Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:56:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947-Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt  (Đọc 7245 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #80 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2021, 11:10:23 am »

AN TOÀN KHU Ở THÁI NGUYÊN
TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


TS. LÊ QUANG DỰC
Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tỉnh Thái Nguyên


Cách mạng Tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do. Với tầm nhìn xa trông rộng, với nhãn quan chính trị sáng suốt, nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân, ngay sau ngày cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân công đồng chí Phạm Văn Đồng cùng một số cán bộ ở lại Việt Bắc một thời gian để củng cố căn cứ địa. Vì như Người nói, chiến tranh có thể lại xảy ra, và như thế chúng ta còn phải quay trở lại nhờ cậy đồng bào một lần nữa1 (Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 267).


Đúng như tiên liệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với dã tâm quyết quay trở lại cướp nước ta một lần nữa, chỉ hơn 3 tuần sau ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập, được sự giúp đỡ của quân Anh, đêm 22 rạng 23-9-1945, thực dân Pháp đã nổ súng đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan Tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc Chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Từ đó, quân Pháp từng bước mở rộng chiến tranh ra cả hai miền Nam - Bắc. 


Để chiến thắng kẻ thù có quân đông, trang bị vũ khí hiện đại hơn ta gấp nhiều lần, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, trong tình hình đó, vấn đề xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương kháng chiến ngày càng trở nên bức thiết. Vì vậy, từ cuối năm 1946 nhiều đoàn công tác đặc biệt của Trung ương, Chính phủ được cử lên Việt Bắc để củng cố, xây dựng căn cứ địa kháng chiến.


Cuối tháng 10-1946, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để thực thi nhiệm vụ trên. Một số địa điểm thuộc các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương cùng một số nơi khác được đồng chí và đoàn công tác đặc biệt lựa chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ trong trường hợp phải rời khỏi Thủ đô Hà Nội1 (Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Tập I (1936-1965, 2003, tr. 204).


Tháng 12-1946, đoàn công tác đặc biệt thứ hai gồm đại biểu các ngành quân sự, an ninh, chính quyền, đoàn thể, do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách, tiếp tục lên đường nghiên cứu việc di chuyển và chọn địa điểm an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến ở và làm việc. Trên cơ sở khảo sát thực địa, cân nhắc kỹ lưỡng mọi yếu tố, đoàn đã quyết định chọn một số địa điểm nằm sâu trong căn cứ địa thuộc các huyện Định Hoá, các xã phía Bắc huyện Đại Từ, Tây Bắc huyện Phú Lương, một số xã của huyện Võ Nhai cùng với các huyện Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang), Chợ Đồn (Bắc Kạn) làm nơi xây dựng An toàn khu (ATK) của Trung ương.


Vấn đề dặt ra là, tại sao một số huyện của tỉnh Thái Nguyên lại được Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn để xây dựng thành trung tâm của Khu an toàn, làm nơi cho các cơ quan của Trung ương, Chính phủ ở và lãnh đạo kháng chiến. Đây là vấn đề từ nhiều năm qua đã dành được sự quan tâm nghiên cứu, lý giải của các nhà khoa học lịch sử, đặc biệt là những nhà khoa học lịch sử quân sự.


Các kết quả nghiên cứu về căn bản đều đi đến thống nhất: một số huyện của tỉnh Thái Nguyên được Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn để xây dựng ATK, trước hết bởi ở đây có vị trí chiến lược quan trọng "tiến có thể đánh, lui có thế giữ". Từ xa xưa, Thái Nguyên đã được ông cha ta coi "là phên giậu che chắn phía Bắc của kinh thành Thàng Long", là cửa ngõ đi vào Việt Bắc, là cầu nối giữa đồng bằng sông Hồng với vùng rừng núi trùng điệp phía Bắc của Tổ quốc. Từ Thái Nguyên có thể sang Tuyên Quang, Phú Thọ lên Tây Bắc, hoặc ngược phía Bắc qua Bắc Kạn lên Cao Bằng ra biên giới Việt - Trung; cũng có thể xuôi theo phía Nam về Hà Nội và các tỉnh đồng bằng. Núi rừng Thái Nguyên trùng điệp, hiểm trở, các cơ quan Trung ương ở và làm việc vừa bảo đảm bí mật, vừa có thể di chuyển an toàn khi địch tấn công vào khu căn cứ.


Là tỉnh miền núi và trung du, Thái Nguyên có nhiều diện tích đất đai phì nhiêu, nhiều đồi bãi, cánh đồng màu mỡ, lại có hệ thống sông, suối có độ dốc khá lớn, thích hợp với việc tưới tiêu tự nhiên, nên Thái Nguyên có điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất tự túc, tự cấp một phần lương thực, thực phẩm. Với vị trí thuận lợi, Thái Nguyên còn có khả năng thu nhận tiếp tế từ bên ngoài vào, đảm bảo sinh hoạt, hoạt động của các cơ quan đầu não kháng chiến.


Là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc anh em, tuy ngôn ngữ và phong tục tập quán có khác nhau, song lòng yêu quê hương đất nước đã cố kết đồng bào thành một khối vững chắc.


Nhân dân Thái Nguyên có truyền thống đấu tranh cách mạng rất vẻ vang. Trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, nhân dân Thái Nguyên đã sớm tiếp thu và đi theo đường lối cách mạng của Đảng, sớm có kinh nghiệm nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ, bảo vệ các đội vũ trang trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám, khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân (1939-1945).


Trước khi bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc, tổ chức Đảng của Thái Nguyên khá phát triển, chính quyền các cấp đươc củng cố, trở thành nhân tố quy tụ nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Các đoàn thể cứu quốc như Hội Phụ lão, Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân... được tổ chức ở khắp nơi, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia. Lực lượng vũ trang và bán vũ trang cũng không ngừng được củng cố phát triển và ngày càng lớn mạnh.


Như vậy, có thể nói Thái Nguyên đã hội tụ đủ các yếu tố về địa lý, kinh tế, chính trị, quân sự bảo đảm cho việc xây dựng một Khu an toàn.


Nhận rõ tầm quan trọng của Thái Nguyên, tin tưởng vào tinh thần và khả năng cách mạng của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm có sự quan tâm chỉ đạo xây dựng một số huyện của tỉnh Thái Nguyên thành một ATK cho cơ quan đầu não kháng chiến đứng chân hoạt động, bởi như lời Hồ Chủ tịch: Ở đây, lòng yêu nước của đồng bào, nhập với hình thể hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 366).


Được Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm nơi xây dựng ATK là một vinh dự lớn, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm nặng nề đối với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Thái Nguyên. Đó là làm thế nào để đùm bọc, chở che, cấp dưỡng, bảo vệ an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến trước sự bao vây tấn công, phá hoại của kẻ thù.


Nhận rõ vinh dự và trách nhiệm nặng nề này, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Thái nguyên đoàn kết một lòng, quyết tâm xây dựng và bảo vệ ATK. Ngay sau khi nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng về vấn đề xây dựng ATK, Tỉnh ủy Thái Nguyên đã cử nhiều cán bộ xuống phối hợp với lãnh đạo các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai về các xã tổ chức cho nhân dân học tập, thấu suốt đường lối kháng chiến, nâng cao ý thức cảnh giác, giữ gìn bí mật, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa nhân dân với cán bộ, góp công, góp của xây dựng ATK.


Công tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính quyền, các đoàn thể quần chúng, củng cố, xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang được đặc biệt chú trọng. Được giao nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài, lực lượng công an tỉnh kết hợp với công an các huyện và các đơn vị bảo vệ của Trung ương làm tốt công tác bảo mật, phòng gian, xây dựng nội quy đi lại, quản lý chặt chẽ người ra, vào khu vực bảo vệ.


Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp bộ Đảng, lực lượng công an xã, dân quân, du kích và cơ sở quần chúng trong các thôn bản được tổ chức huấn luyện làm nòng cốt trong công tác bảo vệ. Những cơ sở này đã thực sự là những trạm gác kín đáo, trực tiếp bảo vệ địa bàn và các đầu mối giao thông quan trọng.


Được giáo dục, nhắc nhở thường xuyên, đồng bào các dân tộc trong tỉnh coi việc phòng gian, bảo mật, bảo vệ các cơ quan Trung ương Đảng tại địa phương là trách nhiệm của mình. Từ cụ già đến em nhỏ đều tự giác thực hiện triệt để khẩu hiệu ba không (không nói chuyện làm lộ bí mật, không nghe những điều không liên quan đến mình, không chỉ đường và cảnh giác đối với người lạ mặt). Mỗi người dân thực sự là một chiến sĩ bảo vệ ATK.


Cùng với việc xây dựng lực lượng, tổ chức bảo vệ, ngay từ những ngày đầu nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã dành hàng vạn ngày công, ủng hộ hàng chục vạn cây tre, nứa, gỗ, hàng triệu tàu lá cọ để xây dựng nơi ở, nơi làm việc của cơ quan đầu não kháng chiến, xây dựng kho tàng, công xưởng...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #81 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2021, 11:11:52 am »

Từ đầu năm 1947, hầu hết các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Quốc phòng, một số cơ quan đoàn thể, văn hóa đã chuyển đến ở tại ATK.


Nhân dân các dân tộc trong tỉnh nỗ lực tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm để vừa bảo đảm đời sống, vừa cung cấp cho kháng chiến. Nhiều nơi nhân dân ủng hộ các cơ quan, xí nghiệp, các đơn vị bộ đội ruộng đất, trâu bò để tăng gia tự túc. Nhiều gia đình nhường nhà ở của mình cho các cơ quan kháng chiến làm kho... Một trong những tấm gương tiêu biểu cho tấm lòng của nhân dân các dân tộc Thái Nguyên đối với kháng chiến là bà Bá Huy (xã Lục Ba, huyện Đại Từ). Sau ngày toàn quốc kháng chiến, bà đã ủng hộ công, của làm mười gian nhà gỗ, lợp lá, mua sắm giường, chiếu, chăn, màn... đủ cho sinh hoạt của 50 thương binh tại An dưỡng Đường số 1 (thành lập tháng 7-1947). Cùng với việc vận động chị em phụ nữ chăm sóc thương binh, bà còn ủng hộ 3 tấn thóc, 3 mẫu ruộng, 1 con trâu và một số nông cụ cho anh em thương binh sản xuất. Với những đóng góp quý báu đó, ngày 27-7-1947, bà Bá Huy được Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ và anh em thương binh gửi thư cám ơn, khen ngợi1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 177).


Có thể nói, đến giữa năm 1947, ATK của Trung ương trên địa bàn Thái Nguyên đã được xây dựng thành một hệ thống liên hoàn. Giữa núi rừng trùng điệp, giữa căn cứ địa lòng dân vững chắc, bộ máy điều hành cuộc kháng chiến cả nước hoạt động, chỉ đạo các chiến trường, các địa phương ngày càng thuận lợi, hiệu quả.


Thực hiện chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh", Thu - Đông 1947, thực dân Pháp tập trung khoảng 12 nghìn quân bao gồm thủy, lục, không quân cùng với hơn 800 xe quân sự, 40 máy bay, 40 tàu, xuồng mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Căn cứ địa Việt Bắc2 (Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên lịch sử đấu tranh vũ trang và kháng chiến chống Pháp (1941-1954), 1999, tr. 171, 173), nhằm khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn sự liên lạc của ta với cách mạng Trung Quốc; tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực, phá hủy cơ sở vật chất và mọi tiềm năng kháng chiến của ta; tạo điều kiện cho việc thành lập chính phủ Bảo Đại, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.


Mở đầu cuộc tấn công này, liên tiếp trong hai ngày 7 và 8-10-1947, quân Pháp huy động hàng chục máy bay ném bom, bắn phá và thả khoảng 1.200 quân dù xuống đánh chiếm thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới, huyện lỵ Chợ Đồn. Đồng thời với việc nhảy dù đổ bộ vào sâu trong căn cứ của ta, hai cánh quân Pháp từ hai hướng: hướng thứ nhất từ Lạng Sơn theo đường số 4 lên Cao Bằng rồi theo đường số 3 đánh xuống Bắc Kạn; hướng thứ 2 từ Hà Nội ngược sông Hồng, sang sông Lô, đánh lên Tuyên Quang, tạo thành hai gọng kìm bao vây, kẹp lấy căn cứ địa Việt Bắc. Từ hai gọng kìm, quân Pháp mở các cuộc lùng sục, càn quét từ bên ngoài vào, kết hợp với quân dù đánh từ trong ra, quyết thực hiện bằng được các mục tiêu của chiến dịch.


Trước sức tấn công ồ ạt của địch lên Căn cứ địa Việt Bắc, ngày 8-10-1947 từ ATK Định Hoá, Bộ Tổng chỉ huy ra Nhật lệnh và Quân lệnh chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể cho các lực lượng vũ trang, Ủy ban kháng chiến các cấp cùng toàn thể nhân dân. Ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị "Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp"1 (Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Văn kiện Đảng 1945-1954, Tập 2, quyển 1 (1946-1948), Hà Nội, 1979, tr. 131). Cũng trong ngày 15-10, từ ATK Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư kêu gọi bộ đội và dân quân, du kích cùng toàn thể đồng bào ra sức đánh giặc2 (Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên lịch sử đấu tranh vũ trang và kháng chiến chống Pháp..., Sđd, tr. 171, 173).


Thực hiện Nhật lệnh và Quân lệnh của Bộ Tổng chỉ huy, Chỉ thị của Trung ương và Thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ, nhân dân và các lực lượng dân quân, du kích, tự vệ tỉnh Thái Nguyên nhanh chóng ổn định tư tưởng, gấp rút hoàn thành công tác chuẩn bị phục vụ chiến đấu và chiến đấu. Cơ quan quân sự các cấp từ tỉnh xuống huyện, xã nhanh chóng được củng cố, kiện toàn. Các đơn vị du kích tập trung làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu, được biên chế đủ quân số. Lực lượng dân quân du kích, tự vệ được phát triển nhanh chóng cả số lượng và chất lượng. Các đơn vị chủ lực của tỉnh, của Chiến khu 1, của Bộ bố trí lại lực lượng cho phù hợp với đặc điểm tình hình, diễn biến của chiến sự. Hầm, hào giao thông, công sự chiến đấu được củng cố, xây dựng thêm. Bước ba của kế hoạch tiêu thổ kháng chiến được nhanh chóng triến khai bằng việc phá nốt các trục đường lớn dẫn vào ATK, các trọng điểm giao thông cuối cùng như cầu Gia Bảy, cầu Giang Tiên, cầu Huy Ngạc... được đánh sập. Hàng vạn cây chông tre, nứa dài từ 1,5m đến 2m được cắm khắp các cánh đồng, bãi trống, đồi trọc đề phòng chống quân địch nhảy dù...


Có thể nói, chỉ trong một thời gian ngắn, từ khi quân Pháp mở đợt tấn công lên Căn cứ địa Việt Bắc, công tác chuẩn bị của Thái Nguyên đã hoàn tất. Toàn tỉnh đã sẵn sàng chiến đấu đánh bại cuộc tấn công của địch, bảo vệ vững chắc trung tâm Căn cứ địa, Thủ đô kháng chiến của cả nước.


Sau khi biết được các bước trong kế hoạch tấn công của địch, một trong những nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa to lớn của nhân dân và các lực lượng vũ trang Thái Nguyên trong giai đoạn này là dẫn đường và bảo vệ an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến, cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Chính phủ, quân đội... di chuyển từ Định Hóa sang Võ Nhai và ngược lại.


Sau hơn một tháng đưa quân lên Việt Bắc càn quét, đốt phá, quân Pháp không những không thực hiện được mục tiêu của cuộc tấn công mà còn bị quân và dân các tỉnh Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn chặn đánh khắp nơi, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề. Cuộc hành quân Lê-a (bước một của cuộc tấn công lên Việt Bắc Thu - Đông 1947) của giặc Pháp về cơ bản đã thất bại.


Phán đoán các cơ quan đầu não kháng chiến của ta đang đóng ở vùng núi đá Võ Nhai, lực lượng bộ đội chủ lực của ta có từ 20 đến 25 tiểu đoàn đang đóng ở vùng Định Hoá, Đại Từ, Võ Nhai (Thái Nguyên), Yên Thế (Bắc Giang), lưu vực sông Phó Đáy và phía tây Tam Đảo, Bộ chỉ huy Pháp quyết định chuyển sang thực hiện cuộc hành quân Xanh-tuya. Bằng việc rút các lực lượng đã tham gia cuộc hành quân Lê-a, cùng trung đoàn bộ binh Ma-rôc số 5 và trung đoàn do trung tá Cô-xtơ (Coste) chỉ huy, quân Pháp tiến hành bao vây càn quét khu tứ giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng Thương rộng hơn 8.000km2, mà trọng tâm là địa bàn Thái Nguyên, nhằm tiếp tục lùng bắt cho kỳ được cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bằng được chủ lực Việt Minh, phá nát căn cứ địa. Với đợt bao vây càn quét này, hàng ngàn quân Pháp đã chiếm đóng tới 32 vị trí trên địa bàn toàn tỉnh.


Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy, Đảng bộ, quân và dân Thái Nguyên đã dũng cảm, mưu trí dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng trùng điệp, với thế trận lòng dân, với tinh thần kiên quyết tiến công và kinh nghiệm đấu tranh vũ trang được đúc rút từ trong Cách mạng Tháng Tám, kiên cường đánh địch, bảo vệ An toàn khu, bảo vệ quê hương.


Trong chiến dịch này các lực lượng vũ trang Thái Nguyên vừa độc lập tác chiến, vừa chủ động phối hợp với bộ đội chủ lực đánh 123 trận lớn nhỏ, tiêu diệt 490 tên địch, làm bị thương hơn 100 tên khác, bắn rơi tại chỗ 1 máy bay B.24, thu nhiều vũ khí và trang bị chiến tranh1 (Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên lịch sử đấu tranh vũ trang và kháng chiến chống Pháp..., Sđd, tr. 205), góp phần đánh bại cuộc hành quân Xanh-tuya, góp phần xứng đáng cùng quân và dân Việt Bắc đánh bại chiến dịch tấn công Thu - Đông 1947 đầy tham vọng của địch, bảo vệ an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến và Chủ tịch Hồ Chí Minh; bảo vệ vững chắc trung tâm Căn cứ địa Việt Bắc, Thủ đô kháng chiến của cả nước.


Trong niềm vui giải phóng, ngày 22-12-1947, tại thị xã Thái Nguyên, hàng ngàn cán bộ, bộ đội, dân quân du kích và nhân dân các dân tộc trong tỉnh tổ chức mít tinh mừng chiến thắng.


Trải qua thực tiễn chiến đấu, Đảng bộ, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân Thái Nguyên không ngừng lớn mạnh và trưởng thành. Nhiều bài học kinh nghiệm quý về thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, về xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng và bảo vệ ATK, về phát triển kinh tế tự cấp, tự túc... được đúc rút.


Sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, cục diện chiến trường có nhiều thay đổi ngày càng có lợi cho ta. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân Thái Nguyên tiếp tục làm tốt công tác xây dựng, củng cố căn cứ địa, bảo vệ vững chắc ATK của Trung ương; tích cực tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm, huy động sức người, sức của ngày càng nhiều cho các chiến trường, đặc biệt là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #82 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2021, 11:13:24 am »

HUYỆN ĐỊNH HOÁ, THÁI NGUYÊN TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC VÀ TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP


TRẦN VĂN ÍCH
Bí thư Huyện ủy huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên


Định Hóa là một huyện miền núi, nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Thái Nguyên. Phía Đông giáp huyện Phú Lương; phía Nam giáp huyện Đại Từ, phía Bắc giáp huyện Chợ Đồn, Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn, phía Tây giáp các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Huyện có diện tích tự nhiên 520km2, dân số hơn 9 vạn người, có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống từ hàng nghìn đời nay.


Với vùng đất thiên thời, địa lợi, nhân hoà, Định Hóa có vị trí chiến lược quan trọng, nằm giữa trung tâm Việt Bắc. Dưới con mắt của các nhà quân sự, Định Hóa là vùng đất chiến lược, là nơi lý tưởng để các tổ chức cách mạng nhỏ bé thủa ban đầu, có thể dựa vào thế lợi hại ở đây để xây dựng và phát triển lực lượng, làm nên nghiệp lớn về sau. Những dãy núi cao có nhiều hang động, cùng với những dải rừng rậm liên hoàn, là nơi đảm bảo bí mật, che giấu lực lượng và hoạt động của các tổ chức vũ trang, đồng thời cũng thuận tiện cho việc tiến trình những cuộc chiến đấu ngăn chặn các đợt tấn công của địch mạnh hơn, để bảo toàn lực lượng. Từ đây, ta có thể xuất quân tiến công địch ở những nơi khác, khi thắng có thế tiến về châu thổ sông Hồng, khi gặp khó khăn lại dựa vào núi rừng đại ngàn đứng chân an toàn.


Cùng với những lợi thế đó, con người ở đây giàu lòng yêu quê hương đất nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), nhân dân các dân tộc Định Hóa sớm tiếp thu và đi theo con đường cách mạng giải phóng dân tộc mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã vạch ra. Ngày 26-3-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là các tổ chức cách mạng ở địa phương, nhân dân đã phối hợp với lực lượng Cứu quốc quân nổi dậy đập tan chính quyền thực dân, phong kiến tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân. Toàn huyện được giải phóng, chính quyền cách mạng được thiết lập từ huyện đến xã. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Định Hóa quyết tâm bảo vệ và giữ vững chính quyền, bài trừ nội phản, đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần cùng nhân dân cả nước chống thực dân Pháp xâm lược.


Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2-9-1945) chưa được bao lâu thì thực dân Pháp lại quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa (23-9-1945). Với trí tuệ của một nhà cách mạng thiên tài, tiên liệu được những khó khăn chồng chất của cuộc đấu trí, đấu lực với kẻ thù cả trình độ tác chiến và trang bị kỹ thuật vượt trội hơn ta, nhận thức rõ âm mưu của thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Đồng và một số đồng chí khác trở lại vùng giáp ranh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn củng cố lực lượng. Đảm nhận trọng trách này, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã đến huyện Định Hóa và phía nam huyện Chợ Đồn chọn một số địa điểm để các cơ quan quan trọng của Trung ương đóng. Các đồng chí nhận thấy Định Hóa là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng, nằm giữa trung tâm Việt Bắc, nên đề nghị chọn Định Hóa làm An toàn khu (ATK) kháng chiến của cả nước. Tháng 6-1946, Đảng bộ Định Hóa được thành lập để kịp thời lãnh đạo nhân dân chuẩn bị mọi mặt xây dựng chiến khu. Tháng 12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Quân dân Thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã Bắc vĩ tuyến 16 đã chiến đấu anh dũng, bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc. Tuy nhiên do lực lượng chênh lệch, để bảo toàn lực lượng có thể kháng chiến lâu dài, Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ quyết định rời Thủ đô Hà Nội lên Việt Bắc xây dựng căn cứ kháng chiến lâu dài. Huyện Định Hóa vinh dự được Bác Hồ, Trung ương Đảng chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan đầu não lãnh đạo cuộc kháng chiến.


Đầu năm 1947, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, quân đội lần lượt chuyển lên Định Hóa, ngày 20-5-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến tại một địa điểm thuộc huyện Định Hóa để lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Nhân dân đã đùm bọc, giúp đỡ, che chở, đóng góp nhân lực, vật lực, xây dựng lán trại, đi dân công, tiếp tế, nhường áo, sẻ cơm, nhường nhà cho bộ đội đóng quân, thực hiện "ba không" đảm bảo bí mật, an toàn tuyệt đối cho Bác Hồ và các cơ quan, đơn vị đóng quân trên địa bàn.


Với mưu đồ quyết tâm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta, ngày 7-10-1947 thực dân Pháp bất ngờ cho quân đổ bộ bằng đường không xuống thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới, nhằm đột kích, thọc sâu vào trung tâm căn cứ địa hòng chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Với chiến lược hai gọng kìm, chúng cho một binh đoàn, do Bô-phơ-rê chỉ huy, từ Lạng Sơn theo đường số 4 lên Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng theo đường số 3 xuống Bắc Kạn nhằm bao vây căn cứ địa Việt Bắc từ phía Đông; một binh đoàn do Com-muy-nan chỉ huy, ngày 9-10, từ Hà Nội ngược sông Hồng, sông Lô lên Tuyên Quang, bao vây Việt Bắc từ phía Tây và dự kiến sẽ hội quân tại Đài Thị (13-10-1947), sau đó sẽ toả ra càn quét, tiêu diệt quân chủ lực của ta, lùng bắt cán bộ, phá tan đầu não kháng chiến, lập chính phủ bù nhìn, kết thúc chiến tranh, đặt ách thống trị lên đất nước ta một lần nữa. Đánh lên Việt Bắc, quân Pháp còn nhằm khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng Trung Quốc. Ngày 8-10-1947, tại Khau Tý, xã Điềm Mặc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi bộ đội, dân quân, du kích ra sức tiêu diệt địch. Ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị "Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp” chỉ rõ nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cả nước ra sức chiến đấu đánh bại cuộc tiến công của địch. Đáp lời kêu gọi của Bác Hồ và chỉ thị của Trung ương, nhân dân các dân tộc Định Hóa đã cùng quân, dân cả nước quyết tâm chiến đấu bảo vệ an toàn tuyệt đối cho Bác Hồ và các cơ quan Trung ương Đảng, đồng thời đập tan mưu đồ tiến công lên Việt Bắc của thực dân Pháp.


Trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, nhân dân Định Hóa có những đóng góp to lớn trong việc bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến. Ngày 22-11-1947, kế hoạch Xanh-tuya của địch được triển khai. Đêm 24-11-1947, địch cho một cánh quân khoảng 500 tên kéo xuống chiếm đóng Phố Ngữ - Quán Vuông. Đêm 25-11-1947, chúng chiếm đóng Chợ Chu làm sân bay dã chiến, đồng thời tiến hành càn quét vùng Chợ Chu, Quán Vuông. Đảng bộ Định Hóa lãnh đạo quân và dân trong huyện đứng lên đánh giặc bảo vệ quê hương, bảo vệ Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ. Cùng ngày 25-11-1947, cánh quân địch từ Chợ Mới đánh vào phía đông bắc Chợ Chu. Du kích xã Tân Dương đã lợi dụng địa hình hiểm trở, phục kích ở Khe Chuộc - Đèo Cút. Sau một ngày kịch chiến, các chiến sĩ du kích đã giết và làm bị thương nhiều tên địch. Không vượt qua được trận địa, địch buộc phải rút lên đường Tân Thịnh và rút chạy về Bắc Kạn. Ngày 26-11-1947, chúng cho một đại đội đánh vào Phượng Tiến nhằm mục tiêu phá Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, một đại đội khác tấn công vào Đồng Thịnh đánh phá Xưởng quân giới A4 và các cơ quan Tổng cục Chính trị. Tại Phượng Tiến, lực lượng tự vệ Nhà máy đã phối hợp với du kích xã Tân Dương, Phượng Tiến chặn đánh địch, diệt 7 tên, buộc chúng phải rút lui. Tại Đồng Thịnh, lực lượng tự vệ Xưởng A4 phối hợp với du kích xã Đồng Thịnh chặn đánh địch ở Khau Phao, Đồng Mọn, diệt và làm bị thương nhiều tên. Bị chặn đánh liên tiếp, nhưng địch vẫn chưa từ bỏ mưu đồ đánh bắt cơ quan đầu não kháng chiến của ta, Ngày 27-11-1947, địch thay đổi chiến thuật, dùng một tiểu đội tinh nhuệ bí mật tập kích phá hoại Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, nhưng bị tiểu đội Vệ quốc đoàn mai phục, đánh bất ngờ, diệt 2 tên, số còn lại tháo chạy. Cùng ngày, địch cho quân càn vào Kim Sơn, An Lạc, lực lượng du kích phối hợp với bộ đội chặn đánh nhiều trận khiến địch phải bỏ chạy. Ngày 28-11-1947, thực dân Pháp ở Định Hóa dồn quân, tập trung lực lượng, tổ chức thành hai gọng kìm càn quét từ phía tây bắc xuống đông nam huyện nhằm đánh đòn quyết định, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Cánh quân thứ nhất càn vào Phúc Chu, Đồng Thịnh, Định Biên, Thanh Định, Điềm Mặc. Cánh quân thứ hai càn qua các xã Bảo Cường, Trung Hội, Trung Lương và sẽ hội quân ở Bình Yên để tập trung đánh vào Phú Đình, Bình Thành - nơi địch cho rằng có cơ quan đầu não kháng chiến ở đây, rồi sau đó vượt đèo De sang Tuyên Quang. Nắm được âm mưu của địch, để bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến, Bộ Tổng Tham mưu, đã điều động Trung đoàn 131 ở phía tây nam huyện sẵn sàng đánh địch. Lực lượng du kích các xã phối hợp với bộ đội giết giặc lập công. Suốt từ ngày 25 đến 28-11, địch tập trung bắn nhiều đạn pháo và cối vào Yên Thông, Bản Bắc (Điềm Mặc), Lục Rã (Phú Đình) và chân đèo De. Khi cánh quân thứ nhất vừa xuất binh, lập tức du kích xã Phúc Chu nổ súng chặn đánh. Chúng vội vàng rút sang Đồng Thịnh, lọt vào trận địa phục kích của bộ đội thuộc Tiểu đoàn 160 và du kích ở Khau Chan, Đồng Pén chặn đánh xuống. Đến Bình Yên, chúng sa vào trận địa phục kích của một trung đội thuộc Tiểu đoàn 101, có du kích phối hợp, 10 tên địch bị diệt, số còn lại vội rút chạy về Thẩm Lộc. Quân ta nhanh chóng vận động, phối hợp với lực lượng ở Thẩm Lộc đánh địch. Trận đánh diễn ra ác liệt hơn một giờ, thêm 10 tên địch nữa bị tiêu diệt.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #83 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2021, 11:14:17 am »


Thua trận, chúng tháo chạy sang Bản Cọ, bị một đại đội của Tiểu đoàn 131 cùng du kích chặn đánh, diệt một số tên. Cánh quân thứ hai cũng liên tiếp bị chặn đánh. Tại Trung Lương, đại đội du kích tập trung của huyện Định Hóa táo bạo phục kích ngay trên mặt đường, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều tên địch. Bị chặn đánh liên tiếp, kế hoạch hội quân của địch tại Bình Yên bị thất bại, chúng buộc phải càn qua Sơn Phú xuống Bình Thành. Tại Cầu Đá, Trung Lương, địch bị bộ đội chủ lực và du kích chặn đánh quyết liệt, chịu nhiều thiệt hại. Chiều 28-11-1947, quân Pháp ở Bình Thành chia làm 2 mũi, một mũi đánh thẳng vào Phú Đình nơi có cơ quan đầu não kháng chiến của ta, mũi thứ hai đánh vào Điềm Mặc, sau đó vượt đèo De sang Tuyên Quang. Với quyết tâm bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đơn vị bộ đội chủ lực và du kích Định Hóa đã chặn đánh quyết liệt toán quân địch càn vào Phú Đình, chặn đứng cuộc tấn công của chúng ở phía ngoài, diệt hơn 10 tên. Đây là trận đánh tiêu diệt không lớn nhưng có ý nghĩa to lớn đã bảo vệ được an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng. Tám cán bộ, chiến sĩ bộ đội chủ lực và du kích bị hy sinh. Cùng lúc đó, toán quân địch càn vào Điềm Mặc lọt vào trận địa phục kích của quân ta tại cánh đồng Kam Tra, gần 100 tên địch bị tiêu diệt. Cuộc càn bị chặn lại, quân địch không sang được Sơn Dương. Đến ngày 29-11-1947, chúng phải quay trở lại Bình Thành để rút chạy sang Phú Minh, Đại Từ, nhưng đến quán Ông Già địch bị Tiểu đoàn 103 chặn đánh tiêu diệt 12 tên và làm bị thương nhiều tên, buộc phải quay trở lại Quảng Nạp, Bình Thành. Lợi dụng quân địch đang hoang mang, đêm 29-11-1947 bộ đội và du kích Định Hóa tập kích vào vị trí đóng quân của chúng, diệt và làm bị thương nhiều tên. Sáng 30-11, địch phải cho máy bay hạ cánh xuống cánh đồng Quảng Nạp chở xác bọn lính chết và bị thương về Hà Nội. Để yểm trợ cho máy bay hạ cánh, địch dùng nhiều máy bay chiến đấu quần trên không trút bom xuống những nơi chúng nghi ngò có trận địa của ta. Quân du kích, lực lượng tự vệ chiến đấu và bộ đội chủ lực dùng súng bộ binh đánh trả quyết liệt, bắn rơi 1 máy bay B.24 tại cánh đồng Chợ Chu. Ngày 3-12-1947, địch tổ chức một cuộc hành quân càn quét vào Yên Thông, thực hiện nghi binh để tìm đường rút chạy sang Phú Minh, Đại Từ. Một tiểu đội bộ đội và 7 du kích xã Binh Thành đã tổ chức chặn đánh, diệt 15 tên. Đến ngày 6-12-1947, toàn bộ quân Pháp đã rút chạy khỏi Định Hoá.


Cuộc chiến đấu của quân và dân Định Hóa góp phần xứng đáng cùng quân dân Việt Bắc đánh bại cuộc tiến công chiến lược của thực dân Pháp, làm phá sản chủ trương "đánh nhanh thắng nhanh” của chúng. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Định Hóa đã làm tròn nhiệm vụ góp phần bảo vệ an toàn tuyệt đối cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ và cơ sở kháng chiến đóng trên địa bàn.


Trong 9 năm kháng chiến trường kỳ của dân tộc, nhân dân Định Hóa không những hăng hái tham gia cách mạng, tổ chức xây dựng lực lượng dân quân du kích, bộ đội địa phương, phối hợp cùng bộ đội chủ lực chiến đấu bảo vệ quê hương, bảo vệ an toàn tuyệt đối lãnh tụ và các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, quân đội, mà còn góp nhiều sức người, sức của chi viện cho các mặt trận: 3.000 thanh niên tham gia bộ đội chủ lực, hàng vạn lượt người đi dân công. Trong phong trào "hũ gạo nuôi quân", "mùa Đông binh sĩ”, Định Hóa đã góp được trên 60 tấn gạo, 300 tấn thóc, 30 tấn thực phẩm và đã trực tiếp đưa ra trận tuyến. Chỉ riêng năm 1953, hơn 5.951 lượt người được huy động phục vụ tại địa phương và đi dân công hoả tuyến. Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, huyện Định Hóa đã có 675 cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu, ngoài ra còn cung cấp cho mặt trận 36 tấn lương thực, 20 tấn thịt trâu, bò, 1 tấn thịt lợn. Tổng kết chiến dịch, đoàn dân công Định Hóa được Hội đồng Cung cấp Trung ương tặng cò danh dự và được Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba.


Tuy là một huyện miền núi với nền kinh tế tự cung tự cấp, nhưng trong 9 năm kháng chiến, nhân dân các dân tộc huyện Định Hóa đã đóng góp cho kháng chiến hàng ngàn tấn thóc và ủng hộ các cơ quan Trung ương hàng vạn tàu lá cọ, hàng vạn tấn củi, giang, nứa cho xưởng quân giới để sản xuất vũ khí, cho nhà máy sản xuất giấy in tiền, hàng vạn cây tre, gỗ để làm nhà cho các cơ quan. Nhiều hộ gia đình đã nhận chăm sóc, nuôi dưỡng thương binh, nhường nhà cho bộ đội ở... Trong phong trào "đỡ đầu địa phương quân", Định Hóa đã đóng góp được 52 mẫu ruộng, 10 con trâu để tăng gia sản xuất, 380.000 đồng để mua sắm vũ khí.


Những đóng góp của quân và dân Định Hóa trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, so với cả nước tuy còn nhỏ bé, nhưng trong điều kiện của một huyện miền núi, dân cư thưa thớt, kinh tế tự túc, tự cấp thì mới thấy được những đóng góp, hy sinh quả là to lớn cả về sức người, sức của góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của cả dân tộc...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #84 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2021, 11:17:51 am »

VÕ NHAI TRONG CHIẾN THẮNG VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Trung tá DƯƠNG ĐÌNH CƯỜNG
Trưởng ban KHCN, TT, MT, nghiên cứu biên soạn lịch sử, tổng kết chiến tranh, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên


Võ Nhai là một huyện miền núi nằm ở vùng Đông Bắc của tỉnh Thái Nguyên, có diện tích tự nhiên là 843,5km2. Địa hình huyện Võ Nhai chủ yếu là núi đất, núi đá vôi và rừng già rậm rạp, xen kẽ các thửa ruộng nhỏ, tạo nên thế rất hiểm trở. Trong lòng các dãy núi đá vôi ở Võ Nhai có nhiều hang, động rộng, ăn sâu vào lòng núi, rất thuận tiện cho việc xây dựng các kho dự trữ hoặc làm nơi trú quân. Nhân dân các dân tộc huyện Võ Nhai từ xa xưa đã vốn có truyền thống yêu nước và truyền thống đấu tranh kiên cường, anh dũng chống giặc ngoại xâm, chống cường quyền, áp bức. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, truyền thống quý báu đó đã được nhân dân Võ Nhai phát huy cao độ.


Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, cùng với Đại Từ, Võ Nhai là nơi có tổ chức cơ sở Đảng ra đời sớm nhất tỉnh Thái Nguyên và là một trong hai căn cứ địa cách mạng quan trọng nhất của Đảng. Võ Nhai là nơi ra đời, chiến đấu và trưởng thành của Đội Cứu quốc quân thứ II - một trong những đơn vị tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ, từ Võ Nhai, phong trào yêu nước và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng đã lan nhanh sang các huyện Đồng Hỷ, Đại Từ, Định Hoá, Phú Lương của tỉnh Thái Nguyên, Yên Thế của tỉnh Bắc Giang, Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang và Bắc Sơn của tỉnh Lạng Sơn. Trong Cách mạng Tháng Tám 1945, Võ Nhai cũng là nơi giành và thành lập chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân cấp huyện sớm nhất của tỉnh Thái Nguyên.


Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Võ Nhai là huyện có phong trào kháng chiến phát triển mạnh, có các tổ chức cơ sở Đảng và chính quyền, cơ quan, đoàn thể các cấp vững vàng, có lực lượng dân quân, du kích đông đảo. Với đầy đủ các yếu tố tự nhiên và xã hội thuận lợi đó, huyện Võ Nhai đã được Đội công tác đặc biệt của Trung ương Đảng và Chính phủ chọn làm một trong những huyện An toàn khu trong Căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.


Đội công tác đặc biệt của Trung ương Đảng, Chính phủ do các đồng chí Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng dẫn đầu, đã lên Căn cứ địa Việt Bắc chọn ATK - nơi ở và làm việc của các cơ quan đầu não kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng, Chính phủ, quân đội và các cơ quan, đoàn thể. Huyện Võ Nhai đã vinh dự cùng với các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương (thuộc tỉnh Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (thuộc tỉnh Tuyên Quang), Chợ Đồn (thuộc tỉnh Bắc Kạn) được Đội công tác đặc biệt của Trung ương Đảng và Chính phủ chọn làm ATK.


Trong chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947, ngay sau khi thực dân Pháp cho quân mở cuộc tập kích đường không, nhảy dù đánh chiếm thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới và huyện lỵ Chợ Đồn, phối hợp với hai cánh quân theo hai đường bộ và thủy tạo thành hai gọng kìm từ phía Đông và phía Tây bao vây, siết chặt Căn cứ địa Việt Bắc, từ ngày 15-10-1947, các cơ quan đầu não kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ và quân đội: Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Thị Thập, Võ Nguyên Giáp... đã chuyển từ ATK Định Hóa sang ATK Võ Nhai. Chủ tịch Hồ Chí Minh và cơ quan của Người chuyển từ Khau Tý (Điềm Mặc) lên Khuôn Đào (một bản rẻo cao của người Dao), sau đó được đồng chí Tân Hồng (Chu Văn Tấn) - người xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, lúc đó là Chỉ huy trưởng Chiến khu Việt Bắc đón về ở và làm việc tại làng Vang, xã Liên Minh, thuộc ATK Võ Nhai. Các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ cũng về ở và làm việc tại xã Tràng Xá. Bộ phận A Bộ Tổng Tham mưu và Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp chuyển về ở xã Dân Tiến. Hầu hết các ngõ, xóm ở các xã Tràng Xá, Liên Minh, Dân Tiến thuộc ATK Võ Nhai đều có các cơ quan của Trung ương và bộ đội ta ở.


Cũng như ở ATK Định Hoá, nhân dân các dân tộc vùng ATK Võ Nhai đã vượt mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn... nhường nhà, góp công, góp của xây dựng nơi ăn, ở và làm việc; cung cấp lương thực, thực phẩm cho các cơ quan đầu não kháng chiến của Đảng, Chính phủ và quân đội.


Dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Mông Phúc Quyền - Huyện đội trưởng Huyện đội dân quân Võ Nhai, lực lượng dân quân, tự vệ Võ Nhai đã phối hợp với bộ đội chủ lực làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác, giữ gìn trật tự, trị an ở địa phương và bảo vệ các cơ quan Trung ương.


Thực hiện Quyết định ngày 23-10-1947 của Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp, các đồng chí Lê Dục Tôn, Triệu Khánh Phương, Hà Châm (người Võ Nhai, nguyên là những cán bộ Cứu quốc quân II năm xưa) đã hăng hái gia nhập và chỉ huy Đội Bắc Sơn (gồm 3 trung đội của 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Lạng Sơn) làm nhiệm vụ tổ chức, phối hợp mọi lực lượng bộ đội, dân quân, tự vệ để bảo vệ các cơ quan Trung ương và giữ gìn trật tự, trị an cho nhân dân. Từ giữa tháng 11-1947, "thấy rõ triệu chứng địch sắp chuyển hướng cuộc hành binh từ tây bắc xuống đông nam Căn cứ địa, để phối hợp với cánh quân từ Bắc Kạn xuống Thái Nguyên, có thể địch sẽ ném quân dù xuống Đại Từ, Võ Nhai và thị xã Thái Nguyên", các cơ quan đầu não kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Chính phủ đã quyết định di chuyển từ ATK Võ Nhai trỏ về ATK Định Hoá.


Ngày 17-11-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cơ quan của Người đã chuyển từ làng Vang, xã Liên Minh (Võ Nhai) về đứng chân tại xã Phú Đình (Định Hoá).


Dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Lê Dục Tôn, cán bộ, chiến sĩ Đội Bắc Sơn và dân quân, tự vệ Võ Nhai đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ và dẫn đường đưa đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh cùng các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thị Thập... di chuyển theo đường mòn từ Mỏ Mủng (Dân Tiến) qua Tràng Xá, Lâu Hạ (Liên Minh), đèo Nhâu (Văn Hán - Đồng Hỷ), La Hiên, Lịch Sơn (Võ Nhai), Động Đạt (Phú Lương) sang Phú Minh (Đại Từ) giao cho đơn vị bạn đón về xã Phú Đình thuộc ATK Định Hóa an toàn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #85 vào lúc: 01 Tháng Tư, 2021, 11:18:42 am »


Trong quá trình bảo vệ và dẫn đoàn cán bộ Trung ương di chuyển từ ATK Võ Nhai sang ATK Định Hoá, lực lượng vũ trang Võ Nhai đã cử 12 dân quân trẻ, khoẻ thay nhau cáng các cụ nhân sĩ yêu nước Bùi Bằng Đoàn, Vi Văn Định và giúp đoàn vận chuyển tài liệu, hành lý và đi trước dẫn đường.


Sau một tháng tung quân lên Việt Bắc, cuộc hành binh Lê-a (bước 1 của cuộc tấn công Việt Bắc Thu - Đông 1947) của giặc Pháp cơ bản bị thất bại. Phán đoán lực lượng bộ đội chủ lực của ta có từ 20 đến 25 tiểu đoàn đóng ở vùng Định Hoá, Đại Từ, Võ Nhai (Thái Nguyên), Yên Thế (Bắc Giang), lưu vực sông Phó Đáy và phía tây dãy Tam Đảo; các cơ quan đầu não kháng chiến của ta đóng ở vùng Võ Nhai (Thái Nguyên), Bộ chỉ huy quân Pháp quyết định mở cuộc hành binh Xanh-tuya (bước 2 của cuộc tấn công Việt Bắc Thu - Đông 1947) bao vây, càn quét khu vực tứ giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng Thương rộng hơn 8.000km2, nhằm tiếp tục "lùng bắt kỳ được cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bằng được chủ lực Việt Minh, phá nát căn cứ địa”.


Đêm 24-11-1947, khi đại bộ phận các cơ quan đầu não kháng chiến của ta đã di chuyển vào vùng Phú Đình, sát chân núi Hồng (thuộc ATK Định Hoá), thì cũng là lúc khoảng 1.500 tên địch từ thị trấn Chợ Mới (Bắc Kạn) theo quốc lộ 3 xuống km 31, ngược lên đánh chiếm vùng Quán Vuông, Chợ Chu (Định Hoá). Lúc đó, Bộ phận A của Bộ Tổng Tham mưu đang trên đường di chuyển qua Quảng Nạp vào Lục Giã (Phú Đình - Định Hoá), chỉ cách khu vực có chiến sự 10km đường chim bay.


Ngày 26-11-1947, từ 9 giờ 45 phút đến 11 giờ, Pháp huy động 32 máy bay (gồm 11 JU-52 và 12 chiếc DaK) ném bom, bắn phá và thả 1 tiểu đoàn tăng cường với một bộ phận quân dù xuống đánh chiếm thị trấn La Hiên. Đầu giờ buổi chiều, chúng huy động tiếp 14 máy bay (gồm 8 JU.52 và 6 DaK) ném bom, bắn phá và thả phân đội lính dù xuống đánh chiếm Tràng Xá. Nhiệm vụ của quân dù là tiêu diệt mọi lực lượng kháng chiến có trong vùng và thu thập các tin tức có liên quan đến các cá nhân Ban lãnh đạo của Việt Minh.


Tại thời điểm đó (26-11), một bộ phận nhỏ của Ban quản lý thuộc Bộ Tổng Tham mưu vẫn còn ở các khu vực Tràng Xá, bản La Chế xã Dân Tiến (Võ Nhai).


Ngay khi quân Pháp nhảy dù đánh chiếm thị trấn La Hiên, trung đội du kích tập trung huyện Võ Nhai đã phối hợp cùng với một đơn vị bộ đội chủ lực kiên cường đánh trả. Nhưng do tương quan lực lượng không có lợi cho ta, nên du kích và bộ đội phải rút vào rừng. Một số du kích bị địch bao vây, phải rút xuống hầm bí mật. Chiến sĩ du kích Lý Viết Va khi rút xuống hầm bí mật, bị địch phát hiện được, ném lựu đạn theo. Lựu đạn chưa nổ, Lý Viết Va bình tĩnh nhặt, ném trở lại phía địch, diệt 4 tên, nâng số quân Pháp bị ta tiêu diệt trong trận này lên 8 tên. Lợi dụng lúc lựu đạn nổ, quân Pháp phải nằm rạp cả xuống, Lý Viết Va bật dậy, lao ra khỏi hầm, chạy vào rừng mang theo súng của mình và cả súng của một đồng đội đã hy sinh. Bị thương nặng, Lý Viết Va vẫn cố gắng tìm về đơn vị, "nêu tấm gương sáng cho toàn Chiến khu về tinh thần chiến đấu bảo toàn vũ khí".


Tại Tràng Xá, quân Pháp vừa nhảy dù xuống chạm đất đã bị du kích huyện Võ Nhai và bộ đội chủ lực chặn đánh. Trong một trận đánh giáp lá cà, một du kích đã dùng lưỡi lê đâm chết một tên Pháp rồi rút vào rừng, mang theo súng của một chiến sĩ bộ đội đã hy sinh trong trận đó.


Sau khi nhảy dù đánh chiếm thị trấn La Hiên, quân Pháp nhanh chóng toả ra chiếm đóng khu phố cạnh đồn cũ, đặt 4 vọng gác chặn đường đi 4 phía Cúc Đường, Văn Hán, Đình Cả và thị xã Thái Nguyên; đồng thời cho quân lùng sục, càn quét các vùng Cúc Dinh, La Hoá, Đèo Khế. Ở Tràng Xá, quân Pháp toả ra lùng sục, đốt phá các làng Sơn Giữa, Đồng Rô, Cầu Nhỏ; đặt các vọng gác trên các đường đi Bình Long, Phương Giao, Đình Cả.


Du kích Tràng Xá đã phối hợp với bộ đội chủ lực tập kích vào hai vị trí trú quân của địch, diệt 8 tên, làm bị thương 29 tên; chặn mũi tấn công, càn quét của địch vào làng Trang, La Chế (Dân Tiến), bảo vệ an toàn cho bộ phận quản lý của Bộ Tổng Tham mưu rút về ATK Định Hóa (đêm 26-11). Tiểu đội du kích Tràng Xá phối hợp với bộ đội chủ lực phục kích 70 tên địch từ Tràng Xá càn vào Bình Long, diệt 4 tên, bắn bị thương 4 tên khác. Buổi tối cùng ngày, 4 du kích Tràng Xá cùng với một tiểu đội bộ đội chủ lực tập kích vào một vị trí trú quân của địch, diệt 1 tên quan ba người Pháp, 1 tên Việt gian và làm bị thương 8 tên khác (27-11).


Trong các ngày tiếp sau, dân quân du kích Võ Nhai đã liên tục phối hợp cùng bộ đội chủ lực tổ chức phục kích, tập kích quấy rối địch ở La Hiên và Tràng Xá, diệt và làm bị thương hàng chục tên, khiến cho địch suốt ngày đêm phải hoang mang chống đỡ. Du kích Võ Nhai chặn đánh địch ở đèo Bụt, Vực Han diệt 5 tên, bắn bị thương 1 tên. Tại đèo Giai Kiết, Trung đội 22, thuộc Đại đội 8 Trung đoàn 147 bộ đội chủ lực chặn đánh 200 quân địch từ La Hiên sang, diệt 23 tên, bắn bị thương nhiều tên khác (1-12).


Trong hai ngày 4 và 5-12-1947, du kích Võ Nhai và bộ đội chủ lực tiếp tục chặn đánh các cuộc hành quân, càn quét của địch từ La Hiên vào Vũ Chấn, Cúc Đường, làng Phang, làng Vũ, tiêu diệt và làm bị thương nhiều tên. 


Sau hơn một tuần tiến công, bao vây, càn quét vùng ATK Võ Nhai không những không tiêu diệt được bộ đội chủ lực và không lùng bắt được lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan đầu não kháng chiến của Việt Minh, mà còn liên tục bị lực lượng của ta chặn đánh, gây nhiều thương vong, quân địch từ thê tiến công lâm vào thế bị động chống đỡ. Trước tình thế đó, từ ngày 7-12-1947, quân Pháp từ Võ Nhai bắt đầu rút quân qua Đồng Hỷ về thị xã Thái Nguyên. Ngày 8-12-1947, tên lính Pháp cuối cùng ở Võ Nhai đã rút về Đồng Hỷ.


Trực tiếp đương đầu với cuộc hành binh Xanh-tuya của địch, nhân dân các dân tộc và các lực lượng vũ trang vùng ATK Võ Nhai vừa độc lập tác chiến, vừa phối hợp với bộ đội chủ lực đánh 23 trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 159 tên địch, góp phần quan trọng cùng với quân, dân các dân tộc trong tỉnh và quân dân Việt Bắc đánh bại cuộc tiến công của địch lên Việt Bắc Thu - Đông 1947, bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan đầu não kháng chiến.


Sau chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947, nhân dân và lực lượng vũ trang ATK Võ Nhai tiếp tục hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ: xây dựng và bảo vệ hậu phương, góp sức người, sức của chi viện cho các chiến trường.


Với những đóng góp đặc biệt xuất sắc vào công cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc, lực lượng vũ trang và nhân dân huyện Võ Nhai; lực lượng vũ trang và nhân dân 5 xã La Hiên, Tràng Xá, Phú Thượng, Lâu Thượng, Liên Minh (thuộc huyện Võ Nhai) đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" thời kỳ chống Pháp. 
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #86 vào lúc: 05 Tháng Tư, 2021, 10:52:12 am »

TUYÊN QUANG TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


HOÀNG BÌNH QUÂN
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Tuyên Quang


1. Tuyên Quang - một tỉnh trung tâm của căn cứ địa Việt Bắc.

Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, có diện tích tự nhiên là 5.860km2; phía Bắc giáp tỉnh Hà Giang; phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc; phía Đông giáp Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên; phía Tây giáp Yên Bái. Dân số Tuyên Quang trên 71,9 vạn người, gồm 22 dân tộc anh em. Toàn tỉnh có 5 huyện và 1 thị xã; 140 xã, phường, thị trấn, 2.085 thôn, bản. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Tuyên Quang vinh dự được chọn làm Thủ đô Khu giải phóng, căn cứ địa trung tâm; nơi lãnh tụ Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng ở, làm việc, lãnh đạo cách mạng cả nước.


Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ trong điều kiện tiềm lực kinh tế và quân sự của ta còn nhiều hạn chế. Ngược lại, thực dân Pháp có đội quân viễn chinh nhà nghề, có nhiều kinh nghiệm đi xâm lược, được trang bị vũ khí hiện đại, nước Pháp có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Trong điều kiện so sánh lực lượng, vật chất giữa ta và địch hết sức chênh lệch, để kháng chiến lâu dài, vấn đề cơ bản đối với ta là phải bảo tồn và phát triển lực lượng kháng chiến, phải xây dựng được nển kinh tế có khả năng tự cấp, tự túc. Do đó, điều kiện đặc biệt quan trọng là phải xây dựng được những khu căn cứ vững chắc, an toàn.


Trong bối cảnh đó, Tuyên Quang là một trong những tỉnh được chọn làm căn cứ địa trung tâm của cuộc kháng chiến chống Pháp.


Trước hết, về địa hình, giao thông, Tuyên Quang là nơi "tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ". Địa hình Tuyên Quang tương đối phức tạp, phần lớn là đồi núi; chịu sự chi phối bởi các dãy núi cao như Tam Đảo ở phía Nam; Cao Khánh, Ba Xứ ở phía Bắc... và nhiều đỉnh núi cao như Chặm Chu (1.587m), núi Là (942m). Núi đồi Tuyên Quang được bao phủ bởi thảm thực vật nhiệt đới khá dày và phong phú. Tại đây có nhiều thung lũng, hang động có thể xây dựng các căn cứ du kích; đặt các cơ sở kinh tế, quân sự, tiện lợi cho cả việc tấn công lẫn phòng thủ. Tỉnh có 5 con sông lớn chảy qua: sông Lô, sông Chảy, sông Gâm, sông Phó Đáy, sông Năng và hàng trăm suối, ngòi, lạch tạo thành một mạng lưới giao thông đường thủy dày đặc. Cùng với hệ thống sông suối, núi đồi trùng điệp và các thung lũng sâu, hệ thống giao thông khá thuận lợi: Đường số 2 là con đường huyết mạch nối Tuyên Quang với tỉnh biên giới Hà Giang và các tỉnh miền xuôi. Bên cạnh đó, từ Tuyên Quang có thể dễ dàng đi các tỉnh Thái Nguyên, Yên Bái, Vĩnh Yên... qua các tuyến đường liên tỉnh. Ngoài ra, còn có nhiều con đường nội địa nối liền các huyện, xã, các khu dân cư, các cơ sở kinh tế - xã hội. Nhìn một cách tổng thể, vị thế và điều kiện tự nhiên của Tuyên Quang có đầy đủ các yếu tố cần thiết của một căn cứ chiến lược, cơ động, vững chắc trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.


Thứ hai, Tuyên Quang là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hoá. Trong lịch sử, Tuyên Quang đã từng được coi là trấn biên phía Bắc của kinh thành Thăng Long, có vai trò và đóng góp quan trọng trong các cuộc đấu tranh chống xâm lược. Nhân dân các dân tộc Tuyên Quang có tinh thần yêu nước sâu sắc, đoàn kết trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm cũng như trong lao động, sản xuất xây dựng quê hương, đất nước.


Thứ ba, Tuyên Quang là tỉnh có đất đai màu mỡ vào loại bậc nhất các tỉnh miền núi phía Bắc; khí hậu Tuyên Quang thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và sức khoẻ con người. Với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu, lao động sẵn có, Tuyên Quang là nơi có nguồn lương thực, thực phẩm đủ bảo đảm cho những đội quân du kích, các cơ quan đầu não cách mạng trong một thời gian nhất định khi lâm thời bị địch cắt đứt các nguồn tiếp tế1 (Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1947), Tuyên Quang có dân số trên 10 vạn người, diện tích sản xuất lương thực 35 ngàn mẫu, sản lượng lương thực 28 ngàn tấn; cơ bản ngăn chặn được nạn đói (tư liệu lưu trữ Tỉnh ủy Tuyên Quang)).


Thứ tư, và cũng là yếu tố hết sức quan trọng, quyết định, đó là nơi đây có phong trào cách mạng và cơ sở chính trị vững chắc, từng là Thủ đô Khu giải phóng, trung tâm căn cứ địa của cách mạng cả nước. Chính tại đây, Bác Hồ đã cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi trong toàn quốc. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, với tầm nhìn chiến lược sáng suốt, trước khi về Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân công đồng chí Phạm Văn Đồng cùng một số cán bộ chủ chốt của Đảng ở lại Tân Trào một thời gian để tiếp tục xây dựng củng cố căn cứ địa vững chắc về mọi mặt và dự báo "Biết đâu chúng ta còn trở lại đây nhờ cậy đồng bào một lần nữa".


Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, cuối tháng 10-1946, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để chuẩn bị địa điểm xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Nhiều địa điểm thuộc các huyện: Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang), được chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ. Đầu năm 1947, đợt tổng di chuyển các cơ quan, cơ sở hậu cần, kinh tế, quân sự của Trung ương lên Tuyên Quang, lên Việt Bắc đã hoàn thành.


Ngày 2-4-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Làng Sảo, xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, Tuyên Quang. Đây là nơi ở và làm việc đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người trở lại Việt Bắc lãnh đạo toàn dân kháng chiến. Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở, làm việc tại hơn 20 địa điểm khác nhau trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.


Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng 11 bộ của Chính phủ và 65 ngành, đoàn thể, cơ quan, cơ sở kinh tế, quân sự... của Trung ương cũng đặt nơi ở, làm việc tại 111 điểm trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Suốt một dải từ Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá đến Na Hang, với thế núi, sông hiểm yếu, đã trở thành khu căn cứ an toàn của Trung ương trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.


Tại vùng ATK ở Tuyên Quang, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định và thông qua nhiều chủ trương, chính sách lớn về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao,... lãnh đạo toàn dân và toàn quân ta đẩy mạnh kháng chiến, kiến quốc đi đến thắng lợi. Tại Tuyên Quang đã diễn ra nhiều đại hội, hội nghị quan trọng: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng; Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II); Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt; Đại hội liên minh nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia; Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ Thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất; kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá I.


Tuyên Quang cùng với các tỉnh Việt Bắc được xây dựng vững chắc, toàn diện cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự... để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử giao phó. Đó là bảo vệ tuyệt đối an toàn Chủ tịch Hồ Chí Minh, các cơ quan Trung ương - đầu não của cuộc kháng chiến kiến quốc của cả nước; xây dựng, bảo vệ vững chắc căn cứ địa trọng yếu của cách mạng, nơi triển khai sớm nhất chế độ dân chủ mới; nơi mở rộng mốì quan hệ ngoại giao giữa Đảng, Chính phủ ta với các Đảng Cộng sản anh em, các nước xã hội chủ nghĩa và lực lượng tiến bộ trên thế giới; là niềm tin, là nguồn động viên to lớn, cổ vũ toàn quân, toàn dân ta bền gan kháng chiến cho đến thắng lợi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #87 vào lúc: 05 Tháng Tư, 2021, 10:54:01 am »

2. Tuyên Quang trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947

Thu - Đông năm 1947, thực dân Pháp huy động 12.000 quân tinh nhuệ, được trang bị đầy đủ vũ khí, phương tiện hiện đại, mở một cuộc tiến công lớn, thọc sâu vào hậu phương ta, đánh thẳng vào trung tâm Việt Bắc. Địch hình thành hai gọng kìm bao vây Việt Bắc từ phía Tây và phía Đông, với điểm hợp quân của 2 cánh quân là Đài Thị (cách huyện lỵ huyện Chiêm Hoá 12km về hướng Đông Bắc), hòng ngăn chặn sự liên lạc của ta với bên ngoài và tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta.


Thực hiện Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, chiến trường Việt Bắc đã hình thành 3 mặt trận: Mặt trận Đường số 3, Mặt trận đường số 4 và Mặt trận sông Lô - Đường số 2, nhằm bẻ gãy 2 gọng kìm của địch. Tuyên Quang là địa bàn trọng yếu của Mặt trận sông Lô - Đường số 2, là nơi đóng vai trò quyết định trong việc bẻ gãy gọng kìm phía Tây của quân Pháp, bảo vệ an toàn tuyệt đối căn cứ địa kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cơ quan Trung ương.


Trước khi địch mở cuộc tấn công lên Việt Bắc, thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh của Đảng, quân và dân Tuyên Quang đã có những chuẩn bị tích cực để bước vào kháng chiến, sẵn sàng đánh trả các cuộc tấn công của địch. Cơ sở Đảng đã được xây dựng ở tất cả các huyện, thị xã. Lực lượng vũ trang, chủ yếu là dân quân, du kích, phát triển mạnh. Tháng 4-1947, Tỉnh đội Tuyên Quang được thành lập. Một số đồn công an được xây dựng tại những nơi trọng yếu. Phong trào phòng gian, bảo mật phát triển sâu rộng. Mọi ngả đường vào vùng căn cứ địa đều được canh gác cẩn mật. Tỉnh có hàng vạn dân quân, du kích, trong đó sô có chất lượng, có khả năng chiến đấu khoảng trên 5.000 người. Ngoài lực lượng cảnh vệ của tỉnh, huyện, mỗi huyện có một trung đội du kích thoát ly, mỗi xã có một trung đội dân quân chiến đấu. Vũ khí, hậu cần của dân quân, du kích một phần nhỏ được trang bị, phần lớn do nhân dân quyên góp, hỗ trợ. Vừa giúp đỡ các cơ quan Trung ương di chuyển vào các địa điểm an toàn, quân và dân Tuyên Quang vừa thực hiện sơ tán "tiêu thổ kháng chiến"; huy động 307.000 ngày công để phá 41.018m2 nhà, 100 chiếc cầu lớn, nhỏ với tổng chiểu dài hơn 1.000m, 22km đường quốc lộ, 61km đường nội tỉnh. Trên các trục đường bộ, nhân dân đã đào hàng ngàn hô nhỏ, hố chống tăng, đắp ụ, chặt cây làm chướng ngại vật cản đường hành quân của địch. Trên sông Lô, ta xây được 2 kè cản tàu chiến, ca nô. Các bãi rộng đều được cắm chông để tiêu diệt địch nếu chúng nhảy dù, đổ bộ. Trung đoàn 112 (Trung đoàn Hà Tuyên) và một số đại đội độc lập của trên được lệnh trực tiếp tham gia chiến đấu trên mặt trận Tuyên Quang - Chiêm Hoá. Dân quân, du kích có nhiệm vụ dẫn đường, cùng bộ đội của Khu và bộ đội chủ lực tổ chức các trận phục kích tiêu diệt địch, bảo vệ dân, bảo vệ địa bàn, bảo vệ căn cứ địa. "Còn nước là còn nhà, mất nhà còn hơn mất nước", đó là quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của quân và dân Tuyên Quang.


Sau nhiều lần bị chặn đánh trên đường hành quân, ngày 13-10-1947, binh đoàn Com-muy-nan chiếm được thị xã Tuyên Quang, rải quân đóng chốt một số điểm cao, các vị trí quan trọng trong vùng ven thị xã, tập kết quân để theo đường thủy (sông Lô, sông Gâm) và đường bộ hành quân lên Chiêm Hoá hòng hội quân với binh đoàn Bô-phơ-rê từ Bắc Kạn sang. Cũng từ thị xã Tuyên Quang, quân Pháp theo Đường số 2 đánh xuống Đoan Hùng, theo đường 13A qua Bình Ca thọc vào càn quét vùng Sơn Dương. Sông Lô, sông Gâm, đường số 2, km 31 - Chiêm Hoá, Bình Ca - Sơn Dương trở thành các trục đường hành quân càn quét của quân Pháp, đồng thời là khu vực tác chiến cơ bản của bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương.


Nằm trong Mặt trận sông Lô - đường số 2 và cũng là địa bàn càn quét chủ yếu của gọng kìm phía Tây Việt Bắc của quân Pháp, nên chiến sự tại Tuyên Quang diễn ra khá dồn dập. Về cơ bản, có thể chia thành 3 giai đoạn ngắn. Giai đoạn 1 (13 đến cuối tháng 10-1947), từ thị xã Tuyên Quang, địch tấn công càn quét Chiêm Hoá và các vùng lân cận thị xã. Giai đoạn 2 (cuối tháng 10 đến 21-11-1947), địch rút lui từng phần từ Chiêm Hoá về Tuyên Quang, đồng thời tiếp tục các hoạt động càn quét về hướng Sơn Dương. Giai đoạn 3 (22-11 đến 15-12-1947) địch rút khỏi thị xã Tuyên Quang, tiến sâu vào Sơn Dương, đồng thời đưa quân tiếp viện lập gọng kìm càn quét vùng Sơn Dương - Thiện Kế, vùng tiếp giáp giữa núi Hồng và Tam Đảo, sau đó rút lui hoàn toàn khỏi Tuyên Quang.


Ở giai đoạn đầu, quân và dân Tuyên Quang đã phối hợp cùng bộ đội tổ chức các cuộc phục kích trên đường số 2, đường bộ đi Chiêm Hoá và trên sông Lô, sông Gâm, làm chậm bước hành quân của địch. Ngày 13-10-1947, ta phục kích bắn chìm tàu chiến địch ở bến phà Bình Ca. Trận Bình Ca đã mở đầu cho các chiến thắng khác của quân, dân ta trên Mặt trận sông Lô - đường số 2. Từ ngày 15-10 đến 22-10-1947, quân Pháp liên tục bị phục kích, vấp phải địa lôi ở km 5 đến km 7 đường Tuyên Quang - Hà Giang. Trận phục kích địa lôi của tự vệ thành Tuyên Quang tại km 7 (22-10-1947) đã tiêu diệt gần 100 tên, bẻ gãy cuộc hành quân của 1 tiểu đoàn Pháp. Cánh quân thủy hành quân theo sông Lô, sông Gâm lên Chiêm Hoá gặp nhiều khó khăn vì mắc cạn và bị phục kích. Tới ngày 20-10-1947, một toán quân lẻ của địch mới lên đến Đài Thị, song lại bị bộ đội và dân quân du kích địa phương đánh cầm chân. Trong khi đó, quân Pháp từ Bắc Kạn đánh sang Đài Thị, không thấy cánh quân phía Tây từ Tuyên Quang lên, nên đã rút lui. Kế hoạch hợp quân tại Đài Thị vào trung tuần tháng 10-1947 của quân Pháp đã không thực hiện được.


Không thực hiện được mục tiêu của kế hoạch hành quân, quân Pháp buộc phải bỏ Đầm Hồng, rút về Chiêm Hoá và tìm cách rút về Tuyên Quang. Ngày 1-11-1947, trên đường rút về Chiêm Hoá, cả 2 toán quân thủy, bộ của địch đều bị phục kích tại Vật Nhèo, gần 200 tên bị tiêu diệt, 2 tàu chiến và ca nô bị bắn chìm.


Đầu tháng 11-1947, theo đường bộ và đường sông, quân Pháp rút lui khỏi Chiêm Hoá về Tuyên Quang. Trung đoàn 112 cùng dân quân, du kích tiếp tục tổ chức các trận phục kích chặn đường rút lui của địch. Pháo binh được điều gấp từ Đoan Hùng lên đánh tàu địch trên sông Lô, sông Gâm. Ngày 5-11-1947, cánh quân bộ của địch lọt vào trận địa phục kích của ta tại cầu Cả (Yên Nguyên) và Đèo Gà (Hoà Phú) thuộc huyện Chiêm Hoá, hàng trăm tên địch bị tiêu diệt. Trong các ngày 6, 7 và 8-11, quân địch tiếp tục bị phục kích. Chúng bèn chia đội hình thành 2 bộ phận. Một bộ phận ra sông Gâm để rút về thị xã Tuyên Quang bằng ca nô, bị ta phục kích tại Khe Lau vào ngày 10-11-1947, bắn cháy, bắn chìm 3 tàu chiến và ca nô, tiêu diệt hơn 200 tên. Một bộ phận rút về theo đường số 2 bị bộ đội và du kích thoát ly của Hàm Yên phục kích tại km 21 đến km 24 (đường Tuyên Quang - Hà Giang) buộc chúng phải mở đường máu tắt qua Lăng Quán, theo dọc sông Lô rút về thị xã Tuyên Quang. Ngày 19-11-1947, toàn bộ quân Pháp từ Chiêm Hoá mới về đến được thị xã Tuyên Quang.


Trong khi cuộc hành quân của địch lên Chiêm Hoá bị ta bẻ gãy thì các cuộc hành quân xung quanh thị xã Tuyên Quang và tiến vào Sơn Dương của địch cũng liên tục bị chặn đánh. Sau khi đánh thắng trận đầu vào các ngày 12 và 13-10-1947, mở đầu cho chiến thắng sông Lô, bộ đội chủ lực, được sự hỗ trợ của du kích, tiếp tục chốt chặt con đường Bình Ca - Sơn Dương. Ngày 3-11-1947, gần 100 tên Pháp phải bỏ mạng khi chúng đổ bộ xuống Bình Ca hòng tiến vào Sơn Dương. Cùng ngày, dân quân du kích gài thủy lôi, địa lôi tại bến đò Văn Yên (Thắng Quân - Yên Sơn), tiêu diệt hàng chục tên Pháp, làm hư hỏng nặng 2 ca nô của địch.


Việc bẻ gẫy 2 gọng kìm phía Đông và phía Tây của quân Pháp làm cho chúng không hợp điểm được ở Đài Thị theo dự kiến, là chiến thắng có ý nghĩa chiến lược của ta, buộc quân Pháp phải chuyển qua bước 2 của chiến dịch, mà thực chất là cuộc rút lui có kế hoạch khỏi Việt Bắc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #88 vào lúc: 05 Tháng Tư, 2021, 10:54:42 am »

Tuy nhiên, địch vẫn tiếp tục đưa quân tiếp viện từ đồng bằng Bắc Bộ lên để dốc sức càn quét vùng tứ giác Tuyên Quang - Bắc Kạn - Thái Nguyên - Phủ Lạng Thương trong quá trình rút quân. Ở Tuyên Quang, chiến sự bắt đầu dồn về trục đường Bình Ca - Sơn Dương - Thiện Kê và khu vực Sơn Dương, vùng giáp ranh giữa núi Hồng - Tam Đảo. Quân ta tiếp tục đánh địch trên đường số 2, sông Lô, Bình Ca, Sơn Dương, Đèo Khế, Thiện Kế, Liễn Sơn, Vĩnh Yên. Lực lượng vũ trang Tuyên Quang tiếp tục tham gia truy kích địch, đưa đường cho bộ đội chủ lực tổ chức các trận phục kích, tiêu diệt địch trên đường rút chạy.


Rạng sáng ngày 22-11-1947, quân Pháp chia làm 3 toán rút khỏi thị xã Tuyên Quang theo 3 đường: theo đường số 2 xuống Đoan Hùng, theo sông Lô và theo đường Bình Ca - Sơn Dương. Toán rút theo đường số 2 tới km 5 (đường Tuyên Quang - Hà Nội) bị bộ đội phục kích bằng địa lôi, tiêu diệt một số tên. Chúng cho một đơn vị rút qua chợ Ruộc ra sông Lô, cũng bị vấp địa lôi, chết 30 tên. Ngày 23-11, toán quân từ Bình Ca kéo vào Sơn Dương cũng bị chặn đánh, thiệt hại gần một đại đội. Cánh quân rút theo sông Lô bị pháo kích ở Lã Hoàng (Phủ Đoan), Phan Lương (Sơn Dương).


Đồng thời với việc rút quân khỏi thị xã Tuyên Quang và khu vực sông Lô, Pháp tập trung khoảng 600 quân tại Việt Trì để tiếp viện cho các mũi rút quân của chúng. Cuối tháng 11, một tiểu đoàn địch từ Phúc Yên hành quân qua Vĩnh Yên rồi lên Thiện Kế (Sơn Dương) hòng đánh quét, hợp thành một mũi dùi mạnh để lập hai gọng kìm Tuyên Quang - Phủ Đoan và Bình Ca - Thiện Kế, nhằm càn quét khu vực Sơn Dương, đồng thời yểm trợ cho cánh quân từ Bình Ca rút về theo đường Sơn Dương - Thiện Kế. Cánh quân này cũng bị pháo kích, phục kích, song chúng vẫn tới được Thiện Kế vào đầu tháng 12-1947.


Quân Pháp ở thị xã Tuyên Quang qua Bình Ca, kéo vào Sơn Dương nhưng không dám tấn công sâu vào khu vực Tân Trào. Tại Sơn Dương, chúng bị phục kích ở Kỳ Lâm, Bắc Lũng.


Ngày 2-12-1947, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Sơn Dương. Một toán theo đường Thiện Kế về Vĩnh Yên, toán khác định vượt qua Đèo Khế sang Đại Từ liên lạc với cánh quân Bô-phơ-rê, nhưng bị phục kích tại Đèo Khế, buộc phải quay lại nhập vào cánh quân rút theo đường Thiện Kế - Vĩnh Ninh - Đạo Trù - Vĩnh Yên. Ngày 15-12, quân Pháp đã rút khỏi Sơn Dương - Tuyên Quang. Gọng kìm sông Lô của quân Pháp bị bẻ gẫy hoàn toàn.


Ngày 19-12-1947, chiến dịch Việt Bắc - chiến dịch phản công quy mô lớn đầu tiên của ta trong kháng chiến thực dân Pháp kết thúc kết thúc thắng lợi. Trong chiến dịch này, quân, dân ta tiêu diệt hàng nghìn tên, làm bị thương hàng nghìn tên, bắt sống hàng trăm tên, bắn rơi 18 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 51 ca nô và tàu chiến, phá hủy 255 xe cơ giới và hơn 100 khẩu pháo,... Riêng quân, dân Tuyên Quang đã tham gia chiến đấu 48 trận, trong đó có 30 trận đánh độc lập, 18 trận hiệp đồng tác chiến với bộ đội chủ lực, bắn chìm, bắn cháy 10 ca nô, tàu chiến, góp phần tiêu diệt hơn 1.200 tên địch trên Mặt trận sông Lô. Binh lính Pháp đã kinh hoàng gọi Tuyên Quang là "nghĩa địa khổng lồ". Bình Ca, km số 7, Đầm Hồng, cầu Cả, Khe Lau... trở thành mồ chôn giặc Pháp, là nỗi kinh sợ của quân xâm lược, là niềm tự hào chiến thắng của quân và dân Tuyên Quang.


Tác chiến trên địa bàn trọng yếu, quân, dân Tuyên Quang và các đơn vị bộ đội chủ lực đã có những trận đánh xuất sắc, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, góp phần quan trọng bẻ gãy gọng kìm phía Tây của quân Pháp, làm nên thắng lợi oanh liệt của chiến dịch Việt Bắc, một chiến dịch lớn đầu tiên của dân tộc ta sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, làm thất bại chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp, đập tan âm mưu của địch; bảo vệ an toàn căn cứ địa kháng chiến, bảo vệ tuyệt đối an toàn Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cơ quan đầu não kháng chiến.


Thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 nói chung, chiến thắng của quân, dân Tuyên Quang trên Mặt trận sông Lô - đường số 2 nói riêng, có ý nghĩa cực kỳ to lớn, khẳng định một chân lý: với lòng yêu nước nồng nàn, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng; với ý chí quyết chiến, quyết thắng; với sự đoàn kết thống nhất cao độ; với chiến lược, chiến thuật đúng đắn, thì dù với vũ khí thô sơ, kinh nghiệm còn hạn chế, chúng ta nhất định sẽ chiến thắng quân thù, cho dù đó là một đội quân nhà nghề, được trang bị vũ khí và phương tiện hiện đại. Đặc biệt, những chiến công đầu tại Bình Ca, Khe Lau, km số 7, v.v..., đã tạo dựng và củng cố vững chắc niềm tin vào sự tất thắng của ta; động viên, khích lệ quân và dân ta trên khắp các chiến trường trong Thu - Đông 1947 và trong cả cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).


Những chiến thắng trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 nói chung và các trận đánh trên Mặt trận sông Lô - đường số 2 nói riêng, là thực tiễn sinh động về sự tiếp tục kế thừa và phát huy lên một trình độ mới nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc ta. Dựa vào thế hiểm yếu của núi rừng, sông suối, với phương châm "lấy đoản binh thắng trường trận", "lấy ít đánh nhiều", "lấy yếu chống mạnh", dùng vũ khí địch đánh địch, đánh địch bằng mọi loại vũ khí có trong tay, lực lượng vũ trang của tỉnh đã vận dụng chiến thuật du kích "cách đánh chim sẻ", đánh địch cả khi chúng hành quân lẫn lúc chúng dừng chân nghỉ ngơi, đánh địch cả trên sông lẫn trên bộ, cả khi chúng tấn công, khi chúng rút chạy; chủ động phòng tránh có hiệu quả đòn tiến công hoả lực của địch; tìm địch mà đánh, chủ động đánh địch từ xa tới gần; tiến công địch trên mọi mặt trận; tích cực tiêu hao, tiêu diệt địch đi đôi với bảo vệ vững chắc mục tiêu của ta; giành và giữ quyền tự do hành động về mình; đẩy quân địch từ thế chủ động rơi vào thế bị động. Với tinh thần chủ động, tích cực tiến công; với cách đánh linh hoạt, uyển chuyển; với lòng quả cảm và trí thông minh, sáng tạo tuyệt vời, quân và dân Tuyên Quang đã quyết tâm chiến đấu và chiến thắng, góp phần cùng quân, dân Việt Bắc buộc thực dân Pháp phải chuyển sang chiến lược đánh lâu dài, đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang giai đoạn mới, giai đoạn chuẩn bị phản công, tiến tới tổng phản công.


Trải qua trận "quyết đấu" đầu tiên, Đảng bộ, quân và dân Tuyên Quang đã trưởng thành về mọi mặt. Trong toàn chiến dịch, tỉnh Tuyên Quang đã làm tốt công tác tiêu thổ kháng chiến, chuẩn bị trận địa chiến đấu, cung cấp hậu cần, tải thương, chuyển đạn, liên lạc phục vụ chiến đấu; đồng thời làm tốt công tác phòng gian bảo mật, giữ vững bí mật căn cứ địa kháng chiến. Lực lượng vũ trang của tỉnh thực hiện hiệp đồng tác chiến, sáng tạo những cách đánh, đáp ứng yêu cầu và thực tế chiến trường. Sau chiến dịch, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và lực lượng dân quân du kích của tỉnh trưởng thành về nhiều phương diện, và được bổ sung thêm nhiều vũ khí, kinh nghiệm chiến đấu. Cơ sở chính trị, kinh tế, quân sự của tỉnh được tăng cường, đặc biệt là tinh thần và khả năng của nhân dân trong tỉnh về bảo vệ an toàn bí mật căn cứ địa, sẵn sàng đối phó với các cuộc tấn công, phá hoại của địch trong suốt cuộc kháng chiến.


Từ chiến thắng của quân và dân ta trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, có thể rút ra mấy vấn đề như sau:

Thứ nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, linh hoạt của các cấp ủy Đảng, các cấp chỉ huy quân sự là yếu tố đầu tiên, quan trọng bảo đảm chiến thắng của quân, dân ta.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa phòng thủ với tấn công, trong phòng thủ có tấn công, lấy tấn công đề phòng thủ, là kinh nghiệm chiến đấu và chiến thắng quân địch.

Thứ ba, lòng dân cách mạng, quyết tâm chiến đấu của lực lượng vũ trang kết hợp với việc sử dụng đúng địa thế, địa hình, chọn đúng thời cơ, sẽ nhân sức mạnh của ta lên gấp nhiều lần.

Thứ tư, bảo đảm hậu cần tại chỗ trong chiến tranh, nhất là khi lực lượng, cơ sở vật chất của ta còn yếu là yếu tố bảo đảm sức chiến đấu, chiến thắng và phát triển của lực lượng kháng chiến.

Đó là những kinh nghiệm quý báu còn nguyên giá trị đối với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước hôm nay.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #89 vào lúc: 05 Tháng Tư, 2021, 10:55:16 am »

3. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang phát huy tinh thần  chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947

Những bài học lịch sử rút ra từ chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, luôn là bài học quý giá đối với sự phát triển của tỉnh trong hiện tại và tương lai. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã xác định: Để phát triển nhanh và bền vững, 4 phương châm của tỉnh là "Chớp thời cơ, đột phá mạnh, liên kết rộng, hợp tác sâu"; 2 động lực của tỉnh là truyền thống lịch sử văn hóa và đại đoàn kết dân tộc; 5 khâu đột phá là: thực hiện tốt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đẩy mạnh phát triển công nghiệp; phát triển giao thông vận tải, thông tin, xây dựng kết cấu hạ tầng; ban hành rộng rãi các cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích và kêu gọi đầu tư; đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính.


Ngay sau Đại hội, phát huy truyền thống lịch sử của quê hương cách mạng, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, phong trào toàn dân đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội phát triển sâu rộng và đã thu được nhiều kết quả quan trọng: kinh tế tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông, lâm nghiệp; hạ tầng phát triển; thu hút đầu tư mạnh; đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh được cải thiện và nâng cao; các vấn đề xã hội như giáo dục, y tế, văn hoá, giảm nghèo, lao động việc làm, chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với nước, được quan tâm và thực hiện có hiệu quả.


Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, tỉnh đã tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, đạt nhiều kết quả trong củng cố, xây dựng các tiềm lực quân sự, quốc phòng, lực lượng vũ trang, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện vững chắc; xây dựng lực lượng bộ đội địa phương theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên sẵn sàng chiến đấu cao; xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ rộng khắp, có số lượng hợp lý, có chất lượng cao. Thực hiện tốt công tác tuyển quân hàng năm, chính sách hậu phương quân đội và giải quyết chính sách tồn đọng sau chiến tranh.


Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể thường xuyên được quan tâm chỉ đạo. Các cấp ủy chú trọng đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo theo hướng khoa học hoá, kế hoạch hoá và phân cấp mạnh, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý, điều hành của các cơ quan Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của địa phương.


Phát huy tinh thần của chiến sĩ sông Lô oai hùng và thực hiện trách nhiệm với lịch sử, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng của Đảng bộ Tuyên Quang không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, vươn lên về mọi mặt để góp phần xây dựng Đảng bộ tỉnh thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, khai thác mọi nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, xây dựng tỉnh phát triển nhanh và bền vững, có chính trị dân chủ, chính sách hấp dẫn, hành chính thông thoáng, tài chính minh bạch, con người sống đẹp, môi trường gìn giữ, xã hội yên lành, xứng đáng với truyền thống cách mạng hào hùng của vùng đất đã vinh dự là căn cứ địa cách mạng, căn cứ địa kháng chiến của cả nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM