các tỉnh miền xuôi tản cư đến địa phương. Ủy ban cũng vận động đồng bào các dân tộc giúp đỡ các cơ quan, nhà trường từ Hà Nội chuyển lên như: báo Toàn dân kháng chiến, báo Cứu quốc, Thông tấn xã Việt Nam, Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Trường đại học Y - Dược Hà Nội... Ủy ban cũng đã tiếp đón, bố trí địa điểm cho các xí nghiệp, kho tàng, đơn vị quân đội tập kết về Bắc Kạn.


Quán triệt đường lối vũ trang toàn dân của Đảng, Đảng bộ và chính quyền đã lãnh đạo củng cố và xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, xác định đây là trọng tâm công tác của các cấp bộ Đảng. Giữa năm 1946, tỉnh thành lập Ủy ban Bảo vệ cách mạng; tiếp đó, đầu năm 1947, thành lập Tỉnh đội bộ dân quân. Cơ quan chỉ huy dân quân tự vệ các cấp được kiện toàn. Do có sự lãnh đạo chặt chẽ của các cấp bộ Đảng, chính quyền, nên chỉ trong thời gian từ ngày toàn quốc kháng chiến đến giữa năm 1947, toàn tỉnh đã xây dựng được 17 đại đội, riêng huyện Bạch Thông - đơn vị được chọn làm trọng điểm chỉ đạo, xây dựng được 6 đại đội. Ở một số địa bàn trọng yếu như thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới được chọn xây dựng thí điểm các đơn vị dân quân tự vệ tập trung. Lực lượng dân quân du kích trong toàn tỉnh lên đến hàng ngàn người, trung bình mỗi xã, mỗi thị trấn có từ 2 đến 3 tiểu đội du kích làm nhiệm vụ tuần tra canh gác, tác chiến tại địa phương. Dân quân du kích được huấn luyện chiến kỹ thuật chiến đấu, cách gài mìn, cắm chông, phá hoại giao thông...


Nhìn chung, công tác xây dựng căn cứ địa, chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến ở Bắc Kạn đã đạt được những kết quả to lớn. Nhưng do đặc điểm là địa bàn ở sâu trong căn cứ địa, chưa lường được hết âm mưu thâm độc và sự mạo hiểm của kẻ thù, nên vẫn có tư tưởng chủ quan "đại hậu phương chủ nghĩa". Mặc dù trong Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 15-9-1947, về "Bô-la nói gì? Ta phải làm gì?" có dự kiến tới tình huống địch có thể đánh vòng thật rộng, nhảy dù đổ bộ sau lưng ta, song ở Bắc Kạn vẫn chưa có sự chuẩn bị đổi phó với tình huông như vậy. 
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #98 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2021, 08:51:34 am »

Công việc tiêu thổ kháng chiến chưa làm được nhiều. Việc vận động nhân dân làm hầm hào phòng không, làm các bãi chông chống địch nhảy dù làm chưa tích cực; kho tàng, xưởng máy chưa kịp sơ tán. Dân số ở thị xã tăng nhanh do các cơ quan Trung ương và nhân dân dưới xuôi tản cư lên song việc tổ chức sơ tán, phòng tránh địch càn quét đánh phá chưa được dự kiến đầy đủ. Do vậy, ngay ngày đầu tiên, quân dù Pháp đã tạo được yếu tố bất ngờ, chúng đã phá được một số cơ quan, kho tàng, công xưởng như: kho Ngoại thương, Ty Ngân khố, kho quân y, quân giới; cướp bóc, bắn giết và bắt giam một số đồng bào, cán bộ và bộ đội của ta. Nhiều tài sản của Nhà nước và của nhân dân rơi vào tay địch.


Đây là bài học xương máu cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh, trong chuẩn bị lực lượng và xây dựng thế trận đánh địch tập kích bằng đổ bộ đường không. Khi thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Đồn, ta đều bị bất ngờ không tổ chức đánh địch được ngay khi chúng tiếp đất, mà chỉ tổ chức đánh tập kích và phục kích vào những ngày hôm sau, khi chúng đi càn quét. Như vậy, không còn là đánh quân nhảy dù, vì lúc này quân dù đã tiếp đất và chiếm đóng địa bàn như các đơn vị bộ binh đồn trú và càn quét. Từ bài học xương máu này, để chủ động đánh địch đổ bộ đường không trong chiến tranh tương lai (nếu xảy ra), Bắc Kạn xác định: xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện vững chắc từ trong thời bình, đáp ứng cho thời chiến, là một trong những biện pháp chủ yếu đề phòng tránh, đánh trả tiến công đường không của địch trong chiến tranh công nghệ cao; trong đó sẵn sàng đánh bại quân địch đổ bộ đường không trong mọi điều kiện bằng quyết tâm nhanh nhất, kịp thời nhất, đánh liên tục từ khi địch đang cơ động trên không, thực hành đổ bộ đường không và trong suốt quá trình, đến tiêu diệt toàn bộ quân địch đổ bộ đường không.


Từ bài học cách đây hơn nửa thế kỷ, tỉnh chú trọng tổ chức, bố trí hệ thống phòng không nhân dân trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện, bảo đảm quan sát phát hiện, thông báo báo động kịp thời, không để bị bất ngờ; tổ chức lực lượng phòng không địa phương phục kích đón lõng, hoặc cơ động đánh các phương tiện bay chở quân ngay trên đường bay. Lực lượng vũ trang địa phương có thể đánh phủ đầu ngay khi địch vừa đổ quân, đứng chân chưa vững, kiềm chế, ngăn chặn không cho địch mở rộng bãi đổ bộ, đẩy địch vào thế bị động đối phó, tạo thời cơ cho các lực lượng vũ trang tiêu diệt toàn bộ quân địch.


Khắc phục tư tưởng coi tỉnh là địa bàn nằm sâu trong nội địa, sinh ra chủ quan về việc chuẩn bị địa phương trong sự nghiệp quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Khẳng định việc xây dựng căn cứ chiến đấu, chuẩn bị căn cứ hậu phương của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc từ trong thời bình là hoàn toàn đúng đắn. Bài học này đã và đang được Bắc Kạn nghiên cứu vận dụng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, trọng yếu là xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Khu vực phòng thủ tỉnh, huyện đã và đang được Bắc Kạn tập trung xây dựng, gắn xây dựng khu vực phòng thủ với xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng các khu căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương của tỉnh, huyện vững chắc. Đặc biệt là xây dựng thế trận lòng dân ngày càng có chiều sâu.


Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện là nhiệm vụ mang tính tổng hợp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, đến nhân lực, vật lực, tài chính và sức dân. Xuất phát từ ý nghĩa, vai trò và đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ địa phương trong tình hình mới, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bắc Kạn đã có nghị quyết chuyên để về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh. Có quy hoạch, kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, từng bước xây dựng, bố trí các cụm dân cư gắn với xây dựng các tuyến phòng thủ vững chắc trên từng địa bàn; từng bước xây dựng, củng cố khu vực phòng thủ có chiều sâu, có hệ thống làng xã chiến đấu, cụm chiến đấu liên hoàn, hệ thống công trình chiến đấu, hệ thống vật cản và công trình phòng tránh, đường cơ động, mạng lưới bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, hệ thống thông tin liên lạc, các sở chỉ huy, căn cứ hậu phương của tỉnh, huyện... Tỉnh Bắc Kạn đã xác định cụ thể những việc cần làm trước, làm sau, làm ngay hoặc làm từng bước; thực hiện làm đến đâu chắc đến đó, hết sức coi trọng yêu cầu bảo đảm chất lượng các căn cứ hậu cần, kỹ thuật, có biện pháp tích cực trong quản lý, chống hư hỏng, xuống cấp.


Sáu mươi năm đã đi qua, nhưng 75 ngày đêm thử thách ý chí và nghị lực của quân và dân Bắc Kạn chiến đấu bảo vệ quê hương góp phần cùng quân và dân cả nước làm nên chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 vẫn còn sống mãi trong ký ức bao thế hệ, lưu danh mãi về sau. Tự hào với truyền thống yêu nước và cách mạng, tự hào với những thành tích của quân và dân Bắc Kạn trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Bắc Kạn nguyện đoàn kết, hăng hái phấn đấu trên con đường đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, cùng với quân và dân cả nước xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #99 vào lúc: 07 Tháng Tư, 2021, 08:56:39 am »

AN TOÀN KHU CHỢ ĐỒN
TRONG CHIẾN THẮNG VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Đại tá HỨA THANH GIANG
Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Kạn


Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 là một mốc son trong pho sử vàng truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Trong chiến công chung của quân và dân cả nước, huyện Chợ Đồn - một địa phương nằm trong trung tâm An toàn khu (ATK) Trung ương, đã làm tròn sứ mệnh cao cả, góp phần xứng đáng vào việc đập tan mưu đồ và hành động của thực dân Pháp hòng chụp bắt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta; góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc sang giai đoạn mới.


Sau ngày tuyên bố độc lập (2-9-1945), nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, phải đối mặt với biết bao thử thách khó khăn, phức tạp. Đó là giặc đói, giặc dốt và đặc biệt là giặc ngoại xâm. Nền độc lập sau gần một thế kỷ đấu tranh mới giành được đang đứng trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Trước tình thế đó, tháng 10-1945, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử nhiều cán bộ cao cấp của Đảng trở lại Việt Bắc để chuẩn bị căn cứ kháng chiến, sẵn sàng di chuyển các cơ quan Đảng, Chính phủ lên căn cứ địa để lãnh đạo toàn dân kháng chiến lâu dài.


Trong khi thế giặc đang mạnh, việc tạm xa Thủ đô để bảo toàn cơ quan đầu não là cần thiết. Phương thức truyền thống mà ông cha ta đã từng làm là dựa vào thế hiểm trở của núi rừng và sự ủng hộ của nhân dân, ở núi rừng thì lấy núi rừng làm hiểm trở, ở đồng bằng thì lấy dân làm hiểm trở. Tuy nhiên, không phải nơi nào chúng ta cũng có thể tạo lập được ATK. Trong hoàn cảnh bấy giờ, không thể có một hậu phương tuyệt đối an toàn, mọi căn cứ đều có thể bị địch đánh xuyên qua. Do đó, ATK phải được xây dựng ở những nơi bí mật, phải là nơi có địa thế hiểm trở, tiến có thể đánh, lui có thể giữ, hạn chế tối đa uy lực của các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch. Là nơi hội tụ đầy đủ các yếu tố địa lợi, nhân hoà, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn là một trong những địa phương vinh dự được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn xây dựng ATK, làm chỗ đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, địa điểm xây dựng các kho tàng, xí nghiệp và là nơi tập kết các đơn vị quân đội.


Chợ Đồn là huyện miền núi ở phía tây của tỉnh Bắc Kạn, có địa thế hiểm trở, với những dãy núi đá vôi có nhiều hang động lớn rất thuận lợi cho việc trú quân, cất giấu kho tàng. Các dãy núi hầu hết nằm trong vòng cung Đông Bắc, nhưng không chạy theo một hướng nhất định. Từ núi Tao Tao, địa hình của Chợ Đồn thấp dần và ngả về cả hai hướng Bắc và Nam. Xen lẫn những dãy núi là những cánh rừng nguyên sinh và thung lũng đất đai màu mỡ thuận lợi cho sản xuất và khai thác lâm thổ sản. Phía bắc, Chợ Đồn giáp huyện Ba Bể, phía nam giáp Định Hóa (Thái Nguyên), phía đông giáp huyện Bạch Thông, phía tây giáp với huyện Na Hang và Yên Sơn (Tuyên Quang). Các địa phương lân cận đều có địa thế tốt, có nhiều đường mòn nối thông, qua lại thuận tiện. Chợ Đồn có ba sông chính bắt nguồn từ các vùng núi cao: sông Cầu, sông Nam Cường, sông Phó Đáy (Bình Trung). Mùa mưa lũ nước chảy xiết, hình thành nhiều thác lũ rất nguy hiểm. Mùa khô, mực nước các sông đều thấp, thuận lợi cho việc đi lại và cấy hái trên các triền sông. Đường sá giao thông của Chợ Đồn kém phát triển. Thời Pháp thuộc, Chợ Đồn chỉ có một đoạn đường cái dài khoảng 10km từ xã Đông Viên đến xã Phương Viên, nối với đường cái từ Bắc Kạn vào huyện lỵ. Còn lại hầu hết là các đường nhỏ hẹp nối liền huyện lỵ với các xã và các địa phương lân cận.


Chợ Đồn có nền nông nghiệp sớm phát triển, ngoài trồng lúa nước còn ngô, khoai, sắn, rau, đậu. Dưới lòng đất Chợ Đồn chứa nhiều khoáng sản quý như vàng, đồng, chì, kẽm... Chỉ riêng mỏ kẽm Bản Thi với chu vi khoảng 40km2, đã có trữ lượng hàng trăm vạn tấn quặng. Thời Pháp thuộc, các chủ thực dân phải tuyển dụng tới 80 thư ký, huy động hàng nghìn công nhân để quản lý và khai thác. Đây thực sự là nguồn tài nguyên quý, nếu quản lý và khai thác tốt sẽ bảo đảm cho nhu cầu của ngành công nghiệp phục vụ cho công cuộc kháng chiến và phát triển đất nước.


Thời kỳ đầu kháng chiến, Chợ Đồn có khoảng trên vạn người, gồm 5 dân tộc anh em sinh sống: Tày (70%), Nùng (17%), Dao (8,6), Kinh (19,4%) và một số người Hoa. Nhân dân các dân tộc Chợ Đồn vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, có tinh thần đoàn kết, gắn bó keo sơn, chung sức chung lòng chống giặc ngoại xâm để bảo vệ bản làng, quê hương. Đàn ông giỏi làm nương rẫy, săn bắn, nhanh nhẹn, dũng cảm. Phụ nữ giỏi trồng trọt, đan lát, thêu thùa dệt vải, may vá... Thời kỳ Pháp thuộc, bị đế quốc thực dân bóc lột tận xương tủy, nhân dân các dân tộc Chợ Đồn luôn khao khát được sống trong độc lập, tự do.


Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cán bộ Đảng về Chợ Đồn tuyên truyền giác ngộ, nhân dân các dân tộc Chợ Đồn đã đồng cam cộng khổ một lòng theo Đảng làm cách mạng. Nhưng do điều kiện địa lý, giao thông đi lại khó khăn, nên phong trào cách mạng đến với Chợ Đồn có chậm hơn các địa phương khác. Đến trung tuần tháng 8-1943, "Con đường quần chúng" Nam tiến của Đảng mới phát triển đến khu vực huyện Chợ Đồn. Được sự lãnh đạo của Đảng, con đường quần chúng đã phát triển nhanh chóng. Nhiều cơ sở cách mạng được xây dựng liên hoàn hầu khắp các xã trong huyện. Già trẻ, gái trai đều hăng hái gia nhập Việt Minh. Các tổ chức cứu quốc của phụ nữ, thanh niên; các đội tự vệ và tự vệ chiến đấu được hình thành và phát triển trong các làng xã để giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ cơ sở cách mạng. Mặc dù bị địch khủng bố gắt gao, nhưng nhờ được nhân dân ủng hộ và che chở, các đội tự vệ đã nhanh chóng phát triển thành những đội vũ trang, hình thành trung đội du kích tập trung (10-1944), được huấn luyện về chính trị và quân sự, làm nòng cốt vững chắc cho quần chúng nổi dậy cướp chính quyền. Nhờ có phong trào cách mạng phát triển nhanh chóng, chỉ trong gần 3 năm từ khi có cơ sở cách mạng đầu tiên (8-1943), ngày 30-3-1945, Chợ Đồn đã được giải phóng. Huyện Chợ Đồn vinh dự là một trong những địa phương đập tan chính quyền thực dân, thành lập chính quyền cách mạng sớm trong cả nước (6-1945).


Xét về mọi phương diện, Chợ Đồn hoàn toàn hội tụ đủ các mặt tốt của địa - quân sự, địa - chính trị hay địa - kinh tế. Như vậy, thế hiểm yếu của núi rừng, lòng yêu nước và cách mạng của nhân dân cộng thêm sự trù phú của thiên nhiên là điều kiện tốt cho việc xây dựng căn cứ kháng chiến vững chắc. Việc Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn Chợ Đồn là một trong các địa phương để xây dựng ATK là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt.


Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy đã rời Thủ đô Hà Nội chuyển lên Việt Bắc để lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến lâu dài. Các cơ quan như: Đài Tiếng nói Việt Nam, báo Cứu quốc, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và nhiều kho tàng, trạm xưởng đã về đứng chân và hoạt động trên địa bàn huyện Chợ Đồn. Trong đó, cơ quan vô tuyến điện Trung ương, Nha nghiên cứu khoa học đóng ở Phia Khao thuộc Bản Thi; xưởng quân giới và Bộ Tài chính đóng ỏ Bản Thi; cơ quan báo Sự thật đóng ở Khuổi Đăm, xã Nghĩa Tá; Đài Tiếng nói Việt Nam đóng ở Nà Đang, xã Lương Bằng...


Chấp hành chỉ thị của Chiến khu 1 và của tỉnh Bắc Kạn, sau ngày toàn quốc kháng chiến, Ủy ban kháng chiến hành chính Chợ Đồn được thành lập, từ đó, mọi mặt hoạt động của huyện được chỉ đạo thống nhất và kịp thời. Với vị trí là một trong ba địa phương - trung tâm ATK, nhiệm vụ to lớn đặt ra đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc huyện Chợ Đồn là phải tích cực chuẩn bị lực lượng chiến đấu, đánh bại mọi âm mưu và hành động của địch, không chỉ bảo vệ quê hương, mà còn phải bảo vệ an toàn cho cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn. Ngay khi các cơ quan Trung ương được chuyển đến Chợ Đồn, đồng bào các dân tộc ở đây đã bỏ ra hàng nghìn ngày công, ủng hộ hàng vạn tre nứa, gỗ để xây dựng nơi ở, nơi làm việc và kho tàng, trạm xưởng của các cơ quan kháng chiến. Mọi người dân từ già đến trẻ đều nêu cao ý thức giữ gìn bí mật, hết lòng đùm bọc, che chở các cơ quan Trung ương. Công tác phòng gian bảo mật được thực hiện triệt để, mọi ngươi dân đều nghiêm chỉnh thực hiện tốt khẩu hiệu ba không (không biết, không thấy, không nghe) ai làm gì biết nấy, ở đâu biết đó, không để lộ bí mật. Mối đoàn kết giữa các cơ quan, đơn vị và địa phương được xây dựng trên cơ sở tương thân tương ái, nặng nghĩa nước, thắm tình dân. Chính sách dân tộc được các cơ quan, mọi nhân viên và cán bộ thực hiện nghiêm chỉnh, nên được nhân dân địa phương hết mực thương yêu, tình đoàn kết giữa miền xuôi và miền ngược ngày càng thêm gắn bó. Mặc dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng nhân dân các dân tộc Chợ Đồn đã tự nguyện nhường cơm sẻ áo, san sẻ nhà cửa, ruộng nương, bãi đồi cho cán bộ, nhân viên của các cơ quan Trung ương.


Nhận rõ vai trò của địa phương, các đồng chí lãnh đạo huyện luôn chăm lo củng cố và phát triển Đảng và xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang. Ngay sau khi được thành lập (7-1947), Ban Châu ủy đã phân công từng đảng viên đến những nơi chưa có cơ sở Đảng để làm công tác phát triển Đảng. Chỉ trong thời gian ngắn, các cơ sở Đảng trong huyện đã được xây dựng đều khắp các xã, nhiều quần chúng ưu tú được giới thiệu và gia nhập Đảng. Đây là điều kiện thuận lợi căn bản bảo đảm cho công cuộc chuẩn bị kháng chiến và chiến đấu ở Chợ Đồn giành được thắng lợi. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Châu ủy, trung đội du kích chiến đấu được bổ sung quân số và phát triển thành 1 đại đội du kích thoát ly, được trang bị vũ khí tương đối đầy đủ. Tại các xã, đội tự vệ cũng được bổ sung lực lượng, bảo đảm mỗi xã có một trung đội du kích. Một số xã như: Phương Viên, Đông Viên, Ngọc Phái còn xây dựng được đại đội du kích. Trước khi Pháp tiến công Việt Bắc, huyện Chợ Đồn đã xây dựng được một đại đội du kích thoát ly, 3 đại đội và 18 trung đội du kích ở các xã, thường xuyên canh gác sẵn sàng chiến đấu. Ngoài ra, lực lượng dân quân cũng được xây dựng rộng rãi trong huyện vừa tham gia tuần tra canh gác vừa sản xuất, làm giao thông liên lạc, vận tải, phá hoại...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM