Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 03:44:33 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947-Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt  (Đọc 7381 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #50 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:05:40 am »

Đêm 7-11 quân ta tập kích bằng hoả lực cối, trung liên vào quân địch dừng nghỉ ở chợ Bợ làm chúng hoảng loạn suốt đêm. Sáng ngày 8-11, một đại đội địch chia làm hai cánh tập kích vào Sở chỉ huy Trung đoàn 112 đóng ở Đồi Đá (cách chợ Bợ gần 1km). Trung đội vệ binh chiến đấu, đánh lui cuộc tập kích của địch, tiêu diệt hơn mười tên. Sau khi vượt sông Lô, quân Pháp tiến thẳng ra km 31 và tiếp tục bị truy kích. Đội du kích tập trung của Hàm Yên được điều xuống cùng dân quân, du kích các xã Thái Hoà, Đức Ninh... phối hợp với bộ đội phục kích trên đường rút lui từ km 31, theo đường số 2 về Tuyên Quang.


Trung đội du kích Hàm Yên (khoảng 50 người) được trang bị súng trường, địa lôi, lựu đạn... bố trí phục kích địch trên đoạn đường từ km 24 đến km 21 (thuộc xã Đức Long, nay là xã Đức Minh - Hàm Yên). Hai quả địa lôi được chôn tại km 21 và km 23,5. Sau khi vấp địa lôi tại km 29, bị chết một số tên, khoảng 14 giờ ngày 9-11, toán quân đầu tiên của địch đi tới km 24. Du kích giật dây nhưng địa lôi không nổ. Địch kéo xuống đến km 23,5, quả địa lôi thứ hai nổ, đội hình địch rối loạn. Chiều tối, sau khi gọi máy bay bắn phá dọc đường từ km 21 đến km 25, quân Pháp co cụm lại đóng quân tại km 21.


Ngày 10-11, quân Pháp vẫn tiếp tục rút từ phà Bợ về. Đêm 10-11, một đại đội bộ đội hành quân về Đức Long cùng dân quân, du kích tiếp tục chiến đấu. Tại chiếc cầu gần km 24, ta chôn 3 quả địa lôi, bố trí 1 trung đội cùng trung đội du kích phục sẵn 2 bên đường, 2 trung đội khác phục kích tại km 24,5. Sáng sớm 11-11, quân Pháp ở km 21 quay ngược lại đón đồng bọn ở chợ Bợ rút về. Địch cho một toán nhỏ đi trên đường quốc lộ để nghi binh, toán thứ hai đông hơn đi theo đường rừng. Phát hiện trận địa phục kích của ta bên dưới cầu km 24, quân Pháp bí mật bao vây, tập kích. Trung đội du kích và trung đội bộ đội chủ lực phải chiến đấu phá vòng vây, rút lui. Địch tiếp tục nống lên tới km 24,5, bị bộ đội ta đánh trả quyết liệt, hơn 30 tên thiệt mạng. Quân Pháp lại co cụm về km 21. Cùng ngày, những toán quân đi sau cũng rút về đóng quân tại km 21. Phần lớn lực lượng của Tiểu đoàn 781 tập kết tại Đức Long. Bộ đội và du kích cũng phối hợp truy kích địch làm cho chúng hoảng sợ, phải bỏ quốc lộ, cắt rừng qua Lăng Quán, men theo bờ sông rút về thị xã Tuyên Quang. Ngày 19-11-1947, những toán quân cuối cùng của binh đoàn Com-muy-nan mới rút về tới thị xã Tuyên Quang. Tiếng súng đánh địch trên Đường số 2 (thuộc địa phận Tuyên Quang) tạm ngừng.


Trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, góp phần bẻ gãy gọng kìm sông Lô của quân Pháp, trên Đường số 2, km 31 đường đi Chiêm Hoá, quân và dân Tuyên Quang đã phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu 48 trận, trong đó có 30 trận đánh độc lập; loại khỏi vòng chiến đấu 1.300 tên địch; bắn cháy và bắn chìm 10 ca nô, tàu chiến; phá hủy 1 máy bay; thu nhiều vũ khí trang bị và đồ dùng quân dụng. Những trận đánh này thể hiện rõ sự hiệp đồng tác chiến chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương. Đó cũng chính là minh chứng cho sức mạnh của cuộc chiến tranh du kích đánh thắng những cuộc hành quân lớn của địch và minh chứng hiệu quả của chiến thuật "du kích vận động chiến". Dân quân, du kích địa phương trưởng thành lên rất nhiều sau một thời gian quyết tâm dùng vũ khí địch diệt địch. Đánh địch bằng mọi cách đánh để bảo vệ địa bàn, bảo vệ căn cứ địa kháng chiến. Lực lượng vũ trang huyện Hàm Yên đã độc lập tác chiến 7 trận, phối hợp chiến đấu 2 trận, tiêu diệt gần 200 tên Pháp, thu một số vũ khí, trang bị và đồ dùng quân dụng.


Những trận phục kích nhanh, gọn, hiệu suất cao trên quốc lộ số 2 (km 7, km 24,5, km 29...); trên địa bàn huyện Chiêm Hóa (Đầm Hồng, Vật Nhèo, Cầu Cả) đã góp phần làm phá sản kế hoạch hội quân của địch, bẻ gãy cuộc hành quân lên Chiêm Hoá; góp phần làm nên chiến thắng Sông Lô, chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 của quân và dân Tuyên Quang và quân, dân Khu 10.


Có được thành tích nêu trên, trước hêt là có đường lối đúng đắn của Đảng, sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ Tuyên Quang vào thực tế địa phương và sự giúp đỡ của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, đặc biệt có sự giúp đỡ, phối hợp chiến đấu của các đơn vị bộ đội chủ lực của Khu đóng quân trên địa bàn tỉnh.


Hơn sáu mươi năm qua, từ khi những cơ sở cách mạng đầu tiên được hình thành; quân và dân các dân tộc Tuyên Quang vẫn một lòng trung thành, vượt qua mọi thử thách, đưa đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực. Đánh giá thành tích qua các thời kỳ của tỉnh Tuyên Quang, trong bài phát biểu tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nói: "Trong cuộc đấu tranh lâu dài giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đầy hy sinh gian khổ của nhân dân ta, Tuyên Quang là một địa bàn chiến lược, một căn cứ địa vững chắc với khối đoàn kết của 22 dân tộc anh em - ở đây đã diễn ra những sự kiện quan trọng của cách mạng nước ta. Tuyên Quang, với khu Tân Trào lịch sử, là cái nôi ra đời của chính quyền cách mạng của nước ta, là một trong những An toàn khu của Trung ương tại Việt Bắc, nơi Trung ương Đảng và Chính phủ, đứng đầu là Bác Hồ kính yêu, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ oanh liệt, đi đến chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi lẫy lừng. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tuyên Quang đã cùng với Hà Giang đóng góp sức người, sức của, thiết lập chiến công to lớn góp phần xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc ta. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, trong hoàn cảnh đất nước ta có nhiều khó khăn và tình hình quốc tế diễn ra rất phức tạp, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Tuyên Quang tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, phấn đấu giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết cộng đồng các dân tộc anh em, cùng nhân dân cả nước hăng hái thực hiện công cuộc đổi mới, đạt những kết quả bước đầu rất quan trọng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #51 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:07:41 am »

CHIẾN THẮNG SÔNG LÔ NIỀM TỰ HÀO CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG PHÚ THỌ TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Đại tá LÊ QUANG ĐẠI
Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Phú Thọ


Hè - Thu năm 1947, thực dân Pháp âm mưu tiến công lớn trên chiến trường Bắc Bộ. Ngày 15-9-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Sửa soạn phá những cuộc tiến công lớn của địch". Ngày 27-9-1947, Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 4, do Bộ Tổng chỉ huy triệu tập, phán đoán Bắc Bộ sẽ là chiến trường chính. Nếu địch không mạo hiểm sẽ đánh đồng bằng, nếu mạo hiểm chúng sẽ đánh lên Việt Bắc. Khu ủy và Bộ Tư lệnh Khu 10 đã họp và vạch ra phương hướng thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương và xác định rõ hướng tiến công chính của địch vào Khu 10 sẽ là đường sông Lô, vì đây là con sông quan trọng nằm trong căn cứ địa Việt Bắc. Nước sông sâu, dòng chảy chậm, ít ghềnh thác, tàu thuyền chạy từ Hà Nội lên vào cửa sông Lô ở Việt Trì để ngược lên Tuyên Quang, Hà Giang ngay cả trong mùa khô, kể cả các loại tàu 500 tấn. Phía hữu ngạn sông Lô có đường số 2 chạy song song với sông Lô. Vùng Sơn Dương, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) là vùng An toàn khu có nhiều kho tàng và công xưởng cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ ở và làm việc. Nếu chiếm được sông Lô và kiểm soát được quốc lộ 2, địch sẽ chia cắt được căn cứ địa Việt Bắc; đồng thời tạo được thế bao vây uy hiếp hết sức nguy hiểm đối với các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Ngày 4-10-1947, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Khu 10 đã họp ở Phan Lương, gần bờ sông Lô. Sau hội nghị này, không khí chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu sôi nổi trong các đơn vị bộ đội, dân quân du kích, nhất là các địa phương hai bên bờ sông Lô. Khẩu hiệu "Phá tan cuộc tấn công Thu - Đông của giặc" được nêu lên ở khắp mọi nơi trong toàn tỉnh. Lực lượng vũ trang và nhân dân Phú Thọ sẵn sàng phối hợp chiến đấu với các đơn vị chủ lực.


Trước đó, từ đầu năm 1947, hưởng ứng lời kêu gọi phá hoại để kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân các xã ven sông Lô ở Phú Thọ đã thực hiện "Vườn không nhà trống", người già và trẻ em sơ tán vào vùng sâu. Lực lượng vũ trang đã giúp dân "Lập làng kháng chiến'', dỡ bỏ nhà gạch, rào làng, phá đường vào làng, phá cầu, gài mìn, cắm chông, cạm bẫy, làm kè ngăn sông, cắm cọc nhọn chống quân nhảy dù... Các địa điểm ghi tên cột nước chỉ đường cũng được du kích Phú Thọ dỡ bỏ. Tấm biển chỉ đường đi Tuyên Quang, chôn ở Đầu Lô (Đoan Hùng), được dân quân di chuyển lên chỗ đường Thác Bà - Yên Bái để đánh lừa địch. Những việc làm đó thể hiện sự sáng tạo, mưu trí của lực lượng vũ trang Phú Thọ trong quá trình chuẩn bị chống giặc. Đêm đêm, trên quốc lộ 2, rực sáng ánh đuốc và tiếng hò reo phá đường chặn giặc của thanh niên nam nữ du kích quân Phú Thọ. Bộ đội, dân quân, nhân dân tham gia di chuyển kho tàng, công xưởng vào nơi an toàn hơn. Bộ đội và nhân dân phải khiêng vác hàng ngàn tấn phương tiện, đi xuyên rừng núi cả ngày và đêm, vừa đi vừa phá bụi, chặt cây mở đường. Khắp các làng mạc, rừng núi, đồng ruộng, sông ngòi, đường sá ven bờ sông Lô và quốc lộ 2 đều sục sôi không khí chuẩn bị chiến đấu. Nhân dân và lực lượng vũ trang các huyện Phù Ninh, Hạc Trì đã huy động tối đa nhân tài vật lực để phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương Đất Tổ. Dân quân du kích Phú Thọ được củng cố tổ chức, trang bị thêm khí giới, làm nhiệm vụ canh gác tuần tra, trinh sát giúp bộ đội chuẩn bị trận địa, làm nhiệm vụ nghi binh phối hợp chiến đấu bảo vệ xóm làng. Trên tuyến sông Lô, làng nào cũng có một đội du kích cùng hàng chục dân quân. Tiểu đoàn 420 của tỉnh, với vũ khí thô sơ, phân tán xuống các huyện Phù Ninh, Hạc Trì cùng dân quân du kích các địa phương ven sông Lô bố trí trận địa, bám sát địch, sẵn sàng chiến đấu.


Lực lượng pháo binh Khu 10 được bố trí cơ động ở ba khu vực: 1 trung đội pháo ở Đoan Hùng có 1 khẩu ĐKZ 75mm, 1 trung đội pháo ở Phan Lương có 1 khẩu sơn pháo 75mm, 1 trung đội pháo ở Bình Ca có 1 khẩu pháo 75mm. Ngoài ra, 1 khẩu 37mm được đặt ở núi Dùm (khu vực Tuyên Quang) và 2 trung đội pháo bố trí ở phía sông Thao.


Tại Đoan Hùng, ta bố trí trận địa chiến đấu dài 5km, từ núi Đôn đến nhà thờ Vân Cương, dọc bờ sông Lô, quanh khu vực ngã ba sông Lô, sông Chảy, nơi được coi là một trong những cửa ngõ của căn cứ địa Việt Bắc. Trận địa pháo Voi Gầm bố trí tại các điểm Lã Hoàng, Ngọc Chúc (xã Chí Đám - Đoan Hùng), Gò Đồn (xã Thọ Sơn) để thực hiện tác chiến hiệp đồng với bộ binh, công binh. Trận địa giả được xây dựng ở xã Hữu Đô, Đại Nghĩa. Tỉnh đội Phú Thọ và huyện đội Đoan Hùng, xã đội các xã cùng với chính quyền địa phương huy động nhân dân các xã Hữu Đô, Đại Nghĩa, Phú Thứ, Vân Cương, Thọ Sơn, Hùng Long, Sóc Đăng, Vụ Quang... thu gom củi rác, rơm rạ đưa vào trận địa giả, chất thành 23 đống lớn, mỗi đống khoảng 8 - 10m3, cách nhau hơn 20m, lấy nhựa cây trám làm chất bén cháy. Hàng chục chiếc thùng sắt lớn bên trong chứa sẵn thuốc pháo được bố trí tại trận địa giả. Nhân dân các địa phương Đoan Hùng còn chuẩn bị trống, mõ, kẻng và cả chuông nhà thờ, sẵn sàng khua vang khi có hiệu lệnh. Nhân dân Chí Đám, Hữu Đô hái hàng trăm quả bưởi dùng nhọ nồi trộn dầu bôi đen, xâu lại thành từng chuỗi để giả làm thủy lôi lừa địch. Lực lượng vũ trang Phú Thọ còn dùng gỗ sơn đen giả làm pháo, bố trí ven sông ở từng chặng để đánh lừa địch. Bộ đội và dân quân du kích Đoan Hùng ngày đêm bám sát trận địa. Chính quyền các cấp còn huy động nhân dân đóng góp lương thực, thực phẩm và các phương tiện phục vụ bộ đội tỉnh và Khu chiến đấu. Nhân dân xã Chí Đám đã cử ra ban tiếp tế làm công tác hậu cần, trực tiếp phục vụ bộ đội như xay thóc, giã gạo, nấu cơm, đưa nước ra trận địa...


Ngày 7-10-1947, quân Pháp mở cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta. Chúng tiến công lên Việt Bắc theo hai hướng: hướng Đông, một binh đoàn tiến công từ Lạng Sơn lên Cao Bằng về Bắc Kạn, Tuyên Quang. Hướng Tây, một binh đoàn tiến công lên Việt Trì, Tuyên Quang hình thành hai gọng kìm bao vây Việt Bắc. Ngày 10-10-1947, giặc Pháp từ Sơn Tây vượt sông Hồng sang đánh chiếm Việt Trì làm đầu cầu đón bọn thủy chiến từ Hà Nội ngược lên Đoan Hùng, Tuyên Quang. Tiếng súng của quân xâm lược Pháp bắt đầu nổ trên bến Hạc Trì. Ta không chủ trương ngăn chặn địch ở Việt Trì, do vậy địch vào đây dễ dàng, chúng rất chủ quan. Ngày 11-10-1947, đoàn tàu chiến của địch từ Việt Trì xuất phát ngược sông Lô. Sáng 12-10, chúng đã tới địa phận Sóc Đăng, vướng phải kè ngầm cả đoàn tàu phải dừng lại để khắc phục... Vượt khỏi kè Sóc Đăng, địch tiến công dè dặt hơn. Tới Đoan Hùng, pháo binh của ta chĩa nòng xuống bắn, song do pháo hỏng hóc, tàu địch vẫn nguyên vẹn. Chúng tiếp tục ngược Tuyên Quang. Khi tiến công lên sông Lô, sau những lần bị bộ đội chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương Phú Thọ chặn đánh, ngoài lực lượng tàu chiến, chúng dùng bộ binh càn quét hai bên bờ sông. Bộ binh giặc đánh ra Cầu Hai, đóng bốt ở Trạm Thản, đóng quân ở Đoan Hùng. Bộ đội địa phương Phú Thọ phối hợp tập kích với chủ lực phá tan bốt giặc ở Trạm Thản, tập kích vào Đoan Hùng...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #52 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:10:13 am »

Thực hiện chủ trương của Đảng "Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp", bộ đội địa phương Phú Thọ đã có nhiều trận đánh phối hợp đạt hiệu quả cao.


Ngày 23-10-1947, giặc Pháp dùng tàu vận tải chở quân và hàng tiếp viện theo Đường sông Lô lên Tuyên Quang, bị bộ đội của ta ở trận địa pháo làng Khoan Bộ (Lập Thạch - Vĩnh Yên) chặn đánh quyết liệt, tiêu diệt nhiều tên trên tàu. Trong trận này, dân quân du kích xã Tràng Sảo (Phù Ninh) đã phối hợp chiến đấu chặt chẽ với lực lượng pháo binh. Trước những đòn đánh dồn dập, mạnh mẽ của ta, bọn địch đang càn quét trong làng An Đạo, Bình Bộ (Phù Ninh) hoảng sợ chạy ra khỏi làng.


Được điện báo của đồng bọn bị đánh ở Khoan Bộ, ngày 24-10-1947, quân địch ở hướng Tây vội vã ra lệnh cho một đoàn tàu gồm 5 chiếc chở đầy lính, có 6 máy bay yểm trợ, từ Tuyên Quang xuôi dòng sông Lô về đón đồng bọn. Về phía ta, Khu 10 hạ quyết tâm phối hợp với bộ đội địa phương Phú Thọ phải bắn chìm từ 1 đến 2 tàu giặc để củng cố tinh thần chiến đấu của nhân dân. Một tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung đoàn Sông Lô bố trí dọc tuyến ngã ba sông Lô, sông Chảy đến làng Lã Hoàng, sẵn sàng đánh địch từ dưới sông lên và chặn địch tiếp viện tới bằng đường bộ. Một đại đội phòng không của ta sử dụng súng đại liên đặt trên các mỏm đồi xung quanh trận địa pháo để đón đánh máy bay địch. Các trung đội dân quân du kích địa phương làm công tác nghi binh. Dân quân du kích làng Chí Đám (Đoan Hùng) đem bưởi đã bôi đen, xâu thành từng chuỗi giăng nhiều đoạn ngang sông giả làm thủy lôi để ngăn bước tiến của giặc. Dân quân du kích làng Hữu Đô (tả ngạn sông Lô) chuẩn bị nhiều đám khói nghi binh, thu hút bom đạn của phi pháo địch. Dân quân du kích Bằng Luân làm nhiệm vụ cảnh giới, tuần tra, đốt pháo cối trong thùng sắt để uy hiếp tinh thần địch và sẵn sàng nổ súng tiêu diệt chúng. Ba khẩu Ba-dô-ca vừa sản xuất ở xưởng vũ khí Sài Lĩnh cũng được điều động đến phối hợp chiến đấu với pháo binh. Toàn thể cán bộ, chiến sĩ các đơn vị chủ lực và bộ đội địa phương Phú Thọ trên trận địa đều nung nấu ý chí quyết tâm bắn chìm tàu chiến của giặc, để trả thù cho đồng bào An Đạo, Bình Bộ vừa bị chúng tàn sát ngày 23-10-1947.


Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 24-10-1947, nghe tiếng chuông báo động liên hồi từ phía đài quan sát, bộ đội ta nhanh chóng về vị trí chiến đấu. Chiếc máy bay Ca-ta-li-a của giặc bay sát mặt sông để trinh sát. Tiếp theo, 6 chiếc máy bay khu trục Hen-cát bay tới. Trinh sát của Khu 10 báo tin một đoàn tàu chiến gồm 5 chiếc của địch từ Tuyên Quang xuôi Đoan Hùng, đi đầu là chiếc LCM, tiếp theo là 2 chiếc LCT, sau cùng là 2 chiếc LCVP. Đúng 12 giờ trưa, chiếc LCM xuất hiện chỗ ngoặt của sông, tiến vào khu vực trận địa phục kích của khẩu đội pháo. Lập tức, hiệu lệnh chiến đấu được phát ra. Tiếng trống, mõ, kẻng, chuông rung lên liên hồi giục giã, xen lẫn tiếng nổ vang trời của các loại súng của bộ đội địa phương Phú Thọ. Cùng lúc đó, lửa khói bốc lên nghi ngút ở trận địa nghi binh. Pháo binh của ta bắn đến phát thứ ba thì đạn trúng giữa thân tàu, chiếc LCM vừa trôi vừa từ từ chìm nghỉm xuống dòng sông Lô. Đoàn tàu địch hoảng hốt chạy toả ra hai bên bờ sông. Một chiếc LCT vượt lên trước, lượn sát bờ tây sông Lô, đúng vào tầm bắn của ta. Khẩu đội pháo bắn liền ba phát đều trúng giữa thân và mũi tàu, làm đạn dự trữ trên tàu giặc nổ tung, nhiều tên hoảng hốt nhảy xuống sông. Dưới làn bom đạn của không quân và thủy đội địch, các chiến sĩ pháo binh, bộ binh của chủ lực và bộ đội địa phương Phú Thọ vẫn không rời trận địa. Trên bờ, lau sậy bốc cháy, dưới sông, tàu địch bốc cháy, dầu xăng chảy lênh láng mặt nước. Cả một khúc sông mịt mù khói lửa. Tàu chiến địch bị ghìm trên mặt sông. Máy bay địch bổ nhào xuống ném bom bắn phá trận địa nghi binh ở khu vực Hữu Đô. Chiếc máy bay Ca-ta-li-a lao ra mặt sông định cứu vớt đồng bọn, liền bị hoả lực của ta bắn bị thương và rơi ở Tuyên Quang. Chiếc LCVP đi cuối đội hình vội vã quay ngược mũi tàu chạy về phía Tuyên Quang, bỏ mặc hai chiếc bị thương chết máy trôi bồng bềnh trên mặt sông. Do mặt sông mù mịt khói lửa, hạn chế tầm quan sát của bộ đội, nên hai chiếc tàu bị hỏng đã trôi thoát qua trận địa phục kích trên bờ. Khi phát hiện ra, khẩu đội pháo binh của ta kéo pháo từ trận địa dưới mép nước lên bờ sông bắn được hai phát thì tàu địch đã trôi ra xa. Số địch nhảy ào xuống sông, phần bị pháo ta bắn tiêu diệt, phần bị bộ binh ta trên bờ bắn. Máu giặc loang đỏ dòng sông Lô. Giặc Pháp phải căng lưới thép ở đoạn sông Việt Trì để vớt xác binh lính của chúng.


Trong trận đánh này, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, cách đánh mưu trí, sáng tạo, hiệp đồng tác chiến chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, quân và dân Đoan Hùng đã tiêu diệt hơn 300 tên giặc, bắn chìm 2 tàu chiến, bắn bị thương 2 chiếc khác, bắn rơi 1 thủy phi cơ, thu 1 khẩu pháo 100mm, 10 súng cối, 4 trọng liên, hàng chục trung liên, 200 súng trường và tiểu liên cùng nhiều đạn dược và trang thiết bị khác.


Hơn 2.000 bộ đội và dân quân du kích đã trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong trận sông Lô. Các lực lượng vũ trang non trẻ của ta lần đầu tiên dùng pháo đặt gần bắn thẳng và dùng đạn có ngòi nổ trên không tiêu diệt giặc trên boong tàu, trên mặt nước và mặt đất, gây cho giặc bao nỗi kinh hoàng.


Sau thất bại ở Khoan Bộ và nhất là ở Đoan Hùng, quân Pháp buộc phải bỏ Chiêm Hoá, về Tuyên Quang, tập kết lực lượng chuẩn bị rút chạy. Bộ Tư lệnh Khu 10 quyết định truy kích địch trên cả đường thủy và đường bộ. Để đánh địch trên sông Lô, Bộ Tư lệnh Khu 10 chủ trương xây dựng trận địa Khe Lau (ngã ba sông Lô), sông Gâm (Tuyên Quang). Do tình hình khẩn trương, bộ đội phải tháo pháo thành nhiều bộ phận và khiêng vác từ ngã ba sông Lô, sông Chảy (Đoan Hùng) lên Khe Lau. Dân quân du kích các xã thuộc huyện Đoan Hùng lại một lần nữa không quản gian lao, kề vai sát cánh cùng bộ đội chuyển pháo lên phía trước. Chính tại Khe Lau này, ngày 10-11-1947, đã diễn ra trận đánh thắng lợi, quân ta bắn chìm, bắn cháy 3 tàu chiến và tiêu diệt trên 200 tên địch. Thắng lợi đó làm nên "bể lửa Khe Lau", ghi thêm một dấu son vào trang sử vàng sáng ngời của lực lượng Pháo binh Việt Nam trẻ tuổi phối hợp rất nhịp nhàng với lực lượng bộ đội địa phương Phú Thọ.


Ngày 22-11-1947, quân Pháp lặng lẽ rút quân khỏi Tuyên Quang. Biết sông Lô giờ đã trở thành con đường nguy hiểm, nên cánh quân phía Tây của địch hết sức đề phòng. Cánh quân rút theo dòng sông Lô, dưới sông có tàu chiến, ca nô, trên bờ có bộ binh đi sục sạo đề phòng ta phục kích, trên trời có máy bay yểm trợ. Lực lượng thủy binh gồm 2 chiếc tàu chiến và 4 ca nô. Ngày 24-11-1947, đoàn tàu chiến của giặc xuôi đến Lã Hoàng, nơi một tháng trước đó chúng bị thảm bại. Một chiếc tàu chiến của giặc trúng thủy lôi của ta, bị xé làm đôi, chìm xuống đáy sông, mang theo gần trăm tên giặc, phần lớn là sĩ quan tham mưu và nhân viên kỹ thuật. Những chiếc còn lại vội vàng chạy thoát thân. Thế nhưng, về tới Phan Lương, lại một chiếc LCT bị bắn đắm và hơn một trung đội giặc bị tiêu diệt. Ngày 26 tháng 11 năm 1947, đoàn quân thủy của giặc về đến bến Cóc (xã Trị Quận) bị mắc kè. Quân giặc phải dừng lại 2 ngày. Bộ đội và du kích kịp thời phục kích, bắn đắm 2 ca nô.


Trong khi đó, toán quân bộ của địch đến địa bàn Phù Ninh, trúng địa lôi của ta, 50 tên và 18 con ngựa bị diệt. Bộ đội và dân quân du kích xã Đông Quan (Phú Nham, Tiên Du, Gia Thanh ngày nay) còn chặn đánh địch ở cống Tiên Du, Vũng Gáo, chùa Nghè, diệt 13 tên. Ban đêm, một trung đội của Tiểu đoàn 510, phối hợp với dân quân du kích Tiên Du, tập kích vào đội hình trú quân của giặc, tiêu diệt một số tên. Trên toàn tuyến, dọc hai bờ sông Lô và quốc lộ 2, pháo binh, bộ binh và dân quân du kích các xã đã bám sát địch, truy đuổi liên tục, đánh vào đội hình hành quân của chúng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #53 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:10:56 am »

Để yểm trợ cho đoàn quân thất trận ở Tuyên Quang rút lui theo Đường sông Lô, ngày 22-11-1947, Pháp cho Trung đoàn Ma-rốc số 5 từ Hoà Bình tràn sang càn quét khu vực Hưng Hoá, Thu Cúc. Một tiểu đoàn từ Hưng Hóa vượt sông Hồng tại ngã ba sông Đà - sông Hồng sang Lâm Thao, càn quét và chiếm Việt Trì. Trên đường tiến quân lên Việt Bắc, theo sông Lô, cũng như cuộc hành quân đỡ đòn cho cánh quân phía Tây trước đó, lần này giặc Pháp lại gây bao tang tóc cho đồng bào ta. Chỉ tính riêng các huyện Lâm Thao, Hạc Trì, Phù Ninh và Đoan Hùng, 150 người dân bị giết và bị thương, 181 người bị bắt. Địch còn đốt phá 2.416 nóc nhà, 7 đình chùa, nhà thờ, cướp 72 con trâu bò và vô số lợn, gà. Khi giặc tấn công sông Lô, đồng bào huyện Phù Ninh phải tản cư, bỏ hoang 1.000 mẫu ngô không chăm bón và thu hoạch được. Địch ở Trung Hà (Sơn Tây) bắn súng cối tới tấp vào các làng xã vùng hạ huyện Lâm Thao, làm cho nhiều nhà bị cháy, vườn tược bị đạn chém nát. Dưới làn đạn địch, du kích các xã vẫn bình tĩnh bám sát các trạm gác, đánh kẻng báo động cho đồng bào tản cư, đồng thời tổ chức chiến đấu chặn các mũi tiến quân của địch vào làng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.


Ngày 24-11-1947, địch tiến vào xã Vĩnh Lại. Trung đội du kích xã chia làm hai tổ, bố trí dưới giao thông hào, nổ súng chặn địch. Do lực lượng địch đông gấp bội, hoả lực mạnh, nên sau ít phút chiến đấu, một tổ du kích bị đánh bật ra khỏi làng, tổ còn lại bị địch bao vây.


Tại huyện Hạc Trì, nơi diễn ra những trận giao tranh quyết liệt giữa ta và địch, đã xuất hiện những tấm gương ngời sáng về tinh thần anh dũng chiến đấu, hy sinh của quân và dân nơi đây. Trung đội nữ du kích Minh Hà (xã Chính Nghĩa) xung phong ra trận giật bom diệt địch. Đội lão du kích Minh Khai ra sát trận địa để phối hợp chiến đấu cùng bộ đội.


Ngày 19-12-1947, đúng một năm sau ngày toàn quốc kháng chiến, số quân địch còn lại ở Việt Trì phải rút hết về xuôi trong những ngày đông ảm đạm, chấm dứt cuộc tấn công Việt Bắc đầy tham vọng và thất bại nặng nề.


Hướng chính trên địa bàn Khu 10 đã thảm bại, hướng phối hợp, địch cũng bị thất bại nặng nề. Theo kế hoạch, để phối hợp với cuộc tấn công lên Việt Bắc, nhằm phân tán lực lượng ta ở Mặt trận Sông Lô, từ ba mặt Hoà Bình - Sơn La, Quang Huy (Nghĩa Lộ) - Thượng Bằng La (Yên Bái), giặc Pháp tiến công càn quét vùng Tây - Nam Phú Thọ.


Ngày 2-10-1947, giặc Pháp từ Quang Huy và Sơn La tiến ra càn quét huyện Thanh Sơn, chiếm Thu Cúc. Từ Thu Cúc, chúng mở rộng phạm vi càn quét ra cả huyện Thanh Sơn, Yên Lập và Cẩm Khê. Ngày 8-10-1947, quân Pháp từ Quang Huy, Thu Cúc, Thượng Bằng La tiến sang càn quét vùng Hiền Lương, Đan Thượng, Đan Hà (Hạ Hoà) hòng phối hợp với cánh quân bên kia sông Lô, buộc ta phải giãn lực lượng ra đối phó. Ngày 12-10, từ Hoà Bình, Sơn Tây, 300 quân Pháp đánh sang Tu Vũ, rồi càn quét vùng Thanh Thủy, Tam Nông. Trong các cuộc hành quân càn quét vùng tây nam Phú Thọ, địch đốt hơn 4.000 nóc nhà, phá 8 nhà thờ, 43 đình, chùa, giết 351 người, bắt 48 người và cướp bóc nhiều tài sản của nhân dân. Chúng bắt hàng nghìn đồng bào Mường (Thanh Sơn) và Thái (Sơn La) tản cư sang huyện Thanh Sơn, đem về xây dựng đồn bốt ở Thu Cúc và Tu Vũ. Chúng còn ra sức lôi kéo linh mục, dụ dỗ giáo dân đi lính và lợi dụng bọn hào lý để lập tề ở địa phương. Đối với những ai không cam tâm làm tay sai cho Pháp, chúng thẳng tay trừng trị. Không lôi kéo, dụ dỗ được giáo dân Hưng Hoá, ngày 15-10-1947, giặc Pháp chiếm đóng nhà thờ Hưng Hoá, đập phá nhà thờ, tàn sát nhân dân, hãm hiếp phụ nữ. Khi rút về Đồn Vàng, chúng đã bắt cả linh mục, thầy dòng và một số giáo dân đem theo. Sau vụ này, đồng bào Công giáo càng nhận rõ hơn bộ mặt của kẻ thù, thêm tin tưởng vào chính quyền kháng chiến. Giáo dân ở Hà Thạch (Lâm Thao) đã tổ chức mít tinh, phản đối hành động dã man của giặc Pháp và đòi phải trả lại tự do cho những người bị bắt.


Tại vùng tây nam Phú Thọ, nhân dân các xã phía nam các huyện Tam Nông, Thanh Thủy, Cẩm Khê đề cao cảnh giác, khẩn trương chuẩn bị kháng chiến. Riêng các xã phía Tây các huyện Thanh Sơn, Thanh Thủy, Yên Lập, công tác chuẩn bị kháng chiến gặp nhiều khó khăn. Nơi đây, đất rộng, địa hình không thuận lợi cho phá hoại và tiêu thổ kháng chiến. Đây là vùng giáp giới với Hoà Bình, Sơn La, là những địa phương mà địch đã chiếm đóng. Nhân dân phần lớn là đồng bào Mường và một số đồng bào Thái (Sơn La) tản cư sang, trình độ giác ngộ chính trị không đồng đều. Lực lượng dân quân du kích và các cơ quan chính quyền, đoàn thể mới thành lập, đang trong thời kỳ xây dựng, thậm chí, một số nơi chưa có chi bộ Đảng. Trung đoàn 148 bộ đội chủ lực hoạt động ở Sơn La mới rút về Thanh Sơn, nhằm phối hợp chiến đấu với lực lượng vũ trang địa phương, nên còn thiếu kinh nghiệm vận động đồng bào dân tộc ít người. Thực tế này khiến những cuộc chống càn thời gian đầu của bộ đội gặp nhiều khó khăn. Các đại đội độc lập phối hợp với dân quân, du kích chỉ tổ chức đánh được 6 trận ở huyện Thanh Thủy và 5 trận ở huyện Yên Lập, tiêu hao một phần sinh lực địch. Còn vùng Thanh Sơn, sau vài trận chống càn yếu ớt ở Thạch Khoán, Đồn Vàng, Lai Đồng, Xuân Đài, Thu Cúc, 2 đại đội độc lập của Trung đoàn 148 phải rút lui về Giáp Lai, Thạch Khoán, bỏ trống vùng thượng huyện Thanh Sơn. Bọn phản động lợi dụng thời cơ nổi lên lập tề ở Thu Cúc, Lai Đồng, Khả Cửu, Đồn Vàng và Tu Vũ.


Từ thực tế chống càn ở vùng tây nam Phú Thọ, cho thấy chiến tranh du kích muốn phát triển và đạt hiệu quả chiến đấu cao, thì cán bộ, bộ đội phải bám đất, bám dân, dựa vào dân để giết giặc, thực hiện đoàn kết dân tộc và đoàn kết lương giáo, cô lập và đi đến trừng trị những tên phản động tay sai. Trên cơ sở đó và căn cứ vào tình hình chiến sự vùng tây nam Phú Thọ, tỉnh điều động 3 trung đội bộ đội địa phương tăng cường cho mặt trận Tu Vũ và 2 trung đội cho mặt trận Thu Cúc. Cấp ủy, chính quyền và đoàn thể các huyện và xã vùng tây nam đã tổ chức cho nhân dân sơ tán vào rừng khi địch càn quét, địch rút lui lại trở về bám đất làm ăn. Khi địa phương bị địch chiếm đóng, cán bộ và bộ đội rút vào hoạt động bí mật, hóa trang thành những đội đặc biệt (như võ trang tuyên truyền, võ trang trừ gian) để bám dân, bảo vệ dân, tạo thêm điều kiện để nhân dân giữ vững tinh thần kháng chiến. Công an tỉnh tổ chức đội công an danh dự gồm 23 đồng chí vào đây làm nhiệm vụ diệt tề, trừ gian, giám sát, ngăn chặn hoạt động phá hoại của bọn phản động. Công an các xã Thu Ngạc, Võ Miếu, Tinh Nhuệ, Lai Đồng, Thu Cúc, Kiệt Sơn, Thạch Kiệt đã lập được danh sách 40 tên tề và do thám tay sai của giặc để phục vụ cho công tác phá tề, trừ gian và đưa người của ta vào hoạt động trong các ban tề.


Mặc dù gặp nhiều khó khăn, địch vẫn tăng cường càn quét, liên tục lùng sục gắt gao, nhưng quân và dân vùng tây nam Phú Thọ quyết không để cho địch rảnh tay, củng cố lại vị trí chiếm đóng và yểm trợ cho đồng bọn đang bị ta đánh ở Mặt trận Sông Lô. Từ ngày 20-11 đến ngày 23-12-1947, quân và dân các huyện tây nam Phú Thọ phối hợp với bộ đội chủ lực tích cực tổ chức các trận chống càn, liên tục bao vây, quấy rối vị trí trú quân và đóng quân của địch. Quân và dân ta đã tiêu diệt 100 tên ở Đồn Uốt (Ngọc Lập), làm tan rã 1 trung đội ngụy binh ở Tu Vũ, vận động được 60 lính dõng ở đồn Thu Cúc trở về với gia đình, buộc địch phải rút khỏi Đồn Vàng. Du kích dân tộc Mường xã Ngọc Lập (Yên Lập) dùng tên nỏ tẩm thuốc độc diệt 9 tên, khiến địch lo sợ, hoang mang. Trước hoạt động chống càn ngày càng mạnh của quân và dân vùng tây nam Phú Thọ, địch buộc phải co lại cố thủ ở hai vị trí Thu Cúc và Tu Vũ.


Tóm lại, trên cả hai Mặt trận Sông Lô và tây nam Phú Thọ, quân dân Phú Thọ đã chiến đấu và phối hợp chiến đấu chặt chẽ, góp phần bẻ gãy gọng kìm sông Lô, đánh bại cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp lên Việt Bắc, làm phá sản chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của chúng, bảo toàn được lực lượng và giữ vững hậu phương, đưa cuộc kháng chiến của dân tộc chuyển sang giai đoạn mới. Những hoạt động chiến đấu và phục vụ chiến đấu của nhân dân và lực lượng vũ trang Phú Thọ trong chiến dịch này, đã để lại những kinh nghiệm rất quý báu. Giáp mặt với quân xâm lược Pháp, quân dân các địa phương trong tỉnh không tránh khỏi bỡ ngỡ. Nhưng lòng yêu nước, chí căm thù giặc, sự vững tin vào kháng chiến của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể cứu quốc và sự trưởng thành của lực lượng vũ trang, là những nhân tố đảm bảo chiến thắng. Hình thái chiến tranh nhân dân địa phương ở nước ta được xác định rõ ràng. Hình thức tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân được cụ thể hóa thêm, vừa chiến đấu vừa luyện quân ngay trong chiến đấu để lập công, được coi là một quy luật xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang trong chiến tranh nhân dân. Đó là những nhân tố vô cùng quan trọng, đảm bảo cho phong trào kháng chiến trên quê hương Phú Thọ không ngừng phát triển, thu được nhiều thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954.


Sáu mươi năm đã trôi qua, những tên đất, tên làng như Chí Đám, Sóc Đăng, Phan Lương, Khoan Bộ - Đoan Hùng... mãi mãi đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc. Chiến thắng Sông Lô đã thể hiện truyền thống chiến đấu kiên cường, kinh nghiệm đoàn kết hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng vũ trang, nhân dân các dân tộc Khu 10 và tỉnh Phú Thọ.


Ngày nay, chiến thắng Sông Lô vẫn còn vang vọng, là niềm tự hào của lực lượng vũ trang Phú Thọ. Vinh dự là những người chiến sĩ cách mạng chiến đấu dưới lá cờ bách chiến bách thắng của Đảng quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, phát huy truyền thống "Trung thành - Anh dũng - Chiến thắng", lực lượng vũ trang Phú Thọ tiếp tục phát huy bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, thi đua lập nhiều thành tích mới trong các lĩnh vực công tác, mãi mãi xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân các dân tộc Đất Tổ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #54 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:15:10 am »

CHIẾN THẮNG SÔNG LÔ - MỘT THẮNG LỢI QUAN TRỌNG TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Đại tá HÀ ĐỨC DỤC
Trưởng phòng KHCN và MT Quân khu 2


Trong cuộc tiến công của thực dân Pháp lên Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, sông Lô và đường số 2 được chúng xác định là một trong hai gọng kìm lớn để "siết chặt", "nghiền nát" trung tâm đầu não kháng chiến và chủ lực ta, hòng kết thúc chiến tranh một cách nhanh chóng.


Thực hiện sự chỉ đạo, chỉ huy của Trung ương Đảng và Tổng chỉ huy, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Khu 10 đã xác định và xây dựng quyết tâm chiến đấu phá tan cuộc tiến công của Pháp, bẻ gãy "gọng kìm phía Tây" của chúng.


Cùng với các đơn vị chủ lực của Khu, thế trận toàn dân đánh giặc được xây dựng dọc sông Lô và đường số 2. Nơi nơi đều thực hiện "giương bẫy, giăng thành" với quyết tâm: địch đến bị đánh, địch lui bị chặn. Bằng thế trận đó, quân và dân Khu 10 đã ngoan cường, sáng tạo trong chiến đấu, cùng với cả Việt Bắc làm nên "mồ chôn giặc Pháp". Trong những chiến công còn vang vọng mãi, không thể không nhắc tới những trận đánh trên sông Lô lịch sử, như ước vọng "bao nhiêu dân Khu 10, mơ thành người sông Lô".


Đế đối phó với cuộc tiến công của địch, ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Phải phá cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp". Trung ương Đảng chủ trương tập trung lực lượng và cử cán bộ chủ chốt của Bộ Tổng chỉ huy tổ chức đánh địch trên các mặt trận: Mặt trận Sông Lô - đường số 2, Mặt trận Đường số 4, Mặt trận Đường số 3.


Mặt trận Sông Lô - đường số 2 rộng, trải khắp Khu 10, từ Vĩnh Yên, Việt Trì, Đoan Hùng lên Tuyên Quang, Chiêm Hóa và Sơn Dương. Là một trong hai hướng phản công, có ý nghĩa quyết định đến việc đánh bại cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp, nên Mặt trận Sông Lô - đường số 2, được Bộ Tổng chỉ huy cử hai đồng chí Trần Tử Bình và Tạ Xuân Thu chỉ đạo, có nhiệm vụ đánh quân cơ động trên đường bộ, đường thủy, ngăn chặn tăng viện tiếp tế, tiến tới bẻ gãy gọng kìm phía Tây của địch.


Với niềm tin tưởng tuyệt đối vào đường lối kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện chủ trương của Khu ủy, quân và dân Khu 10 hăng hái, quyết tâm tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch, bẻ gãy gọng kìm sông Lô của chúng, góp phần phá tan cuộc tiến công Thu - Đông, bảo vệ căn cứ địa kháng chiến. Được chuẩn bị khẩn trương và chu đáo, với quyết tâm chiến đấu cao và cách đánh linh hoạt, sáng tạo trên cả đường thủy và trên bộ; sự phối - kết hợp giữa bộ binh, pháo binh và công binh, các lực lượng vũ trang Khu 10 (tiền thân của lực lượng vũ trang Quân khu 2 ngày nay) đã liên tục chặn đánh địch từ Phan Dư, Khoan Bộ, Đoan Hùng, Bình Ca, Khe Lau đến km 7 đường số 2, Đầm Hồng, Bản Ty, Chiêm Hoá... tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bắn cháy nhiều tàu chiến, bẻ gãy gọng kìm phía Tây của chúng.


Chiến thắng sông Lô của quân và dân Khu 10, góp phần cùng quân dân cả nước làm phá sản chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp, đánh bại cuộc tiến công Thu - Đông 1947 của chúng lên Việt Bắc, bảo vệ an toàn căn cứ địa và cơ quan đầu não kháng chiến trong những năm đầu của cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.


60 năm đã qua đi, nhưng chiến thắng Sông Lô vẫn luôn là niềm tự hào của các lực lượng vũ trang và nhân dân Khu 10, là một trong những chiến thắng điển hình của Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần tô thắm thêm truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc và mãi mãi đi vào lịch sử. Nghiên cứu về chiến thắng sông Lô, chúng ta thấy:

Một là: Chiến thắng sông Lô là bước khởi đầu, góp phần khắng định sự tất thắng của đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện trong chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.

Vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng và chiến tranh giải phóng Việt Nam, kế thừa và phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc, trước kẻ thù là thực dân Pháp xâm lược có binh hùng, tướng mạnh, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra đường lối lãnh đạo đúng đắn, dẫn dắt toàn quân, toàn dân đương đầu và từng bước đánh thắng kẻ thù. Điều đó được thể hiện một phần qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân Khu 10.


Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, sau ngày toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, lực lượng vũ trang Khu 10 còn nhiều thiếu thốn về vũ khí, trang bị... phương tiện kỹ thuật chiến tranh, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn.


Nhận thấy "điểm yếu chí mạng" của giặc Pháp là gọng kìm quá dài, buộc phải dựa vào đường bộ và đường sông để giải quyết vấn đề tiếp tế và chuyển quân, lực lượng bị rải ra trên các trục đường bộ, đường sông, đội hình kéo dài, địa hình hiểm trở, xa căn cứ, vận tải tiếp tế khó khăn, Trung ương Đảng đã chỉ đạo các khu, các mặt trận tổ chức đánh địch rộng khắp bằng mọi thứ vũ khí, buộc địch phải phân tán đối phó, để hỗ trợ cho các đơn vị chủ lực của ta đánh địch. Đồng thời, sử dụng một phần ba tổng số bộ đội chủ lực, tổ chức thành những đại đội độc lập, trung đội vũ trang tuyên truyền, ban xung phong công tác, luồn sâu vào vùng địch tạm chiếm, động viên tổ chức nhân dân, phát động chiến tranh du kích tiêu hao địch rộng rãi, đồng thời làm nòng cốt cho phong trào quần chúng, buộc địch phải căng kéo lực lượng đối phó và bị động trên nhiều hướng, khiến cho chúng quân đông mà bị phân tán, trang bị mạnh nhưng không thể phát huy được hiệu lực.


Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Khu ủy Khu 10 đã chỉ đạo cho các tỉnh xây dựng, củng cố tinh thần, tư tưởng, ý chí chiến đấu cho nhân dân và lực lượng vũ trang. Các tỉnh tiến hành thành lập các tổ công tác và đội tuyên truyền vào vùng địch hậu hoạt động, vừa xây dựng cơ sở chính trị vừa vận động nhân dân tích cực tham gia kháng chiến. Các đội võ trang tuyên truyền đã phối hợp tốt cùng các đại đội độc lập của các trung đoàn chủ lực Khu 10, thực hiện luồn sâu vào hoạt động vùng sau lưng địch xây dựng cơ sở, phát động chiến tranh du kích, toàn dân đánh giặc. Nhân dân trong vùng địch tạm chiếm thực hiện tiêu thổ kháng chiến "vườn không nhà trống", tản cư vào các lán bí mật trong rừng, nuôi giấu cán bộ, bộ đội và du kích hoạt động. Nhân dân vùng tự do, đi đôi với việc tích cực ủng hộ vật liệu, phương tiện và dụng cụ, hàng triệu người, đã tham gia các đợt tổng phá hoại các công trình kiến trúc kiên cố, cầu cống, đường giao thông, đắp ụ trên đê, cắm kè trên sông, rào làng, để ngăn cản bước tiến của quân giặc. Các đội du kích, sau khi được xây dựng, củng cố về lực lượng, vũ khí, trang bị, đã kiên cường bám đất, bám dân, xây dựng cơ sở, diệt tề, trừ gian ở các địa phương, ngăn cản bước tiến và tiêu hao, tiêu diệt quân địch.


Như vậy, để đối mặt và giành được thắng lợi với kẻ thù mạnh hơn ta gấp bội về tiềm lực quân sự, Trung ương Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh là hoàn toàn đúng đắn. Quân và dân Khu 10 đã phát huy hết sức mạnh của mình, vận dụng linh hoạt cách đánh du kích, bằng nhiều loại vũ khí tự tạo, phát huy được thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân đã tỏ rõ vai trò nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Đây chính là bước tiếp nối truyền thống đánh giặc trong lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha, là bước thể nghiệm để Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chủ trương, đường lối "Kháng chiến toàn dân, toàn diện" giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.


Hai là: Chiến thắng sông Lô cùng với những thắng lợi trong chiến dịch phản công của ta trong Thu - Đông 1947, đã mở đầu cho sự hình thành và phát triển nghệ thuật chiến dịch của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sau khi giành được độc lập, Chính phủ đã ban hành các sắc lệnh đặt nền tảng cho việc xây dựng quân đội chính quy của quốc gia, các chi đội Vệ quốc đoàn đã phát triển thành các trung đoàn và tiểu đoàn độc lập. Nhưng do khả năng tác chiến ở quy mô cấp trung đoàn hạn chế, trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ và tình hình trang bị của ta chưa đủ điều kiện để tiến hành những trận đánh lớn có thể chặn đứng cuộc tiến công của địch. Các binh chủng Công binh, Pháo binh, Phòng không chưa được tổ chức thành các đơn vị lớn. Phương tiện thông tin liên lạc thô sơ, chủ yếu là chạy bộ. Cung cấp hậu cần dựa vào chính quyền và nhân dân địa phương là chính. Đồng thời, địa bàn tác chiến của Mặt trận Sông Lô nói riêng và chiến dịch Việt Bắc nói chung rộng, khó bố trí đội hình tác chiến lớn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #55 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:15:54 am »

Nhận thấy giặc Pháp "phải mạo hiểm... gặp khó khăn lớn, nếu ta biết khai thác đánh vào chỗ yếu của địch thì nhất định cuộc tiến công sẽ thất bại...", nên chỉ đạo, chỉ huy của ta trong chiến dịch Việt Bắc nói chung và Mặt trận Sông Lô nói riêng, là đã không đem các trung đoàn chủ lực (còn hạn chế về vũ khí trang bị và kinh nghiệm chiến đấu...) ra đối mặt với lực lượng lớn của địch, có trang bị hiện đại. Thường vụ Trung ương Đảng đã chủ trương sử dụng lực lượng và hình thức tác chiến là: "Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" để đối phó với cuộc tiến công Việt Bắc của địch. Bằng các đơn vị nhỏ (phổ biến là đại đội), với chiến thuật phục kích là chủ yếu, phối hợp hoạt động tác chiến giữa chủ lực và địa phương, ta đã thực hiện tiêu hao, tiêu diệt địch rộng rãi.


Ngày 15-10-1947, Bộ Tổng chỉ huy ra Huấn lệnh ĐB/101, đã nêu những nguyên tắc mới về tổ chức bộ đội và bố trí lực lượng, về nhiệm vụ của các đại đội độc lập và tiểu đoàn tập trung. Huấn lệnh chỉ rõ: "... Bố trí và tác chiến cần phải thích hợp với tình thế... thực hiện ngay việc lấy đại đội làm đơn vị bố trí trên các chiến trường địa phương... Bộ đội chủ lực thì đặt ở những nơi cơ động gần mặt trận hoặc đường giao thông quan trọng trên nguyên tắc là nên tập trung từng tiểu đoàn phụ trách từng khu vực một". Nhiệm vụ của đại đội độc lập là: "Quấy rối, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ của địch, đôn đốc phá hoại trong địa phương, giúp đỡ vũ trang tuyên truyền và phối hợp tác chiến với dân quân địa phương khi địch đến. Phối hợp với bộ đội lưu động đánh những trận đánh lớn". Nhiệm vụ của các tiểu đoàn tập trung là: "Phối hợp với các đại đội độc lập và du kích địa phương tiêu diệt địch ở những vị trí lẻ hay đang vận chuyển trên đường giao thông". Hình thức tác chiến chủ yếu được xác định: "trên cả ba mặt trận là đánh phục kích với quy mô cấp đại đội độc lập, nhằm tiêu hao, tiêu diệt bộ phận nhỏ quân địch đang cơ động là chủ yếu. Các tiểu đoàn tập trung phải luôn đứng chân ở địa bàn, sẵn sàng cơ động đánh địch khi chúng xuất hiện".


Có thể nói, chiến thắng sông Lô là một trong những chiến thắng trong năm đầu sau toàn quốc kháng chiến của quân đội ta, đánh dấu bước mở đầu cho sự hình thành và phát triển nghệ thuật chiến dịch của quân đội ta, thể hiện sự vận dụng sáng tạo nghệ thuật đánh giặc "lấy yếu đánh mạnh", "lấy nhỏ thắng lởn", "lấy ít địch nhiều" của tổ tiên ta, để chiến thắng kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Những trận đánh nhỏ, rộng khắp, cùng các trận đánh lớn, quan trọng như trận phục kích diệt địch cơ động đường sống ở Khoan Bộ, Đoan Hùng, Khe Lau..., hay phục kích tiêu diệt quân cơ động vận chuyển bằng đường bộ tại km 7 - đường số 2, đã thực hiện được ý định chung của chiến dịch, cả ba mục đích của cuộc hành binh đều không đạt được, địch buộc phải lui quân với những tổn thất nặng nề, làm thất bại hoàn toàn cuộc tiến công của giặc Pháp, bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến, bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc. Vượt qua những thử thách to lớn đầu tiên, quân đội ta đã trưởng thành một bước quan trọng nghệ thuật tác chiến, càng đánh càng hiểu về địch, hiểu mình. Thông qua tác chiến chiến dịch Thu - Đông 1947, đã hình thành nên nghệ thuật chiến dịch phản công của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Ba là: Chiến thắng sông Lô là chiến thắng của sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ lực lượng giữa bộ binh, pháo binh, công binh và phòng không của quân đội ta.

Trong số những trận đánh vang dội của quân và dân Khu 10 trên Mặt trận Sông Lô trong Thu - Đông năm 1947, thì chiến thắng tại Đoan Hùng, ngày 24-10-1947, là trận đánh then chốt có hiệu quả nhất, thể hiện cách đánh hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, cách đánh mưu trí, sáng tạo của quân và dân Khu 10, góp phần quan trọng trong việc bẻ gãy gọng kìm thứ 2 của địch.


Ngày 24-10-1947, Bộ chỉ huy Khu sử dụng 2 trung đội pháo binh 200 và 225 với 2 khẩu pháo 75mm, 2 đại đội bộ binh (663, 664), đại đội cảnh vệ Khu và lực lượng du kích địa phương, tổ chức phục kích ở khu vực ngã ba sông Lô và sông Chảy, nơi có nền đất tốt, ngụy trang kín đáo. Tại đây, ngoài các trận địa chính ta đã bố trí một số trận địa giả, dùng cây bôi sơn đen giả làm nòng pháo, dùng rơm rạ đốt khi trận địa chính nổ súng để ngụy trang, lừa máy bay địch đến bắn phá. Một đại đội bộ binh được bố trí ở Sóc Đăng sẵn sàng đánh địch đổ bộ bằng đường không, ngăn chặn tuyến đường bộ từ Việt Trì - Yên Bình - Tuyên Quang. Một đại đội khác được bố trí ở Ngọc Trúc để bảo vệ trận địa pháo. Đại đội cảnh vệ được bố trí chặn đánh địch từ Tuyên Quang tiến công theo bờ sông xuống ứng cứu. Đồng thời để nghi binh, lừa địch, ta đã sử dụng hơn 200 quả bưởi được sơn đen giả làm thủy lôi, thả trôi trên sông Lô để làm chậm tốc độ cơ động đường sông, buộc tàu chiến địch phải đi vào đúng luồng đã định để ta tiêu diệt.


Kết quả, ta đã bắn chìm 1 tàu chiến và 2 ca nô, bắn trọng thương 2 ca nô khác, bắn rơi 1 máy bay; hơn 100 tên địch bị tiêu diệt, nhiều tên bị thương, 3 tên bị bắt; ta thu 17 súng trường Mỹ, 3 tiểu liên, 3 súng máy 12,7mm, 4 súng FM, 1 súng cối 60mm có 20 viên đạn, 4 khẩu súng côn 12mm, 1 cối 81mm có 22 viên đạn, 1 pháo 75mm, 1 Ba-zô-ca, 5 lựu đạn, 1 máy vô tuyến điện, 1 thùng đạn và một số lớn thuốc tân dược. Đó là kết quả của sự phối hợp, hiệp đồng lực lượng chặt chẽ giữa bộ binh, pháo binh, công binh và phòng không của quân đội ta; hiệp đồng giữa quân và dân Khu 10. Từ trận đánh trên, cùng với những thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc, nhiều nguyên tắc tác chiến, chỉ huy hiệp đồng binh chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam đã được hình thành.


Cuộc tiến công lên căn cứ địa Việt Bắc trong Thu - Đông 1947 của thực dân Pháp là một thử thách vô cùng quyết liệt đối với toàn quân, toàn dân ta trong năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc. Với tinh thần "Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ", bằng ý chí kiên cường, tinh thần quyết chiến, quyết thắng và trí thông minh sáng tạo, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã kịp thời đưa ra giải pháp thích hợp, từng bước chuyển thế trận, giành lại thế chủ động đánh địch, chuyển yếu thành mạnh, làm cho địch từ mạnh sang yếu, mất thế và lực. Từ đây, thực dân Pháp phải theo đuổi cuộc chiến tranh một cách bị động, kéo dài ngoài ý muốn của chúng. Thắng lợi và kinh nghiệm chiến thắng sông Lô, cùng với ý nghĩa của chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, là vốn quý để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vững bước tiến lên, từng bước làm thất bại các âm mưu, kế hoạch của kẻ thù.


60 năm qua, ý nghĩa và giá trị của chiến thắng Sông Lô vẫn luôn đi cùng với những bước trưởng thành, lớn mạnh của quân đội ta nói chung và quân, dân Khu 10 nói riêng. Chiến thắng đó luôn cổ vũ và tiếp sức cho lực lượng vũ trang Quân khu 2 tiếp bước cha anh, thi đua giành được nhiều thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay và mai sau.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #56 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:18:34 am »

VIỆT BẮC - CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG CỦA CẢ NƯỚC


TS. HOÀNG NGỌC LA
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên


Việt Bắc "cái nôi" của cách mạng, là "đất Thánh" của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), là mồ chôn giặc Pháp trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 và chiến dịch Biên Giới 1950; là nơi, trong 9 năm kháng chiến, có Trung ương Đảng và Bác Hồ sáng soi, nơi nuôi chí bền gan chiến đấu của dân tộc, nơi khởi phát chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.


Nói tới vai trò của căn cứ địa Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp, nhân dịp kỷ niệm 60 năm chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, bài viết này xin được góp phần làm rõ thêm các vấn đề sau:

- Vị thế chiến lược cơ động "Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ" của căn cứ địa Việt Bắc.

- Việt Bắc - căn cứ địa cách mạng của cả nước.


Trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào các tỉnh Cao, Bắc, Lạng nhân kỷ niệm lần thứ hai ngày Quốc khánh 2-9-1947, Người viết: "Việt Bắc trước kia là căn cứ địa cách mệnh đã nổi tiếng khắp cả nước, khắp thế giới. Thì ngày nay, Việt Bắc phải thành căn cứ của kháng chiến, để giữ lấy địa vị và cái danh giá vẻ vang của mình".


"Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công. Thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 149). Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là sự khen ngợi, động viên nhân dân các dân tộc Việt Bắc, mà đó còn là sự đánh giá cao vai trò của Việt Bắc đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954). Lịch sử cũng đã kiểm chứng sự nhận định đúng đắn, sáng suốt, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh về vai trò của căn cứ địa Việt Bắc đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến của dân tộc.


Xuất phát từ chủ trương khởi nghĩa vũ trang, trong thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề xây dựng căn cứ địa cách mạng làm chỗ đứng chân xây dựng lực lượng và làm bàn đạp cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai ra đời từ cuối năm 1940, do Ban Thường vụ Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, với những cơ sở đầu tiên được xây dựng ở Bắc Sơn (Lạng Sơn) và Võ Nhai (Thái Nguyên). Căn cứ địa Cao Bằng được thành lập theo chủ trương của Hồ Chí Minh từ cuối năm 1940, và chính thức hình thành vào đầu năm 1941 với những cơ sở đầu tiên được xây dựng ở các huyện Hà Quảng, Hòa An và Nguyên Bình (Cao Bằng). Căn cứ địa Việt Bắc, với hai trung tâm này, không ngừng phát triển và mở rộng.


1. Căn cứ địa Việt Bắc được xây dựng trên địa bàn rộng lớn có vị thế chiến lược cơ động: tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ (tiến có thể đánh, lui có thể giữ), trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, căn cứ địa đầu não của cách mạng Việt Nam.


Việt Bắc bao gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang, có diện tích tự nhiên khoảng 50.000km2, chiếm 15% diện tích tự nhiên cả nước và 32% diện tích tự nhiên miền Bắc. Địa bàn phía Bắc của căn cứ địa Việt Bắc có núi rừng hiểm trở, nhiều thung lũng lòng chảo, lòng máng sâu, có các hang động kín đáo, có tác dụng che giấu bảo vệ lực lượng. Nhiều hang động đã đi vào lịch sử: hang Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) là nơi ở đầu tiên của Hồ Chí Minh khi về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam, sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài; hang Nà Kháo (Võ Nhai, Thái Nguyên) là căn cứ của Cứu quốc quân. Những khi bị địch khủng bố, hang động, núi sâu, rừng hiểm đã trở thành những hậu cứ an toàn và là căn cứ chiến đấu của lực lượng cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, núi rừng Việt Bắc trở nên thành luỹ tự nhiên: "Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù".


Đặc biệt, Việt Bắc có tuyến biên giới tiếp giáp với Trung Quốc, dài trên 750km, với nhiều cửa khẩu thông sang Trung Quốc, tạo ra những điều kiện thuận lợi trong việc thông thương với bên ngoài, liên lạc với quốc tế.


Với quan điểm: cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giối, và khi Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, cách mạng Việt Nam là "bộ phận dân chủ chống phát xít”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Những Nghị quyết cơ bản dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, tr. 257). Từ cuối năm 1940, chọn Cao Bằng làm nơi ở và hoạt động đầu tiên khi về nước, Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí Cao Bằng trong cách mạng Việt Nam, Người nói: "Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra nhiều triển vọng lớn lao cho cách mạng nước ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở liên lạc quốc tế rất thuận lợi"2 (Võ Nguyên Giáp, Từ nhân dân mà ra, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr. 34). Về nước, ở Cao Bằng, Người đã từ đây nhiều lần sang Trung Quốc để liên lạc, tìm kiếm Đồng minh chống Nhật, tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ nhằm mở rộng mặt trận chống phát xít Nhật, vì mục tiêu giải phóng dân tộc. Giữa năm 1945, về Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) để trực tiếp chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa kịp thời cơ, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục mở rộng quan hệ ngoại giao với bên ngoài, trong đó có Đồng minh Mỹ, nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của họ dù là rất nhỏ về vũ khí và hợp tác với ta chống Nhật.


Phía Nam Việt Bắc địa thế thấp dần, là vùng bán sơn địa, cái gạch nối giữa vùng núi và đồng bằng, tạo thuận lợi để Việt Bắc liên lạc với phong trào cách mạng cả nước và sang cả nước bạn Lào... vừa là bàn đạp tấn công của cách mạng khi thời cơ đến. Để chỉ đạo cách mạng cả nước, liên lạc với Trung ương và phong trào cách mạng dưới xuôi, tạo ra thế và lực cho cách mạng, trong khi đánh giá cao vị trí Cao Bằng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được, có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc, thì khi phát động đấu tranh vũ trang lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể giữ"1 (Võ Nguyên Giáp, ATK Định Hóa, trung tâm của Thủ đô kháng chiến chống thực dân Pháp. Tạp chí Xưa và Nay, số 105, tháng 12-2001).


Đánh giá cao vị trí phía Nam khu Việt Bắc, trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám, ngoài việc đẩy mạnh xây dựng, củng cố ATK chính thức của Trung ương tại ngoại thành Hà Nội, mà Vạn Phúc (Hà Đông) là trung tâm, Trung ương Đảng đã xúc tiến xây dựng các cơ sở cách mạng, hình thành ATK thứ 2 (ATK dự bị) trên địa bàn 3 huyện: Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên) và Hiệp Hòa (Bắc Giang), vừa để thường xuyên giữ vững liên lạc với phong trào cách mạng Việt Bắc và lãnh tụ Hồ Chí Minh, vừa làm cơ sở dự bị khi bị Pháp khủng bố ATK chính thức.


Dựa vào vị thế chiến lược cơ động "Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ", rừng núi hiểm trở, sự đùm bọc của nhân dân các dân tộc, tại Pác Bó (Cao Bằng), từ ngày 10 đến 19-5-1941, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, thành lập Mặt trận Việt Minh, hoàn chỉnh đường lối, phương pháp cách mạng thời kỳ 1939 - 1945, dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Cứu quốc quân trên căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai đã tiến hành 8 tháng đấu tranh chống địch khủng bố hết sức quyết liệt, bảo vệ an toàn Ban Thường vụ Trung ương Đảng và lực lượng cách mạng. Nhờ có núi rừng hiểm trở, địa bàn cơ động, công tác xây dựng lực lượng và đấu tranh cách mạng ngày càng phát triển sâu rộng ở Việt Bắc. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), khởi nghĩa từng phần ở Việt Bắc nổ ra mạnh mẽ, đưa tới sự ra đời của Khu Giải phóng (4-6-1945) theo Chỉ thị của Hồ Chí Minh. Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) trở thành Thủ đô lâm thời của Khu Giải phóng. Nà Lừa (Tân Trào) ở chân đèo De, núi Hồng nơi tiếp giáp ba huyện: Định Hóa, Đại Từ (Thái Nguyên) và Sơn Dương (Tuyên Quang) có vị thế chiến lược cơ động, được chọn làm nơi đóng đại bản doanh của Hồ Chí Minh. Tân Trào là nơi tiến hành Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng, Đại hội quốc dân Tân Trào, quyết định Tổng khởi nghĩa, đi đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.


Đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò căn cứ địa Việt Bắc đối với cách mạng Việt Nam, với tầm nhìn chiến lược của Hồ Chí Minh, sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Người và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chủ trương tích cực củng cố căn cứ địa Việt Bắc, "để nếu bắt buộc chúng ta phải kháng chiến, các cơ quan lãnh đạo Trung ương có thể sẽ trở lại Việt Bắc"1 (Võ Nguyên Giáp, ATK Định Hóa..., Sđd). Vì vậy, các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Trần Đăng Ninh, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ bí mật xây dựng, củng cố căn cứ địa Việt Bắc, lấy các huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (Thái Nguyên), Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã (Bắc Kạn), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang) làm địa bàn chính, trong đó vùng các huyện Định Hóa, Chợ Đồn, Sơn Dương, Yên Sơn được chọn làm nơi xây dựng ATK của Trung ương, nơi bảo đảm an toàn cho cơ quan đầu não kháng chiến của Đảng và Chính phủ.


Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, cùng các đồng chí lãnh đạo khác đã lên Việt Bắc để lãnh đạo kháng chiến. Lên Việt Bắc còn có các kho tàng, xưởng máy, nhà trường của Trung ương và đồng bào tản cư từ dưới xuôi lên.


Thực dân Pháp đã nhầm khi cho rằng: các cơ quan Trung ương, kho tàng, xưởng máy của Việt Minh từ Hà Nội rút lên vùng núi Việt Bắc sẽ lâm vào tình cảnh "tan rã", là cơ hội để Pháp mở cuộc "tấn công quy mô lớn", "bắt sống cả Chính phủ Hồ Chí Minh"2 (Phi-líp Đờ-vi-le. Pari- Sài Gòn - Hà Nội, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 487).


Bằng chiến tranh nhân dân, dựa vào địa bàn chiến lược cơ động, rừng núi hiểm trở, quân và dân Việt Bắc, trong chiến dịch Thu - Đông 1947 đã làm nên những chiến thắng oanh liệt, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của chúng, bảo vệ được lực lượng, cơ quan đầu não kháng chiến, đánh bại chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp, đưa cuộc kháng chiến của ta bước sang giai đoạn mới. Vị thế thuận lợi của Việt Bắc trong quan hệ quốc tế tiếp tục được phát huy trong kháng chiến chống Pháp. Thái Nguyên trở thành Thủ đô kháng chiến, là một trong những nơi diễn ra nhiều hoạt động ngoại giao nhất của Đảng và Chính phủ ta.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #57 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:20:54 am »

2. Căn cứ địa Việt Bắc là nơi ở và hoạt động của lãnh tụ Hồ Chí Minh, của nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng, đã cùng với Đảng bộ các địa phương ra sức lãnh đạo nhân dân xây dựng lực lượng cách mạng hùng mạnh, có tinh thần chiến đấu kiên cường

Căn cứ địa Cao Bằng trong những năm 1941 - 1945, được Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, tập trung nhất là từ tháng 1-1941 đến 8-1942 và cuối năm 1944, bên cạnh Người còn có các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... giúp sức. Xuất phát từ quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh coi giác ngộ, tổ chức quần chúng cách mạng vào các đoàn thể cứu quốc của Mặt trận Việt Minh là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của căn cứ địa. Người luôn huấn thị cán bộ "phải dựa vào dân", "bám chắc vào dân", dân là "gốc cách mạng", Người nói: Đảng phải khơi lên cho hết chí khí cách mạng, tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, tập trung mọi lực lượng giải phóng dân tộc, đánh đuổi Pháp, Nhật, hướng mọi công việc của Đảng vào khâu trung tâm cứu quốc.


Để nâng cao trình độ lý luận và phương pháp cách mạng của cán bộ, đảng viên, sau lớp huấn luvện cho 40 cán bộ Cao Bằng ở biên giới Việt - Trung (cuối năm 1940), về nước, tại Pác Bó (Hà Quảng), Lam Sơn (Hòa An), hang Kéo Quảng (Nguyên Bình) thuộc Cao Bằng, Người đã mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ. Theo chủ trương của Người, Tổng bộ Việt Minh và Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng và các tỉnh cũng mở nhiều lớp huấn luyện công tác xây dựng các đoàn thể cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, đồng thời tăng cường khối đoàn kết dân tộc.


Để mở rộng tuyên truyền, huấn luyện các hội viên cứu quốc, tự vệ, Hồ Chí Minh còn biên dịch nhiều tài liệu: Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô (B), Kinh nghiệm du kích Tầu, Cách đánh du kích, Phép dùng binh của Tôn Tử, Lịch sử nước ta. Sau Thư gửi đồng bào cả nước (Kính cáo đồng bào) viết tháng 6-1941, Hồ Chí Minh còn viết nhiều bài dưới dạng thơ cho mọi tầng lớp nhân dân (nông dân, công nhân, phụ nữ, phụ lão...), nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, kêu gọi sự đồng tâm hiệp lực trong cuộc đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật, giành độc lập tự do cho dân tộc. Hồ Chí Minh còn chỉ đạo và trực tiếp tham gia biên soạn, xuất bản tờ báo Việt Nam độc lập (gọi tắt là Việt Lập; mỗi đầu là tờ báo của Việt Minh tỉnh Cao Bằng, sau đó trở thành tờ báo của các tỉnh Cao, Bắc, Lạng, có tác dụng lớn trong tuyên truyền giáo dục, tổ chức quần chúng vào các đoàn thể cứu quốc của Mặt trận Việt Minh). Chương trình Việt Minh cũng được biên soạn xuất bản theo thể văn vần gọi là "Ngủ tự Kinh", tài liệu tuyên truyền còn được dịch ra tiếng các dân tộc Mông, Dao. Tỉnh Cao Bằng thời kỳ này được coi là nơi xuất bản nhiều sách báo cách mạng nhất ở nước ta. Theo đó là phong trào học chữ quốc ngữ, xây dựng nếp sống văn hóa rộng rãi trong nhân dân. Việc thực hiện đồng thời mục tiêu giải phóng con người, giải phóng xã hội, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đã tạo ra động lực to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đến khi Khu Giải phóng thành lập thì sự nghiệp xây dựng chính quyền, xây dựng kinh tế, văn hóa giáo dục tiếp tục được đẩy mạnh.


Với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, phong trào cách mạng Cao Bằng không ngừng mở rộng ra các hướng: theo hướng Tây qua Bảo Lạc sang Hà Giang; theo hướng Nam xuống Ngân Sơn (Bắc Kạn) vào mùa Hè năm 1942; theo hướng Đông lên các huyện Quảng Uyên, Trùng Khánh, Phục Hòa, Hạ Lang, Thạch An làm bàn đạp tiến xuống Lạng Sơn. Đầu năm 1943, Cao Bằng đã có nhiều xã, tổng, châu hoàn toàn Việt Minh. Trên cơ sở lực lượng Việt Minh phát triển, lực lượng vũ trang, trước hết là tự vệ cứu quốc, được xây dựng. Đến cuối năm 1941, thực hiện Chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội du kích Pác Bó được thành lập, và cuối năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, đội quân chủ lực của cách mạng, ra đời tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Nguyên Bình, Cao Bằng).


Tại căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, do Ban Thường vụ Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, Đội Cứu quốc quân là một trong những đội vũ trang tiền thân của Đảng ra đời và trưởng thành trong cuộc đấu tranh cách mạng. Vừa chống địch khủng bố, Cứu quốc quân vừa phát triển lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang trên địa bàn các huyện Võ Nhai, Đồng Hỷ, Đại Từ, Định Hóa, Phú Lương của tỉnh Thái Nguyên và Yên Thế (Bắc Giang), Hữu Lũng (Lạng Sơn). Trước sự khủng bố ác liệt của Pháp, một bộ phận Cứu quốc quân tạm lánh sang vùng biên giới Việt - Trung, đến đầu năm 1943 về nước, cùng với bộ phận ở trong nước đẩy mạnh xây dựng lực lượng ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, một phần Lạng Sơn, Chợ Đồn (Bắc Kạn). Kết quả của phong trào Nam tiến từ Cao Bằng xuống Bắc Kạn, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ đạo và phong trào Bắc tiến của Cứu quốc quân, từ địa bàn phía Nam Việt Bắc tiến lên, đến cuối năm 1943 đã xây dựng được các "con đường quần chúng", khai thông Cao Bằng với Thái Nguyên theo chủ trương của Hồ Chí Minh. Bước phát triển này của phong trào cách mạng ở khu vực phía Nam Việt Bắc đã đưa tới sự ra đời của Chiến khu Hoàng Hoa Thám (do đồng chí Hoàng Quốc Việt - Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo) vào đầu năm 1944.


Trong cao trào chống Nhật cứu nước, các lực lượng vũ trang ở Việt Bắc đã làm nòng cốt cùng quần chúng nổi dậy giành lấy chính quyền, đưa tới sự ra đời của Khu Giải phóng gồm 6 tỉnh ở Việt Bắc, đó là hình thái hoàn chỉnh của căn cứ địa cách mạng Việt Bắc. Thực hiện 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, trong hơn 2 tháng tồn tại (4-6 đến 13-8-1945), Khu Giải phóng đạt được nhiều thành tựu về các mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Khu Giải phóng là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới, hơn một triệu đồng bào ở đó đã bước đầu được hưởng quyền tự do, dân chủ của cách mạng. Khu Giải phóng với Thủ đô Tân Trào, trở thành ngọn cờ hiệu triệu cổ vũ phong trào cách mạng cả nước, uy hiếp quân thù, bảo vệ cơ quan đầu não cách mạng, là bàn đạp tiến công của lực lượng cách mạng trong cao trào chống Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.


Theo Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, lực lượng Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân được thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân. Lễ thống nhất được tổ chức tại Định Biên Thượng thuộc Định Hóa, Thái Nguyên (15-5-1945), Bộ chỉ huy đầu tiên gồm các đồng chí: Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh và Chu Văn Tấn; lúc thống nhất, lực lượng đã lên tới 13 đại đội.


Có thể nói trong quá trình chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền, căn cứ địa Việt Bắc đã chuẩn bị được đội quân chính trị to lớn với hàng triệu người, đoàn kết, thống nhất trong Mặt trận Việt Minh và lực lượng vũ trang hùng hậu, bao gồm Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, sau thống nhất thành Giải phóng quân và lực lượng tự vệ cứu quốc đông đảo trong nhân dân giữ vai trò quan trọng trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Bế mạc Đại hội quốc dân Tân Trào, ngay chiều hôm đó (16-8-1945), Giải phóng quân, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, đã làm lễ xuất phát tại cây đa làng Tân Trào để tiến về giải phóng Thái Nguyên, mở đường cho quân ta tiến về Hà Nội.


Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã khẳng định vị trí, vai trò to lớn của căn cứ địa Việt Bắc, đó là căn cứ địa cách mạng của cả nước, là căn cứ địa đầu não của cách mạng Việt Nam. Có được như vậy đó là do:

Căn cứ địa Việt Bắc xây dựng trên địa bàn rộng lớn có vị thế chiến lược cơ động "Tiến có thể đánh, lui có thể giữ", vừa hiểm yếu, vừa dễ dàng liên lạc với phong trào cách mạng thế giới và cách mạng cả nước.

Lấy nông thôn miền núi để xây dựng căn cứ địa là truyền thống của tổ tiên ta trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong thời đại mới, do Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra, khi xây dựng căn cứ địa cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng sáng tạo những truyền thống quý báu của cha ông về xây dựng căn cứ địa là "Thiên thời, địa lợi, nhân hòa" và học tập kinh nghiệm cách mạng thế giới. Đồng thời quán triệt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, cách mạng giải phóng dân tộc là bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc, trong cùng một khoảng thời gian, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh, các trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và Cao Bằng đã ra đời, không ngừng mở rộng và thống nhất lại trên địa bàn Việt Bắc rộng lớn.


Trong dự thảo Đề cương tổng kết căn cứ địa Việt Bắc (1966), Bộ Tư lệnh Quân khu Việt Bắc đã có nhận định hết sức đúng đắn rằng: "Giá trị về mặt địa thế của khu căn cứ địa Việt Bắc không chỉ là ở mặt hiểm yếu mà đáng kể nhất là về mặt địa bàn cơ động, chiến lược của nó". Cũng cần nói thêm rằng: tính chất cơ động chiến lược đó được thể hiện trong mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới và giữa căn cứ địa Việt Bắc với cách mạng cả nước.


Địa bàn cơ động chiến lược Việt Bắc đã trở thành "đất Thánh" trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, nơi đóng các cơ quan đầu não kháng chiến, nơi quyết định nhiều chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Chính phủ, là mồ chôn giặc Pháp và là nơi khởi phát chiến dịch Điện Biên Phủ, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.


Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta khẳng định: "Nhờ một tổ chức rộng rãi và thích hợp và nhờ sự lãnh đạo khéo léo và thích hợp mà đoàn thể Việt Minh ở Việt Bắc đã phát huy được lực lượng của dân chúng để gây một phong trào cứu quốc mạnh mẽ và chuẩn bị cuộc vũ trang khởi nghĩa sắp tới (1945 - TG) một cách đầy đủ", Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Việt Bắc là căn cứ địa oai hùng của Quân giải phóng để chống Nhật, kháng Pháp". Ngoài căn cứ địa Việt Bắc, trong cao trào chống Nhật cứu nước còn có các chiến khu khác, song căn cứ địa Việt Bắc giữ vị trí quan trọng nhất.


Địa bàn Việt Bắc, địa lý tự nhiên và con người Việt Bắc giàu lòng yêu nước, kiên cường và bất khuất, với nền kinh tế tự cung tự cấp phong phú và đa dạng đã trở thành những nhân tố quan trọng góp phần quyết định đưa tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chọn Việt Bắc làm căn cứ địa cách mạng và kháng chiến chống Pháp thể hiện tầm nhìn chiến lược đúng đắn của Đảng ta và Hồ Chí Minh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #58 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:23:42 am »

CĂN CỨ ĐỊA, HẬU PHƯƠNG TRONG
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945-1954)


Đại tá, ThS. NGUYỄN VĂN QUANG
Phó trưởng Phòng Quản lý khoa học, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Căn cứ địa, hậu phương kháng chiến luôn là một trong những nhân tố thường xuyên, trực tiếp góp phần quyết định thắng lợi của chiến tranh cách mạng. Bởi vì căn cứ địa, hậu phương là nơi đứng chân, là chỗ dựa vững chắc cả về tinh thần và vật chất cho tiến tuyến, là nơi xây dựng và bảo đảm tiềm lực của chiến tranh trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, khoa học kỹ thuật.


Vận dụng sáng tạo quan điểm mác xít về chiến tranh cách mạng, đồng thời kế thừa những kinh nghiệm quý báu của dân tộc ta trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, ngay từ rất sớm, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức đầy đủ và hết sức coi trọng nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa, hậu phương kháng chiến. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương kháng chiến là xuất phát từ điều kiện thực tế của đất nước, từ kinh nghiệm thực tiễn và thắng lợi vừa giành được trong Cách mạng Tháng Tám. Trong suốt 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đã luôn quan tâm chỉ đạo và giải quyết thành công vấn đề xây dựng, củng cố, phát triển và bảo vệ hậu phương, căn cứ địa, tạo được chỗ dựa vững chắc và sức mạnh to lớn để giành thắng lợi quyết định.


Nước Việt Nam trải dài theo hướng Bắc - Nam, hẹp về bề ngang, phía Đông là biển, phía Bắc và phía Tây đa phần là rừng núi; xen kẽ giữa các vùng rừng núi, trung du và đồng bằng, có nhiều sông ngòi chia cắt, núi cao hiểm trở, được chia thành nhiều tỉnh, nhiều chiến khu, với đặc điểm và mật độ dân cư khác nhau. Trong điều kiện đó, hễ có chiến tranh là địch có thể chia cắt, khống chế nước ta thành nhiều chiến trường, nhiều mặt trận...


Trước toàn quốc kháng chiến, Đảng ta đã chỉ đạo các chiến khu, tỉnh, huyện chọn những vùng "có thế chiến lược lợi hại, tiến có thể đánh, lui có thể giữ" để xây dựng thành căn cứ địa, tạo thành chỗ dựa, chỗ đứng chân cho các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, là nơi có tiềm năng xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, có khả năng giải quyết các vấn đề hậu cần, sản xuất lương thực, thực phẩm, đạn dược, thuốc men; che giấu, nuôi dưỡng các lực lượng vũ trang và chi viện cho các chiến trường.


Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, căn cứ địa, hậu phương kháng chiến của ta từng bước được xây dựng, củng cố, thành một hệ thống liên hoàn, bao gồm những vùng tự do, các khu du kích, căn cứ du kích sau lưng địch và tinh thần yêu nước hướng về kháng chiến, về Trung ương Đảng, Bác Hồ của nhân dân trong vùng tạm bị chiếm. Đó không chỉ là khu vực phía sau trận tuyến của ta, mà là một hệ thống căn cứ địa, hậu phương kháng chiến, với nhiều cấp độ khác nhau: căn cứ địa, hậu phương của cả nước, của từng vùng, từng hướng chiến lược, chiến dịch; của từng chiến trường; của từng khu, liên khu, chiến khu; của từng tỉnh, liên tỉnh, thành phố, huyện, liên huyện, liên xã, liên thôn... Hệ thống này không chỉ là vùng tự do, giải phóng mà còn gồm cả những chỗ đứng chân của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến, công binh xưởng, kho tàng, chỗ đứng chân hoạt động của lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta ở trong vùng sau lưng địch. Cuộc kháng chiến càng phát triển thì tiền phương của ta càng mở rộng vào vùng hậu cứ địch; hậu phương của địch càng bị thu hẹp lại và nhiều vùng dần biến thành căn cứ địa, hậu phương của ta.


Thực tiễn xây dựng căn cứ địa, hậu phương kháng chiến trong kháng chiến chống thực dân Pháp cho thấy đây là một nhiệm vụ cấp thiết, mang tính sống còn của cách mạng, là một công tác toàn diện, nhiều mặt, kết hợp với nhau, của nhiều lực lượng, có chính quyền, có mặt trận, có nhân dân, có quân đội cùng tham gia dưới sự lãnh đạo của Đảng, được trải qua thử thách trong chiến tranh vừa xây dựng, vừa chiến đấu bảo vệ.


Ngay từ những ngày đầu chuẩn bị cũng như trong suốt cuộc kháng chiến, việc xây dựng, củng cố phát triển căn cứ địa, hậu phương kháng chiến cho cả nước được Đảng ta và Chủ tịch Hồ chí Minh đặc biệt quan tâm. Sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán rằng sớm muộn gì thực dân Pháp cũng sẽ quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Vì thế, trước khi về Thủ đô Hà Nội, Người chỉ thị tiếp tục xây dựng, củng cố căn cứ địa Việt Bắc, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với nguy cơ chiến tranh có thể xảy ra. Tranh thủ thời kỳ hoà hoãn ngắn ngủi, vừa củng cố, xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ, Đảng ta vừa khẩn trương, chỉ đạo xây dựng các căn cứ địa, hậu phương trong cả nước, nhất là căn cứ địa Việt Bắc. Trước và trong những ngày toàn quốc kháng chiến, việc tổ chức di chuyển các cơ quan làm việc của Trung ương Đảng và Chính phủ đã được bí mật thực hiện từng bước nhưng hết sức khẩn trương và an toàn, để đảm bảo cho sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy của Bộ thống soái đối với các chiến trường không bị gián đoạn. Nhờ có tầm nhìn chiến lược, sự chỉ đạo nhanh nhạy và kiên quyết của Trung ương Đảng, quân và dân ta đã thực hiện thành công cuộc tổng di chuyển các cơ quan đầu não kháng chiến cùng hàng vạn tấn máy móc, công binh xưởng, trang thiết bị, vật chất kỹ thuật, đạn dược, thuốc men lên căn cứ địa Việt Bắc và một số vùng căn cứ địa phương, bảo toàn lực lượng và chuẩn bị kháng chiến lâu dài.


Cùng với việc xây dựng Việt Bắc thành căn cứ địa trung tâm đầu não kháng chiến của cả nước, ngay từ đầu và trong suốt cuộc kháng chiến, Đảng ta đã chỉ đạo quân và dân cả nước xây dựng, phát triển được nhiều căn cứ địa, hậu phương kháng chiến rộng lớn và vững chắc, hình thành các căn cứ địa, hậu phương kháng chiến lớn ở miền Bắc và miền Trung. Đó là Việt Bắc, các tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh (Liên khu 4) và Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (Liên khu 5). Ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ hình thành các vùng tự do và căn cứ địa rộng lớn như Xuyên Phước Cơ (Bình Thuận), Chiến khu Rừng Sác (Cần Giờ), An Phú Đông (Sài Gòn), Đông Thành (Long An), Láng Le - Bầu Cò (Bình Chánh), Dương Minh Châu (Tây Ninh), Đồng Tháp Mười, U Minh Thượng, U Minh Hạ (Cà Mau)... Ở từng chiến khu, từng tỉnh, liên tỉnh; từng huyện, liên huyện, xã, thôn trong cả nước đều hình thành các khu căn cứ địa, hậu phướng kháng chiến - nơi đứng chân xây dựng lực lượng và củng cố tiềm lực kháng chiến trên địa bàn. Hệ thống căn cứ địa, hậu phương kháng chiến trên cả nước tuy quy mô, phạm vi và mức độ xây dựng, phát triển ở từng vùng có khác nhau, song tất cả đều có vai trò, vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển của chiến tranh trên từng địa bàn, trong từng giai đoạn, cũng như trong toàn bộ cuộc kháng chiến.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #59 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:24:24 am »

Nhìn lại quá trình phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là diễn biến của cuộc chiến tranh trên chiến trường chính Bắc Bộ và trên các chiến trường phối hợp khác như Trung Bộ, Nam Bộ, chiến trường Lào, Campuchia, đã phản ánh rõ nét vai trò căn cứ địa, hậu phương kháng chiến trong cả nước. Ở nơi nào, giai đoạn nào, căn cứ địa, hậu phương kháng chiến được củng cố, phát triển vững chắc thì ở nơi đó, giai đoạn đó, kháng chiến phát triển thuận lợi, lòng dân hăng hái tin tưởng, bộ đội trên chiến trường giành thắng lợi to lớn.


Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, khi tương quan lực lượng địch mạnh, ta yếu, địch sử dụng chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh", chủ động tiến công mở rộng phạm vi chiếm đóng của chúng, đưa những lực lượng mạnh tìm diệt chủ lực của ta hòng sớm kết thúc chiến tranh. Đỉnh điểm của âm mưu này là việc thực dân Pháp, vào ngày 7-10-1947, đã bất ngờ huy động 12 ngàn quân tinh nhuệ gồm 5 trung đoàn bộ binh và lính dù, 4 tiểu đoàn công binh, pháo binh, 800 xe tăng, cơ giới, 40 máy bay, 40 tàu chiến, ca nô các loại, ồ ạt mở cuộc tiến công chiến lược lớn lên Việt Bắc, đồng thời dùng quân dù nhảy sâu vào căn cứ nhằm chụp bắt cơ quan lãnh đạo tối cao, tiêu diệt bộ đội chủ lực còn non trẻ của ta, hòng phá tan căn cứ địa kháng chiến, mau chóng kết thúc chiến tranh theo ý đồ của Pháp.


Cuộc tiến công chiến lược của thực dân Pháp đánh sâu vào căn cứ địa Việt Bắc trong Thu - Đông 1947 là một thử thách lớn của quân và dân ta trong năm đầu kháng chiến toàn quốc. Cuộc đấu trí, đấu lực diễn ra trong suốt 75 ngày đêm, trong tương quan địch mạnh, ta yếu cả về binh lực và kinh nghiệm tổ chức điều hành chiến tranh. Trong bối cảnh đó, dựa vào căn cứ địa, hậu phương kháng chiến đã được xây dựng và chuẩn bị tốt cả về chính trị, quân sự, hậu phương, hậu cần tại chỗ, đặc biệt là thế trận lòng dân, cơ quan lãnh đạo, chỉ huy tối cao của ta cùng quân dân Việt Bắc và các lực lượng phốỉ hợp đã bình tĩnh, chiến đấu kiên cường, bẻ gãy từng đợt tiến công của địch, từng bước giành lại quyền chủ động, cuối cùng đã phản công giành thắng lợi, đập tan âm mưu thực hiện chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh" của địch. Việc đập tan cuộc tiến công quy mô lớn của địch ngay tại căn cứ địa chủ yếu của cuộc kháng chiến đã bảo vệ an toàn cơ quan đầu não Trung ương Đảng và Chính phủ, bộ đội chủ lực được bảo toàn và phát triển nhanh chóng, căn cứ địa Việt Bắc được giữ vững và ngày càng củng cố, phát triển. Việt Bắc thực sự xứng đáng là căn cứ địa Trung ương, hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến của cả nước.


Từ sau chiến thắng Việt Bắc, cuộc kháng chiến của quân và dân ta chuyển sang một giai đoạn mới với nhiều vấn đề mới về tổ chức hoạt động chiến đấu, bảo đảm chiến đấu, xây dựng căn cứ địa, hậu phương kháng chiến. Những kinh nghiệm về xây dựng căn cứ địa Việt Bắc, đặc biệt là kinh nghiệm tổ chức chiến đấu, bảo vệ căn cứ địa, hậu phương kháng chiến, được Đảng ta sớm đúc kết và chỉ đạo vận dụng nhân rộng cho các địa phương trong cả nước.


Trên chiến trường chính Bắc Bộ, sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, ta tiếp tục mở nhiều chiến dịch lớn, giải phóng Cao Bằng - Lạng Sơn, khai thông biên giới nước ta với Trung Quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa (1950), tiếp đó giải phóng Hoà Bình (1952) cùng với nhiều đất đai và dân cư. Từ đây, căn cứ địa, hậu phương kháng chiến thực sự được củng cố và mở rộng đến các tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn, Hoà Bình và một số tỉnh ở trung du Bắc Bộ, sát với vùng miền núi và trung du Liên khu 3, tạo thành thế "da báo" xen kẽ trong vùng tạm chiếm của địch. Trên các chiến trường Liên khu 4, Liên khu 5 và Nam Bộ, các căn cứ địa tuy quy mô, phạm vi và cấp độ có khác nhau, nhưng đều được tiếp tục mở rộng và củng cố thêm một bước. Địch đã cố gắng mở nhiều cuộc tiến công càn quét, bắn phá vào các vùng căn cứ địa, hậu phương nói trên nhưng đều bị quân và dân ta tổ chức đánh trả kiên cường, gây nhiều thiệt hại nặng nề hoặc bẻ gãy hoàn toàn các cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm của giặc Pháp. Đặc biệt là trên các vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh (Liên khu 4), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (Liên khu 5), tiếp giáp với vùng giải phóng Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia... địch đã dùng các lực lượng không quân, hải quân, bộ binh, biệt kích, mở Hàng trăm cuộc tiến công lớn, nhỏ, đánh từ ngoài biển vào, từ vùng núi ở đất Lào sang, nhưng đa số đều bị tiêu diệt hoặc đánh bại. Vùng tự do của ta ở Liên khu 4, Liên khu 5 và Nam Bộ vẫn được giữ vững và không ngừng mở rộng, tạo thế liên hoàn với căn cứ địa Việt Bắc và các chiến khu miền Đông Nam Bộ, xuống tận Đồng Tháp Mười, U Minh - Cà Mau...


Trong giai đoạn 1951 - 1953, mặc dù đã ở vào thế thua, thế bị động, nhưng với những cố gắng quân sự cuối cùng, địch đã tập trung nhiều lực lượng binh lực, hoả lực, được huy động từ các chiến trường và viện binh từ Pháp, mở hàng trăm cuộc tiến công, càn quét, vây ráp, đánh phá quyết liệt vào các vùng căn cứ địa và vùng tự do của ta ở Liên khu 3, Liên khu 4, Liên khu 5 và Đông Nam Bộ, nhằm triệt phá tiềm lực của ta ở căn cứ địa, hậu phương kháng chiến, đồng thời gây hoang mang cao độ trong dân chúng. Những âm mưu, thủ đoạn trên của địch tuy có gây cho ta nhiều thiệt hại và khó khăn đáng kể, song nhờ tinh thần cảnh giác cao, mặt khác, bộ đội địa phương, dân quân du kích của ta lúc này đã có bước trưởng thành, cùng với nhân dân chiến đấu kiên cường, bảo vệ vững chắc hậu phương, căn cứ địa, bảo vệ an toàn các mục tiêu chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, giáo dục trên địa bàn, giữ vững sản xuất, ổn định đời sống, tạo chỗ dựa vững chắc cho chủ lực của ta trên các chiến trường tiếp tục chiến đấu.


Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến 1953 - 1954, vùng căn cứ địa, hậu phương và vùng tự do của ta trên cả nước đã chiếm hơn 70% diện tích đất đai và gần 55% số dân. Địch chỉ còn chiếm giữ khoảng 30% đất đai, chủ yếu là vùng đồng bằng Liên khu 3, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và các thành phố, đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn... Và, ngay ở các vùng địch tạm chiếm này, ta cũng đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, căn cứ đứng chân của các lực lượng vũ trang, liên tục quấy rối và tiến hành phá hoại ngay trong lòng địch.


Trong quá trình củng cố, xây dựng căn cứ địa - hậu phương kháng chiến và vùng tự do, Đảng ta đã rất chú trọng đến vấn đề xây dựng chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Chính quyền cách mạng các cấp điều hành theo mệnh lệnh thời chiến, làm việc có hiệu lực và có uy tín trong nhân dân. Mặt trận Tổ quốc được mở rộng, là nơi tập hợp ý nguyện chung của toàn thể dân tộc, do đó khối đoàn kết toàn dân được tăng cường. Các đoàn thể quần chúng như Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Công đoàn, học sinh, sinh viên... ở tất cả các cấp đều được chính quyền cách mạng chú trọng xây dựng, củng cố, động viên phát huy vai trò của mình trong nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ hậu phương và tham gia phục vụ kháng chiến.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM