Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 04:25:14 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947-Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt  (Đọc 7418 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #20 vào lúc: 16 Tháng Hai, 2021, 06:45:57 pm »

3. Bám sát diễn biến thực tiến, nhạy bén, năng động sáng tạo trong tổ chức chỉ đạo tác chiến, đánh bại cuộc tấn công chiến lược của địch lên Việt Bắc trong Thu - Đông 1947.

Trong quá trình chuẩn bị đối phó với những cuộc hành binh của quân Pháp trong Thu - Đông 1947, Đảng đã nhận định khả năng địch có thể tấn công lên Việt Bắc. Tuy nhiên, cho đến cuối tháng 9-1947, tại Hội nghị quân sự lần thứ 4, đa số ý kiến đều nghiêng về nhận định địch sẽ đánh đồng bằng, nếu mạo hiểm thì chúng mới đánh Việt Bắc1 (Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Sđd, tr. 109, 110). Việc phòng thủ Việt Bắc cũng chủ yếu tập trung bố trí lực lượng chặn địch từ hướng trung du đánh lên; ta cũng chủ quan cho rằng "địch không thể nhảy dù Bắc Kạn"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 312). Tuy nhiên, do ta không đánh giá thật sát đúng âm mưu, cách đánh và hướng đánh của địch, nên công tác chuẩn bị đánh địch nhiều nơi ở Việt Bắc còn sơ sài, "hớ hênh, khinh địch (...) phá hoại chậm chạp"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 312)...


Ngày 7-10-1947, khi nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn mở đầu cho cuộc tấn công ồ ạt lên Việt Bắc, quân Pháp đã giành được bất ngờ, "ở nhiều nơi địch nhảy xuống ta bị động, đối phó lúng túng”4 (Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Sđd, tr. 150), chịu một số tổn thất.


Mặc dù bị bất ngờ về hành động liều lĩnh của địch, nhưng nhờ bản lĩnh và tài thao lược, khả năng ứng phó nhanh nhạy với tình huống chiến trường, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Bộ Tổng chỉ huy kịp thời chỉ đạo quân và dân Việt Bắc nhanh chóng khắc phục thiếu sót ban đầu, kịp thời tổ chức lại thế trận phản công địch. Nhờ xác định phương hướng chung đúng đắn, nhờ khả năng nắm bắt thực tiễn và tinh thần sáng tạo, Bộ thống soái tối cao của ta đã có những quyết định và điều chỉnh chính xác nhanh chóng làm thay đổi cục diện, tạo thế trận ngày càng có lợi cho ta để giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch.


Ngay sau khi địch nhảy dù xuống Bắc Kạn, Thường vụ Trung ương Đảng đã điện cho Tỉnh ủy Bắc Kạn chỉ thị phải lãnh đạo lực lượng vũ trang tích cực đánh địch, bảo vệ cơ quan, sơ tán kho tàng, tổ chức nhân dân làm vườn không nhà trống. Thường vụ Trung ương cũng điện báo gấp các địa phương trên cả nước về cuộc tấn công của địch, yêu cầu các Khu ủy, Quân khu ủy phải chỉ huy bộ đội đánh mạnh để phân tán lực lượng địch và phá cuộc tấn công Việt Bắc của chúng. Tiếp đó, ngày 9-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra "Chỉ thị cần kíp gửi các đồng chí Tỉnh ủy Bắc Kạn và các đồng chí phụ trách quân, chính, dân Bắc Kạn" yêu cầu thi hành những nhiệm vụ cần kíp về quân sự, về chính trị và kinh tế để đối phó với các mũi tấn công đang mở rộng của địch. Thường vụ Trung ương yêu cầu lãnh đạo địa phương phải dùng lực lượng bộ đội, dân quân du kích và toàn dân bao vây, giam chân địch trong tỉnh lỵ; ngăn chặn địch trên các đường giao thông trọng yếu; triệt để tiêu thổ, lập chướng ngại vật; tổ chức phục kích, đánh địa lôi, ngăn cản việc địch tiếp tế, vận chuyển, liên lạc; tiến hành phản công địch ngay trong thị xã và các điểm chúng mới chiếm đóng; thực hiện trừ gian, phòng phỉ, bảo mật, thực hiện nghiêm mật việc phòng không, bảo vệ nhân dân, cơ quan, kho tàng... Thường vụ Trung ương chỉ rõ: "Chúng ta có ba điều kiện để thắng: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Điều cần thiết là chúng ta biết lợi dụng triệt để những điều kiện ấy để giành thắng lợi"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 314).

Trong những giờ phút khó khăn đầu tiên của cuộc chiến đấu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương bình tĩnh và sáng suốt trước tình thế vô cùng khẩn trương. Ngày 11-10-1947, trong tiếng máy bay địch gầm rú, bắn phá, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa cuộc họp Hội đồng Chính phủ để thảo luận kế hoạch đối phó cuộc tấn công của Pháp, biểu thị quyết tâm kháng chiến và niềm tin vào thắng lợi.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng chỉ huy đề ra nhiệm vụ hàng đầu là bảo vệ cơ quan đầu não bằng mọi giá, chủ trương điều chỉnh kế hoạch tác chiến, giành lại chủ động; chỉ đạo khắc phục những thiếu sót trong chuẩn bị và đánh địch, triệt để phá hoại đường sá, nhà cửa, sơ tán bệnh viện, công xưởng, kho tàng, di chuyển và bảo vệ các cơ quan, làm vườn không nhà trống... Đặc biệt, ngay sau khi nắm được kế hoạch tấn công của địch lên Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương họp khẩn cấp vào chiều ngày 14-10-1947 bàn và đề ra các quyết sách mới. Hội nghị nhận định cuộc tấn công lần này của Pháp không mạnh mà yếu nên phải mạo hiểm, địch sẽ gặp nhiều khó khăn to lớn vì rải quân trên một địa bàn quá rộng; mọi hoạt động của cuộc hành binh đều phụ thuộc vào khả năng tiếp tế, tăng viện bằng đường bộ và đường thủy, nếu ta biết lợi dụng triệt để những nhược điểm của địch, phát triển những ưu điểm của ta thì cuộc tấn công của chúng nhất định sẽ thất bại. Hội nghị thông qua các kiến nghị của Bộ Tổng chỉ huy: hình thành 3 mặt trận (Sông Lô - Đường số 2; Cao Bằng - Đường số 4; Bắc Kạn - Đường số 3); thực hiện ngay phương châm "đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung" tại Việt Bắc để làm nòng cốt cho phong trào du kích, phân tán cơ quan lãnh đạo...


Theo tinh thần của Hội nghị, ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương ban hành chỉ thị "Phải phá cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp". Bản chỉ thị phân tích rõ tình hình quân Pháp tấn công Việt Bắc (mục đích, chiến lược chiến thuật tấn công của địch) và khẳng định: "Cuộc tấn công này của địch không tỏ ra chúng mạnh (...) mà tỏ ra chúng yếu, phải mạo hiểm". Nắm vững mưu đồ và bản chất kẻ thù, chỉ thị nhấn mạnh: "Chúng ta phải trấn tĩnh đối phó, vẫn phải giữ gìn chủ lực, nhưng đồng thời cũng phải nhè những chỗ yếu của địch mà đánh những trận vang dội, những trận tiêu diệt để nâng cao tinh thần bộ đội và củng cố lòng tin tưởng của nhân dân vào tiền đồ cuộc kháng chiến"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 318). Cùng với chỉ thị trên của Ban Thường vụ Trung ương, ngày 15-10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi bộ đội, dân quân du kích Việt Bắc ra sức diệt địch. Người cho rằng địch mưu hội quân ở Bắc Kạn, tạo thành cái ô bọc lấy Việt Bắc, rồi chúng cụp ô lại, dưới đánh lên, trên đánh xuống để tiêu diệt chủ lực ta và phá cho được cơ quan đầu não kháng chiến. Người chỉ rõ: Chúng chỉ mạnh về hai gọng kìm. Gọng kìm mà gãy thì cái ô cụp xuống sẽ thành cái ô rách, cuộc tấn công của địch sẽ thất bại"2 (Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Tập 4, (1946-1950), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 129).


Tuân thủ chỉ thị của Thường vụ Trung ương và những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự điều hành của Bộ Tổng chỉ huy, quân và dân ta ở Việt Bắc đã thực hiện hiệu quả phương châm đánh địch rất sáng tạo. Đó là không đưa bộ đội chủ lực ra đối đầu với pháo binh cơ giới của địch mà lấy tác chiến quy mô nhỏ làm chính, dùng lực lượng nhỏ là chủ yếu, dùng chiến thuật phục kích là chủ yếu đánh thẳng vào nhược điểm cơ bản của địch là phải tiếp tế tăng viện bằng đường bộ và đường sông trên một không gian rộng, đường núi hiểm trở, xa căn cứ ở đồng bằng. Phương châm "đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung" mang lại hiệu quả rõ rệt với sự phát triển mạnh của phong trào chiến tranh du kích. Các cơ sở sản xuất, kho tàng lui sâu vào rừng. Nhân dân làm vườn không nhà trống đẩy quân Pháp vào tình thế khốn đốn vì không thể khai thác được hậu cần tại chỗ. Cơ quan đầu não kháng chiến phân tán thành nhiều bộ phận song vẫn bảo đảm duy trì liên lạc chỉ đạo, chỉ huy giữa Trung ương với Việt Bắc và với chiến trường toàn quốc.


Đúng như dự đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua hơn hai tháng đánh lên Việt Bắc, vấp phải sự chống trả kiên cường, sáng tạo của quân và dân ta, bị đánh mạnh ở cả đường bộ, đường sông, chịu nhiều tổn thất, hàng ngàn quân bị loại khỏi vòng chiến đấu, nhiều phương tiện chiến tranh bị phá hủy, quân Pháp buộc phải co cụm vào các thị xã, thị trấn rồi rút đại bộ phận quân khỏi Việt Bắc. Cuộc tiến công quy mô lớn mà tướng Xa-lăng, chỉ huy cuộc tấn công ngạo ngược tuyên bố "Chỉ cần ba tuần lễ để đập tan đầu não Việt Minh"1 (Y-vơ Gra: Lịch sử chiến tranh Đông Dương, Sđd, lưu tại Viện Lịch sử Đảng) đã thất bại. Quân Pháp tuy có phá hoại một số cơ sở vật chất kháng chiến nhưng đã không thực hiện được bất cứ mục tiêu chiến lược nào đề ra cho cuộc tiến công. Thất bại của trận Việt Bắc cùng với khủng hoảng về chính trị, khó khăn về kinh tế làm cho Pháp nhận ra rằng không thể giải quyết chiến tranh bằng một cuộc hành quân lớn và cũng không thể tiến hành chiến tranh bằng sức lực đã cạn kiệt của nước Pháp. Sau thất bại Việt Bắc, chúng phải chuyển sang chiến lược mới là đánh kéo dài, chuyển trọng tâm sang bình định các vùng chiếm đóng hòng vơ vét sức người sức của, dùng chiến tranh tổng lực kết hợp cả quân sự, chính trị và kinh tế, hòng kéo dài chiến tranh. Thực tế lịch sử cho thấy thất bại của địch ở Việt Bắc Thu - Đông 1947 đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của chủ trương chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh", buộc địch phải thay đổi chiến lược, chấp nhận những bất lợi mới trên chiến trường.


Thắng lợi của cuộc phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947 là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, mở ra một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến với sự chuyển hóa lực lượng ngày càng có lợi cho ta. Căn cứ địa vững vàng và trưởng thành, bộ đội chủ lực và dân quân du kích đều được tôi luyện trong thực tế chiến đấu, được bổ sung khá nhiều trang bị, vũ khí. Cơ quan lãnh đạo kháng chiến được bảo vệ an toàn. Trong khi kẻ địch tìm mọi cách để chụp bắt "cơ quan đầu não của Việt Minh" thì Chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh đứng đầu đã vừa liên tục di chuyển trong các huyện Võ Nhai, Định Hóa (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang)... vừa tiếp tục điều hành công việc kháng chiến trên toàn quốc.


Ngay sau thắng lợi có ý nghĩa chiến lược ở Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ, sự điều khiển khôn khéo của Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy, sự dũng cảm của tướng sĩ Vệ quốc quân và dân quân du kích, nhờ sự hăng hái của toàn thể đồng bào, mà ta đã đánh tan cuộc tấn công vào Việt Bắc của thực dân Pháp"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 367).


Thắng lợi Việt Bắc đã củng cố và nâng cao uy tín của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước thêm phấn khởi và tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Một năm sau toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: "Lực lượng của ta ngày càng thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến, không có thoái"; còn lực lượng địch như "mặt trời lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 313-314).


Thắng lợi Việt Bắc có ý nghĩa chiến lược, mở ra một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến, đồng thời để lại những bài học quý giá về dự kiến những khả năng và chủ động đương đầu với kẻ địch có lực lượng mạnh và phiêu lưu mạo hiểm; về sự nhạy bén trong đánh giá cục diện chiến trường; về một đường lối đúng đắn thể hiện tầm nhìn chiến lược, toàn diện, toàn cục, liên tục tổng kết thực tiễn, chủ động chuẩn bị đương đầu với những thách đố, kịp thời phát hiện và kiên quyết sửa chữa thiếu sót, tạo dựng, rèn luyện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ lãnh đạo tài ba là những nhân tố quyết định làm nên chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 vang dội. Những bài học ấy, cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #21 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 08:47:33 am »

PHẢI PHÁ TAN CUỘC TIẾN CÔNG MÙA ĐÔNG CỦA GIẶC PHÁP - MỘT QUYẾT TÂM CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG


PGS, TS. VŨ QUANG HIỂN
Khoa Lịch sử, Trường đại học Khoa học xã hội nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội


Thu - Đông năm 1947, thực hiện chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh", quân Pháp mở cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc. Trung ương Đảng ra chỉ thị "Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp". Đó là quyết tâm chiến lược trong việc tổ chức một chiến dịch phản công của quân và dân ta, chuyển cuộc kháng chiến sang một bước phát triển mới.

1. Cơ sở để xác định quyết tâm chiến lược.

1.1. Việt Bắc là nơi ta có những điều kiện thuận lợi để tiến hành một cuộc chiến đấu lâu dài, xây dựng căn cứ địa kháng chiến.

Trong chiến tranh cách mạng Việt Nam, Việt Bắc là một vùng nông thôn rừng núi có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, nối liền với đồng bằng Bắc Bộ bằng một số trục đường bộ và đường thủy. Đường số 2 từ Hà Nội, qua các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, lên tới Hà Giang. Đường số 3 từ Hà Nội, qua Thái Nguyên, Bắc Kạn, tới Cao Bằng. Đường thủy theo sông Hồng tới Phú Thọ, rồi theo sông Lô lên Tuyên Quang và sông Gâm tới Chiêm Hóa. Do bị chia cắt bởi những dãy đồi núi liên tiếp, giao thông giữa các tỉnh Việt Bắc không thuận lợi. Việt Bắc có đường biên giới với Trung Hoa, nên có thể mở đường liên lạc quốc tế.


Địa hình núi rừng Việt Bắc hạn chế hoạt động của các phương tiện cơ giới, tác chiến hiệp đồng binh chủng và phi pháo địch; thuận lợi cho việc xây dựng lực lượng và tác chiến của ta. Quân và dân ta có khả năng phát huy truyền thống "đánh giặc tại chỗ" từ làng bản, phát triển lối đánh du kích một cách chủ động, tránh những trận giao chiến theo ý muốn của địch, buộc địch phải phân tán nhỏ lực lượng để đối phó khắp nơi.


Thời tiết, khí hậu Việt Bắc có lợi cho các lực lượng tại chỗ của ta, không có lợi cho quân xâm lược trên những chặng đường dài hành quân, dễ gây cho chúng sự hao mòn sức lực.


Đó là nơi tập trung đông đảo đồng bào các dân tộc với truyền thống đoàn kết một lòng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, có ý thức độc lập dân tộc và dân chủ khá sâu sắc, đã được giác ngộ và tổ chức theo phương hướng cách mạng của Đảng. Trong giai đoạn trực tiếp vận động cách mạng 1939-1945, Việt Bắc là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo giáo dục, đã phát huy cao độ tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại xâm, tuyệt đối trung thành, quyết tâm chiến đấu đến cùng vì độc lập tự do.


Hồ Chí Minh viết: "Việt Bắc là gốc tích tổ tiên Hùng Vương ta dựng nước. Là nền tảng chống ngoại xâm của ông cha ta, như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nùng Chí Cao. Là căn cứ chống Pháp của tiên liệt ta như cụ Hoàng Hoa Thám. Là căn cứ của cuộc dân tộc giải phóng, chống Pháp, chống Nhật. Là quê hương của Giải phóng quân, anh cả của Vệ quốc quân.


Đồng bào Việt Bắc có Kinh, Thổ, Nùng, Thái, v.v... phong tục tập quán tuy có khác nhau ít nhiều, nhưng lòng nồng nàn yêu nước, lòng căm hờn thực dân, thì muôn người như một.


Lòng yêu nước của đồng bào, nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch..."1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 365-366).


R. Xa-lăng, viên tướng chỉ huy quân đội Pháp ở miền Bắc Đông Dương lúc đó phải thừa nhận: "... Vùng này, dựa trên cơ sở các dân tộc ít người, đã trải qua hai năm dưới chính thể vững chắc của Việt Minh... Muốn lôi kéo dân chúng về phía chúng ta, chúng ta phải thể hiện quyết tâm và nêu lên những điều cam kết về chính sách của chúng ta sau này...".


Ở Việt Bắc có nhiều đơn vị bộ đội Vệ quốc đoàn đang được xây dựng và củng cố, cùng các lực lượng vũ trang địa phương, có khả năng đẩy lùi những cuộc tiến công lớn của địch. Xa-lăng đánh giá: "... Nếu ở đồng bằng chỉ có một số ít dân quân đánh bằng cạm bẫy, trên đường giao thông, thì ngược lại, ở phía Bắc này, lực lượng kháng chiến có chừng mười lăm tiểu đoàn. Họ tiếp tục tuyển mộ lính và đào tạo cán bộ. Kẻ thù đã tổ chức cả một hệ thống kháng chiến rất chặt chẽ, không những bảo vệ được ở mức cao nhất các cơ quan lãnh đạo mà còn có thể tiến hành một cuộc chiến đấu phòng ngự bền bỉ, ác liệt..."2 (Xa-lăng còn cho rằng: "Trong phạm vi khu tứ giác Chợ Chu - Tuyên Quang - Chiêm Hóa - Chợ Rã, đối phương tổ chức một căn cứ để điểu khiển, động viên kháng chiến. Bắc Kạn là thủ đô chính trị và tinh thần của căn cứ đó. Căn cứ quân sự được nối liền với Trung Quốc bằng hai đường: Bắc Kạn - Cao Bằng - Quảng Uyên và Tuyên Quang - Lào Cai - Hồ Khẩu..." (theo Trần Trọng Trung: Lịch sử một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 167-168).


Như vậy, về tương quan lực lượng, Việt Bắc cũng là nơi địch tương đối yếu hơn, có nhiều sơ hở hơn so với vùng nông thôn đồng bằng, nhất là các đô thị có quân Pháp chiếm đóng.


Là Thủ đô kháng chiến, Việt Bắc là nơi đứng chân của các cơ quan đầu não. Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội, nhưng đồng thời đã có sự chuẩn bị xây dựng Việt Bắc thành căn cứ địa kháng chiến nếu chiến tranh nổ ra. Đó là nơi "tiến có thể đánh, lui có thể giữ". Trong bức thư ngày 2-9-1947, gửi đồng bào các tỉnh Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

"Việt Bắc trước kia là căn cứ địa của cách mệnh, đã nổi tiếng khắp cả nước, khắp thế giới. Thì ngày nay, Việt Bắc phải thành căn cứ của kháng chiến, để giữ lấy cái địa vị và cái danh giá vẻ vang của mình. Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 207).


Việt Bắc là nơi ta có đủ những điều kiện về thiên thời, địa lợi, nhân hòa để duy trì một cuộc chiến đấu lâu dài, làm thất bại những cuộc tiến công quy mô lớn của địch, xây dựng và bảo vệ căn cứ địa kháng chiến.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #22 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 08:49:34 am »

1.2. Tiến công Việt Bắc là một mưu đồ lớn, nhưng giặc Pháp có những khó khăn về nhiều mặt.

Tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thực dân Pháp cần: khắc phục chỗ yếu về chính trị là chiến tranh xâm lược phi nghĩa, tránh những phản ứng bất lợi của dư luận thế giới; phát huy sức mạnh của quân đội nhà nghề và phương tiện chiến tranh hiện đại; tiết kiệm chi phí chiến tranh và sớm hoàn thành mục tiêu xâm lược thuộc địa để khai thác về kinh tế. Chính vì thế, lối đánh sở trường của quân xâm lược là "đánh nhanh thắng nhanh".


Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu giam chân địch trong các thành phố, bộ đội chủ lực ta rút về hậu phương để chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Thực dân Pháp mở rộng địa bàn chiếm đóng theo các trục đường giao thông nhằm củng cố các thành phố, thị xã đã chiếm được; đồng thời tập trung lực lượng, mở cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc. Mặc dù chủ động tiến công, nhưng giặc Pháp gặp nhiều khó khăn khác nhau.


Thực hiện mưu đồ lớn, điều lo lắng của Xa-lăng và bộ tham mưu quân Pháp ở Bắc Đông Dương là vấn đề lực lượng. Họ trù tính cần có 20.000 quân để có thể đánh lên Việt Bắc, nhưng toàn bộ quân Pháp ở Bắc Đông Dương lúc này chỉ có 20 tiểu đoàn (kể cả quân chiếm đóng và quân cơ động). Việc xin thêm quân từ nước Pháp gặp nhiều khó khăn, vì thực dân Pháp còn phải lo đối phó với phong trào nổi dậy ở Ma-đa-ga-xca. Vì thế, Bộ chỉ huy quân Pháp chỉ tập trung được khoảng 12.000 quân để tiến hành cuộc tiến công lên Việt Bắc. Với lực lượng có hạn, những viên "quan cai trị" thực dân và những viên chỉ huy cuộc hành binh rất lo ngại. Mi-sô-đen (Michodel) cho là sẽ không đạt kết quả vì "Việt Minh có tài bẻ gãy các mũi tiến công, làm rối loạn đội hình đối phương, lại có tài thoát khỏi thế bị bao vây... Họ có thể sống dài ngày trong rừng, biết nhận địa hình thông thạo, có thể xuất quỷ nhập thần... Tóm lại, họ là những người không thể nào tóm bắt được". Không đảm bảo chắc chắn giành thắng lợi, bản thân Xa-lăng cũng "cảm thấy" đánh lên Việt Bắc là một ”kế hoạch mạo hiếm", tuy nhiên ông ta vẫn hy vọng vào khả năng tạo yếu tố bất ngờ bằng một "kế hoạch nghi binh chiến lược"1 (Trần Trọng Trung, Lịch sử một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, Sđd, tr. 172. Để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau, trong đó có vấn đề xúc tiến lập chính quyền tay sai, trao trả độc lập giả hiệu, vận động các thế lực đế quốc công nhận chính quyền này về mặt ngoại giao, âm mưu "dùng người Việt hại người Việt". Trong quá trình xúc tiến lập một chính phủ bù nhìn, con bài mà Pháp nghĩ đến lúc đầu không phải là Bảo Đại (Vĩnh Thụy), mà là cựu hoàng đế Duy Tân (Vĩnh San), nhưng chiếc máy bay chở ông ta về nước đã bị nổ trên bầu trời Bắc Phi. Trong khi đó Mỹ muốn thâm nhập vào khu vực châu Á nên đòi hỏi Pháp phải nới rộng quyền tự trị cho người bản xứ "không cộng sản". Mỹ cho người gặp Bảo Đại tại Hồng Kông  (8-1947), rồi gặp Chính phủ Pháp, ép Pháp sử dụng giải pháp Bảo Đại, buộc Pháp phải tự đặt mình trong chiến lược chống cộng của Mỹ ở khu vực. Khi thực dân Pháp đang lôi kéo Bảo Đại và thái độ của Bảo Đại chưa rõ rệt, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương: "Việc công kích Bảo Đại nên dè dặt một chút", phải khéo "ly gian Vĩnh Thụy và Pháp"; "lúc này không nên công kích Bảo Đại hay Vĩnh Thụy hay tổ tiên nhà Nguyễn (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội , 2000, tr. 212 và 270)), đánh lạc hướng chú ý của Việt Minh về quân sự, và để tạo một miếng mồi chính trị dụ dỗ Bảo Đại đang còn do dự, Bộ tham mưu của Xa-lăng tung ra dư luận, rằng sau mùa mưa, quân Pháp chỉ còn chiếm đóng Nam Bộ, một phần biên giới Tây Bắc và Đông Bắc cùng với vùng duyên hải Bắc Bộ, còn phần lớn đất đai miền Bắc Đông Dương (kể cả Hà Nội) sẽ được trao cho chính quyền không cộng sản2 (Vào khoảng tháng 8-1947, những tin tức này được đưa trên một số tờ báo ở Hà Nội, Sài Gòn và Pa-ri. Đó là  "một việc làm hai mục đích". "Xa-lăng và Bộ tham mưu Pháp ở miền Bắc rất tin rằng "báo chí sẽ tiếp tay một cách vô ý thức" cho chúng và một khi đối phương đã bị lừa thì phần thắng sẽ nắm chắc trong tay". Ngày 18-9-1947, tại Hồng Kông, Bảo Đại lên tiếng: "Tôi vì hạnh phúc của dân mà thoái vị (?). Nay nếu dân lại muốn tôi ra giúp nước (?) và điều đình với Pháp thì tôi sẵn sàng chấp nhận cho hợp với nguyện vọng chung..." (xem: Trần Trọng Trung: Lịch sử một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, Sđd, tr. 172)).


Về phía nước Pháp, tuy cuộc chiến tranh Đông Dương chưa trở thành một vấn đề quốc tế lớn, bộ máy tuyên truyền của Pháp ra sức mô tả cuộc chiến tranh này như những cuộc hành quân "bình định". Nhưng Pháp không chỉ phải lo đối phó với cuộc kháng chiến của nhân dân Đông Dương, mà còn phải đối phó với phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa khác ở châu Phi. Tình hình nội bộ nước Pháp không ổn định, phải thay đổi nội các nhiều lần. Vấn đề Việt Nam được bàn cãi náo nhiệt tại Quốc hội Pháp. Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Liên đoàn Lao động Pháp tỏ rõ thái độ đòi Chính phủ Pháp phải giảng hòa với Việt Nam. Các Chính phủ Pháp tham gia kế hoạch Mac-san (Marshall) ngả mạnh sang hữu và lao sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương.


Về quốc tế, cuộc nội chiến ở Trung Quốc bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới. Từ giữa năm 1947, Quân giải phóng chuyển sang phản công, tiến dần tới biên giới Việt - Trung. Điều đó làm cho quân Pháp lo ngại. Bộ trưởng Mu-tê (M. Moutet) nói với tướng Xa-lăng rằng: Trung Hoa đỏ đang nổi lên và bắt đầu tiến xuống phía Nam rồi đó. Tôi yêu cầu ông làm mọi việc để không cho Việt Minh có thể tiếp xúc được với các đơn vị của Mao. Tháng 6-1947, nhận được báo cáo của đại tá Xi-de (Sizaire) chỉ huy quân Pháp ở Lạng Sơn về "những hoạt động của quân cộng sản ở vùng biên giới", Xa-lăng cho những hoạt động đó là "một sự cảnh cáo đối với tương lai của quân đội Pháp trên chiến trường miền Bắc". Quân Pháp cần mở một cuộc hành binh nhằm "bịt kín biên giới, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với (Quân giải phóng) Trung Quốc để loại trừ mọi sự viện trợ từ bên ngoài vào; truy lùng và tiêu diệt Việt Minh đến tận sào huyệt của họ, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ" trước khi quân cộng sản Trung Hoa đến cửa ngõ biên giới1 (Francoi Joyaux, Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Tập 1, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1981, tr. 85, 163 và 164).


Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ ra rằng: "Tình hình Hoa Nam phát triển gay go, nên phản động Pháp phải đánh ngay miền biên giới. Cố nhiên có nhiều nhân tố thúc đẩy chúng phải đánh Việt Bắc và vùng biên giới. Nhưng tình hình Hoa Nam là một nhân tố quan trọng trong các nhân tố đó"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 329).


Về tình hình cuộc chiến tranh ở Việt Nam, từ ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, quân và dân ta đã đạt được những mục tiêu cơ bản do Trung ương Đảng đề ra. Địch "đang cố làm chủ các thành phố, đường giao thông vận tải, vùng mỏ, miền duyên hải và những cứ điểm ở biên giới. Nhưng chúng chỉ kiểm soát được một số thành phố, còn ta vẫn làm chủ ở thôn quê ngay xung quanh những thành phố ấy. Địch thiệt hại khá nhiều ở Bắc Bộ". "Chiến sự Nam Bộ và Nam Trung Bộ khá hơn trước".


Nghị quyết của Hội nghị cán bộ Trung ương (4-1947) khẳng định: "Cuộc kháng chiến tuy gian khó, nhưng có mấy điểm dưới đây làm cho ta rất tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng:

a) Mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp bao gồm toàn dân;

b) Mặt trận ấy thực tế do Đoàn thể ta lãnh đạo;

c) Tinh thần nhân dân và bộ đội ta rất cao và hấp thu nhiều kinh nghiệm chiến đấu khá mạnh, khá nhanh;

d) Mục đích kháng chiến của ta được nhân dân Pháp và thuộc địa Pháp, các lực lượng dân chủ trên thế giới, nhất là các dân tộc Đông Nam châu Á đồng tình".


Ngay khi mở đầu cuộc tổng giao chiến, quân và dân ta đã làm cho thực dân Pháp bất ngờ. Điều bất ngờ đó không phải là ta kiên quyết kháng chiến chống Pháp, mà là ta không chủ trương một cuộc rút lui chiến lược như chúng tưởng, và hơn thế, lại chủ động bắt đầu cuộc kháng chiến toàn quốc ngay tại các đô thị. Quân và dân ta đã khẩn trương triên khai cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện, bước đầu làm thất bại âm mưu "đánh nhanh thắng nhanh" của Pháp. Từ thực tế đó, Hội nghị cán bộ Trung ương khẳng định: "Chiến tranh sẽ quyết liệt hơn, nhưng ta rất có thế đánh lâu dài và bồi bổ thêm thực lực để một ngày kia phản công"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Sđd, Hà Nội, 2000, tr. 176-179).
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #23 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 08:51:47 am »

2. Chủ động dự đoán và đánh trả cuộc tiến công lớn của quân Pháp.

Như trên đã trình bày, việc tiến công lên Việt Bắc của quân đội Pháp không phải là điều bất ngờ đối với ta. Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã có dự đoán trước, chỉ ra những hướng tiến công chính và những hướng kiềm chế của địch.


Tháng 6-1947, Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 3 nhận định tình hình và dự đoán những khả năng hoạt động quân sự của quân Pháp nhằm củng cố các đô thị lớn và các đường giao thông thủy - bộ quan trọng, ra sức càn quét vùng nông thôn do chúng kiểm soát, xây dựng ngụy quyền và ra sức vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Chúng có thể "khởi những cuộc tiến công lớn để chiếm đóng những vị trí chiến lược còn ở trong tay ta, hoặc để quét sạch miền trung châu Bắc Bộ, hoặc để khống chế miền Thanh - Nghệ hay Nam - Ngãi; chúng cũng có thể mưu đồ cuộc đại tiến công vào Việt Bắc"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 150). Hội nghị chỉ rõ: để chuẩn bị đánh địch, các căn cứ địa cần được củng cố thêm một bước, xây dựng và phát triển thêm một bước cơ sở chính trị, ra sức tăng gia sản xuất, tích trữ lương thực, đẩy mạnh phòng gian...


Ngày 19-8-1947, trong Thư gửi đồng bào Việt Bắc, Hồ Chí Minh nhận định: "Hiện giờ Khu 1 chưa phải là mặt trận chính. Nhưng đối với bọn thực dân hung ác, nay mai Khu 1 rất có thể trở nên mặt trận chính. Vì vậy, chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng. Chúng ta cần phải làm những việc sau này:

a) Đã đoàn kết phải đoàn kết thêm. Khắp nơi phải tổ chức Hội Liên hiệp quốc dân.

b) Tập luyện dân quân, tự vệ, du kích. Giúp đỡ bộ đội.

c) Ra sức tăng gia sản xuất, làm cho nhiều lúa, nhiều sắn, nhiều ngô. Nuôi cho nhiều gia súc.

d) Phát triển bình dân học vụ. Giúp đỡ đồng bào tản cư. Giữ gìn bí mật.

e) Các cán bộ quân sự, chính trị, hành chính và chuyên môn thì phải làm đúng bốn chữ: Cần, Kiệm, Liêm, Chính"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 191).


Trong chỉ thị "Bô-la nói gì - ta phải làm gì?” (15-9-1947), Thường vụ Trung ương Đảng nhắc nhở quân, dân cả nước phải ra sức "chuẩn bị chiến dịch mùa Đông về mọi mặt... đặng đối phó với cuộc tấn công có thể lan rộng và ác liệt của quân đội Pháp sau mùa mưa này. Chuẩn bị chống các cuộc quân địch đánh xuyên mũi dùi, đánh vòng thật rộng, nhảy dù đổ bộ sau lưng ta". "Mọi lực lượng của dân tộc ta phải được động viên... sửa soạn phá những cuộc tấn công lớn của địch trong những tháng tới đây. Quân sự thắng lợi giúp cho chính trị thành công. Cho nên "tất cả cho mặt trận, tất cả để thắng lợi" phải là khẩu hiệu của dân tộc ta lúc này"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 300-302). Cùng ngày, Thường vụ Trung ương đã ra chỉ thị "Sửa soạn phá những cuộc tấn công lớn của địch".


Mùa Đông 1947, quân Pháp tập trung lực lượng tiến công lên Việt Bắc, mở đầu bằng những cuộc nhảy dù và đổ bộ phía sau lưng ta, chiếm đóng các thị trấn, thị xã ngăn cách Việt Bắc và miền xuôi: Bắc Kạn (7-10), Chợ Đồn (8-10), Phủ Đoan (12-10), Tuyên Quang (13-10).


Sau khi quân Pháp nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn (7-10- 1947), một vị trí nằm sâu trong lòng hậu phương ta, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị cần kíp gửi các đồng chí Tỉnh ủy Bắc Kạn và các đồng chí phụ trách quân, chính, dân Bắc Kạn (9-10-1947), phân tích mục đích cuộc tiến công của địch, trong đó có việc "Cố chiếm một vài chiến công "nổi tiếng" để giữ vững lòng tin tưởng của bọn thực dân Pháp chủ chiến, và do đó để vận động trong cuộc tuyển cử hội đồng hàng tổng 19-10 tới; đồng thời để xúc tiến việc động viên và tập hợp các lực lượng Việt gian đặng tiến tới thực hiện mặt trận ’’phản kháng chiến" và lập chính phủ bù nhìn toàn quốc". Thường vụ Trung ương nhận định việc chúng nhảy dù một số địa điểm không chứng tỏ địch dồi dào lực lượng, đủ sức tấn công ta trên khắp các mặt trận. "Song dù sao nó cũng tỏ ra địch mạo hiểm và coi thường ta. Chúng nhân chỗ hớ hênh, khinh địch của ta (như phá hoại chậm chạp, cho rằng địch không thể nhảy dù Bắc Kạn, v.v.) mà tấn công ta”.


Ban Thường vụ chỉ đạo quân dân Bắc Kạn bao vây, giam chân địch ở tỉnh lỵ, ngăn địch đánh tỏa ra trên các con đường từ Bắc Kạn đi Chợ Đồn, Chợ Rã, Cao Bằng, Chợ Mới, Na Rì, Chợ Chu: dùng những đội phá hoại cản địch: tổ chức các đội chuvên môn phục kích và đánh địa lôi tiêu diệt địch khi chúng vận động và ngăn cản việc tiếp tế, vận chuyên của địch; tập hợp lực lượng phản công những nơi chúng chiếm đóng, kể cả trường bay, không cho chúng kịp củng cố vị trí; tổ chức trừ gian, phòng phỉ, phong tỏa tin tức, canh gác, kiểm soát việc đi lại; cắm chông ở những nơi địch có thể nhảy dù... Thường vụ Trung ương nhấn mạnh: "Tình thế gấp bức, giành thời gian là một việc hết sức trọng yếu", đây là một dịp để quân dân Bắc Kạn lập chiến công, góp sức với đồng bào cả nước giết địch.


"Chúng ta có ba điều kiện để thắng: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Điều cần thiết là chúng ta biết lợi dụng triệt để những điều kiện ấy để giành lấy thắng lợi (TG nhấn mạnh)"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 312-313).


Khi quân Pháp nhảy dù xuống một số vị trí trong lòng Việt Bắc, quân và dân ta đã trấn tĩnh phản công, gây cho đối phương nhiều thiệt hại: học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn diệt hàng chục quân nhảy dù xuống gần nhà trường; đội cao xạ ở Cao Bằng bắn rơi 1 máy bay, làm thiệt mạng 12 sĩ quan Pháp, trong đó có Phó tham mưu trưởng quân đội Pháp ở miền Bắc Đông Dương; Vệ quốc quân đánh lui lực lượng địch đổ bộ lên Bình Ca; Vệ quốc quân và dân quân phối hợp đột kích Chợ Mới bắn đại bác vào kho của địch; dân quân xã Thanh Mai (Bắc Kạn) diệt 2 lính nhảy dù, thu 1 súng Moócchiê và một số vũ khí khác; Vệ quốc quân phản công đánh Cao Bằng...


Những trận chiến đấu trên đây gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại và chứng tỏ khả năng quân và dân ta có thể giam chân địch và đánh thắng địch. Đó là cơ sở thực tế để quyết định tổ chức một chiến dịch phản công trên quy mô lớn, đập tan cuộc tiến công của giặc Pháp.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #24 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 08:53:23 am »

3. Phải phá tan cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp.

Ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp”. Bản chỉ thị phân tích mục đích và tình hình của đối phương khi tiến công Việt Bắc: lực lượng của chúng có hạn; tình hình chính trị bên Pháp thúc bách; mưu đồ lập một chính phủ bù nhìn toàn quốc ở Việt Nam lâm vào một tình trạng bế tắc, nhùng nhằng; phải tranh thủ điều kiện thời tiết mùa khô để mở những cuộc hành quân lớn. Tình hình đó buộc Pháp phải tranh thủ thời gian, đánh táo bạo, hành động tích cực về quân sự để phục vụ kế hoạch xâm lược về chính trị.

Cách đánh của địch là:

"Triệt để lợi dụng ưu điểm về kỹ thuật (máy bay, ca nô, bom), nhảy quãng khá xa đằng sau lưng ta, đánh những vố bất ngờ, làm cho ta không kịp đối phó và bố trí ngăn cản chúng.

Bao vây căn cứ địa chính của ta và tìm cách tiêu diệt quân chủ lực của ta, hòng đè bẹp chí kháng chiến đáng sợ của dân tộc ta.

Cầm giữ quân ta trên miền rừng núi một phần nào để rảnh tay càn quét và củng cố miền xuôi, lập cơ sở cho chính quyền bù nhìn toàn quốc".


Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận định: "Trận tấn công mùa Đông của địch mới bắt đầu". "Nhưng lực lượng của chúng có hạn nên cuộc tấn công này chỉ ồ ạt lúc đầu. Rồi đây do sự phản công cố gắng của ta, địch bắt buộc phải thu hẹp địa bàn chiếm đóng lại và quay ra thế thủ, càn quét các vùng chung quanh vị trí hoặc bên cạnh đường giao thông lớn". "Chúng đem quân lên mạn ngược là một dịp cho ta để đánh chúng ở miền xuôi. Chúng đóng quân nơi xa càng dễ cho ta bao vây chúng và chặt đường tiếp tế, đánh chúng một cách rất có lợi trong khi chúng vận động". Ban Thường vụ cho rằng: "Cuộc tấn công này của địch không tỏ ra chúng mạnh, mà tỏ ra chúng yếu, phải mạo hiểm". "Chúng ta không sợ địch, nhưng cũng không được khinh địch. Chiến tranh sẽ gay go, quyết liệt hơn...". "Chiến tranh không có mặt trận sẽ hiện ra rõ rệt hơn". Nhiều khó khăn sẽ xuất hiện. "Chúng ta phải dự trước tất cả để trấn tĩnh đối phó, đối phó có kế hoạch"1 ().


Nhiệm vụ quân sự của quân và dân ta là: đánh mạnh dưới đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ, khiến cho địch không thể tập trung quân đánh Việt Bắc; giam chân địch tại mấy căn cứ chúng vừa chiếm (nhất là mấy thành phố và Việt Bắc); bao vây những căn cứ đó, thu nhỏ lại thành như những hòn đảo giữa bể; triệt để làm vườn không, nhà trống chung quanh chỗ địch chiếm đóng, khiến cho chúng không thể ăn cướp của dân mà tự cấp dưỡng; đột kích tiêu diệt địch ở các cứ điểm chúng mới chiếm, trước khi chúng củng cố được vị trí; đột kích trường bay lẻ bằng những đội cảm tử; chặt đứt giao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế; nghiêm ngặt phòng không và phòng nhảy dù...


Bản chỉ thị còn đề ra một loạt biện pháp về tuyên truyền cổ động; kinh tế, tài chính; ủng hộ mùa Đông binh sĩ; dân vận và công tác đảng. Bản chỉ thị vạch rõ: "Trong những lúc khó khăn như thế này, Hội ta không vững thì không thể chèo chống nổi với tình thế. Vậy phải tiếp tục vừa phát triển Hội, vừa thanh trừ những phần tử xấu ra ngoài Hội, căn cứ vào thực chất của từng người bộc lộ ra trong cơn thử thách nặng nề của chiến tranh".


Thường vụ Trung ương khẳng định: "Cuộc tấn công lần này của địch tỏ ra chúng mạo hiểm và khinh thường lực lượng ta. Chúng ta phải trấn tĩnh đối phó, vẫn phải giữ gìn chủ lực, nhưng đồng thời cũng phải nhè những chỗ yếu của địch mà đánh những trận vang dội, những trận tiêu diệt để nâng cao tinh thần bộ đội và củng cố lòng tin tưởng của nhân dân ở tiền đồ cuộc kháng chiến"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 317-318).


Trong văn kiện Phụ chú một số điểm trong Chỉ thị ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương nêu rõ năm nhược điểm của quân Pháp khi chúng tiến công Việt Bắc.


Trong khi ta có đủ những điều kiện về thiên thời, địa lợi và nhân hòa, thì địch có những chỗ yếu rất cơ bản. Ta có thể khắc phục những hạn chế và bỡ ngỡ ban đầu, khắc phục tâm lý chủ quan, rút kinh nghiệm và tổ chức chiến đấu để giành thắng lợi. Thường vụ Trung ương nêu rõ: "Nhất định ta sẽ tiêu hao và tiêu diệt địch làm cho địch thua thiệt nặng đến nỗi không thể gượng lại được sau chiến dịch mùa Đông này".

Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ những chỗ yếu của quân Pháp:

"a) Địch chỉ hoạt động được mấy tháng, sau mùa mưa thì chúng hết thiên thời.

b) Việt Bắc địa thế hiểm trở, quân địch không có địa lợi.

c) Địch càng lan rộng thì người càng thiếu, sức càng mỏng, chúng dễ bị tiêu diệt, chúng càng đánh lan ra, càng dở thói tham ô tàn nhẫn, càng làm cho đồng bào ta, miền ngược cũng như miền xuôi, đoàn kết chặt chẽ chống lại chúng, thế là địch không có nhân hòa".


Người khẳng định: "Cũng như các cuộc hành binh khác, kết quả địch sẽ thất bại"1 (Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 328).

Biến quyết tâm chiến lược của Đảng thành hành động thực tiễn, quân và dân ta đã kiên quyết triển khai cuộc chiến đấu, đánh địch ở mọi nơi chúng xuất hiện, đẩy lùi cuộc tiến công quy mô lớn của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ địa Việt Bắc và các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Bộ đội chủ lực ta thêm trưởng thành và tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Đặc biệt với chiến thắng Việt Bắc, quân và dân ta đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của giặc Pháp, buộc chúng phải quay về đánh lâu dài với ta. Ta có điều kiện tiếp tục triển khai mạnh mẽ cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, tạo thế, tạo lực để tiếp tục tiến lên giành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #25 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 08:59:01 am »

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
VỚI CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Đại tá, TS. LÊ VĂN THÁI
Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử tư tưởng quân sự
 - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Mùa Xuân năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên căn cứ Việt Bắc1 (Ngày 4-3-1947, Người rời Sơn Tây qua bến Trung Hà, di chuyển lên Việt Bắc). Tại đây, Người cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trong đó có cuộc chiến đấu đánh bại cuộc tiến công lớn của địch lên Việt Bắc Thu - Đông 1947.


Với tầm nhìn chiến lược sâu rộng, ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho đồng chí Phạm Văn Đồng và một số cán bộ khác ở lại Tân Trào một thời gian chỉ đạo việc củng cố khu căn cứ địa. Cuối tháng 10-1946, trước dã tâm muốn cướp nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Người cử đồng chí Nguyễn Lương Bằng trở lại Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Tiếp đó, Đội công tác đặc biệt được thành lập, do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách, có nhiệm vụ nghiên cứu các vị trí đặt cơ quan, cùng với các ban ngành liên quan tổ chức di chuyển các cơ quan và kho tàng, xí nghiệp lên Việt Bắc. Các huyện Chợ Đồn (Bắc Kạn), Chiêm Hoá, Sơn Dương (Tuyên Quang), Định Hoá, Đại Từ (Thái Nguyên) được chọn làm An toàn khu (ATK). Thấy trước tầm quan trọng của việc đảm bảo đời sống tại các khu căn cứ rừng núi, Người chỉ thị cho đồng chí Nguyễn Lương Bằng tìm mọi cách chuyển gần 20.000 tấn muối ở khu Văn Lý (Nam Định) lên Việt Bắc và Tây Bắc trước khi địch chiếm miền duyên hải.


Đợt tổng di chuyển lên căn cứ Việt Bắc diễn ra từ cuối tháng 11-1946 đến tháng 2-1947. Hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu, gạo, muối, vải từ những vùng địch có thể đánh chiếm được vận chuyển về các khu an toàn. Hàng chục vạn nhân dân, cán bộ, chiến sĩ từ các hướng tập trung lên Việt Bắc trong trật tự, bí mật. Chủ tịch Hồ Chí Minh theo dõi chặt chẽ cuộc di chuyển. Đầu tháng 3-1947, các cơ quan lãnh đạo kháng chiến lần lượt lên Việt Bắc. Từ đây, căn cứ địa Việt Bắc trở thành "Thủ đô kháng chiến". Công tác xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang được đẩy mạnh trong khu căn cứ. Các cấp chính quyền địa phương, các đoàn thể quần chúng, ra đời trước Cách mạng Tháng Tám được kiện toàn. Tổ chức Đảng, đặc biệt là các chi bộ, được chú ý củng cố. Công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh1 (Năm 1947, toàn Việt Bắc có 20.705 đảng viên, trong đó có 9.669 đảng viên thuộc các dân tộc ít người); văn hóa giáo dục nâng cao trình độ cho nhân dân có bước chuyển biến tích cực.


Trong không khí cả nước cũng như ở Việt Bắc sôi nổi xây dựng hậu phương, căn cứ địa, phát triển lực lượng chính trị, quân sự, chuẩn bị đối phó với âm mưu mới của địch, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Đời sống mới", ký tên Tân Sinh. Tác phẩm chỉ ra rằng, trong kháng chiến gian khổ, mọi người cần cố gắng nhiều hơn, người thì lo đánh giặc, người thì lo phá hoại, người thì lo tản cư, toàn dân ai cũng khó khăn vất vả lại càng phải thực hiện đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính. Bằng lối diễn đạt hỏi - đáp và lời văn giản dị, Người hướng dẫn nhân dân và bộ đội sửa đổi những cái cũ không còn phù hợp, thực hiện những cái mối trong đời sống, trong cách ăn, mặc, cách đi lại và làm việc, làm cho quân dân ta trong kháng chiến "vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 110).


Vừa quan tâm đến cuộc vận động thực hiện đời sống mới trong cán bộ, bộ đội và nhân dân, Người còn hết sức lưu ý đến vấn đề giữ gìn bí mật trong khu căn cứ địa. Chính vì thế, ngày 8-4-1947, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, nhắc nhở "một khuyết điểm" rất to, đó là trên tuyến đường Tuyên Quang - Thái Nguyên, xe cộ để bừa bãi và không có ngụy trang, nếu có thì còn rất sơ sài. Như thế thì không những dễ bị máy bay địch bắn mất xe mà còn "địch dễ biết ta đi phương hướng nào"2 (Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 79). Ngày hôm sau, vào lúc 17 giờ (9-4), Người viết tiếp bức thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, thông báo tin quân địch chuẩn bị tấn công và chỉ thị "nhân viên và tài liệu Chính phủ phải rời ngay vào nơi an toàn. Lúc rời phải rất bí mật, chỉ một số người rất ít, rất cần thiết ở lại, nhưng cũng phải chuẩn bị sẵn sàng"3 (Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 79).


Suốt mùa Hè năm 1947, quân Pháp co về các thành phố củng cố lực lượng, chuẩn bị cho một cuộc tiến công lớn khi mùa mưa chấm dứt. Tuy chưa phán đoán chính xác và đầy đủ hướng tiến công của địch nhưng Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã thấy trước rằng địch sẽ mở cuộc tiến công lớn trong Thu - Đông, chiến trường chính là Bắc Bộ. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị cho các cấp ủy địa phương gấp rút chuẩn bị đối phó.


Nhằm thúc đẩy kháng chiến phát triển nhanh và vững chắc hơn nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", ký tên X.Y.Z. Trong tác phẩm, Người giải quyết những vấn đề cấp bách vê xây dựng Đảng, rèn luyện tư tưởng, tác phong lãnh đạo và đạo đức cách mạng của cán bộ, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Nhấn mạnh vai trò của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Người viết: "Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 240, 269, 276), "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 240, 269, 276). Người giáo dục cán bộ, đảng viên khắc phục bệnh chủ quan, hẹp hòi trong quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Người đề ra chính sách cán bộ nhằm đẩy mạnh việc huấn luyện, đào tạo, làm cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc. Người còn nhắc nhở: "Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước". Tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", cùng với tác phẩm "đời sống mới" được viết trước đó, đã giải quyết những vấn đề cơ bản về xây dựng con người mới, cuộc sống mới, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, động viên tiềm lực của đất nước, phát huy tính ưu việt của chế độ mới để giành thắng lợi trong kháng chiến.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #26 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 09:01:25 am »

Theo dõi sát sao việc xây dựng, củng cố căn cứ địa Việt Bắc, ngày 19-8-1947, Người viết thư gửi đồng bào Khu 11 (Khu 1 gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phúc Yên). Trong thư, Người căn dặn: "Hiện bây giờ Khu 1 chưa phải là mặt trận chính. Nhưng đối với bọn thực dân hung ác, nay mai Khu 1 rất có thể trở nên mặt trận chính. Vì vậy, chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng. Chúng ta cần phải làm những việc sau: a) Đã đoàn kết phải đoàn kết thêm. Khắp nơi phải tổ chức Hội liên hiệp quốc dân. b) Tập luyện dân quân, tự vệ, du kích. Giúp đỡ bộ đội. c) Ra sức tăng gia sản xuất, làm cho nhiều lúa, nhiều sắn, nhiều ngô. Nuôi nhiều gia súc. d) Phát triển bình dân học vụ. Giúp đỡ đồng bào tản cư. Giữ gìn bí mật. e) Các cán bộ quân sự, chính trị, hành chính và chuyên môn thì phải làm đúng bôn chữ: cần, kiệm, liêm, chính. Tiếp đó, trong thư gửi đồng bào các tỉnh Việt Bắc, ngày 2-9-1947, Người nhấn mạnh vị trí, vai trò của căn cứ địa Việt Bắc: ’’Việt Bắc phải trở thành căn cứ của kháng chiến... Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến cũng do Việt Bắc mà thắng lợi"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 207).


Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các căn cứ địa trong cả nước, cũng như căn cứ địa Việt Bắc, nhanh chóng được xây dựng và củng cố về mọi mặt. Việt Bắc trở thành hậu phương - căn cứ địa ngày càng vững chắc, là tiền đề trực tiếp và là một trong những nhân tố quan trọng đưa đến thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch Thu - Đông năm 1947.


Sau một thời gian ráo riết chuẩn bị, đầu tháng 9-1947, kế hoạch tiến công lớn trên chiến trường Bắc Bộ của Bộ chỉ huy Pháp lộ rõ. Ngày 10-9, tại thị xã Hà Đông, Cao ủy Bô-la đọc diễn văn ngoan cố không công nhận nền độc lập của ta, không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh và sẽ kết thúc cuộc chiến bằng một cuộc tiến công quân sự. Trước tình hình đó, ngày 12-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn kế hoạch đề phòng cuộc tiến công mùa Đông của giặc và vấn đề tuyên dương công trạng quân nhân1 (Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Tập 4, Sđd, tr. 125). Tiếp đó, ngày 15-9, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Bô-la nói gì - ta phải làm gì?", vạch trần âm mưu đen tối của thực dân Pháp và khẳng định lại lập trường kiên quyết kháng chiến của ta. Bản chỉ thị nhắc nhở quân dân cả nước phải tích cực chuẩn bị để đối phó với cuộc tiến công Thu - Đông của giặc; về quân sự "chuẩn bị chống các cuộc quân địch đánh xuyên mũi dùi, đánh vòng thật rộng, nhảy dù đổ bộ sau lưng ta"2 (Văn kiện quân sự, của Đảng, Tập 2, (1945-1950), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 208). Chấp hành chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng, các địa phương đẩy mạnh thêm một bước công tác chuẩn bị chiến đấu. Các khu ủy 1, 10, 12 và các tỉnh ủy trên địa bàn căn cứ địa Việt Bắc phổ biến chỉ thị của Đảng, bàn biện pháp thực hiện. Công tác phá hoại, cản địch được tiến hành khẩn trương hơn. Các công tác khác cũng được đẩy mạnh. Cơ quan, xưởng máy, kho tàng chuyển về nơi an toàn. Dân quân tự vệ khẩn trương luyện tập, tuần tra canh gác, kiểm soát chặt chẽ những nơi xung yếu. Bộ đội hoàn chỉnh trận địa, triển khai đội hình chiến đấu, trang bị thêm vũ khí. Nhiều kinh nghiệm tác chiến được phổ biến đến từng chiến sĩ. Khắp nơi xuất hiện khẩu hiệu quyết tâm chiến đấu "phá tan cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp".


Sáng ngày 7-10-1947, quân Pháp nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn. Vừa xuống đất, chúng lập tức bủa vây, lùng sục truy tìm cơ quan lãnh đạo kháng chiến. Đồng thời với cuộc đổ bộ đường không, quân Pháp mở những gọng kìm và mũi dùi lớn đánh lên Việt Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi bộ đội, dân quân du kích và đồng bào cả nước ra sức chiến đấu tiêu diệt địch. Trong thư, Người vạch trần âm mưu của giặc là đánh ào ạt, chớp nhoáng, bất thình lình, dùng cách "sét đánh ngang tai" làm cho ta hoang mang trở tay không kịp. Ý định của chúng là hội quân ở Bắc Kạn tạo thành một cái ô bọc lấy Việt Bắc, rồi chúng cụp ô lại, khép chặt vòng vây, từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra, nhảy dù xuống những nơi nghi có cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ ta để lùng bắt, phá cho được đầu não cuộc kháng chiến. Sau đó, chúng sẽ bình định các khu vực khác và lập chính phủ bù nhìn. Người nhấn mạnh: địch mạnh về các gọng kìm. Chúng ta quyết tâm chiến đấu bẻ gãy gọng kìm thì cái ô cụp xuống và sẽ rách1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Sự nghiệp, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 438). Ngày 11-10, Người chủ trì cuộc họp Đảng đoàn Chính phủ bàn về việc đối phó với cuộc tiến công của quân Pháp và vấn đề di chuyển cơ quan Chính phủ2 (Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Tập 4, Sđd, tr. 137).


Sau khi biết rõ thêm kế hoạch tiến công Việt Bắc của địch3 (Quân ta bắn rơi máy bay chở bộ tham mưu chiến dịch của Pháp đi thị sát mặt trận ngày 9-10 tại Cao bằng, thu tài liệu. Ngày 13-10, Bộ Tổng tham mưu đã có trong tay bản kế hoạch tiến công Việt Bắc của Pháp), ta càng chủ động hơn trong việc đối phó với giặc. Ngày 15-10, Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển về ở và làm việc tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai. Cùng ngày, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp". Chỉ thị nhận định rằng, cuộc tấn công của địch không chứng tỏ chúng mạnh mà trái lại, tỏ ra chúng yếu. Cuộc tấn công này "chỉ ồ ạt lúc đầu"1 (Văn kiện quân sự của Đảng 1945-1950, Tập 2, Sđd, tr. 240). Quân địch dàn quân ra càng mỏng, càng là dịp tốt cho ta đánh chúng ở miền xuôi. Kẻ địch đóng quân ở nơi xa, càng dễ cho ta bao vây chặt đường tiếp tế và "đánh chúng một cách rất có lợi trong khi chúng vận động"2 (Văn kiện quân sự của Đảng 1945-1950, Tập 2, Sđd, tr. 240). Về phương hướng hành động cụ thể của quân và dân ta, chỉ thị nêu rõ là ta phải kiên quyết chiến đấu giam chân địch tại những căn cứ mà chúng vừa chiếm, bao vây những căn cứ đó, triệt để làm vườn không, nhà trống chung quanh chỗ địch chiếm, đồng thời cắt đứt sự liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng tiếp tế và tiếp ứng cho nhau. Quá trình chiến đấu phải giữ gìn chủ lực của ta, nhưng cũng phải nhạy bén, nhằm những chỗ yếu của địch mà "đánh những trận vang dội, những trận tiêu diệt... Bắt địch chuyển sang thế phòng thủ"3 (Văn kiện quân sự của Đảng 1945-1950, Tập 2, Sđd, tr. 240). Chỉ thị còn nhắc nhở: "Cuộc tiến công của địch lần này phải làm cho cán bộ ta chữa được bệnh chủ quan cho rằng địch không dám tiến công táo bạo, chưa dám đánh Việt Bắc, không dám nhảy dù hay đổ bộ xa căn cứ. Nó lại thúc giục các cấp chỉ huy mau nhận ra quy luật chiến tranh... Nó chỉ rõ cho cán bộ chỉ đạo các cấp của phong trào ta nhận rõ: muốn thắng địch, phải đoán đúng mưu kế của địch và phải giữ bí mật mưu kế của mình”4 (Văn kiện quân sự của Đảng 1945-1950, Tập 2, Sđd, tr. 240).
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #27 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 09:03:11 am »

Chấp hành chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng, trong quá trình chỉ đạo cuộc phản công địch, Bộ Tổng chỉ huy liên tiếp điều động, bố trí lực lượng theo yêu cầu tác chiến. 30 đại đội độc lập, 18 tiểu đoàn tập trung của Khu 1, Khu 10 được thành lập nhanh chóng làm nòng cốt mở rộng chiến tranh du kích. Vừa tác chiến, các đại đội độc lập vừa dìu dắt dân quân tự vệ hoạt động. Các tiểu đoàn tập trung cơ động tiêu diệt các vị trí và đánh địch trên đường giao thông. Nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến, thực hiện vườn không, nhà trống, ủng hộ và phối hợp với lực lượng vũ trang đánh địch. Do đó, quân Pháp đi đến đâu cũng bị đánh. Càng vào sâu căn cứ địa Việt Bắc, các binh đoàn tiến công của thực dân Pháp càng bị chia cắt làm nhiều mảnh, mỗi mảnh thành một mục tiêu tiến công của quân ta.


Trong thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Thường vụ Trung ương Đảng, Hội đồng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo các công việc đôi nội, đối ngoại, kháng chiến trong cả nước, đồng thời Người theo dõi sát sao mọi diễn biến trên chiến trường Việt Bắc. Nhận rõ tầm quan trọng của việc thông suốt mệnh lệnh tác chiến, Người căn dặn cán bộ, chiến sĩ: "Một mệnh lệnh gì trên xuống, của Bộ Quốc phòng hay Bộ Tổng chỉ huy đều phải đến khu, đến các trung đoàn, các đoàn thể và phải xuống tới tận người đội viên. Nếu mệnh lệnh đến khu rồi mắc nghẽn không xuống dưới nữa tức là khu không theo kỷ luật. Bộ đội sẽ kém sức mạnh. Mệnh lệnh cũng như dòng máu chảy từ tim ra đến đầu, các tứ chi. Nếu chảy đến tay mà mắc nghẽn thì tay bại. Tay bại người sẽ yếu đi. Các đồng chí cũng biết thời gian là quý. Dụng binh thắng bại nhiều lúc quyết định trong năm, mười phút. Vậy các đồng chí phải làm sao cho những mệnh lệnh ở trên xuống được nhanh chóng và thi hành chu đáo"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 224, 332, 341, 322). Người kêu gọi tướng sĩ Vệ quốc quân, dân quân du kích đua tài, xung phong diệt địch: "Cán bộ này với cán bộ khác, đơn vị này với đơn vị khác phải ra sức thi đua nhau ai diệt được nhiều địch hơn, ai cướp được nhiều súng hơn, ai lập được công to hơn... Riêng về phần tôi, tôi để dành một phần thưởng đặc biệt cho cán bộ, chiến sĩ nào hoặc đơn vị nào sẽ lập được công oanh liệt nhất, vẻ vang nhất"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd,  tr. 224, 332, 341, 322). Người viết thư gửi đồng bào và chiến sĩ Khu 102 (Khu 10 gồm: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên), nêu rõ ưu điểm và thiếu sót: "Mặt trận Sông Lô, Vệ quốc quân, dân quân du kích và đồng bào rất hăng hái cho nên thu được một ít nhiều chiến công vẻ vang. Trái lại, những mặt trận khác như Lào Cai, Yên Bái thì còn kém. Đó không phải vì đồng bào kém hăng hái hoặc là chiến sĩ kém dũng cảm. Nhưng vì ta kế hoạch tổ chức, tuyên truyền, vận động chưa được đầy đủ, chu đáo. Về mặt dân vận thì khu ta còn xao nhãng... Phải làm thế nào cho cuộc thắng trận vẻ vang ở sông Lô sẽ là bước đầu cho nhiều cuộc thắng trận khác. Phải làm cho Khu 10 thành khu kiểu mẫu về mọi mặt"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 224, 332, 341, 322).


Hưởng ứng lời kêu gọi và sự động viên khích lệ của Người, quân và dân Việt Bắc hăng hái thi đua diệt giặc, lập công. Trong khi quân Pháp bị đánh mạnh ở Việt Bắc, thì ở đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ chúng cũng bị chiến tranh du kích tiêu diệt nhiều sinh lực. Nhiều tên Việt gian bị bắn chết ngay giữa Hà Nội và Sài Gòn. Thực dân Pháp rơi vào thế bế tắc: Việt Bắc đánh không xong, đồng bằng Bắc Bộ chưa chiếm được, chiến tranh du kích ở Nam Bộ ngày càng mạnh.


Nhằm động viên tinh thần chiến đấu của quân dân ta và phổ biến kinh nghiệm tác chiến, tiến lên giành những thắng lợi mới trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cuối năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Việt Bắc anh dũng"1 (Tác phẩm viết cuối năm 1947, Tổng bộ Việt Minh xuất bản lần đầu năm 1948), ký tên Tân Sinh. Bằng những tư liệu lấy từ các bức thư, điện, công văn, mệnh lệnh của quân Pháp do ta thu được, Người miêu tả những khó khăn của địch trong cuộc phiêu lưu mạo hiểm đánh lên Việt Bắc. Người khái quát bốn nhân tố quyết định thắng lợi của quân và dân ta trong Thu - Đông 1947 là: Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Chính phủ, sự điều khiển khôn khéo của Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy, sự dũng cảm của tướng sĩ Vệ quốc quân, dân quân du kích và sự hăng hái của toàn thể đồng bào. Phân tích sự chỉ đạo chiến lược sáng suốt của ta, Người viết: Ngay lúc bắt đầu kháng chiến ta đã chủ trương trường kỳ kháng chiến để đánh tan mưu mô "đánh mau, thắng mau" của thực dân. Ta cũng thấy trước địch sẽ cố chiếm mấy thành thị và một số đoạn đường giao thông, nhưng lực lượng chúng càng rải ra thì càng mỏng, ta càng dễ tiêu diệt chúng. Cũng ngay từ đầu, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy chủ trương dùng chiến thuật du kích để tiêu diệt địch. Càng ngày "chúng ta càng thấy những ý định trên là sáng suốt, nhất là trong cuộc địch tiến công vào Việt Bắc, chúng ta càng thấy rõ như thế"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 341, 314, 368). Cuối tác phẩm, Người nhắc nhở rằng, thực dân Pháp chưa bị đánh quỵ hoàn toàn, cuộc kháng chiến sẽ còn gay go hơn nữa. Vì vậy, "chúng ta chớ tự kiêu tự đại, chớ chủ quan, chớ khinh địch. Chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị, cẩn thận đề phòng... Phải sửa chữa những khuyết điểm và cố gắng phát triển các ưu điểm"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 341, 314, 368). Đó là chìa khoá để đi tối thắng lợi mới.


Ngày 19-12-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước, tổng kết một năm Toàn quốc kháng chiến.

Người khẳng định: kháng chiến ắt phải gay go, cực khổ, nhưng ta nhất định sẽ giành được thắng lợi. Qua một năm kháng chiến toàn quốc "lực lượng ta ngày càng thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến, không có thoái"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 341, 314, 368), còn lực lượng của địch "như mặt trời vào lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 341, 314, 368). Cũng đúng ngày này, do bị thất bại nặng trên chiến trường, đại bộ phận quân Pháp nhục nhã rút khỏi Việt Bắc. Đêm 22-12-1947, tại thị xã Tuyên Quang, quân dân ta tổ chức trọng thể lễ mừng chiến thắng.


Chiến thắng của quân và dân ta trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 là chiến thắng có ý nghĩa chiến lược về quân sự, chính trị và tinh thần. Chiến thắng đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trước hết là sự lãnh đạo tài tình và sáng tạo của cơ quan lãnh đạo kháng chiến toàn quốc, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Người, căn cứ địa Việt Bắc được xây dựng và củng cố, tính ưu việt của chế độ mới được phát huy, "lòng yêu nước của đồng bào, nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch, nó đã đánh tan cuộc tấn công của thực dân"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 341, 314, 368), tạo đà cho những thắng lợi tiếp theo trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #28 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 09:07:18 am »

BÁC HỒ VÀ CƠ QUAN ĐẦU NÃO KHÁNG CHIẾN DI CHUYỂN
TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


TS. CHU ĐỨC TÍNH*
LÊ THỊ LIÊN**
* Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh
** Bảo tàng Hồ Chí Minh


Ngay sau ngày toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và các cơ quan đầu não kháng chiến di chuyển dần lên Việt Bắc, căn cứ địa kháng chiến. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nhân dân ta phải trường kỳ kháng chiến để đánh tan kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp.


Theo Bác lên căn cứ địa Việt Bắc có một tiểu đội vừa làm nhiệm vụ bảo vệ vừa giúp việc. Bác đặt tên cho các đồng chí trong tiểu đội đó là: "Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi". Các tên Bác đặt vừa giữ được bí mật, vừa thể hiện ý chí và quyết tâm kháng chiến của toàn dân ta.


Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công Việt Bắc. Âm mưu của chúng là tiêu diệt bộ đội chủ lực và phá tan cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Chúng huy động 12.000 binh sĩ tinh nhuệ nhất trong hải, lục, không quân vào cuộc tấn công này.


Thực dân Pháp dự định trong vòng một tháng sẽ thực hiện thành công cuộc hành binh quy mô lớn nhất này. Kế hoạch của chúng là: sau khi nhảy dù xuống, sẽ lập tức bao vây, truy tìm Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị bộ trưởng, như vậy sẽ "chụp được trung tâm điểm của Hồ Chí Minh". Cuộc chiến tranh sẽ chấm dứt, chính phủ bù nhìn sẽ được thành lập, nước Pháp lại cai trị Việt Nam như trước!


Ngày 7-10-1947, từ sáng sớm, Bộ chỉ huy Pháp đã cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn và thị trấn Chợ Mới. Mở đầu cuộc tiến công lớn bằng cách nhảy dù xuống Bắc Kạn, Pháp hy vọng bắt sống được Hồ Chí Minh và cơ quan đầu não kháng chiến của ta.


Trong hơn hai tháng của chiến dịch, quân Pháp tiến công, càn quét đánh phá rất ác liệt nhiều nơi ở Việt Bắc. Cuộc sống ở chiến khu rất gian khổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cơ quan đầu não kháng chiến của ta đã phải luôn luôn di chuyển nơi ở và làm việc. Trong thời gian xảy ra chiến sự, Bác vẫn luôn ở bên cạnh Bộ Tổng chỉ huy, theo dõi sát tình hình diễn biến của các mặt trận và kịp thời chỉ đạo.


Việc địch tiến công bắt đầu từ Bắc Kạn là ngoài dự kiến của ta. Vào thời điểm đó, một số cơ quan của ta tập trung ở thị xã và vùng ven, như Ty Ngân khố, cơ sở in giấy bạc, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (tiền thân của Trường sĩ quan Lục quân 1 ngày nay), bộ phận dự bị của Đài Tiếng nói Việt Nam và một số nhà máy, kho tàng,... Nhảy dù xuống Bắc Kạn, quân Pháp có gây bất ngờ và gây cho ta một số thiệt hại, nhưng không đạt được mục đích. Trước các cuộc hành binh của Pháp, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là bằng mọi giá phải bảo vệ an toàn cho các cơ quan lãnh đạo.


Khi địch nhảy dù xuống Bắc Kạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng còn đang ở Điềm Mạc thuộc huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Ngay ngày đầu tiên khi Pháp tiến công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp nghe Bộ Tổng chỉ huy tổng hợp, báo cáo tình hình. Sau khi nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo những diễn biến mới nhất và một số việc đã làm của Bộ Tổng chỉ huy, Bác hỏi:

- Địch có thể huy động bao nhiêu quân vào cuộc tiến công?

Đồng chí Võ Nguyên Giáp trả lời:

- Theo tin tức gần đây, Va-luy được tăng viện hai vạn quân.

Bác nói:

- Nước Pháp không đủ sức để theo đuổi một cuộc chiến tranh lâu dài. Chúng phải cố gắng đánh một đòn quân sự quyết định tạo điều kiện cho Bô-la đưa Bảo Đại về để tìm cách kết thúc chiến tranh. Dù Va-luy có huy động được hai vạn quân vào cuộc tiến công này thì với địa bàn rừng núi hiểm trở của Việt Bắc, với tinh thần cách mạng của đồng bào các dân tộc ở căn cứ địa, cũng không có gì đáng ngại...1 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây - Hồi ức, Hữu Mai thể hiện (in lần thứ hai), Nxb Quân đội nhân dân - Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1998, tr. 167).


Từ khi rời Hà Nội trở lại Việt Bắc, Bác đã dừng lại nhiều nơi và di chuyển qua nhiều địa điểm. Do yêu cầu bảo mật, phải thường xuyên thay đổi chỗ ở, nên hành trang của Bác rất đơn giản: một chiếc ba lô đựng vài bộ quần áo, chiếc túi xách đựng tài liệu cùng với máy chữ Héc-mét và chiếc đồng hồ quả quýt... Bác dặn anh em mỗi khi tìm địa điểm mới cần lưu ý các điều kiện như:

Trên có núi, dưới có sông,
Có đất ta trồng, có bãi ta vui.
Tiện đường sang Bộ Tổng,
Thuận lối tới Trung ương.
Nhà thoáng, ráo, kín mái
Gần dân, không gần đường1 (Chuyện kể của những người giúp việc Bác Hồ, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2003, tr. 140).


Nhà của Bác trong thời gian này thường là một cái lán bằng tre, nứa, lá, làm theo kiểu nhà sàn của đồng bào miền núi. Nhà ở như vậy vừa tránh được ẩm thấp, vừa tránh được thú rừng. Tầng trên để Bác ngủ; còn tầng dưới, ban ngày Người làm việc và tiếp khách.


Ngày 8-10, quân Pháp nhảy dù xuống thị trấn Chợ Đồn. Ngày 9-10, một tiểu đoàn quân dù nhảy xuống thị xã Cao Bằng...


Ngày 11-10, Bác chuyển chỗ ở, vì có tin báo địch sẽ tiếp tục nhảy dù xuống một số địa điểm. Nơi ở mới của Bác là xã Tràng Xá, Tân Hồng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, ở Tràng Xá, lúc đầu anh em bảo vệ mượn nhà dân để đón Bác, sau đó mới làm lán để Bác ở. Lán của Bác đầu tiên làm ở ngoài bìa rừng, sau mới làm sâu vào bên trong.


Cũng trong ngày 11, Bác chủ tọa phiên họp của Hội đồng Chính phủ, giữa tiếng máy bay địch gầm rú bắn phá, để nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình chiến sự, thảo luận kế hoạch chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công của Pháp, vấn đề di chuyển cơ quan Chính phủ và kế hoạch thi hành.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #29 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 09:09:41 am »


Theo kế hoạch, Bác và Thường vụ Trung ương sẽ tiếp tục ở lại An toàn khu Việt Bắc, vì nhân dân ở đây có truyền thống và kinh nghiệm bảo vệ cán bộ từ thời hoạt động bí mật. Trước mắt, Bác chuyển lên vùng cao và khi cần thiết sẽ chuyển tới nơi an toàn hơn, về phía Thành Cóc.


Chiều 14-10, Bác dự cuộc họp của Thường vụ Trung ương, nghe báo cáo âm mưu của địch, kiến nghị của Bộ Tổng chỉ huy và dự thảo chỉ thị của Thường vụ do đồng chí Trường Chinh trình bày. Kết thúc cuộc họp, Người nói:

- Tình hình cực kỳ rối ren về chính trị ở Pháp và phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa đã dẫn Pháp đến chỗ muốn sớm kết thúc chiến tranh Đông Dương. Chúng chỉ tiến công ồ ạt lúc đầu. Nếu ta thực hiện được đánh địch khắp nơi, buộc chúng dàn mỏng lực lượng đối phó, chúng sẽ thất bại. Giữ gìn được chủ lực qua mùa đông này là coi như thắng lợi. Nếu chuyến này chúng không thắng nhanh để kết thúc chiến tranh thì cục diện sẽ đổi mới có lợi cho ta1 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Sđd, tr. 178).


Từ ngày 15-10, Người chuyển về ở và làm việc tại làng Vang, xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Cũng trong ngày 15, Bác kêu gọi quân và dân Việt Bắc hãy ra sức đánh bại cuộc hành binh của địch, quân dân cả nước tích cực đánh địch để phối hợp với Việt Bắc. Người viết: "Địch hội quân ở Bắc Kạn tạo thành cái ô bọc lấy Việt Bắc, rồi cụp ô xuống, dưới đánh lên, trên đánh xuống, phá cho được cơ quan đầu não kháng chiến... Chúng mạnh ở hai gọng kìm, gọng kìm mà gãy thì cái ô cụp xuống sẽ thành ô rách và cuộc tiến công thất bại"1 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Sđd, tr. 179).


Sau đó, để đề phòng quân địch bất ngờ nhảy dù, Người chuyển từ Điềm Mạc lên Khuôn Tát, xã Phú Đình, Định Hoá, Thái Nguyên. Trong thời gian Bác sống ở Khuôn Tát, buổi sáng sau khi nấu ăn xong, Người lại lên núi. Sau khoảng ba hay bốn ngày, Bác lại chuyển sang một địa điểm khác.


Ngày 22-10, có tin quân của Bô-phơ-rê đã có mặt ở Đài Thị và quân của Com-muy-nan cũng sắp tới đây để hội quân theo kế hoạch. Như vậy, "Cuộc hành quân Lê-a" sẽ kết thúc, và kế hoạch tiếp theo sẽ bắt đầu với cuộc vây ép khu tứ giác Tuyên Quang - Đài Thị - Bắc Kạn - Thái Nguyên, mà điểm trung tâm là Chợ Chu.


Đồng chí Võ Nguyên Giáp viết thư hoả tốc để nghị Bác và đồng chí Trường Chinh di chuyển ngay lên Thành Cóc theo kế hoạch đã bàn trong Thường vụ Trung ương Đảng. Đây là một cơ sở cách mạng lâu ngày của ta ở vùng cao, có nhiều đồng chí người Dao trung kiên. Đồng chí Trường Chinh rất phân vân vì lúc đó Bác đang bị ốm, nhưng Bác nói cứ làm theo kế hoạch. Đường lên Thành Cóc rậm rạp, Bác phải bỏ ngựa và nhiều đoạn phải rẽ lau, vạch cỏ mà đi.


Thực dân Pháp đặt nhiều kỳ vọng vào cuộc tiến công lên căn cứ địa Việt Bắc mà chúng cho là đang diễn tiến có nhiều thuận lợi, nhưng chúng đã bị thất bại thảm hại và so với kế hoạch thì cuộc hành binh của chúng đã bị chậm đi nhiều.


Ngày 3-11, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp của Hội đồng Chính phủ, nghe báo cáo tình hình của các Bộ sau cuộc tấn công của Pháp và một số công việc khác.

Từ 8 giờ tối ngày 10 đến 3 giờ sáng ngày 11-11, dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc họp Hội đồng Chính phủ được tổ chức tại ATK, nghe báo cáo các công việc đã giải quyết trong kỳ họp Hội đồng Chính phủ lần trước và tuyên bố lý do chia nhân viên Chính phủ làm hai phân bộ để tiện cho Hội đồng, tránh những biến cố bất ngờ. Từ nay, Hội đồng Chính phủ sẽ họp làm hai nơi1 (Lê Văn Hiến. Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb Đà Nẵng, 1995, tr. 206, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự cuộc họp Hội đồng Chính phủ tại ATK. 1 ATK. 1 là địa điểm nào, hiện nay chúng tôi chưa biết cụ thể).

Trong hai ngày 18 và 19-11, Bác đến ở nhà ông Ma Tử Vượng, xóm Sơn Vinh, xã Sơn Phú, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên.


Ngày 20-11, Người chuyển đến ở và làm việc tại xã Phú Đình, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Hằng ngày, Người và đồng chí Trường Chinh vẫn nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo những diễn biến của tình hình chiến sự.


Từ ngày 29-11 đến 3-12, Người ở và làm việc tại nhà ông Hiến ở thôn Khuôn Đào, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.


Ngày 4-12, Người chuyển đến ở và làm việc tại Khuổi Tẩu, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.


Từ ngày 8 đến hết tháng 12-1947, Bác chuyển đến thôn Bản Ca, xã Bình Trung, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Tại đây, ngày 8-12, Người đã tiếp và trả lời phỏng vấn của các nhà báo Việt Nam và nước ngoài về cuộc gặp gỡ giữa Vĩnh Thụy và Cao ủy Pháp, Bô-la (6 và 7-12-1947) tại Vịnh Hạ Long, trong tuyên bố của Người sau đó, có đoạn:

"Chính phủ và nhân dân ta rất mong cố vấn Vĩnh Thụy không có những hành động trái ngược với những lời cố vấn đã thề trước Tổ quốc và trước đồng bào, trái với nguyện vọng của dân tộc. Dù sao vận mệnh của dân tộc sẽ không vì một người, hoặc một nhóm người mà thay đổi"1 (Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, Tập 4, tr. 137-138).


Cùng ngày, Người điện gửi Giám mục Lê Hữu Từ nhân dịp lễ Thiên chúa giáng sinh. Người chúc Giám mục "mọi sự lành" để phụng sự Đức Chúa, để lãnh đạo đồng bào Công giáo tham gia kháng chiến và nhờ chuyến lời chúc phúc của Người tới toàn thể đồng bào Công giáo.


Ngày 19-12-1947, đúng một năm sau ngày Toàn quốc kháng chiến, cuộc tiến công chiến lược của Pháp nhằm vào căn cứ địa Việt Bắc kết thúc; đại bộ phận quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc, chỉ còn một lực lượng của địch ở thị xã Bắc Kạn, Cao Bằng và những vị trí bảo vệ giao thông trên dọc đường số 4 từ Lạng Sơn tới Cao Bằng, Đường số 3 từ Cao Bằng xuống Bắc Kạn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM