Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 05:35:21 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947-Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt  (Đọc 7163 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #40 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2021, 08:02:01 pm »

Về phía thực dân Pháp, sau khi đổ bộ lên thị xã Tuyên Quang, để tiếp tục thực hiện mục tiêu của cuộc tiến công, chúng tiếp tục tăng viện cho gọng kìm sông Lô. Tuy nhiên, quân tăng viện của Pháp bị ta liên tiếp chặn đánh từ ngày 14 đến ngày 18-10-1947, tiêu biểu là các trận chiến đấu trên sông Lô ở Phan Dư và Khoan Bộ. Như vậy là, sau hơn một tuần mở chiến dịch tiến công, bị quân và dân Khu 10 chặn đánh khắp nơi, cánh quân của Com-muy-nan bị tổn thất hơn 100 tên, một số tàu thủy bị bắn cháy và trọng thương.


Ở hướng phía tây Khu 10 (Lào Cai, Yên Bái và vùng tây nam Phú Thọ), với mục đích nghi binh, kiềm chế lực lượng của ta và mở rộng phạm vi chiếm đóng, quân Pháp cũng liên tiếp mở những cuộc hành quân càn quét. Các đơn vị chủ lực của Khu 10 gồm Trung đoàn 171, Trung đoàn 92, Trung đoàn 148 cùng với dân quân du kích và đồng bào các dân tộc đã tích cực chặn đánh địch để phối hợp, chia lửa với mặt trận chính.


Trên sông Lô và đường số 2, các trận đánh của ta thời gian đầu hiệu quả chưa cao, chưa tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, nhưng thế trận đã từng ngày chuyển biến tích cực có lợi cho ta, khả năng bẻ gãy "gọng kìm sông Lô" của địch là rất lớn.


Trong khi các đơn vị của ta đang tích cực chuẩn bị cho những trận đánh mới, thì từ thị xã Tuyên Quang, quân Pháp tổ chức lực lượng hành quân đánh lên Chiêm Hoá. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh, lực lượng dân quân, du kích đã tổ chức các trận địa bắn tỉa trên khắp các ngả đường, ban đêm bộ đội phối hợp với tự vệ đột nhập vào thị xã Tuyên Quang đánh địch. Trên Đường số 2, ta triển khai phục kích ở km 7 (đường Tuyên Quang - Hà Giang). Ngày 22-10, đội hình hành quân của địch lọt vào trận địa phục kích, ta nổ súng diệt và làm bị thương hơn 100 tên, quân địch hốt hoảng rút trở về thị xã. Trên đường rút lui về thị xã Tuyên Quang, chúng lại bị ta chặn đánh ở km 5, diệt thêm 30 tên nữa. Lính Pháp kinh hoàng gọi Tuyên Quang là "nghĩa địa khổng lồ". Một bộ phận quân Pháp tiến theo đường thủy, ngược sông Lô lên sông Gâm, cũng liên tiếp bị ta mai phục chặn đánh. Các lực lượng thủy, bộ của địch không phối hợp và chi viện được cho nhau, lại bị tổn thất nặng nề. Đến đây, cái gọi là "gọng kìm phía Tây" của thực dân Pháp trên thực tế đã bị bẻ gãy. Phía bên kia, "gọng kìm phía Đông" cũng cùng chung một số phận. Mục tiêu cuộc tiến công bị phá sản, quân Pháp bị lâm vào tình thế bị tiêu diệt lớn, bị động, lúng túng.


Như vậy, ta đã chủ động lập nên thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp và toàn diện, sẵn sàng "đánh trả" quân xâm lược Pháp, chứ không phải như mục tiêu cuộc tiến công của quân Pháp lên Việt Bắc mà chúng đã đề ra là "chụp bắt" cơ quan đầu não kháng chiến của Chính phủ Hồ Chí Minh.


Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Tư lệnh Khu 10 lệnh cho các đơn vị tích cực chủ động chuẩn bị tổ chức các trận chiến đấu trên sông Lô, sông Gâm và đường số 2. Các đơn vị chủ lực của Khu (gồm cả bộ binh, pháo binh và công binh) đã thực hiện tốt công tác hiệp đồng chiến đấu, với sự phối hợp, giúp đỡ của lực lượng dân quân du kích và nhân dân các dân tộc trên địa bàn. Các vị trí hiểm yếu trên sông Lô, sông Gâm và đường số 2 được khẩn trương, bí mật xây dựng thành những trận địa phục kích sẵn sàng đánh địch. Phát huy thắng lợi, rút kinh nghiệm khắc phục những hạn chế của những trận đánh trước, Bộ Tư lệnh Khu đã phân công đồng chí Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ đạo các trận địa chiến đấu, trong đó chú trọng đến khu vực Đoan Hùng. Được sự chỉ huy, chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Khu, pháo binh đã thực hiện "đặt gần, bắn thẳng", công tác hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng (cả chủ lực và địa phương) được làm tốt hơn, thông tin liên lạc kịp thời, chính xác hơn, yếu tố bí mật, bất ngờ được khai thác triệt để.


Với thế trận đã được chuẩn bị, cùng với các hướng chiến trường khác, sông Lô và đường số 2 đã góp phần làm nên một "Việt Bắc, mồ chôn giặc Pháp". Những trận đánh ở Đoan Hùng, Bình Ca, Khe Lau, cùng với thắng lợi liên tiếp trên tuyến đường Tuyên Quang - Sơn Dương - Thiện Kê - Ninh Lai - Vĩnh Yên, đã được ghi vào lịch sử chiến đấu, xây dựng, trưởng thành của lực lượng vũ trang Khu 10 những trang vàng chói lọi. Thực dân Pháp phải thừa nhận trận địa lôi ở km 7 (Tuyên Quang - Hà Giang) là "tiếng nổ của hoả ngục”, trận đánh trên sông Gâm là "bể lửa Khe Lau", trận đánh trên sông Lô là "thảm họa Đoan Hùng".


"Gọng kìm phía Tây" của thực dân Pháp đã bị bẻ gãy. Quân và dân Khu 10 đã viết nên bản hùng ca sông Lô, mãi mãi vang dội núi sông. Trên Mặt trận Sông Lô và Đường số 2, quân và dân Khu 10 đã tiêu diệt 1.200 tên địch, bắn chìm và bắn cháy 15 tàu chiến các loại, góp phần đập tan chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp xâm lược, đưa cuộc kháng chiến của quân và dân ta phát triển sang giai đoạn mới.


Ngày 23-12-1947, tại thị xã Tuyên Quang, quân và dân ta tưng bừng mở hội mừng chiến thắng. Vinh dự và tự hào, quân và dân Khu 10 được đón tiếp đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp tới dự.


Thắng lợi của quân và dân ta trong việc đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công lên Việt Bắc của thực dân Pháp, Thu - Đông 1947 là kết quả của sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy, của sự phối hợp chiến đấu của toàn dân, toàn quân trên khắp các chiến trường cả nước, trong đó có sự phối hợp chiến đấu cũng như sự đóng góp to lớn của lực lượng vũ trang Khu 10 cùng với đồng bào các dân tộc trên địa bàn. Đặc biệt là những chiến thắng vang dội trên dòng sông Lô lịch sử sẽ mãi mãi là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên để lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trên địa bàn vững bước đi lên, làm tốt hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #41 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2021, 08:03:40 pm »

MẶT TRẬN ĐƯỜNG SỐ 4
TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Thiếu tướng NGUYỄN VĂN ĐẠO
Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 1;
nay là Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 1


Đường số 4 (gồm đường số 4A và đường số 4B) là con đường chạy song song phía nam biên giới Việt - Trung, từ duyên hải Đông Bắc lên Việt Bắc. Đường số 4 B bắt đầu từ Tiên Yên (Quảng Ninh), qua Đình Lập, Lộc Bình đến thị xã Lạng Sơn. Đường số 4A từ Đồng Đăng đi Na Sầm, Thất Khê (Lạng Sơn) qua Đông Khê, thị xã Cao Bằng rồi Hoà An, Hà Quảng đến cửa khẩu Nà Xác (Cao Bằng). Đường số 4 có chiều dài khoảng 340 km, là tuyến đường ngang được nối với nhiều tuyến đường dọc quan trọng: ở Tiên Yên, nối với đường 18 xuôi về Hòn Gai, Hải Phòng; tại Lạng Sơn nối với Đường số 1A xuôi về Hà Nội và ở Đồng Đăng, nối với đường số 1B xuống Bình Gia, Bắc Sơn đi về Thái Nguyên; ở Cao Bằng, gặp đường số 3 để xuôi về Bắc Kạn; ngược lên biên giới được nối với các đường ra Trà Lĩnh, Quảng Uyên, Phục Hoà. Vì vậy, đường số 4 là con đường huyết mạch quan trọng dọc biên giới phía Bắc. Do vậy, thực dân Pháp luôn tìm mọi cách chiếm giữ con đường này để có thể khoá chặt biên giới Việt - Trung, không cho ta liên hệ với quốc tế; mặt khác, hình thành gọng kìm vây chặt vùng Việt Bắc. Nhưng cũng chính trên con đường này, quân và dân ta đã làm nên những chiến công vang dội, gây cho kẻ thù bao nỗi kinh hoàng. Báo chí, đài phát thanh và binh lính Pháp ở Đông Dương gọi đường số 4 là "Con đường chết chóc", "Con đường đẫm máu".


Ngay trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân Mặt trận Đường số 4 đã sát cánh cùng các Mặt trận Sông Lô, Mặt trận Đường số 3, góp phần làm phá sản chiến lược "Đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp, buộc địch phải chuyển sang kế hoạch đánh kéo dài, thực hiện bình định và chiếm đóng.


Ngày 7-10-1947, giặc Pháp bất ngờ mở cuộc tiến công chiến lược lên căn cứ địa Việt Bắc nhằm chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến; tiêu diệt lực lượng chủ lực; đánh phá kho tàng, các cơ sở kinh tế, quốc phòng, làm tê liệt tiềm lực chiến tranh của ta. Theo chúng, nếu kế hoạch Lê-a thành công coi như đã loại trừ về căn bản công cuộc kháng chiến của Việt Minh. Lực lượng còn lại có chăng cũng chỉ là lực lượng du kích kháng cự nhỏ, phá rối ở các địa phương riêng lẻ, sẽ tan dần theo các cuộc hành binh càn quét. Thực hiện kế hoạch Lê-a, tướng Xa-lăng tổ chức hai gọng kìm lớn, đồng thời sử dụng quân dù như mũi thứ 3 hòng khép chặt vòng vây Việt Bắc. Gọng kìm phía Đông do trung tá Bô-phơ-rê chỉ huy một binh đoàn thuộc địa, gồm: trung đoàn Ma-rốc số 5, một tiểu đoàn dù, một tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn công binh và một đại đội cơ giới. Lực lượng dự bị có trung đoàn lê dương (3è REI), hai đại đội pháo binh và hai đại đội công binh. Đúng 21 giờ ngày 7-10-1947, trung tá Bô-phơ-rê chỉ huy hai trung đoàn, có 300 xe cơ giới, xuất phát từ Đình Lập, Lạng Sơn, tiến theo đường số 4 hướng lên Cao Bằng. Nhưng dọc đường số 4, xe pháo của địch đều bị ta phá hỏng nặng; quân Pháp phải bỏ lại tất cả các loại xe, cho công binh sửa đường và hành quân bộ cùng với bầy lừa ngựa thồ hàng. Trên đường đi, chúng luôn bị dân quân du kích và bộ đội địa phương huyện Văn Lãng, Tràng Định liên tiếp bắn tỉa, đánh địa lôi, phục kích, quấy rối, nhiều tên bị tiêu diệt, buộc phải hành binh theo kiểu "sâu đo", vừa tiến quân vừa đối phó nên tốc độ hành quân rất chậm, hai ngày sau mới đến được Thất Khê. Để nhanh chóng làm chủ Đường số 4, tướng Xa-lăng huy động 300 quân dù nhảy xuông đánh chiếm thị xã Cao Bằng (9-10) và đánh chiếm Đông Khê (12-10) để yểm trợ và đón cánh quân của Bô-phơ-rê. Sau khi đón được đội quân của Bô-phơ-rê, chúng chia làm hai mũi đánh lên Nguyên Bình để rồi thọc xuống Ngân Sơn về Bắc Kạn, đồng thời dùng không quân yểm trợ cho bộ binh chia thành nhiều mũi, nhiều hướng, đánh chiếm các vị trí trọng yếu như: Cao Bình, Trà Lĩnh, Nguyên Bình, Tinh Túc, Quảng Uyên, Phục Hoà. Địch ở Cao Bằng lúc bấy giờ đã lên đến 2.000 quân. Chúng đi đến đâu đều cướp bóc, bắn giết, gây nhiều tổn thất cho nhân dân các địa phương, ở những nơi chiếm được, chúng dựng lên chính quyền bù nhìn, liên lạc với phỉ ở các địa phương, kích động và cung cấp vũ khí cho chúng để phối hợp chống phá kháng chiến. Quân Pháp được trang bị đầy đủ vũ khí hiện đại như: xe tăng, pháo, cối, đại liên...; quá trình chiến đấu còn được máy bay yểm trợ ném bom, tiếp viện đường không... Vì vậy, chúng chủ quan cho rằng: với quân số đông, được trang bị vũ khí đầy đủ, lại tiến công bất ngờ, sẽ nhanh chóng chiếm được Cao Bằng, Lạng Sơn, làm chủ con Đường số 4 chỉ trong vài ngày.


Vốn có truyền thống đấu tranh anh dũng chống giặc ngoại xâm, thực hiện lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân Cao - Lạng đã cùng nhân dân cả nước nhất tề đứng lên, kiên quyết kháng chiến bằng mọi khả năng, mọi phương tiện, đánh chặn bước tiến của quân thù. Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn đã chỉ đạo quân và dân các địa phương tiến hành công tác tiêu thổ kháng chiến, phá cầu đường, nhà tầng và đồn bốt của giặc trước đây, kiên quyết không để giặc Pháp lợi dụng làm chỗ dựa để tiến công ta. Các đơn vị bộ đội chủ lực và địa phương lập kế hoạch bố phòng chu đáo. Trung đoàn 24 tỉnh Cao Bằng (11-1947 đổi thành Trung đoàn 74) và Trung đoàn 11 tỉnh Lạng Sơn (6-1948 đổi thành Trung đoàn 28) được bố trí dọc Đường số 4, phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích các huyện, xã bố trí trận địa đánh chặn địch từ xa, chiếm giữ các điểm cao, xây dựng trận địa bắn máy bay chống địch nhảy dù. Nhân dân các địa phương tổ chức đào hầm, cắm chông ở những nơi địch có thể đi qua hoặc có thể nhảy dù. Khắp Cao - Lạng sục sôi khí thế chiến đấu, quyết tâm đánh thắng giặc Pháp xâm lược. Ngay từ ngày đầu hành binh, đội quân của Bô-phơ-rê đã bị quân và dân Cao - Lạng liên tục dùng chiến thuật du kích, đánh địa lôi, phục kích, chặn đánh ở nhiều nơi dọc đường số 4 từ Khuổi Slìn, Khuổi So, Na Sầm, Thất Khê, Đông Khê đến Cao Bằng, buộc chúng phải liên tục đối phó rất vất vả. Phải mất 5 ngày hành quân và có sự yểm trợ của lực lượng nhảy dù, chúng mới đến được Cao Bằng và phải mất hơn nửa tháng địch mới rải xong quân dọc đường số 4, thực hiện bước đầu phong toả biên giới phía Đông.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #42 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2021, 08:04:19 pm »

Ngày 9-10, khi quân Pháp nhảy dù xuống Cao Bằng, quân và dân Cao Bằng đã giáng trả quyết liệt. Khẩu đội súng máy 12,7mm của Trung đoàn 24, đặt trên đồi Thiên Văn đã bắn rơi chiếc máy bay JU-52 tại làng Pác Cáy, thuộc xã Hoà Tung, thị xã Cao Bằng, diệt 12 sĩ quan, trong đó có tên Lăm Be - Phó tham mưu trưởng quân viễn chinh Pháp ở miền bắc Đông Dương, thu được bản kế hoạch tiến công Thu - Đông lên Việt Bắc của địch. Chiến công đầu của Trung đoàn 24 đã khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân trên khắp các mặt trận. Ngay trong đêm 9-10, dân quân du kích của thị xã Cao Bằng đã đột nhập bãi đổ quân của địch ở Nà Lắc, thu 1 trung liên, 2 tiểu liên. Sáng hôm sau, dân quân du kích xã Đề Thám đã phục kích địch ra thu dù, tiêu diệt 11 tên. Khi địch tiến quân vào xưởng quân giới Lê Tổ (10-10), chúng vừa bị vướng mìn lại vừa bị các ổ súng của công nhân từ sườn núi bắn xuống, nhiều tên bị diệt, hai ngày sau buộc chúng phải rút lui. Ngày 11-10, quân và dân Cao Bằng đã phục kích, phá hủy 2 xe vận tải của địch trên đường từ Thất Khê lên Đông Khê, diệt một số lính Pháp. Ngày 12- 10, chúng nhảy dù xuống Đông Khê đã bị bộ đội và dân quân du kích huyện Thạch An tổ chức đánh trả quyết liệt.


Như vậy, có thể nói, quân và dân Cao - Lạng ngay từ những ngày đầu, đã bình tĩnh, dũng cảm, kiên cường, chủ động đánh địch bằng mọi khả năng, thu được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, lực lượng ta còn mỏng yếu, vũ khí trang bị lại thô sơ, thiếu sự chỉ huy thống nhất, không nắm chắc tình hình, chưa có sự hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị bộ đội và dân quân du kích, nên hiệu quả chiến đấu còn hạn chế.


Ngày 15-10, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Phải phá cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp", kiên quyết chặt đứt Đường số 4 - yết hầu quan trọng nối liền Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái của địch. Với phương châm đánh từ nhỏ đến lớn, từ dễ đến khó, tránh chỗ rắn, đánh chỗ mềm. Bộ Tổng chỉ huy ra Huấn lệnh số 101/ĐB, xác định: Đại đội độc lập bố trí trên các chiến trường địa phương, quấy rối tiêu diệt từng bộ phận nhỏ của địch và phối hợp với bộ đội lưu động đánh những trận lớn. Nhiệm vụ của bộ đội lưu động (tiểu đoàn tập trung) phối hợp với các đại đội độc lập và du kích tiêu diệt địch ở những vị trí lẻ tẻ hay trong khi chúng vận chuyển trên đường giao thông. Tập trung hai đến ba tiểu đoàn đánh những trận lớn.


Ngày 26-10-1947, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng một số đồng chí trong Bộ Tổng chỉ huy rời Định Hóa sang Bắc Sơn, Bình Gia (Lạng Sơn) làm việc với Tỉnh ủy, Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh Lạng Sơn về những việc cấp thiết để đẩy mạnh cuộc chiến đấu trên đường số 4. Lúc này cánh quân của Bô-phơ-rê đã đánh lên Cao Bằng, đang vòng xuống Bắc Kạn, cần tổ chức lực lượng mạnh để chia cắt, tập kích địch. Do đó, phải thành lập các tiểu đoàn tập trung, phải có các đại đội độc lập của các huyện sát kề mặt trận như Thất Khê, Na Sầm, Ôn Châu, vừa có lực lượng cơ động đánh địch, vừa có lực lượng bám đất, bám dân, phát triển chiến tranh du kích. Đồng chí Võ Nguyên Giáp truyền đạt mệnh lệnh số 132/ĐB của Bộ Tổng chỉ huy (27-10), thành lập ngay Mặt trận Đường số 4, vì con đường này sẽ trở thành huyết mạch vận chuyển tiếp tế của địch để giữ các cứ điểm trên trục đường Cao Bằng - Lạng Sơn. Mặt trận Đường số 4 có nhiệm vụ: cắt giao thông tiếp tế và bẻ gãy gọng kìm phía Đông của địch. Lực lượng tác chiến của Mặt trận Đường số 4 gồm: Trung đoàn 11 Lạng Sơn, có Tiểu đoàn 374 (6-1948 phát triển thành Trung đoàn 249) phụ trách đoạn đường từ Lạng Sơn - Đông Khê và Lạng Sơn - Đồng Mỏ. Hai tiểu đoàn còn lại phân tán thành sáu đại đội bố trí dọc Thất Khê, Văn Lãng, Đồng Đăng, Lộc Bình, Đồng Mỏ và Điềm He. Trung đoàn 24 Cao Bằng có, Tiểu đoàn 73 (tiền thân của Trung đoàn 251) phụ trách đoạn đường Cao Bằng - Đông Khê, còn lại phân thành các đại đội độc lập bố trí về các huyện Nguyên Bình, Hà Quảng, Hoà An, Quảng Uyên, Phục Hoà. Ban chỉ huy Mặt trận đã nhanh chóng tổ chức, triển khai đội hình chiến đấu. Để Trung đoàn 11 có điều kiện tập trung lực lượng đánh địch và giữ vững phía sau, Bộ Tổng chỉ huy điều Tiểu đoàn 223 độc lập của Bộ lên đứng chân ở Hội Hoan, huyện Văn Lãng (Lạng Sơn), phối hợp chiến đấu. Tỉnh ủy các tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn được giao trọng trách chỉ đạo phong trào thi đua giết giặc và phá hỏng các đoạn đường giao thông; chỉ đạo các địa phương gặt nhanh lúa mùa, sơ tán tài sản.


Thực hiện chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tỉnh ủy và Ủy ban Kháng chiến hành chính các tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, thành lập các đội phá hoại hoạt động dọc các trục đường chính, thành lập Ủy ban mùa Đông kháng chiến, vận động nhân dân quyên góp quần áo, chăn màn tặng bộ đội ngoài mặt trận. Chính quyền và các đoàn thể tích cực hoạt động, động viên và huy động mọi lực lượng giúp dân gặt hái. Thóc lúa thu về được cất giấu an toàn, nhân dân an tâm và tích cực tham gia kháng chiến, bộ đội và du kích cũng được tiếp tế kịp thời.


Với khẩu hiệu "Đánh giặc Pháp để giữ nước - tiễu phỉ để giữ nhà", đánh Pháp là việc cấp bách, nhưng tiễu phỉ cũng là vấn đề quan trọng mà các tỉnh cần phải đối phó. Vì vậy, các tỉnh đã chỉ đạo các địa phương có phỉ trên địa bàn thành lập Ủy ban Tiễu phỉ, chỉnh đốn các tổ chức dân quân tự vệ, bố trí canh phòng, lập làng chiến đấu, đào giao thông hào, đắp ụ tác chiến. Để bảo toàn và phát triển lực lượng đáp ứng yêu cầu kháng chiến trường kỳ, các tỉnh đã chỉ đạo lực lượng vũ trang dùng chiến thuật đánh phục kích, vào núi rừng hiểm trở tiêu hao sinh lực địch, ngăn chặn các cuộc tiến công lấn chiếm của chúng, bảo vệ cơ quan đầu não của ta và bảo vệ nhân dân. Các đội chống chiến xa, đánh địa lôi, những đội du kích, đại đội độc lập liên tục bám địa bàn đánh địch. Du kích bí mật tổ chức đột nhập vào các vị trí của địch ở các thị trấn, thị xã để liên tục quấy rối.


Các hình thức tác chiến của du kích phát triển rất phong phú và rộng khắp, làm cho địch vừa phải căng ra trên diện rộng, vừa phải co về vị trí để chống đỡ. Với khẩu hiệu: mỗi viên đạn một quân thù, bộ đội và dân quân thi đua chiến đấu đạt hiệu suất cao. Lực lượng du kích Cao Bằng, Lạng Sơn hoạt động tích cực, chiến đấu mưu trí và sáng tạo. Những tấm gương tiêu biểu cho chiến công của lực lượng du kích có thể kể đến: dân quân du kích huyện Văn Lãng kiên cường đánh chặn địch ở Khuổi Slìn, Khuổi So; liên tục quấy rối địch trên đường hành binh, gây cho chúng nhiều tổn thất. Tiểu đội nữ du kích tập trung của tỉnh Cao Bằng đã dũng cảm chiến đấu diệt nhiều địch ở Nước Hai, ở Ma Quan, ở làng Đèn. Công nhân xưởng Lê Tổ liên tục chặn đánh địch, diệt 60 tên, bảo vệ an toàn xưởng quân giới và nhân dân địa phương. Đội lão du kích Trùng Khánh do một lão du kích 70 tuổi chỉ huy đánh nhiều trận giữ làng và đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng mấy vần thơ: "Tuổi cao chí khí càng cao, múa gươm giết giặc ào ào gió thu, sẵn sàng tiêu diệt quân thù, tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng". Lão du kích Lương Văn Khoáng đã "chế tạo" ra đại bác bằng gỗ dùng phục kích địch ở Bó Ca, đèo Keng Phác, diệt 6 giặc (27-10). Ông Nông Văn Chấn lấy ống nước bằng kẽm chế thành súng hoả mai bắn chết 3 tên giặc. Cô du kích 17 tuổi ở Thạch An chỉ với một con dao cũng bắt được lính dù. Hai em thiếu niên ở Nước Hai (Hoà An) nhiều lần dũng cảm đặt mìn diệt 30 tên giặc trong tháng 12-1947...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #43 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2021, 08:04:59 pm »

Các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, tuy còn non trẻ, trang bị thô sơ, thiếu súng đạn, thiếu khí tài, thiếu quân trang, quân dụng, nhưng có quyết tâm chiến đấu cao, mưu trí sáng tạo, không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ. Trước sức tiến công vối quy mô lớn của địch, có cả máy bay, đại bác yểm trợ, các đơn vị bộ đội của Cao Bằng, Lạng Sơn rất linh hoạt tránh đối đầu trực tiếp, phân tán lực lượng bám sát địch, thực hiện phục kích, tập kích nhỏ lẻ.


Khi Mặt trận Đường số 4 được thành lập, các đơn vị được bố trí hình thành thế trận đánh địch trên dọc đường số 4, thực hiện địa lôi chiến, triệt đường tiếp tế, bẻ gãy gọng kìm phía đông. Các đơn vị triệt để áp dụng chiến thuật du kích vận động chiến dọc đường giao thông và các căn cứ địch, tập kích các đồn nhỏ lẻ, tránh xung đột lớn để bảo tồn lực lượng, nhưng luôn tìm nơi sơ hở của địch mà đánh. Kẻ địch luôn phải cơ động trên trục đường giao thông để tiếp tế, đó là điều kiện thuận lợi cho lối đánh du kích của ta, vừa phát huy được sở trường, vừa đánh vào đúng chỗ yếu của chúng. Bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo phương châm "Tuyệt đối giữ bí mật, đánh nhanh, rút nhanh, chú trọng bảo toàn lực lượng, cướp súng giặc để giết giặc". Bài toán vừa bảo toàn lực lượng nhưng phải cướp được nhiều súng địch đã được các đơn vị tìm ra lời giải ngay từ những trận đầu, là dựa vào sự thiên hiểm của núi rừng và sự mưu trí, dũng cảm của mọi cán bộ, chiến sĩ. Kẻ thù ỷ vào quân lính nhà nghề đông, từng đánh nhau qua Chiến tranh thế giới thứ hai, nên chúng coi thường lực lượng ta chỉ là nông dân vào Vệ quốc đoàn, không được học hành cặn kẽ về quân sự, không hiểu sâu, nắm vững về thuật dụng binh, trang bị lại thô sơ. Vì vậy, địch chủ quan, kiêu ngạo, hễ nghe tiếng súng là chúng ào ạt phản công ngay nhằm áp đảo cả về hoả lực lẫn xung lực. Cán bộ, chiến sĩ của ta dù chân đất, áo vải cũng hiểu rõ chân lý muốn đánh kẻ địch mạnh cần phải mưu trí, táo bạo, ít súng đạn vẫn thắng được địch nếu tạo nên thế bất ngờ vào thời điểm bất ngờ, ở khoảng không gian bất ngờ nhất. Đường số 4, với cái thế tuyệt địa được thiên nhiên xếp đặt, giăng bẫy sẵn, tạo sẵn cửa tử, giúp ta dẫn dụ mai phục, buộc địch lâm cảnh bất lợi, tiến thoái lưỡng nan. Với địa hình thiên hiểm, một bên là núi cao, một bên là vực sâu, đường vòng theo chân núi, đi ngược phải lên đèo, về xuôi thì phải xuống dốc, là thế thuận lợi cho các trận phục kích. Kẻ địch luôn luôn bị thua vì chúng luôn chủ quan và bị bất ngờ. Chúng cứ nghĩ rằng: bắn pháo dữ dội vào rừng núi thì Việt Minh chui vào đâu mà mai phục; dùng máy bay rà soát từng ngọn cây, bắn hàng tràng đại liên xé cây, rạch đất thì Việt Minh nào chẳng phải lùi chạy; dùng binh lính tiền tiêu đánh chiếm chốt giữ các điểm cao, khống chế chặt chẽ mặt đường thì Việt Minh nào dám xung phong xuống mặt đường; chỗ bị đánh rồi thì chắc Việt Minh sẽ chẳng đánh lại chỗ đã bị lộ... Bởi thế nên kẻ địch luôn bị đánh rất bất ngờ, chết bất ngờ theo sự tính toán chủ quan của chúng. Ở trên những đoạn đường đèo quanh co khúc khuỷu, cả những nơi địa hình trống trải và ở ngay những địa điểm chúng vừa bị đánh, quân và dân ta vẫn tổ chức phục kích đánh địch rất hiệu quả. Tiêu biểu cho sự mưu trí sáng tạo trong việc bày binh, bố trận phục kích tiêu diệt quân thù đông và mạnh hơn ta gấp nhiều lần, của các đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, có thể kể đến: Trận phục kích Bông Lau - Lũng Phầy (30-10) của Tiểu đoàn 374 (tiền thân của Trung đoàn 249), Trung đoàn 11 tỉnh Lạng Sơn: chỉ có 1 đại liên Hốt-kít, 4 trung liên, 1 cối 60, vài khẩu trung liên, tiểu liên và súng trường còn lại là mã tấu, kiếm và lựu đạn, nhưng ta đã tiêu diệt gọn một đoàn xe cơ giới, bắn cháy và phá hủy 27 trên tổng số 33 xe, diệt 94 lính Âu - Phi, 55 lính ngụy, bắt 101 tên, thu 600 chiếc dù và toàn bộ vũ khí trang bị; ta chỉ hy sinh 1 và bị thương 5 đồng chí. Trận phục kích của Trung đội 1 Đại đội 670 huyện Thạch An, tại Bó Mò (cách Đông Khê 4km, ngày 20-11), đã phá hủy 2 xe quân sự, diệt 7 tên lính, làm 6 tên bị thương, thu 1 súng trường, 1 súng máy, 6 băng đạn. Trận phục kích Slằng Kheo (3-12) của Đại đội 670, phối hợp với trung đội du kích tập trung huyện Thạch An diệt 11 tên địch. Mặc dù địch đã rải được quân suốt dọc Đường số 4, lập nhiều đồn bốt ở những nơi xung yếu, nhưng chúng luôn bị các lực lượng dân quân du kích và chủ lực của tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn đánh cho những đòn nhừ tử. Trung đoàn 74 của đồng chí Chu Huy Mân liên tục nổ súng tiến công địch. Tiểu đoàn 73 của đồng chí Nguyễn Hữu An đã phục kích tại Nà Tốn, Nà Cau, tập kích đồn Cốc Bố, Ngườm Bái, tiêu diệt nhiều xe quân sự và quân lính Pháp. Đại đội 670 phục kích tại Phục Hoà, Trà Lĩnh. Đại đội 660 hoạt động ở Quảng Uyên. Đại đội 398 diệt địch ở Khau Măng. Riêng ở Cao Bằng, từ ngày 9-10 đến ngày 13-12, ta đánh 34 trận, tiêu diệt 344 tên, bắn bị thương 67 tên.


Sau khi bị quân và dân Việt Bắc đánh trả quyết liệt với trên 200 trận, cuộc hành quân Lê-a không đạt được mục đích, ngày 20-11-1947, Bộ chỉ huy Pháp ra lệnh rút một phần lực lượng và chuyển sang kế hoạch bình định, chiếm đóng hòng bám sâu lại trong lòng Việt Bắc. Gọng kìm phía Đông của Bô-phơ-rê bị chùn lại ở Cao Bằng, buộc phải rút khỏi một số vị trí như: Phục Hoà, Quảng Uyên, Tĩnh Túc để tập trung về giữ những vị trí quan trọng như: thị xã Cao Bằng (còn 400 quân), Nước Hai (200 quân), Đông Khê (200 quân). Chúng cố gắng duy trì trên Đường số 4 hệ thống đồn bốt để nối thông xuống Lạng Sơn và về duyên hải.


Trải qua hơn hai tháng liên tục chiến đấu, quân và dân trên Mặt trận Đường số 4 đã cắt đứt giao thông tiếp tế trên Đường số 4, bẻ gãy gọng kìm phía Đông của địch, thực hiện đúng Quân lệnh của Bộ Tổng chỉ huy là đánh mạnh trên đường 4, tiêu diệt địch, bảo vệ Việt Bắc. Trong tổng số hơn 6.000 tên địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, 16 máy bay bị bắn rơi, hàng trăm xe quân sự bị phá hủy trên toàn chiến trường miền Bắc, Mặt trận Đường số 4 đã tiêu diệt 412 tên và hơn nửa số xe quân sự.


Giành được chiến thắng vẻ vang đó là nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, sáng suốt của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng chỉ huy. Các cấp ủy Đảng, chính quyền và các đơn vị bộ đội đã quán triệt sâu sắc phương châm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, vận dụng sáng tạo cách đánh, thực hiện tiến công kiên quyết, liên tục, bám địch mà đánh, đánh từ nhỏ đến lớn, từ dễ đến khó.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #44 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2021, 08:05:32 pm »

Sau thất bại Thu - Đông năm 1947, thực dân Pháp phải thực hiện chuyển hướng chiến lược từ "Đánh nhanh, thắng nhanh" sang "Đánh kéo dài, bình định vùng chiếm đóng", thực hiện chính sách "Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", mở rộng vùng chiếm đóng theo kiểu vết dầu loang ở ven đường số 4. Chúng đặt sở chỉ huy Khu biên thuỳ ở Lạng Sơn, chia thành 2 Phân khu Bắc và Nam. Phân khu Bắc gồm: tiểu đoàn 3 lê dương chốt giữ từ Cao Bằng đến Đông Khê rải thành 4 đồn. Tiểu đoàn 2 đóng ở Thất Khê, rải thành 6 đồn án ngữ dọc Đường số 4. Phân khu Nam chia thành 2 tiểu khu là Na Sầm - Đồng Đăng và Lộc Bình - Tiên Yên. Địch cố tạo thành tuyến đồn bốt vững chắc dày đặc công sự vừa để khống chế ta, vừa bảo đảm sự an toàn của chúng.


Những trận phục kích thắng lợi giòn giã đã làm tương quan lực lượng thay đổi có lợi cho ta, từ thế bị động phòng ngự, đối phó, quân ta chuyển sang thế phản công bộ phận. Lực lượng ta phát triển nhanh cả về số lượng, chất lượng và vũ khí trang bị. Những trận chiến đấu, với hiệu suất cao của Trung đoàn 74 Cao Bằng và Trung đoàn 11 Lạng Sơn, đã tạo thế cho các đại đội độc lập ở các huyện vững mạnh hơn, bao vây đánh phá các đồn bốt, phá thế kìm kẹp của địch. Quân Pháp bị sa lầy trong thế trận chiến tranh nhân dân của ta, sinh lực bị tiêu hao, lương thực, thuốc men thiếu thốn, tinh thần binh lính sa sút nghiêm trọng. Chúng buộc phải co cụm trong hàng rào đồn bốt, luôn phải căng thẳng đối phó với sự tiến công liên tục của ta. Với sự che chở của đồng bào, cộng với thế núi rừng thiên hiểm, lực lượng vũ trang ta hoàn toàn chủ động chọn địa điểm, địa hình và cách đánh thuận lợi nhất để giành phần thắng. Đường số 4 không bao giờ ngớt tiếng súng. Trong khi bộ đội chủ lực tạm nghỉ chuẩn bị cho những đánh lớn, thì dân quân du kích liên tục phá đường, phá cầu cống, cắt điện thoại, nghi binh, quấy rối, bắn tỉa tiêu hao địch ngay quanh đồn bốt. Bên cạnh đó, các địa phương còn đẩy mạnh công tác địch vận, một số lính Âu - Phi nhận thức được tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược, nên đã nộp súng đầu hàng và xin được tham gia chiến đấu trong hàng ngũ của ta. Nhiều lính ngụy được giác ngộ làm nhân mối, báo cho ta nhiều thông tin về sự thay đổi trong các đồn bốt cả về xung lực và hoả lực, lịch trình các cuộc hành quân vận chuyển tiếp tế...


Trên đường số 4 đã diễn ra cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt về phục kích và chống phục kích. Địch đã tìm trăm phương ngàn kế để đề phòng bị phục kích, nhưng ta vẫn tổ chức nhiều lần phục kích với hiệu suất chiến đấu cao, phục kích ngày càng lớn, trên quãng đường ngày càng dài, trận sau thắng lớn hơn trận trước. Sau trận phục kích thắng lợi giòn giã ở Bông Lau - Lũng Phầy, của Tiểu đoàn 374, là trận Bố Củng - Lũng Vài, của Tiểu đoàn 223 của Bộ, phối hợp cùng Trung đoàn 11, ngày 8-1-1948, diệt gọn hai trung đội, phá hủy 16 xe, thu nhiều vũ khí trong đó có cả súng cối 60mm và súng máy 12,7mm và nhiều quân trang quân dụng. Tiếp theo là trận phục kích Bản Nầm của Tiểu đoàn 374, nơi địa hình trống trải, nhưng giặc Pháp đã phải phơi thây đầy đồng. Trên hướng Cao Bằng, Trung đoàn 74 cũng liên tục tổ chức phục kích tiêu diệt địch. Trận phục kích ở Nà Keng của Trung đội trợ chiến thuộc Đại đội 675 Tiểu đoàn 73, ngày 5-4-1948, tuy hoả lực chỉ có 1 súng máy băng tròn, đã diệt 60 tên địch. Tiếp đó, là trận phục kích Nà Ten của Tiểu đoàn 73, ngày 10-12-1948, diệt 30 tên địch, phá hủy 2 xe, thu nhiều vũ khí. Đại đội 670 Thạch An rất anh dũng, liên tục tổ chức phục đánh địch ở Ngườm Kim, Xộc Ngà. Sau này, những trận phục kích của Trung đoàn 74 Cao Bằng, Trung đoàn 28 Lạng Sơn và Tiểu đoàn 223 của Bộ với quy mô ngày càng lớn, trận nào cũng thắng lớn mà thắng ngay ở những trận địa đã phục kích đánh đi đánh lại nhiều lần, nhưng kẻ địch vẫn không sao chế ngự và tránh thoát được như ở Tông Va, Lũng Mười, Ngườm Kim, Bông Lau, Bố Củng - Lũng Vài, Bản Nầm.


Thực hiện khẩu hiệu "Du kích chủ động", các đại đội độc lập và dân quân du kích địa phương hoạt động ngày càng đa dạng hơn, từ quấy rối tiêu hao đến phục kích nhỏ và làm công tác địch vận kêu gọi binh lính ngụy, giác ngộ họ, tạo nhân mối, tổ chức lấy đồn bằng nội công ngoại kích. Du kích tổ chức đánh các đồn nhỏ, như đồn Chè Cáy, Kéo Thổ. Các trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, diệt các đồn Bản Trại, Na Sầm, Lũng Vài, Nước Hai, Nguyên Bình.


Đường số 4 - con đường đã gây cho kẻ thù nhiều nỗi kinh hoàng, khiếp sợ, khi nhắc đến Bông Lau, Lũng Phầy, Bản Nầm, Lũng Vài, Bố Củng, Lũng Mười, v.v. Và mỗi lần phải vận chuyển tiếp tế từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, chúng đều khiếp đảm. Đối với chúng ta, con Đường số 4 thực sự là "Con đường lửa", nơi đây đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh, đốt cháy ý chí xâm lược của kẻ thù. Qua cuộc đọ sức lớn, quyết liệt với quân xâm lược, quân và dân trên Mặt trận Đường số 4 đã thực sự trưởng thành, rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm về tổ chức, chỉ đạo, chỉ huy, hiệp đồng chiến đấu, huy động sức mạnh của toàn dân để chiến thắng kẻ thù. Những đóng góp to lớn, từ chiến công bắn rơi máy bay JU-52, thu tài liệu "Kế hoạch tiến công Việt Bắc của địch", nhờ đó Bộ Tổng chỉ huy có thêm cơ sở vững chắc hoàn chỉnh phương án đánh địch, đến những trận phục kích tiêu diệt vài chục xe quân sự, diệt và bắt hàng trăm lính Pháp, đã củng cố niềm tin vào sự thắng lợi của công cuộc kháng chiến. Chiến lợi phẩm thu được từ Mặt trận Đường số 4, có thể trang bị cho cả binh đoàn chủ lực, giúp giải quyết được nhiều vấn đề bảo đảm phục vụ cho tác chiến, đặc biệt là vũ khí trang bị trong điêu kiện ta còn nhiêu khó khăn.


Những chiến công vang dội của quân và dân Mặt trận Đường số 4 đã đóng góp một phần lớn lao vào chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 của quân và dân Việt Bắc nói riêng và quân dân cả nước nói chung, xứng đáng với lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #45 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2021, 06:02:38 pm »

MẶT TRẬN ĐƯỜNG SỐ 3
TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947

Thiếu tướng DƯƠNG CÔNG SỬU
Phó tư lệnh Quân khu 1


Đường số 3 dài gần 400km, bắt đầu từ đường số 1 (Yên Viên, Hà Nội), qua Đa Phúc đi Thái Nguyên lên Bắc Kạn, vượt đèo Cô-lê-a về Cao Bằng rồi đi về phía Đông đến cửa khẩu Tà Lùng. Đây là trục giao thông huyết mạch nối liền Hà Nội với căn cứ địa Việt Bắc, có vị trí quan trọng trong các hoạt động kinh tế, xã hội, đặc biệt là cơ động trong hoạt động quân sự.


Ngay trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, Đường số 3 là trục giao thông chính để sơ tán, tản cư hàng chục vạn đồng bào, hàng nghìn tấn thiết bị, máy móc từ Hà Nội và các tỉnh miền xuôi lên Việt Bắc tham gia kháng chiến.


Chấp hành Chỉ thị ''Sửa soạn phá những cuộc tấn công lớn của địch" của Thường vụ Trung ương Đảng, từ ngày 27 đến 29-9-1947, Bộ Tổng chỉ huy triệu tập hội nghị quân sự lần thứ tư để thống nhất nhận định về hướng tiến công và đề ra chủ trương đẩy mạnh tác chiến Thu - Đông, tích cực chuẩn bị đánh bại kế hoạch của địch. Hội nghị phán đoán: "Bắc Bộ sẽ là chiến trường chính, nếu địch không mạo hiểm thì sẽ đánh đồng bằng, nếu mạo hiểm thì chúng sẽ đánh lên Việt Bắc... Tấn công lên Việt Bắc, chúng sẽ chiếm các tỉnh Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, nối liền đường Hà Nội - Lạng Sơn, đồng thời có thể địch sẽ cấu kết với bọn Việt gian, thổ phỉ mở rộng phạm vi hoạt động của chúng ở biên giới Việt - Hoa từ Lạng Sơn qua Cao Bằng, Hà Giang đến Lào Cai". Chiến lược của địch là "đánh nhanh, thắng nhanh" nhằm tiêu diệt Chính phủ kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực, phá nát các cơ sở kho tàng kháng chiến để sớm kết thúc chiến tranh. Mặt khác, thực dân Pháp còn đẩy mạnh các hoạt động chiến tranh tâm lý nhằm gây hoang mang, làm giảm lòng tin của nhân dân cả nước vào thắng lợi của cuộc kháng chiến; chúng rêu rao "Việt Minh chỉ là những bóng ma", để trên cơ sở đó chúng sẽ thành lập chính quyền bù nhìn phục vụ cho mưu đồ xâm lược.


Chấp hành nghị quyết và các chỉ thị của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy, Khu ủy 1 và các Tỉnh ủy, Tỉnh đội bộ dân quân đã tăng cường công tác chuẩn bị chiến đấu, tổ chức bố trí thế trận... sẵn sàng chiến đấu ngăn chặn các cuộc tiến công lớn của địch lên Việt Bắc. Trên hướng đường số 3, Khu 1 đã bố trí các lực lượng như sau:


Trung đoàn 121 (Thái Nguyên - Phúc Yên), bố trí xung quanh thị xã Thái Nguyên và dọc phía đông đường số 3 (Sơn Cẩm, La Hiên, Đình Cả), sẵn sàng đánh địch tiến công vào thị xã và dọc Đường số 3 đến Bắc Kạn. Một bộ phận của Trung đoàn dựa vào dãy núi Tam Đảo, sẵn sàng đánh địch ở Đa Phúc, Phúc Yến lên Thái Nguyên.


Trung đoàn 72 (Bắc Kạn), bố trí hoạt động xung quanh khu vực thị xã Bắc Kạn, Phú Lương, sẵn sàng đánh địch trên Đường số 3 đến Bắc Kạn.

Trung đoàn 74, bố trí xung quanh thị xã Cao Bằng, sẵn sàng đánh địch trên Đường số 4 từ Đông Khê lên thị xã Cao Bằng và trên Đường số 3 từ Cao Bằng về Bắc Kạn.

Hai tiểu đoàn 19 và 53, trực thuộc Khu 1, bố trí xung quanh thị xã Thái Nguyên, sẵn sàng đánh địch ở phía Đông Đường số 3 từ Đa Phúc (Phúc Yên) và Hiệp Hoà (Bắc Giang) lên Thái Nguyên.

Thực hiện mệnh lệnh ngày 4-10-1947 của Bộ Tổng chỉ huy gửi cho các Khu, Bộ chỉ huy Khu 1 xác định nhiệm vụ là: Bảo toàn chủ lực trước cuộc tiến công ồ ạt của địch, lập nhiều căn cứ, cản đường địch tiến nhưng không cố thủ; phát động chiến tranh du kích, bám lấy địch và tập trung lực lượng đánh vận động, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; phá hoại triệt để các đường tiến công của chúng, đồng thời tiêu thổ tất cả các thị trấn, không cho địch lợi dụng chiếm đóng; phân tán các cơ quan nặng, nhất là binh công xưởng để tránh sự tàn phá của địch.


Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy và nhiệm vụ của Khu 1 giao, lực lượng vũ trang và các địa phương dọc trục Đường số 3 vừa xây dựng thế trận theo phương án tác chiến, vừa huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Các địa phương đã hướng dẫn, phổ biến cho các tầng lớp nhân dân về công tác phá hoại; nhân dân các thị xã, thị trấn được quán triệt chủ trương "tiêu thổ kháng chiến". Chông mìn, cạm bẫy được cài đặt ở nhiều nơi dự kiến địch có thể tiến quân qua hoặc thả quân dù. Tuy nhiên, do tư tưởng "đại hậu phương chủ nghĩa", công tác phá hoại trên dọc trục Đường số 3 triển khai thực hiện chậm, có nơi làm qua loa, hình thức, thậm chí không phá hoại, hoặc chỉ phá một số nhà cửa và một ít đồn bốt cũ. Tuyến đường từ Định Hoá, Chợ Mới lên Bắc Kạn, Cao Bằng ta có ý định giữ lại để thông sang biên giới Việt - Trung. Tuyến liên tỉnh Thái Nguyên - Tuyên Quang cũng để lại nên chưa phá hoại. Từ cuối tháng 6 đến Thu - Đông 1947, thị xã Bắc Kạn mật độ dân số tăng lên khá đông, gồm các cơ quan, nhà trường, kho tàng, công xưởng của Trung ương và đông đảo nhân dân các tỉnh miền xuôi sơ tán lên tham gia kháng chiến. Các hoạt động của các cơ quan Trung ương, địa phương và sinh hoạt dân sinh ở đây vẫn mang nếp sống thời bình, chợ búa dập dìu, ngược xuôi tấp nập, điện sáng trong đêm.


Trên trục Đường số 3, công tác bảo vệ an toàn căn cứ được chú trọng, dân quân du kích đã đặt các trạm kiểm soát tại các đoạn đường trọng điểm, tổ chức canh gác, tuần tra phòng giữ căn cứ địa và các nơi xung yếu. Công tác tiễu phỉ, trừ gian được triển khai tích cực. Các ổ phỉ ở vùng cao Bắc Kạn, vùng biên giới Cao Bằng giáp Trung Quốc bị truy quét. Các tụ điểm tình báo, tổ chức gián điệp, phản động, nhiều tên bị bắt và phá rã. Nhân dân được giáo dục thường xuyên về ý thức cảnh giác, thực hiện khẩu hiệu "Ba không". Ở các vùng Định Hóa (Thái Nguyên), Chợ Đồn, Bạch Thông (Bắc Kạn), đồng bào các dân tộc được học tập về công tác bảo vệ, giữ bí mật, bảo đảm nơi ở, nơi làm việc của cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ được an toàn tuyệt đối.


Hồi 8 giờ 15 phút ngày 7-10-1947, thực dân Pháp bất ngờ mở cuộc hành binh chiến lược lên Việt Bắc. Mở đầu cuộc tiến công, giặc Pháp đã sử dụng nhiều máy bay ném bom, bắn phá dữ dội xuống các mục tiệu xung quanh thị xã Bắc Kạn. Tiếp đó, hàng chục lần chiếc máy bay vận tải thả hai tiểu đoàn quân dù (có khoảng 800 tên) do trung tá Sô-va-nhắc chỉ huy, xuống các khu vực ngoại vi, các điểm cao khống chế và ngay trong thị xã Bắc Kạn. Cũng ngay chiều hôm đó (7-10), Pháp lại thả một tiểu đoàn quân dù (có khoảng 300 tên) xuống chiếm đóng thị trấn Chợ Mới (Bắc Kạn).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #46 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2021, 06:03:54 pm »

Ngày 8-10, Pháp tiếp tục ném hơn 200 lính dù xuống đánh chiếm thị trấn Chợ Đồn (Bắc Kạn), Cao Kỳ (Bạch Thông), nam thị xã Bắc Kạn 21km. Như vậy, ngay từ những ngày đầu, thực dân Pháp đã thực hiện "cú nhảy táo bạo" nhằm chụp bắt cơ quan đầu não của ta.


Ngày 9-10, do cánh quân phía Đông của Bô-phơ-rê gặp nhiều khó khăn vì bị quân và dân Lạng Sơn chặn đánh và phá hỏng nhiều đoạn trên Đường số 4, dẫn đến cơ động chậm, phải bỏ cả xe pháo ở lại, dùng lừa ngựa thồ hàng, tướng Xa-lăng, Tư lệnh chiến trường Bắc Đông Dương, buộc phải sử dụng thêm 300 quân dù Pháp nhảy xuống thị xã Cao Bằng. Cùng ngày, từ Hà Nội, binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa và lính thủy đánh bộ do Com-muy-nan chỉ huy, ngược sông Hồng, vào sông Lô, lên Tuyên Quang, hình thành gọng kìm phía Tây. Trong khi đó, các tiểu đoàn dự bị của quân viễn chinh Pháp ở Bắc Đông Dương được tập kết ở sân bay Gia Lâm, sẵn sàng tung xuống những nơi phát hiện cơ quan đầu não kháng chiến.


Cuộc chiến đấu của quân và dân trên trục Đường số 3 ngay từ đầu đã diễn ra quyết liệt. Tại thị xã Bắc Kạn, địch dựa vào thế quân đông, hoả lực mạnh, khai thác yếu tố bất ngờ của chiến thuật nhảy dù, đánh chiếm các khu vực bên trong và ngoài thị xã. Lực lượng vũ trang ta tuy mỏng yếu và bị bất ngờ, nhưng vẫn anh dũng chiến đấu. Học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn đã tiêu diệt gọn một toán quân dù khi chúng vừa chạm đất. Tiểu đoàn 49 tân binh của Trung đoàn 72 dùng lựu đạn đánh trả, diệt nhiều tên. Dân quân xã Thanh Mai tiến công vào những toán dù mới tiếp đất, tiêu diệt một số tên, thu 1 súng cối và 2 súng máy; dân quân xã Hà Vị chặn đánh toán lính dù vào Cốc Xá. Dân quân du kích Chợ Mới và các xã Yên Định, Cao Kỳ, Hoà Mục, Nông Thượng toả đi tìm diệt những tên lính dù lạc ra ngoài thị xã và Chợ Mới. Bộ đội chủ lực Khu và bộ đội địa phương cùng dân quân du kích Bắc Kạn, Chợ Mới liên tục tổ chức các trận tập kích, phục kích, bắn tỉa, đánh địa lôi, đánh trả các cuộc hành quân càn quét của địch, mở rộng khu vực đổ bộ và giải toả giao thông trên đường số 3 từ Bắc Kạn về Chợ Mới.


Tại Cao Bằng, bộ đội và tự vệ thị xã tích cực bám trụ đánh địch. Phân đội phòng không của đại đội trợ chiến thuộc Trung đoàn 74 bố trí trên đồi Thiên Văn, Cao Bằng đã chiến đấu dũng cảm, lập công xuất sắc, bắn rơi chiếc máy bay JU-52, diệt 12 tên sĩ quan địch, thu nhiều tài liệu có giá trị - trong đó có bản kế hoạch tiến công Việt Bắc của địch. Tài liệu thu được của địch, đã cung cấp cho ta những ẩn số về cuộc hành binh của giặc Pháp, giúp cho Bộ Tổng chỉ huy sớm thành kế hoạch phản công.


Ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Phải phá cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp", biểu dương tinh thần chiến đấu của quân dân Việt Bắc, chỉ rõ những chỗ mạnh, chỗ yếu của địch và nhấn mạnh: "Chúng đóng quân ở xa càng dễ cho ta bao vây và chặn đường tiếp tế đánh chúng một cách có lợi trong khi chúng vận động".


Theo quyết định của Bộ Tổng chỉ huy, các trung đoàn chủ lực của Bộ và của Khu thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung", kết hợp tác chiến du kích rộng khắp với tác chiến tập trung quy mô nhỏ trên các hướng.


Cuối tháng 10-1947, các lực lượng vũ trang Việt Bắc đã mau chóng điều chỉnh lực lượng, kết hợp với lực lượng chủ lực Bộ, hình thành thế trận phản công theo kế hoạch của Bộ Tổng chỉ huy trên các mặt trận Đường số 3, Đường số 4 và Mặt trận Sông Lô.


Mặt trận Đường số 3, do đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái trực tiếp chỉ huy, có nhiệm vụ tích cực phá hoại, phục kích đường giao thông, triệt tiếp tế, buộc địch rút khỏi khu vực Bắc Kạn. Lực lượng được bố trí như sau:

Trung đoàn 72: Sử dụng Tiểu đoàn 55 đánh tập trung ở khu vực Bắc Kạn, Nguyên Bình, đường số 3; còn lại 5 đại đội độc lập phân tán về phụ trách các vùng Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông, Na Rì (Bắc Kạn).

Trung đoàn 121: dùng Tiểu đoàn 25 cơ động đánh địch từ Thái Nguyên đến Phúc Yên, còn 7 đại đội độc lập bố trí ở các huyện của tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Phúc Yên.

Trung đoàn 165 (thiếu) thuộc Bộ Tổng chỉ huy, phối hợp cùng với Tiểu đoàn 160 đảm nhiệm đánh địch ở vùng Chợ Rã, Chợ Đồn, Bắc Kạn, vừa đánh mạnh đường số 3 để cô lập địch ở Bắc Kạn, bức rút một số vị trí địch chiếm đóng vừa bảo vệ cơ quan, kho tàng trong căn cứ địa.


Nhờ có các "đại đội độc lập" làm nòng cốt dìu dắt dân quân du kích xây dựng và chiến đấu, phong trào "quần chúng chiến tranh" (khởi đầu của cụm thuật ngữ chiến tranh nhân dân) của các địa phương nhanh chóng phát triển rộng khắp. Lực lượng du kích tập trung của các tỉnh trên trục đường số 3, tính trung bình mỗi tỉnh có hai trung đội, mỗi huyện có một trung đội trực tiếp tham gia chiến đấu.


Khu 1 và các tỉnh ủy tập trung chỉ đạo thi đua giết giặc lập công và phá các đoạn đường giao thông còn lại, gặt nhanh lúa mùa và sơ tán tài sản của nhân dân. Để tăng cường sự chỉ đạo của trên và khắc phục khó khăn về phương tiện thông tin liên lạc, nhiều tổ phái viên của Khu 1 được cử xuống các đơn vị, địa phương để nắm tình hình và chỉ đạo tác chiến. Các trận phục kích nhỏ lẻ trên đường giao thông tiêu hao sinh lực địch, đã tạo đà cho lực lượng ta từng bước tiến tới đánh vào các vị trí đồn trú của địch.

Ngày 15-10, bộ đội và du kích Bắc Kạn phục kích ở km 23 Đường số 3 từ Bắc Kạn về Chợ Mới, tiêu diệt 95 tên địch. Ba công nhân ở Chợ Chu - Định Hóa đánh địa lôi diệt 24 tên giặc Pháp.

Đêm 15-10, Mặt trận Đường số 3 sử dụng lực lượng của Tiểu đoàn 19, do đồng chí Lâm Kính (1 trong 34 chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân) chỉ huy tập kích vào quân địch ở Chợ Mới. Lần đầu tiên ta dùng 7 đại đội đánh cứ điểm do 1 đại đội địch chốt giữ. Do hạn chế về vũ khí trang bị, song với lòng quả cảm chiến đấu, ta đã diệt và làm bị thương hơn 100 tên địch, đốt cháy 2 kho đạn. Tiếp sau đó, ngày 16-10, bộ đội và đại đội du kích xã Cao Hoà (Chợ Mới) phục kích địch tại Bản Toòng, km số 3 đường Bắc Kạn đi Chợ Mới, phá hủy 3 xe quân sự và diệt 50 tên địch.


Trên Mặt trận Đường số 3, chiến tranh du kích ngày càng phát triển. Lực lượng dân quân du kích làm chủ các đoạn đường Bắc Kạn đi Cao Bằng, Chợ Đồn, Phủ Thông, Chợ Mới. Trận phục kích trên đường số 3 Cao Bằng - Bắc Kạn (21-10) đánh thiệt hại nặng 2 trung đội địch. Trận đánh địa lôi trên đường Bắc Kạn - Chợ Mới (23-10) của đại đội du kích hai xã Cao Kỳ và Hoà Mục (Chợ Mới) đã phá hủy 2 xe quân sự, diệt 62 tên địch.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #47 vào lúc: 17 Tháng Ba, 2021, 06:04:36 pm »

Những trận thắng dù chưa lớn, nhưng đã củng cố niềm tin của nhân dân các dân tộc vào khả năng chiến đấu của bộ đội và dân quân du kích. Các đại đội độc lập được đồng bào giúp đỡ, cung cấp tin tức, tiếp tế, dẫn đường, tải thương... nên công tác chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu có nhiều thuận lợi. Tiếp sau đó, các trận tập kích, phục kích lại liên tiếp diễn ra ở Chợ Rã, Phủ Thông, Bản Thi (Bắc Kạn) góp phần tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.


Tính đến ngày 20-11, quân và dân trên Mặt trận Đường số 3 đã đánh 17 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên Pháp xâm lược, làm cho chúng bị hoang mang, lúng túng. Quân Pháp phải thu hẹp phạm vi đồn trú, việc tiếp tế hậu cần cho Cao Bằng và Bắc Kạn gặp nhiều khó khăn, buộc chúng phải sử dụng máy bay để tiếp tế.


Bị sa lầy trong thế trận chiến tranh nhân dân của ta, ở càng lâu trên núi rừng Việt Bắc, khó khăn đối với giặc Pháp càng lớn; lương thực, thuốc men thiếu thốn; tinh thần binh lính sa sút. Trong khi đó, trên tất cả ba mặt trận, ta đánh mạnh vào giao thông, tiếp tế và đẩy mạnh hoạt động địch vận. Điều đó đã tác động đến tâm lý tinh thần của đội quân đánh thuê, làm nảy sinh mâu thuẫn giữa binh lính da đen với sĩ quan Pháp. Một số lính Âu - Phi nhận thức được tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược đã mang theo súng ra đầu hàng.


Từ giữa tháng 11-1947, sau hơn một tháng tiến công lên Việt Bắc, địch không những không thực hiện được các mục tiêu, trái lại chịu tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Để cứu vãn tình thế, Bộ chỉ huy Pháp quyết định chấm dứt cuộc hành quân Lê-a để chuyển sang kế hoạch Xanh-tuya (Vành đai), thực hiện rút một phần lực lượng, kết hợp càn quét khu tứ giác Việt Trì - Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Giang.


Những ngày cuối tháng 11 và đầu tháng 12-1947, địch dùng nhiều tiểu đoàn, từ nhiều hướng bí mật càn đi càn lại khu vực Võ Nhai, Đại Từ, Phú Lương, Định Hóa thuộc tỉnh Thái Nguyên. Ngay trong đêm 24-11, một tiểu đoàn địch từ km 31 bí mật luồn rừng sang Quán Vuông. Hôm sau, 25-11, cánh quân này bất ngờ sục sạo sang Chợ Chu và vùng phụ cận. Ngày 26-11, máy bay địch bắn phá rồi thả 2 tiểu đoàn lính dù xuống La Hiên, Tràng Xá, hòng truy lùng cơ quan đầu não kháng chiến. Các cơ quan Trung ương của ta đã phán đoán đúng ý đồ của địch và di chuyển trước đó 10 ngày. Từ ngày 25 đến 27-11, một cánh quân khác của địch từ Phủ Lạng Thương qua Nhã Nam, bí mật luồn rừng, tiến về hướng Võ Nhai, Đồng Hỷ. Cánh quân này vận dụng triệt để các thủ đoạn ngụy trang, nghi binh. Khi sục sạo, chúng chia thành tốp nhỏ, giả trang nông dân, đội nón lá, mang sắc phục nâu chàm. Khi trú quân ban đêm, địch dựng trại và đốt lửa chỗ này, trú quân chỗ khác. Có nơi chúng bắt nhân dân địa phương vào ngủ trong trại rồi phục kích xung quanh. Ngoài những cánh quân sục sạo và càn quét trên, một cánh quân khác của địch bí mật men theo phía đông chân núi Tam Đảo, chiếm đóng 32 vị trí, tạo thành một vòng vây vô cùng lợi hại.


Những ngày này, cuộc đấu trí, đấu lực giữa ta và địch diễn ra căng thẳng quyết liệt. Địch dựa vào ưu thế vũ khí, trang bị hiện đại, thủ đoạn xảo quyệt, gian ác. Bộ đội và du kích ta dựa vào nhân dân, cơ động bí mật, linh hoạt giữa núi rừng Việt Bắc bao la, hiểm trở. Địch bị phục kích, tập kích, bắn tỉa khắp nơi. Nhiều trận đánh nhỏ lẻ nhưng đạt hiệu suất cao, khiến cho địch hoang mang, lo sợ. Trận tập kích đêm 27-11 tại Quảng Nạp, của Tiểu đoàn 103 do đồng chí Vũ Lăng chỉ huy, diệt 30 tên, làm bị thương hàng chục tên khác. Trận tập kích ngày 28-11 ở Lục Rã làm thiệt hại nặng 1 đại đội địch. Trận tập kích đồn Phủ Thông đêm 30-11 của một đại đội thuộc Trung đoàn 72, phối hợp với bộ đội địa phương Bạch Thông và du kích thị xã Bắc Kạn, diệt trên 50 tên trong công sự kiên cố, buộc địch phải co cụm cố thủ. Tuy không làm chủ hoàn toàn trận địa, nhưng trận đánh này của bộ đội và du kích làm rung chuyền cả hệ thống đồn bốt địch trên chiến trường Việt Bắc. Tiếp đó, trong trận phục kích ngày lõ-12 tại Đèo Giàng, ta diệt 60 tên địch, phá hủy 10 xe cơ giới.


Giữa tháng 12-1947, sau những cuộc hành quân càn quét với bao thiệt hại, địch lâm vào thế bế tắc. Trước sự phá sản của kế hoạch Xanh-tuya, Bộ chỉ huy Pháp quyết định rút một phần lực lượng tham chiến ra khỏi Việt Bắc, và duy trì một bộ phận lớn lực lượng chiếm đóng các thị xã Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn với mưu đồ cố bám sâu vào trong lòng Việt Bắc; đồng thời lập các cứ điểm, chốt giữ các đầu mối giao thông quan trọng trên đường số 3 và số 4.


Ngày 19-12-1947, chiến dịch phản công Việt Bắc kết thúc thắng lợi. Trải qua hai tháng rưỡi liên tục chiến đấu trong vòng vây của giặc Pháp, quân và dân trên Mặt trận Đường số 3 cùng quân dân Việt Bắc đã góp phần quan trọng cùng quân dân cả nước đánh bại cuộc hành binh chiến lược của giặc Pháp, thực hiện đúng quân lệnh của Tổng chỉ huy "Phải đánh cho xứng với thanh danh của Việt Bắc” và "Tiêu diệt quân địch, bảo vệ Việt Bắc". Quân và dân Mặt trận Đường số 3 đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, thu hàng chục tấn vũ khí, đạn dược và quân trang quân dụng.


Với chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, quân và dân Mặt trận Đường số 3 đã cùng quân và dân Việt Bắc bảo vệ an toàn Trung ương Đảng và Chính phủ, bảo toàn và phát triển lực lượng vũ trang, giữ vững căn cứ địa kháng chiến, đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn cùng chiến lược "Đánh nhanh, thắng nhanh" của địch, buộc chúng phải bị động đối phó với chiến lược đánh lâu dài của ta.


Qua cuộc đấu trí, đấu lực với địch trong chiến dịch phản công Việt Bắc, các lưc lượng vũ trang ta trưởng thành mau chóng, hăng hái, tự tin, vững bước sang giai đoạn mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


Chiến công trên Mặt trận Đường số 3 nói riêng, chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 nói chung, là kết quả của nhiều nhân tố; trong đó nhân tố chủ yếu là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh; sự chỉ đạo, chỉ huy chặt chẽ, kịp thời Bộ Tổng chỉ huy và tinh thần đoàn kết, phối hợp chiến đấu chặt chẽ của lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Việt Bắc trên từng mặt trận và trên khắp các chiến trường trong cả nước.


Sáu mươi năm đã đi qua, chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã để lại cho hôm nay nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ tầm vóc và giá trị, đồng thời vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #48 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:04:17 am »

MẶT TRẬN ĐƯỜNG SỐ 2
TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG NĂM 1947


Đại tá TIÊU XUÂN HỒNG
Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tuyên Quang


Thực hiện chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" (12-12-1946) và hưởng ứng Lời kêu gọi "Toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946), cùng với nhân dân cả nước, quân và dân Tuyên Quang khẩn trương bắt tay vào nhiệm vụ củng cố hậu phương, xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu theo khẩu hiệu "Tất cả cho kháng chiến", "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Để đảm bảo an toàn các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, giữ gìn lực lượng và chuẩn bị cơ sở vật chất cho kháng chiến lâu dài, đầu tháng 3-1947, các xí nghiệp, trường học, công binh xưởng và các cơ quan, bộ, ban, ngành của Trung ương, Chính phủ và quân đội lần lượt rời khỏi Hà Nội, di chuyển lên ở và làm việc tại An toàn khu của Trung ương ở Việt Bắc. Hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm được quân và dân Tuyên Quang, cùng quân và dân các tỉnh bạn, bảo vệ, vận chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc. Cùng thời gian này, nhằm cản bước tiến của địch và hạn chế việc chúng tận dụng cơ sở vật chất của ta phục vụ cho mưu đồ, xâm lược. Trung ương Đảng chủ trương triệt để phá hoại và tiêu thổ kháng chiến... không cho chúng lợi dụng. Thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân Tuyên Quang đã thực hiện triệt để phá hoại. Từ tỉnh đến cơ sở, các Ban phá hoại, Ban tản cư được thành lập. Với khẩu hiệu "Mất nhà còn hơn mất nước", "nhà không, vườn trống”, khắp nơi nhân dân hăng hái tham gia công tác tiêu thổ kháng chiến. Công tác phá hoại đường số 2 và thị xã Tuyên Quang được Tỉnh ủy giao cho lực lượng tự vệ thị xã và dân quân du kích các xã xung quanh thực hiện. Đường số 2 là con đường giao thông huyết mạch, có vị trí chiến lược rất quan trọng, xuất phát từ Hà Nội qua Vĩnh Phúc - Phú Thọ, ngược lên Tuyên Quang - Hà Giang và thông ra biên giới Việt - Trung, rất tiện lợi cho địch trong quá trình hành quân để tiến công ta. Với tinh thần "Tất cả cho kháng chiến", chỉ trong một thời gian ngắn, tỉnh đã huy động được 307.000 ngày công, phá được 5.000m2 nhà ở, 1.000 chiếc cầu lớn nhỏ, 22km đương liên tỉnh, 61km đường liên huyện và đào đắp nhiều hào hố, ụ đất chống xe cơ giới, cắm nhiều bãi chông mìn chống địch nhảy dù... Đảng bộ, chính quyền cùng quân và dân các dân tộc Tuyên Quang đã làm tốt công tác chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu với niềm tin quyết thắng.


Thực hiện chủ trương của Đảng, quyết định của Bộ Quốc phòng về xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang địa phương đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, tháng 4-1947, Tỉnh đội Tuyên Quang được thành lập. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang Tuyên Quang.


Tháng 10-1947, thực dân Pháp mở cuộc tiến công lên Việt Bắc theo kế hoạch, hai gọng kìm (phía Đông và phía Tây) của địch dự định sẽ hội quân tại Đài Thị - Chiêm Hóa vào trung tuần tháng 10-1947.


Ngày 13-10-1947, binh đoàn Com-muy-nan đến được thị xã Tuyên Quang, gọng kìm phía Tâv của Pháp đã hình thành rõ rệt. Từ thị xã Tuyên Quang, để lên được Đài Thị - Chiêm Hoá, chúng phải hành quân theo Đường số 2 tới km 31 (đường Tuyên Quang - Hà Giang) rẽ phải, vượt phà Bợ lên Chiêm Hoá, qua Đầm Hồng để lên Đài Thị. Mặt khác, ca nô, tàu chiến địch sẽ chở quân ngược sông Lô, quặt qua sông Gâm rồi lên Đài Thị, Chiêm Hoá.


Để bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc, bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến, giữ vững quân chủ lực và các cơ sở kháng chiến, Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tổng chỉ huy chủ trương dùng phương thức "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung", kết hợp giữa lực lượng chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương đánh địch trên đường hành quân, ở tất cả các mặt trận (Đường số 3, Đường số 4 và Mặt trận Sông Lô và đường số 2), tiêu hao sinh lực địch, bẻ gãy hai gọng kìm của chúng.


Đường số 2 và con đường từ km 31 đi Chiêm Hóa là một trong những con đường chuyển quân tiếp tế trọng yếu của địch. Chiêm Hóa - nơi địch dự định hội quân giữa hai gọng kìm, là đỉnh tháp của Mặt trận Sông Lô - Đường số 2. Việc đánh địch trên Đường số 2 có ý nghĩa quan trọng không chỉ là việc bẻ gãy gọng kìm phía Tây của địch, mà còn góp phần làm thất bại ý đồ hội quân của chúng, làm phá sản toàn bộ kế hoạch tấn công lên Việt Bắc của thực dân Pháp.


Chiêm Hoá, từ đầu năm 1947, đã là nơi ở và làm việc của nhiều cơ quan Trung ương, các Bộ, ban, ngành của Chính phủ; các cơ sở quân giới... Việc đánh địch ở Chiêm Hóa là nhằm bảo vệ an toàn cho cơ sở này, nằm giữa căn cứ địa kháng chiến. Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, công tác chuẩn bị đánh địch, tham gia kháng chiến kiến quốc ở Chiêm Hóa được chuẩn bị rất tích cực. Huyện Chiêm Hóa xây dựng một trung đội cảnh vệ 30 người, một đội du kích thoát ly 40 người, do đồng chí Hường, người dân tộc Dao chỉ huy.


Khi địch tấn công lên Tuyên Quang, nhân dân đã thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Dân quân, du kích xây dựng một số bãi chông chống địch nhảy dù ở Yên Nguyên, huyện lỵ và Đầm Hồng, lập các "Trạm gác trong búa nứa" canh gác chặt chẽ những nơi xung yếu.


Trung đoàn 112 (Hà Tuyên) của Khu 10, được lệnh phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh địch trên đường bộ và đường sông Lô, sông Gâm, Chiêm Hóa (thành lập từ đầu năm 1946) gồm 3 tiểu đoàn (Tiểu đoàn 1 (d508) đóng tại Tuyên Quang, Tiểu đoàn 2 (d718) đang hoạt động ở Hà Giang, Tiểu đoàn 3 mới thành lập, một đại đội trợ chiến, một đại đội vệ binh và một đội trinh sát, do đồng chí Bế Sơn Cương làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Lê Thuỳ làm Chính trị viên và đồng chí Mai Trung Lâm làm Trung đoàn phó.


Theo đó, Trung đoàn triển khai thực hiện nhiệm vụ. Hai đại đội hoạt động đánh địch xung quanh thị xã và dọc sông Lô lên tới Xuân Vân (ngã ba sông Lô - sông Gâm, cách thị xã trên 10km), bảo vệ cơ quan lãnh đạo tỉnh và sở chỉ huy trung đoàn; một đại đội phối hợp cùng du kích, tự vệ đánh địch từ km 5 trên Đường số 2 đi Hà Giang, một đại đội khác được lệnh hành quân gấp lên Đầm Hồng - Đài Thị (Chiêm Hoá) để đánh địch từ Chợ Đồn (Bắc Kạn) sang. Tiểu đoàn 718 được lệnh từ Hà Giang về Chiêm Hóa cùng quân, dân địa phương đánh địch cả lúc chúng tiến công lẫn lúc chúng rút lui.


Một đại đội từ Tuyên Quang hành quân gấp lên Chiêm Hoá, phối hợp cùng dân quân; du kích địa phương, học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn tại Đầm Hồng đánh địch.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #49 vào lúc: 29 Tháng Ba, 2021, 10:05:08 am »

Chiếm được thị xã Tuyên Quang, quân Pháp có bàn đạp để thực hiện cuộc hành quân lên Chiêm Hoá. Ngày 18-10-1947, địch huy động hai đại đội tiến quân thăm dò trên quôc lộ 2. Tự vệ, du kích địa phương phục kích tại km 5, tiêu diệt hơn 10 tên, buộc chúng phải co cụm về thị xã Tuyên Quang.


Phán đoán thế nào địch cũng hành quân lên Chiêm Hóa theo Đường sông Lô và đường bộ, lực lượng ta tích cực chuẩn bị chặn đánh cuộc hành quân của tiểu đoàn 3, do thiếu tá Ke-ga-va-rát chỉ huy, trên sông Lô và sông Gâm; đồng thời bộ đội, du kích tự vệ khẩn trương triển khai các trận phục kích trên đường số 2 và đường đi Chiêm Hoá. Tự vệ Tuyên Quang xây dựng trận địa phục kích bằng địa lôi tại km 7 đường Tuyên Quang - Hà Giang (thuộc xã Trung Môn - Yên Sơn). Đây là một đoạn đường dốc, hai bên là rừng rậm, phía trước (từ Tuyên Quang lên) có cây cầu đã bị đánh sập khi ta thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Đỉnh dốc cao, cho phép ta có thể quan sát địch từ xa. Bốn quả bom ta thu được trong những trận đánh trước, đã được cải tạo lắp kíp nổ bằng điện thành địa lôi. Năm tự vệ của đội tự vệ Thành Tuyên được trao nhiệm vụ phụ trách trận địa phục kích. Ký tín hiệu liên lạc của tổ chiến đấu hết sức đơn giản, được thực hiện bằng các dây sắn rừng, truyền từ điểm quan sát tới nhóm có nhiệm vụ điểm hoả. Một đơn vị bộ đội được bố trí cách trận địa phục kích khoảng 10km, sẵn sàng đánh địch khi chúng vượt qua trận địa phục kích của tự vệ Tuyên Quang.


Khoảng gần 10 giờ sáng ngày 22-10-1947, gần 500 tên địch cùng đoàn lừa, ngựa, vận tải (thuộc Tiểu đoàn do Lơ Giốt chỉ huy) lọt vào trận địa phục kích. Lệnh điểm hoả được phát ra, 3 trong 4 quả địa lôi nổ trùm lên đội hình hành quân của quân Pháp. Xác địch, xác lừa, ngựa, vũ khí văng khắp nơi, vắt cả lên ngọn cây ven đường. Kết quả, 72 tên địch chết tại chỗ hơn 30 tên khác bị thương nặng. Tự vệ Tuyên Quang rút lui an toàn.


Nắm chắc địch bị thiệt hại nặng, khó có thể tiếp tục hành quân được, 2 trung đội bộ đội ở trận địa phục kích phía sau đã luồn rừng về km 5 tổ chức đánh tiếp một trận, tiêu diệt thêm 30 tên nữa khi chúng rút về thị xã Tuyên Quang.


Trận địa lôi ở km số 7 - "tiếng nổ của hoả ngục" như lính Pháp thừa nhận, đã bẻ gãy cuộc hành quân của địch. Đó cũng là trận đánh sáng ngời quyết tâm, ý chí "dùng vũ khí địch đánh địch", quyết đánh thắng quân Pháp bằng mọi cách, bằng mọi phương tiện - với tinh thần chủ động, sáng tạo. Những quả địa lôi đã trở thành ám ảnh trên khắp các ngả đường hành quân của địch, làm cho chúng khiếp đảm tới mức gọi Tuyên Quang là "nghĩa địa khổng lồ" và than thở "sẽ còn rất nhiều cây thập ác bằng gỗ mọc lên trong nghĩa địa khổng lồ Tuyên Quang".


Liên tục bị chặn đánh và bị mắc cạn, quân lương thiếu thốn, binh lính mệt mỏi, chiều ngày 19-10-1947, một bộ phận quân địch theo sông Lô, sông Gâm mới tới được xã Hợp Hoà (cách huyện lỵ Chiêm Hóa 9km). Từ đây, chúng theo đường mòn tiến vào chiếm đóng huyện lỵ Chiêm Hoá. Vài ngày sau đó, cánh quân bộ, sau khi vượt phà Bợ, bị đánh ở Cầu Cả, Đèo Gà, chật vật lắm mới lên được Chiêm Hoá. Từ Chiêm Hoá, địch tung quân càn quét các vùng xung quanh huyện lỵ và liều mạng tiến lên Đầm Hồng, Đài Thị tìm gặp cánh quân phía Đông. Tiếng súng đánh địch ở Chiêm Hóa vang lên khắp nơi. Không cho địch thực hiện mục tiêu hành quân, đêm 19-10, khi địch định tập kích vào phía sau đội hình của bộ đội chủ lực và Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở Đầm Hồng, ta đã chủ động xây dựng trận địa phục kích ở km số 4, diệt 14 tên. Sau khi chiếm Đầm Hồng, ngày 20-10-1947, Com-muy-nan liều mạng cho một bộ phận tiến lên Đài Thị. Nhưng đã quá muộn, cánh quân phía Đông của Bô-phơ-rê đã rút. Kế hoạch hội quân của 2 gọng kìm phía Tây và phía Đông tại Đài Thị (Chiêm Hoá) thất bại. Đây là thất bại của "sự mạo hiểm của kế hoạch hành binh" lên Việt Bắc của thực dân Pháp.


Không hợp được với cánh quân phía Đông như dự định, lại luôn luôn bị dân quân du kích địa phương và Trung đoàn 112 phục kích, tập kích, quấy phá, cánh quân Com-muy-nan mất tinh thần chiến đấu, tìm đường rút lui.


Phán đoán thế nào địch cũng phải rút khỏi Chiêm Hóa về Tuyên Quang, Bộ Tư lệnh Khu 10 chỉ thị cho các đơn vị, địa phương tăng cường chiến tranh du kích, đánh địa lôi trên đường số 2, đồng thời chuẩn bị một trận phục kích lớn trên sông Lô, ở phía Bắc Tuyên Quang, nhằm tiêu diệt tàu địch.


Ngày 24-10-1947, Ban chỉ huy Trung đoàn 112 lệnh cho Tiểu đoàn 718 ở Hà Giang về gấp Chiêm Hóa để đánh địch trên đường rút lui. Ngày 28-10, phần lớn Tiểu đoàn 718 về tới ngòi Quang (Xuân Quang - Chiêm Hoá). Ngay đêm 28-10, nhân dân và du kích tự vệ địa phương đã dùng mảng nứa, thuyền đưa tiểu đoàn vượt sông lên tập kết tại một địa điểm cách Đầm Hồng 4 km (khu vực Vật Nhèo). Ngày 29-10, một tổ cán bộ được cử đi trinh sát địa hình, tìm địa điểm phục kích địch rút từ Đầm Hồng về Chiêm Hoá.


Với lực lượng gần 4 đại đội, quân ta bố trí 2 trận địa phục kích; 1 trên đường bộ (dài gần 1km) phía dưới Đầm Hồng khoảng 4km; 1 tại Vật Nhèo, đánh địch rút bằng tàu chiến, ca nô trên sông Gâm, hai điểm cách nhau khoảng 400m.


Một giờ chiều ngày 1-11, toán quân bộ lọt vào trận địa phục kích; sau gần một giờ chiến đấu, ta diệt hơn 60 tên.


Quân địch phải dạt xuống bờ sông tháo chạy về Chiêm Hoá. Cùng lúc, 2 ca nô của địch cũng xuôi xuống Vật Nhèo; ta nổ súng, cả hai chiếc ca nô đều bị trúng đạn, một chiếc bốc cháy chìm ngay tại chỗ. Chiếc thứ hai định dạt vào bờ, bị ta đánh tiếp, hốt hoảng quay đầu tháo chạy, đâm phải thành đá và cũng bị chìm luôn. Dân quân cùng bộ đội nổ súng tiêu diệt nốt những tên còn sống sót. Trong hai trận đánh này, ta tiêu diệt gần 200 tên, bắn chìm 2 ca nô, thu nhiều vũ khí.


Sau thất bại đó, quân Pháp tập trung về huyện lỵ Chiêm Hóa tiếp tục tính kế rút về Tuyên Quang. Phán đoán địch sẽ rút bằng cả đường thủy lẫn đường bộ, hai đại đội bộ đội chủ lực từ Đầm Hồng qua Chinh, Cham, vượt sông Gâm (phía dưới huyện lỵ khoảng 10km) cắt đường rừng qua Nhân Lý về Yên Nguyên. Dân quân du kích các xã Yên Nguyên, Hoà Phú dẫn đường giúp bộ đội xây dựng trận địa phục kích dài gần 1km, suốt từ chân Đèo Gà (hướng Tuyên Quang) tới Cầu Cả. Trận địa chính bố trí cách Cầu Cả 500m (là đoạn đường độc đạo, hẹp, gần chân núi). Bốn giờ chiều ngày 5-11-1947, quân Pháp lọt vào trận địa phục kích. Sau gần 2 giờ chiến đấu quyết liệt, ta tiêu diệt và làm bị thương gần 100 tên. Không dám tiếp tục hành quân trong đêm tối, đêm 5-11, quân Pháp phải thu quân, thiêu hủy xác chết. Sáng ngày 6-11, chúng chia làm hai toán: một toán chở những tên bị thương theo ngòi Pác Nhung ra sông Lô, xuống ca nô về xuôi; phần lớn lực lượng còn lại tiếp tục hành quân trên bộ ra phà Bợ (thuộc Bình Xa - Hàm Yên). Bộ đội ta tiếp tục phục kích, truy kích địch trên đường ra km 31 (đường Tuyên Quang - Hà Giang).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM