Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 05:57:46 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947-Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt  (Đọc 7164 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #30 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 09:11:54 am »

Cũng trong ngày 19-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước. Người kêu gọi các tầng lớp đồng bào, chiến sĩ cả nước hãy ra sức phấn đấu, đóng góp cho kháng chiến và trịnh trọng tuyên bô: "Nhân dân Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp, song nhân dân Việt Nam quyết không đầu hàng, quyết không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ một lần nữa.


Và Chính phủ Hồ Chí Minh thề quyết lãnh đạo nhân dân và quân đội chiến đấu đến cùng, để phá tan xiềng xích của bọn thực dân, để tranh lại quyền thống nhất và độc lập. Chính phủ Hồ Chí Minh quyết làm trọn cái nhiệm vụ vẻ vang mà quốc dân đã giao cho, và quyết không phụ lòng tin cậy mà đồng bào đã đặt vào Chính phủ"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 315-316, 328).


Cùng ngày, Người viết: Thư gửi cán bộ Khu I; Thư gửi đồng bào và tướng sĩ Khu II; Thư gửi đồng bào và chiến sĩ Khu III; Thư gửi đồng bào và chiến sĩ Khu X; Thư gửi đồng bào, vệ quốc quân, dân quân du kích, cán bộ xung phong cảm tử Khu XI; Thư gửi đồng bào và tướng sĩ Khu XII và bài Kỷ niệm ngày thành lập Giải phóng quăn Việt Nam. Người ký Thông tư gửi các Bộ "về việc cử các nhân viên làm việc đắc lực để khen thưởng".


Trong dịp 19-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời sáu câu hỏi của các nhà báo về kinh nghiệm trong một năm kháng chiến toàn quốc vừa qua, về triển vọng cuộc kháng chiến năm tới, về cuộc tấn công mùa Đông của địch... Trả lời câu hỏi: "Theo Chủ tịch, kết quả cuộc hành quân mùa Đông của địch sẽ thế nào?, Người khẳng định:

"Cũng như các cuộc hành quân khác, kết quả địch sẽ thất bại, vì:

a) Địch chỉ hoạt động được mấy tháng. Sau mùa mưa thì chúng hết thiên thời.

b) Việt Bắc địa thế hiểm trở, quân địch không có địa lợi.

c) Địch càng lan rộng thì người càng thiếu, sức người càng mỏng, chúng dễ bị tiêu diệt, chúng càng đánh lan ra, càng giở thói tham ô tàn nhẫn, càng làm cho đồng bào ta, miền ngược cũng như miền xuôi, đoàn kết chặt chẽ chống lại chúng, thế là địch không có nhân hoà"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 315-316, 328).


Sau khi địch rút khỏi Việt Bắc, Bác từ Thành Cóc về Khuôn Tát. Lúc này, dù đã qua cơn yếu mệt, nhưng Bác vẫn còn gầy và xanh. Người đã đưa cho đồng chí Võ Nguyên Giáp xem bản thảo bài viết tổng kết một năm kháng chiến, bài "Việt Bắc anh dũng", tổng kết chiến dịch Việt Bắc, để kịp thời động viên đồng bào trước chiến thắng Việt Bắc.


Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 là chiến dịch phản công quy mô lớn đầu tiên của ta trên địa bàn rừng núi. Với cách đánh vận động, du kích chiến, ta đã đánh bại cuộc tiến công chiến lược của thực dân Pháp, làm tan vỡ cái gọi là "một đòn quân sự rất mạnh để kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương như một cuộc bắn pháo hoa đẹp mắt"1 (Nguyễn Văn Hoa - Phạm Hồng Việt, Hiểu thêm lịch sử qua các hồi ký, ký sự, tùy bút, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr. 169) mà giới quân sự Pháp khoe khoang khi bước vào cuộc hành binh.


Trong những ngày kháng chiến chống Pháp trên chiến khu Việt Bắc, mặc dù rất vất vả trong việc di chuyển nhiều chỗ ở và làm việc, phải theo dõi sát tình hình chiến sự của chiến dịch để kịp thời chỉ đạo, có những lúc Bác không được khoẻ, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cùng Trung ương Đảng, Chính phủ chỉ đạo, lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”.


Trong thời gian chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 đang diễn ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Những điều cần chú ý cho cán bộ chỉ huy cao cấp quân đội, căn dặn cách ứng xử của cán bộ đối với người, với việc, với vật và đối với địch.


Người tới thăm và dự buổi lễ bế mạc lớp bổ túc cán bộ quân sự trung cấp của quân đội. Nói chuyện tại buổi lễ, Bác căn dặn: Người cán bộ muốn tốt phải có đạo đức cách mạng. Quân sự giỏi song nếu không có đạo đức cách mạng thì khó thành công. Muốn có đạo đức cách mạng phải có năm điều: Trí - Tín - Nhân - Dũng - Liêm. Ngoài ra, phải biết tự phê bình và phê bình, phải thật thà đoàn kết và biết giữ kỷ luật.


Người viết thư khen ngợi hai lão du kích ở Kiến An: "Hai cụ thật xứng đáng với tổ tiên oanh liệt của ta, các phụ lão đời Trần, đời Lê, chẳng những kêu gọi con cháu, mà tự mình hăng hái tay chống gậy, tay cầm dao giết giặc cứu nước”.


Bác gửi thư cho đồng bào xã Duyên Trang, huyện Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình, khen ngợi thành tích toàn dân trong xã từ tám tuổi trở lên đều thoát nạn mù chữ. Trong thư, Người căn dặn: "Học hành là vô cùng. Học càng nhiều, biết càng nhiều càng tốt... đồng bào trong xã gắng học thêm thường thức như làm tính, lịch sử, địa dư, chính trị, vệ sinh. Đồng thời cố gắng tăng gia sản xuất ủng hộ kháng chiến".


Trong tháng 10, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", với bút danh X.Y.Z. Đây là một tác phẩm quan trọng về xây dựng Đảng, một tài liệu học tập rất bổ ích, thiết thực, một cuốn sách để cán bộ tu dưỡng về tư tưởng, đạo đức, phương pháp và phong cách công tác.


Ngày 10-11, Người viết: Thư gửi ông Giám đốc và toàn thể nam nữ giáo viên bình dân học vụ Khu III, khen ngợi thành tích xoá nạn mù chữ trong toàn khu. Người mong "Ông giám đốc, các giáo viên và các cơ quan đoàn thể cố gắng làm thế nào để chừng tháng 6 năm sau toàn thể nhân dân Khu III từ 8 tuổi trở lên đều biết chữ”, v.v.


Trong thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã ký một số sắc lệnh và quyết định. Ngày 10-10, Người ký Quyết định truy tặng Huân chương Kháng chiến cho liệt sĩ Trần Bình, điệp báo viên Công an Hà Nội.


Ngày 17-10, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 263/SL-M, cử ông Phạm Văn Đồng làm đặc phái viên của Chính phủ tại Nam Trung Bộ.


Ngày 25-11, Người ký sắc lệnh số 265-SL/M, sáp nhập tỉnh Quảng Yên (gồm cả khu vực Hồng Gai) vào Chiến khu XII về mọi phương diện kháng chiến, hành chính và quân sự.


Ngày 7-12, Người ký sắc lệnh số 612/MDB, về việc khen thưởng các chủ tịch và ủy viên kháng chiến kiêm hành chính cấp xã, nhân kỷ niệm một năm ngày Toàn quốc kháng chiến, v.v.


Có thể nói âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp nhằm tiêu diệt chủ lực, phá tan cơ quan đầu não kháng chiến ta trong cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã hoàn toàn thất bại. Đây là một trận đánh lớn của thực dân Pháp, là một cuộc chiến, mà theo như viên đội Bi-cac viết thư cho vợ: "Ở Pháp người ta nói hết chiến tranh rồi. Kỳ thực ở đây chiến tranh vẫn tiếp tục. Lúc đi nhiều người bị hy sinh. Lúc về cũng như vậy"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 354).


Quân và dân ta thu được những thắng lợi to lớn trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, do có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự điều khiển khôn khéo của Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy; sự dũng cảm tuyệt vời của tướng sĩ Vệ quốc quân và dân quân du kích và sự hăng hái của đồng bào ta.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #31 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 10:12:45 am »

HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG HÀNH DINH TRONG MÙA KHÔ 1947


TRẦN TRỌNG TRUNG
Nhà nghiên cứu lịch sử quân sự


Chiến dịch Việt Bắc diễn ra sau khi quân ta đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao và kìm chân địch trong các thành phố trong cuộc tổng giao chiến mấy tháng đầu kháng chiến toàn quốc. Đến tháng 5-1947, Trung đoàn Thủ đô đã cùng cơ quan lãnh đạo kháng chiến hoàn thành việc di chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc. Do sớm có nhận thức về chiến tranh mùa nên trong suốt mùa hè 1947, các cơ quan Tổng hành dinh tập trung vào việc chuẩn bị cả về quân sự và dân sự, chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhằm tạo thế mới lực mới, trước hết là nâng cao sức chiến đấu để bộ đội chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương sẵn sàng bước vào cuộc đọ sức mùa khô sắp tới.


Về chính trị, tư tưởng, bài nói của Tổng Bí thư Trường Chinh tại hội nghị Chúc Sơn (trung tuần tháng 1-1947) tiếp đó là các hội nghị chính trị viên toàn quốc, hội nghị cán bộ Trung ương lần 2 cùng với hàng loạt bài viết trên tờ Sự thật, đã góp phần truyền đạt quyết tâm và đường lối kháng chiến của Đảng. Công tác chính trị và lãnh đạo tư tưởng đã bước đầu củng cố niềm tin và thống nhất nhận thức của toàn dân toàn quân đối với sự nghiệp kháng chiến trường kỳ gian khổ nhưng nhất định thắng lợi, đồng thời động viên tinh thần và ý thức của đội ngũ cán bộ quân sự về trách nhiệm của người quân nhân cách mạng trong thời chiến.


Về tổ chức lực lượng và bồi dưỡng cán bộ, đồng thời với việc tổ chức hội nghị chuyên đề bàn về xây dựng bộ đội chủ lực và hội nghị dân quân du kích, việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ được Bộ Tổng chỉ huy coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Lớp bổ túc hơn 80 cán bộ trung cấp ở La Bằng (Đại Từ - Thái Nguyên) là lớp học có tầm quan trọng đặc biệt nhằm chuẩn bị đội ngũ cán bộ chỉ huy cốt cán cho kế hoạch Thu Đông sắp tới. Cùng với việc mở các trường lớp tập trung, điều mà Tổng hành dinh đặc biệt quan tâm là giúp cho cán bộ tại chức kịp thời tiếp thu những kinh nghiệm sốt dẻo về tổ chức chỉ huy và nguyên tắc chỉ đạo tác chiến. Trong các hội nghị Chúc Sơn và Tiên Kiên, tiếp đó là các hội nghị quân sự tháng 6 và tháng 9, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp rất coi trọng việc phân tích, lý giải để cán bộ chỉ huy cấp khu và trung đoàn nhận thức đúng đắn về các thủ đoạn hành quân, tiến công và phòng ngự của địch và những ưu khuyết điểm trong cách đánh của ta.


Về tổ chức chiến trường, sau cuộc họp liên tịch giữa hai cơ quan Quốc phòng - Tổng chỉ huy với lãnh đạo các khu và tỉnh trong căn cứ địa Việt Bắc, công tác phá hoại đường sá, cầu cống, việc cắm cọc trên các đồi trọc và ruộng khô đề phòng quân nhảy dù, việc động viên nhân dân làm "Vườn không nhà trống", v.v... được xúc tiến ở nhiều địa phương.


Thực tế cho thấy các cơ quan Tổng hành dinh đã hoạt động rất khẩn trương để chuẩn bị bước vào mùa khô. Tuy nhiên, trong bối cảnh quân và dân ta mới trải qua nửa năm kháng chiến toàn quốc, cho nên thật dễ hiểu nếu có những việc làm ấu trĩ, không sát thực tế và nếu tồn tại không ít vấn đề đặt ra nhưng chưa tìm được lời giải thỏa đáng. Ví dụ: làm thế nào để phát động chiến tranh du kích; làm thế nào để khắc phục những yếu kém về trinh sát, thông tin và cơ động bộ đội; cách đánh sắp tới của ta có gì khác so với xuân - hè vừa qua và đặc biệt nổi lên là những ẩn số vể địch. Bước vào thu - đông, Tổng hành dinh đứng trước những câu hỏi lớn chưa có lời đáp chính xác, chắc chắn: Đâu là hướng tiến công chủ yếu của quân Pháp? Khả năng huy động lực lượng của chúng là bao nhiêu? Cách hành binh của chúng thế nào?, v.v.


Những điều kiện buộc ta phải đầu hàng mà đối phương nêu lên trong cuộc gặp gỡ giữa đại diện hai bên Việt - Pháp tại thị xã Thái Nguyên trung tuần tháng 5, là sự kiện nổi bật đòi hỏi quân và dân ta càng phải đề cao cảnh giác hơn nữa trước âm mưu đánh lớn của địch trong mùa khô tới. Nhưng một vấn đề đặt ra: đâu là hướng tiến công của địch?


Trong hội nghị quân sự tháng 6-1947, ta phán đoán địch sẽ mở rộng phạm vi chiếm đóng ở châu thổ sông Hồng hoặc đánh vào hai vùng tự do rộng lớn ở Trung Bộ (Thanh Nghệ - Khu 4 hoặc Nam Ngãi - Khu 5). Việt Bắc là hướng tiến công được đặt vào khả năng thứ ba của sự phán đoán1 (Văn kiện quân sự của Đảng 1945-1950, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 151).


Bài diễn văn của cao ủy Bô-la là thêm một sự khẳng định về khả năng địch sẽ mở một cuộc hành binh lớn trong mùa khô. Tuy nhiên, tại hội nghị quân sự cuối tháng 9, Việt Bắc vẫn chỉ được đặt vào hàng thứ ba trong phán đoán các hướng tiến công của địch. Hội nghị nhận định: "Việt Bắc là một chiến trường mới, khó dự đoán... Nếu mạo hiểm, địch mới đánh (Việt Bắc) trước"1 (Văn kiện quân sự của Đảng 1945-1950, Sđd, tr. 224, 225). Và nếu đánh, mặt chính là Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Tuyên Quang (tức là xuất phát từ phán đoán địch sẽ đánh từ trung du lên). Do đó, trong mệnh lệnh tác chiến ngày 4-10, Bộ Tổng chỉ huy giao nhiệm vụ cho các khu đánh chặn địch trên địa bàn được phân công, Bộ sẽ điều đại đoàn Độc lập vòng xuống hướng Nhã Nam để phối hợp với Khu 12 (Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch - BTTM xuất bản, Hà Nội, 1964, tr. 15, 16). Các chiến trường trong toàn quốc được lệnh phối hợp với Việt Bắc.


Riêng về biện pháp phát động chiến tranh du kích, sau khi nghiên cứu kinh nghiệm và khả năng thực tế của một đại đội thuộc Khu 12 có thể đứng chân và hỗ trợ cho dân quân du kích chiến đấu có hiệu quả trong vùng tạm chiếm ở Nam phần Bắc Ninh, Tổng chỉ huy đề nghị với Thường vụ cho phân tán 1/3 số đại đội chủ lực từ Khu 4 trở ra, đưa về giúp đỡ lực lượng vũ trang địa phương phát động chiến tranh du kích. Các đơn vị đó được gọi là đại đội độc lập. 2/3 tổng số đại đội còn lại vẫn giữ quy mô tổ chức tiểu đoàn và được gọi là các tiểu đoàn tập trung. Biện pháp chiến lược táo bạo này - mà hồi đó gọi là phương châm đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung - được Thường vụ Trung ương chấp nhận nhưng chưa kịp triển khai thì chiến sự đã nổ ra trên chiến trường Việt Bắc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #32 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 10:15:16 am »

Sáng ngày 7-10, quân Pháp nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn và thị trấn Chợ Mới và hôm sau nhảy xuống Chợ Đồn, mở đầu cuộc hành binh táo bạo lên Việt Bắc. Cả ba vị trí trên đây hình thành một vòng cung phía Đông Bắc, không xa nơi đứng chân của các cơ quan Trung ương và Chính phủ3 (Lúc này cơ quan lãnh đạo kháng chiến ở vùng tây Chợ Chu và đông Sơn Dương (hai bên núi Hồng) cách Bắc Kạn chừng 40 km, cách Chợ Đồn chừng 35 km và cách Chợ Mới chừng 25 km đường chim bay).


Địch đánh thắng vào trung tâm căn cứ địa đúng vào thời điểm tại cơ quan đầu não kháng chiến vắng mặt ba đồng chí lãnh đạo. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đi kinh lý Tuyên Quang, đang có mặt ở huyện lỵ Chiêm Hóa. Tổng Bí thư Trường Chinh và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đều ở trong vùng trung tâm chiến sự là thị xã Bắc Kạn1 (Tổng Bí thư Trường Chinh đang làm việc với Tỉnh ủy Bắc Kạn. Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đang kiểm tra một đơn vị tân binh ở sân vận động thị xã). Ở cơ quan Bộ Tổng chỉ huy lúc này chỉ có Tham mưu chủ nhiệm Trần Văn Lư, Trưởng phòng Tác chiến Đào Văn Trường và Cục trưởng Chính trị Văn Tiến Dũng. Tối ngày 8, các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái mới về tới cơ quan. Lúc này, trừ tin tức ở thị xã Bắc Kạn, cơ quan tham mưu Tổng hành dinh vẫn chưa được tin về hoạt động của địch trên các hướng Lạng Sơn - Cao Bằng và Lào Cai - Hà Giang cũng như hướng sông Lô - Đường số 2.


Hành động mạo hiểm của địch - nhảy thắng xuống trung tâm căn cứ địa - hoàn toàn khác với phán đoán của Tổng hành dinh, cũng tức là khác với mệnh lệnh tác chiến ngày 4-10 của Bộ Tổng chỉ huy. Cuộc hành binh của địch đã làm rõ một thực tế là công tác chuẩn bị chiến đấu của ta ở phía bắc hai thị xã Tuyên Quang và Thái Nguyên và nhất là trên vùng Cao Bằng - Bắc Kạn còn rất sơ khoáng2 (Nhất là công tác phá hoại đường sá và di chuyển các cơ quan vào sâu trong rừng. Sau này Tổng Bí thư Trường Chinh phê phán: đó là biểu hiện của "tư tưởng đại hậu phương chủ nghĩa"). Trước tình hình đó, tiếp theo mệnh lệnh của Phòng Tác chiến tối ngày 7-10 gửi Khu 1 điều Trung đoàn 72 lên tác chiên ở hướng Bắc Kạn, Bộ điện gấp cho các khu 1, 10 và 12, thông báo tình hình và ra lệnh chuẩn bị lực lượng sẵn sàng chiến đấu đánh trả địch, ngăn chặn đường tiếp tế của chúng, đồng thời huy động dân quân triệt để phá hoại đường sá, cầu cống, khẩn trương giúp dân làm vườn không nhà trống, di chuyển cơ quan, phối hợp cùng nhân dân phòng gian trừ gian..."1 (Tài liệu chỉ đạo các chiến dịch, Sđd, tr. 20, 21).


Thông qua những tin tức còn ít ỏi ban đầu, các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng thống nhất nhận định sơ bộ: Nhảy dù xuống trung tâm căn cứ địa, địch mạo hiểm nên chúng đã giành được bất ngờ. Mục đích của địch - như hội nghị quân sự cuối tháng trước đã phân tích - là nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan lãnh đạo kháng chiến, phá căn cứ địa của ta. Ngoài lực lượng quân dù, không loại trừ khả năng địch hoạt động phối hợp trên các hướng Đường số 3, số 4, chúng có thể đưa quân từ Lạng Sơn lên chiếm Cao Bằng rồi từ trên tiến xuống phối hợp với quân ở Bắc Kạn càn quét khu vực mà chúng nghi là có cơ quan lãnh đạo kháng chiến. Cũng không loại trừ khả năng địch phối hợp tiến quân bên phía Phú Thọ - Tuyên Quang, khiến cho địa bàn Khu 10 cũng trở thành một mặt trận.


Trong khi cơ quan tham mưu chuyền đạt mệnh lệnh tác chiến bổ sung cho các Khu và thông báo phương hướng phòng tránh cho các cơ quan trung ương thì có tin tàu xuồng địch đã ngược dòng sông Lô lên tới Đoan Hùng, đang tiến lên Tuyên Quang. Pháo binh Khu 10 bỏ lỡ cơ hội diệt tàu địch trên sông khi chúng đi qua địa phận Phan Dư, Đoan Hùng, Lã Hoàng, Bình Ca. Nhưng ngay từ ngày 12-10, Tiểu đoàn 42 chủ lực của Bộ đã lập công đầu, dùng Ba-dô-ca bắn đắm tàu địch và đẩy lui cánh quân của chúng định đổ bộ lên Bình Ca. Ngày 13-10, khi có tin tàu địch lên tới Tuyên Quang cũng là lúc cơ quan tham mưu nhận được một tài liệu quan trọng từ mặt trận chuyển về. Đó là kế hoạch hành binh mùa khô của địch tiến công lên Việt Bắc. Quân ta thu được tài liệu này từ một máy bay địch bị đơn vị trợ chiên của Trung đoàn 74 bắn rơi ở Mặt trận Cao Bằng. Lập tức bản kế hoạch được dịch và tác nghiệp trên bản đồ. Toàn bộ ý đồ tác chiến chiến dịch mùa khô của địch thể hiện rõ từng hướng cụ thể trên tấm bản đồ chiến sự.


Với chừng 15 ngàn quân, cuộc hành binh của địch được dự trù thành hai bước:

Bước 1, mang tên Lê-a, trung tâm hoạt động là khu tam giác Bắc Kạn - Chợ Mới - Chợ Đồn. Theo kế hoạch, sau khi tổ chức phòng thủ xong ở ba vị trí nói trên, địch sẽ càn quét dọc Đường số 3 chung quanh thị xã Bắc Kạn và đường Chợ Mới - phố Bình Gia. Trong khi đó, bộ binh cơ giới từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng rồi quặt xuống Bắc Kạn - Chợ Đồn sang hội quân với thủy đội xung kích từ phía Nam theo Đường sông Lô và sông Gâm lên Đài Thị, phía bắc Chiêm Hóa chừng 12km.

Nhìn vào bản đồ chiến sự sau khi tác nghiệp, ta thấy ngay trong bước 1 của kế hoạch hành binh của địch, cả 7 - 8 tỉnh từ phía trung du lên trung tâm căn cứ địa Việt Bắc đã bị kẹp trong một vòng vây lớn, gọng kìm phía đông dài chừng 400km, phía tây chừng 250km, một hình thái chiến sự ngoài tầm dự đoán của cơ quan tham mưu Tổng hành dinh. Riêng trong vùng tam giác Bắc Kạn - Chợ Đồn - Chợ Mới - tức khu vực hành binh đầu tiên của quân dù, với diện tích chừng 300km2 - không có bộ đội chủ lực của ta. Theo kế hoạch ngày 4-10, các trung đoàn chủ lực của Khu và của Bộ đều triển khai trên địa bàn trung du để đón địch.

Bước 2, mang tên Clo-clo. Với binh lực từ Bắc Kạn xuống, từ Chợ Mới sang phối hợp với quân dù ném xuống nam Chợ Chu (tức huyện lỵ Định Hóa) để chặn đường Chợ Chu - Thái Nguyên, địch sẽ tiến hành càn quét khu tam giác Chợ Mới - Bắc Kạn - Chợ Chu, lấy vùng Chợ Chu làm trọng điểm.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #33 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 10:16:36 am »

Cuộc họp ngày 13-10 giữa các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng và Đào Văn Trường, rút ra mấy kết luận quan trọng: kế hoạch tác chiến của ta không phù hợp với thực tế cuộc hành binh với ưu thế tuyệt đối về máy bay, pháo binh, cơ giới của quân Pháp đang diễn ra ngay ở trung tâm căn cứ địa. Tuy nhiên, đi sâu phân tích kế hoạch tiến công của địch, Tổng chỉ huy và các cán bộ quân sự Tổng hành dinh sớm phát hiện một thực tế là: trên một chiến trường rất rộng, lực lượng địch đông nhưng đội hình tiến quân bị dàn mỏng, chúng khó có thể phát huy được đầy đủ ưu thế binh lực và tính năng tác dụng của binh khí kỹ thuật trên địa hình rừng núi. Chúng phải dựa vào các trục đường bộ và Đường sông để giải quyết vấn đề tiếp tế và tăng viện trên một chiến trường thượng du rất xa các căn cứ ở đồng bằng. Đó là điểm yếu sinh tử của địch. Việc quân Pháp không thực hiện được hợp điểm ở Đài Thị đúng ngày 13-10 theo như kế hoạch là một dẫn chứng nói lên những khó khăn đầu tiên của địch về cơ động lực lượng trên chiến trường rừng núi. Nhưng về phía ta, thực tế mấy trận đánh đầu tiên cho thấy quân ta cơ động lực lượng chậm và cũng chưa đủ sức tập kích vào các vị trí mới được củng cố của địch. Các đồng chí đi sâu thảo luận vê thay đổi kế hoạch tác chiến, thay đổi tổ chức lực lượng và phương thức hoạt động để quân ta có điều kiện và khả năng tiêu hao tiêu diệt được địch, khoét sâu điểm yếu của quân Pháp khi chúng cơ động trên cả mấy trục đường bộ và Đường sông. Đã đến lúc cần và có thể vận dụng phương châm đại đội độc lập - tiểu đoàn tập trung.


Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí với kế hoạch tác chiến mới do Tổng chỉ huy đề đạt. Theo kế hoạch đó, cùng với nhiệm vụ di chuyển, phân tán và bảo đảm an toàn cho các cơ quan Trung ương - được coi là một công tác trọng tâm - quân ta sẽ hình thành ba mặt trận: đường số 3, đường số 4 và sông Lô - đường số 2, do cán bộ chủ chốt của Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp đảm nhiệm1 (Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đi Mặ trận Đường số 4 cùng bộ máy chỉ huy gọn nhẹ để theo dõi và chỉ đạo chiến trường toàn quốc; Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái cùng một số cán bộ tham mưu sang hướng Võ Nhai, Tràng Xá theo dõi chỉ đạo Mặt trận Đường số 3; các ông Lê Thiết Hùng và Trần Tử Bình sang hướng Tuyên Quang - sông Lô - đường số 2. Cục trưởng Chính trị Văn Tiến Dũng cùng bộ phận nặng của Bộ Tổng chỉ huy ở lại Bản Vệ (sát chân núi Hồng) để theo dõi hoạt động trên các hướng, các chiến trường). Với binh lực chừng 20 tiểu đoàn chủ lực, tác chiến theo quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, lấy phục kích làm hình thức chiến thuật chủ yếu, lấy quân địch cơ động trên bộ và trên sông làm mục tiêu chủ yếu, tiêu hao, tiêu diệt địch, ngăn chặn đường tiếp tế và tăng viện của chúng, tiến tới bẻ gãy từng gọng kìm của địch, trước hết là phía tây - hướng sông Lô - Đường số 2 - được coi là gọng kìm yếu của địch. Để phối hợp với các tiểu đoàn tập trung tác chiến trên ba mặt trận nói trên, các khu nhận lệnh phái các đại đội Vệ quốc đoàn về hoạt động độc lập tại các châu (huyện), tập trung trước hết vào 4 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, với nhiệm vụ chủ yếu là giúp đỡ lực lượng vũ trang địa phương phát động chiến tranh du kích, đánh địch rộng rãi, giúp đỡ nhân dân làm vườn không nhà trống, hạn chế khả năng lùng sục của địch, bảo vệ nhân dân, hỗ trợ và bảo vệ các cơ quan kháng chiến di chuyển sâu vào nơi an toàn. Các chiến trường toàn quốc được lệnh phối hợp chia lửa với Việt Bắc.


Với kế hoạch tác chiến đã thay đổi cả về tổ chức chiến trường, quy mô lực lượng, phương thức tác chiến và với chỉ lệnh "phải đánh mạnh trên hướng sông Lô và Đường số 4", các trận phục kích của bộ binh và pháo binh đã nhằm trúng vào các cánh quân cơ động trên bộ và trên sông của địch. Cách đánh hiểm của các đơn vị nhỏ và cơ động đã sớm đem lại hiệu quả rõ rệt1 (Đó là các trận đánh ở km 7 trên đường số 2 (22-10), Khoan Bộ (23-10), Đoan Hùng (24-10), Bông Lau (30-10), Khe Lau (10-11), Đèo Giàng (14-11), Đèo Mơ (18-11), Phủ Thông (30-11), v.v...). Sự chuyển hướng về phương thức tác chiến của ta đã khiến cho bước 1 của cuộc hành binh đứng trước nguy cơ phá sản. Sau ba tuần ra quân, địch không thực hiện được cái gọi là "tóm gọn" cơ quan lãnh đạo kháng chiến, không tạo được cơ hội đối mặt trực tiếp với binh lực lớn của chủ lực đối phương để tiêu diệt, kết quả phá hoại cơ sở vật chất trong căn cứ địa kháng chiến không đáng kể vì đi đến đâu cũng thấy cảnh đường sá bị phá hoại, trong làng bản thì nhà không đồng vắng, người, trâu bò, thóc gạo đều đã chuyển vào rừng sâu. Quân Pháp đứng trước một thực tế là mấy mục tiêu của cuộc hành binh còn xa vời, trong khi trên cả các hướng, hành quân bằng đường bộ hay đường thủy đều bị đánh liên tiếp. Trước tình thế ngày càng không cho phép duy trì tình trạng binh lực bị căng mỏng và bị tiêu hao hàng ngày, Bộ chỉ huy Pháp bắt đầu cho rút một số vị trí lẻ, co về hai trung tâm là Tuyên Quang và Bắc Kạn2 (Đáng chú ý là chúng buộc phải rút quân sớm khỏi cả những vị trí được xem là quan trọng trong cuộc hành binh, như Chợ Đồn (23-10), Chiêm Hóa, Chợ Rã (25-10)...).


Từ trung tuần tháng 11, Bộ Tổng chỉ huy nhận thấy địch có nhiều triệu chứng chuyển hướng, không theo đúng bước 2 như đã xác định trong kế hoạch, đồng thời cũng nhận thấy chớm nở tư tưởng chủ quan ở một số địa phương và đơn vị chủ lực của ta1 (Ví như Bộ tư lệnh Khu 10 đề nghị cho tập trung binh lực tiến công địch trong thị xã Tuyên Quang). Trước thực tế lúc này là trên địa bàn trung tâm chiến sự, lực lượng địch còn đông, trang bị còn mạnh, trong khi trình độ mọi mặt của ta chưa cho phép tiến công vào các vị trí tập trung quân của chúng, Bộ Tổng chỉ huy chủ trương vừa tiếp tục đánh vừa và nhỏ trên toàn mặt trận, tiếp tục tiêu hao địch rộng khắp, hạn chế và ngăn chặn các cánh quân địch đi lùng sục khủng bố, vừa lệnh cho các đơn vị chuẩn bị sẵn sàng đánh địch khi chúng rút chạy trên các hướng, nhất là phía Tuyên Quang - gọng kìm sông Lô - đường số 22 (Địch rút quân theo nhiều hướng: Sông Lô - đường số 2; Tuyên Quang - Sơn Dương - Thiện Kế - Vĩnh Yên; hướng giữa: trục đường 13 Tuyên Quang đi Thái Nguyên; hướng đường Chợ Chu - Đại Từ - Thái Nguyên và hướng đường số 3 Chợ Mới - Giang Tiên - Võ Nhai - Thái Nguyên).


Địch thu hẹp dần thế chiếm đóng và bắt đầu lui quân từ cuối trung tuần tháng 11. Cuộc rút chạy trên toàn mặt trận kéo dài gần một tháng. Do thiếu kinh nghiệm bám địch, thông tin chậm, khả năng điều động lực lượng hạn chế, nhiều trường hợp lại bị địch nghi binh đánh lạc hướng, nên quân ta bỏ lỡ nhiều cơ hội đón đầu hoặc truy kích tiêu diệt địch. Trừ một số trận hiệu suất chiến đấu cao như trận tập kích địch ở Phủ Thông (cuối tháng 11), phục kích ở Đèo Giàng (đầu tháng 12), v.v..., còn các trận trên đường 13 (Bình Ca - Đèo Khế), trận Phan Lương (tả ngạn sông Lô), trận phục kích ở Phục Linh - quán Ông Già (đường Chợ Chu - Thái Nguyên), trận đánh quân dù ở Võ Nhai, v.v... đều đạt kết quả thấp.


Như vậy là, dù đã phải điều chỉnh bước 2 của kế hoạch hành binh, địch vẫn buộc phải lui quân vì không đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, ngoài hai thị xã Hà Giang và Lào Cai trên hướng Bắc và Tây Bắc, quân Pháp đã chiếm đóng thị xã Cao Bằng ở biên giới Đông Bắc và Bắc Kạn ở trung tâm căn cứ địa; chúng đã phá hủy được một số cơ sở kho tàng chưa kịp di chuyển, kể cả ở vùng sâu như Đầm Hồng, Bản Thi (phía trên Chiêm Hóa), về phía ta, đối chiếu với yêu cầu đề ra trong hội nghị quân sự cuối tháng 9, bộ đội chủ lực đã cùng lực lượng vũ trang địa phương làm thất bại cuộc tiến công quy mô lớn có tầm chiến lược của quân Pháp mà vẫn bảo toàn được lực lượng. Trải qua 75 ngày cọ xát với địch, bộ đội chủ lực được tôi luyện và trưởng thành một bước quan trọng, căn cứ địa kháng chiến vẫn đứng vững, cơ quan lãnh đạo kháng chiến được bảo vệ an toàn. Từ thực tế chỉ đạo, chỉ huy chiến lược, chiến dịch, cơ quan quân sự Tổng hành dinh cũng trưởng thành một bước quan trọng, qua mấy bài học rất bổ ích rút ra trong mùa khô này:

1. Đó là bài học về lãnh đạo chỉ huy phải bám sát thực tiễn, phán đoán đúng tình hình và xử trí kiên quyết nhưng linh hoạt sáng tạo mọi tình huống chiến lược, chiến dịch. Trong quá trình chuẩn bị, nếu chưa có điều kiện đánh giá đầy đủ tình hình, chưa có điều kiện khẳng định âm mưu, khả năng và thủ đoạn của địch, người lãnh đạo cần dự kiến khả năng mạo hiểm cao nhất của chúng để tránh chủ quan, để chủ động có phương án tối ưu và kế hoạch đối phó cho phù hợp. Mặt khác, trước tình hình thực tế diễn ra không sát đúng so với dự kiến ban đầu, không những người lãnh đạo phải nhạy bén phát hiện mà còn phải dũng cảm nhìn thẳng vào những thiếu sót và yếu kém, mạnh dạn thay đổi chủ trương và phương thức hành động cho phù hợp với thực tế khách quan đê giành thắng lợi.

2. Đó là bài học về tinh thần chủ động chuẩn bị về mọi mặt, nhất là bồi dưỡng cán bộ và thường xuyên nâng cao sức chiến đấu để bộ đội có đủ bản lĩnh hoàn thành nhiệm vụ. Trong mùa khô 1947, sở dĩ bộ đội chủ lực đã cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương làm thất bại cuộc hành binh quy mô lớn của quân Pháp, vì đã được chuẩn bị trong suốt mùa hè, cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và kỹ thuật, chiến thuật. Chiến đấu trên một chiến trường mà các điều kiện chính trị, địa hình và thời tiết ta đều thuận lợi hơn địch, lại dưới sự chỉ đạo đúng đắn về phương thức tác chiến và mục tiêu tiến công, cho nên dù trình độ trang bị kỹ thuật, tổ chức chỉ huy và kinh nghiệm chiến đấu còn hạn chế, quân ta vẫn phát huy được sức mạnh đã được chuẩn bị để tiêu hao tiêu diệt địch.

3. Đó là bài học về ý thức coi trọng công tác sơ kết, tổng kết sau mỗi đợt chiến đấu. Những kinh nghiệm đầu tiên trong cuộc tổng giao chiến trong các thành phố cũng như mỗi bài học rút ra trong suốt mùa hè khi chiến sự lan rộng đều được Tổng chỉ huy khái quát tổng hợp và phân tích nhằm bồi dưỡng cho cán bộ cấp khu và trung đoàn, trong các hội nghị quân sự trước khi bước vào mùa khô. Chắt chiu từng kinh nghiệm qua thực tế chiến đấu càng có ý nghĩa quan trọng đối với một quân đội vừa tròn ba tuổi đối mặt với một đội quân viễn chinh nhà nghề đã từng có kinh nghiệm hàng trăm năm chiến tranh thuộc địa. Sau này, một sử gia nước ngoài đã dẫn lời của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp nói rằng: "Trong chiến tranh, thắng nhiều trận mà không rút được bài học kinh nghiệm có thể không lợi bằng chỉ mới thắng một trận mà đã học tập được nhiều điều bổ ích". Trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh của quân đội ta, đó là biết lấy chiến trường làm trường học thực tế để không ngừng tiến bộ, càng đánh càng mạnh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #34 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 10:20:11 am »

CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC TRONG
HOẠT ĐỘNG TÁC CHIẾN CHIẾN LƯỢC THU-ĐÔNG 1947


Thiếu tướng, PGS, TS. TRỊNH VƯƠNG HỒNG
Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


1. Như đã biết, do đầu óc thực dân "thâm căn cố đế" nên khi nước Pháp còn rên siết dưới gót giày phát xít Đức, khi Đông Dương còn trong tay phát xít Nhật, nhiều người Pháp thực dân vẫn mơ về một nước Việt Nam "đẹp, bình yên, yên hoà", nơi mà "người Pháp có thể đi dạo chơi một mình không cần mang vũ khí, suốt từ đầu nọ tới đầu kia của đất nước", với "một sứ mệnh khai hoá văn minh"(!)1 (Phi-líp Đờ-vi-le, Pa-ri, Pari - Sài Gòn - Hà Nội, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 17). Và Đờ Gôn, người đứng đầu Chính phủ lâm thời Cộng hoà Pháp lúc đó, khẩng định lập trường trở lại Việt Nam là: "Dùng sức mạnh để khôi phục lại toàn bộ quyền lực của Pháp... Không thương thuyết, liên kết gì với chính quyền bản địa, chừng nào những chính quyền ấy chưa được Pháp tạo ra"2 (Phi-líp Đờ-vi-le, Sđd, tr. 20). Với chủ trương đó, thực dân Pháp dứt khoát gạt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra khỏi đối tượng thương lượng.


Vậy nên, trong cuộc thương thuyết giữa Ủy ban nhân dân Nam Bộ do đồng chí Phạm Xgọc Thạch làm trương đoàn với đại diện Pháp ở Sài Gòn đầu tháng 10-1945, phía Pháp đòi ta chấp nhận Tuyên bố ngày 24-3-1946 của Đờ Gôn, áp đặt chủ nghĩa thực dân cũ ở Việt Nam, đương nhiên là thất bại. Đầu năm 1946, sau nhiều lần đàm phán dưới các hình thức khác nhau, ngày 6-3-1946, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đại diện Chính phủ Pháp đã ký Hiệp định Sơ bộ. Tuy nhiên, đó là cách để chúng ta tỏ thiện chí hoà bình và để có thêm thời gian chiến lược xây dựng, củng cố lực lượng mọi mặt chuẩn bị cho trận đánh lớn lâu dài; với Pháp, đó là con đường giúp họ đưa được quân ra miền Bắc. Những vấn đề cơ bản liên quan đến vận mệnh Tổ quốc, vấn đề độc lập dân tộc, mục tiêu của cuộc kháng chiến chưa được giải quyết. Kế đó, để chuẩn bị cho một cuộc đàm phán giữa hai Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Pháp tại Pa-ri, hội nghị trù bị được mở ở Đà Lạt. Và, vào mùa Thu năm 1946, cuộc đàm phán chính thức đã diễn ra ở Phông-ten-blô. Trong cuộc hội nghị nàv, giới thực dân phản động hiếu chiến Pháp ra sức phá hại và ngoan cố bám giữ quan điểm thực dân về vấn đề Việt Nam; phái đoàn Việt Nam luôn giữ vững lập trường độc lập dân tộc, hoà bình và tiến bộ. Cuộc đàm phán không tìm ra mẫu số chung, hai bên không tìm được tiếng nói chung, Hội nghị Phông-ten-blô tan vỡ. Điều đó chứng tỏ Chính phủ Pháp đã nhất quyết chọn con đường vũ trang xâm lược toàn bộ nước ta. Với Pháp, thương thuyết chỉ là thủ đoạn để "chuẩn bị việc tái chiếm toàn cõi Việt Nam"1 (Linh mục Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 1998, tr. 68). Bản Tạm ước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp ngày 14-9-1946, là bước lùi cuối cùng, cực chẳng đã của Chính phủ ta, nhằm có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến quy mô toàn quốc. Không còn con đường nào khác.


2. Quy luật của chiến tranh xâm lược là đánh nhanh, thắng nhanh, đỡ tốn kém sức người, sức của và thời gian, đưa nhanh đất chiếm được vào khai thác. Yêu cầu mà giới thực dân hiếu chiến Pháp đặt ra là nhanh chóng trở lại Việt Nam, lấy sức người sức của của xứ sở này dùng tái thiết nước Pháp vừa bị chiến tranh tàn phá. J.Xanh-tơ-ni viết không úp mở: "Mảnh đất đẹp đẽ này (tức Đông Dương - người trích chú), nếu ta chộp ngay lấy từ đầu, thì sẽ trở thành một mối lợi vô cùng lớn lao có thể đóng góp khá nhiều trong việc phục hồi kinh tế của nước Pháp"1 (J.Xanh-tơ-ni: Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ. Pa-ri, 1967; lưu Thư viện Trung ương quân đội, bản dịch, tr. 47).


Nóng lòng chiếm trở lại thuộc địa cũ, cộng với thói chủ quan và thái độ khinh thường đối phương, coi là "quân phiến loạn", "phái ngổ ngáo nhất của dân chúng"2 (Lời Đác-giăng-li-ơ, theo Phi-líp Đờ-vi-le, Sđd, tr. 135), phái thực dân hiếu chiến khẳng định rằng, với lực lượng hùng hậu của họ, "chỉ trong vài tuần là mọi ý định kháng chiến của những người yêu nước Việt Nam sẽ bị quét sạch bong và nhân dân trở lại phục tùng như cũ"3 (Theo Phi-líp Đờ-vi-le, Sđd, tr. 144).


Thế rồi, Lơ-cle không "lấy lại được Nam Kỳ trong vòng 18 ngày”4 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, Tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 80) như đã tuyên bố. Quân Pháp tiếp tục thất bại trong âm mưu đánh úp, bắt gọn Chính phủ kháng chiến tại Hà Nội hồi cuối năm 1946. Chủ trương chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" bước đầu bị giáng một đòn nặng, quân Pháp đi thêm nước cờ mới, tiến công căn cứ địa Việt Bắc. Theo cuốn "Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương" của tướng Pháp Y-vơ Gra, tái bản năm 1992 và một số sách khác, thì đề xuất này có thể của R.Xa-lăng, Va-luy hay Đác-giăng-li-ơ, như sử sách Pháp đang còn bàn luận, nhưng ý định trên đã biến thành kế hoạch tác chiến được Tổng thông Ôriôn, Thủ tướng Ra-ma-đi-ê và Cao ủy Đác-giăng-li-ơ bàn bạc, cân nhắc và thống nhất. Theo đó, quân Pháp sẽ dùng một lực lượng lớn, gồm cả bộ binh, thủy binh, không quân, thiết giáp hành quân bao vây và nhảy dù "úp chụp" xuống Việt Bắc, "bắt giữ toàn bộ Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh". Họ hy vọng đạt được mục tiêu này thì các lực lượng vũ trang kháng chiến ở miền Bắc sẽ tuần tự tan rã, cuộc kháng chiến ở Nam Bộ cũng sẽ "xì hơi vì bị đánh vào đầu". Ngoài việc phá hoại mùa màng, kho tàng, khủng bố tinh thần kháng chiến của nhân dân ở căn cứ địa, quân Pháp cũng đã trù liệu việc "bịt kín biên giới", đề phòng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tiến sát xuống biên giới giáp Việt Nam. Đây là nước cờ tính đến cả xa và gần, thực chất nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Tướng Xa-lăng, người chỉ huy trực tiếp cuộc tiến công này, cho rằng "Chỉ cần 3 tuần lễ để đập tan đầu não của Việt Minh"1 (Y-vơ Gra, Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương, Nxb Plông, Pa-ri, 1979, bản dịch, tr. 185). Mục tiêu tiến công mà quân Pháp đặt ra cực kỳ hiểm độc. Hãy hình dung, nếu cơ quan đầu não kháng chiến không được bảo vệ an toàn, chu đáo, cuộc kháng chiến sẽ rơi vào tình thế khó khăn biết nhường nào?


Và rồi, suốt 75 ngày đêm "tiến công", "truy lùng" đối phương ở khắp miền rừng núi Việt Bắc rộng lớn, quân Pháp không đạt được mục tiêu của cuộc hành binh. Không những thế, chúng còn bị đánh, bị tổn thất nặng không chỉ ở Việt Bắc mà còn ở các chiến trường khác trên khắp cả nước. Chính Va-luy, Xa-lăng, Y-vơ Gra... đều khẳng định cuộc tiến công đầy tham vọng của họ đã bị thất bại toàn diện. Tham vọng biến thành thất vọng. Tướng Pháp J.Mác-xăng, trong cuốn Tấn thảm kịch Đông Dương thừa nhận: "Quân Pháp không đánh được đòn quyết định, không đạt được mục đích của cuộc hành binh. Cái gọi là thắng lợi chỉ là bề ngoài..."1 (Trần Trọng Trung, Tướng Ra-un Xa-lăng và cuộc tiến công lên Việt Bắc, Tạp chí Lịch sử quân sư, số 190, tháng 10-2007).


Ý nghĩa bao trùm, lớn lao của Chiến thắng Việt Bắc là nhờ đó, cuộc kháng chiến đã vượt qua thử thách khắc nghiệt, hiểm nghèo, tiếp tục phát triển.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #35 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2021, 10:21:38 am »

3. Sau khi mở đầu kháng chiến toàn quốc thắng lợi, ta tiếp tục xây dựng và củng cố lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu mới.

Về chỉ đạo chiến tranh, chúng ta nhận rõ, đến giữa năm 1947, mặc dù đã được tăng viện 11 tiểu đoàn Âu - Phi, nhưng Pháp cũng chỉ đủ sức chiếm giữ một số thành phố, thị xã lớn như Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, khả năng chi viện cho nhau rất khó khăn. Sau một số cuộc hành quân nhằm mở rộng vùng chiếm đóng ở Đông Bắc và Tây Nam đồng bằng Bắc Bộ bị thất bại, quân Pháp tập trung lực lượng giữ thành phố.


Trong khi đó, các chính khách Pháp đã đưa ra nhiều phương án về cuộc chiến tranh Đông Dương. Tuy họ đều thống nhất về ý đồ xâm lược song lại trái ngược nhau về biện pháp. Cuối cùng, như đã biết, một giải pháp lặp lại và vận dụng công thức chiến tranh cổ điển "Đại bác và chính quyền tay sai" được lựa chọn. Đây là âm mưu nham hiểm của thực dân Pháp, kết hợp thủ đoạn chính trị và biện pháp quân sự. Về chính trị, họ cố tạo ra một chính quyền tay sai bản xứ, vừa lôi kéo, lừa mị dân chúng bằng một thứ lý tưởng quốc gia đối lập với chủ nghĩa yêu nước chân chính, về quân sự, vừa "bình định" miền Nam, vừa tập trung lực lượng lớn để đánh đòn quyết định ở miền Bắc, đè bẹp tinh thần và lực lượng kháng chiến của ta.


Chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới, quân và dân ta vừa ra sức triển khai thế trận kháng chiến lâu dài, vừa sẵn sàng phá các cuộc tiến công của quân Pháp, vừa triển khai các hoạt động quân sự, đánh địch trên khắp chiến trường toàn quốc.


Nhằm chỉ đạo chuẩn bị phá chủ chương chiến lược mới của địch, hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ ba đã họp vào giữa tháng 6-1947. Sau khi phân tích tình hình chung, đặc biệt về âm mưu và hoạt động của địch, hội nghị nhận định, quân Pháp có thể "khởi những cuộc tiến công lớn để chiếm đóng những vị trí chiến lược còn ở trong tay ta, hoặc để quét sạch miền trung châu Bắc Bộ, hoặc khống chế miền Thanh - Nghệ hay Nam - Ngãi, chúng có thể mưu đồ cuộc đại tiến công vào Việt Bắc"1 (Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 150). Để chuẩn bị đánh địch, hội nghị chủ trương ra sức "củng cố, bổ sung và huấn luyện bộ đội đồng thời chú trọng củng cố dân quân". Hội nghị cũng chỉ đạo cần củng cố căn cứ địa thêm một bước, xây dựng và phát triển cơ sở chính trị, xây dựng khối đoàn kết toàn dân một lòng vì kháng chiến, ra sức tăng gia sản xuất, tích trữ lương thực, đẩy mạnh phòng gian, v.v...


Tiếp theo Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 3, Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 4 được tiến hành vào cuối tháng 9-1947. Hội nghị thống nhất nhận định về hướng tiến công của địch và đề ra chủ trương đẩy mạnh tác chiến Thu - Đông. Hội nghị nhận định: "Bắc Bộ là chiến trường chính, nếu địch không mạo hiểm thì đánh đồng bằng, nếu mạo hiểm thì chúng sẽ đánh Việt Bắc... Tấn công lên Việt Bắc, chúng sẽ đánh chiếm các tỉnh Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, nối liền đương Hà Nội - Lạng Sơn. Chiến lược của địch là "đánh nhanh, thắng nhanh" nhằm mau chóng kết thúc chiến tranh. Hội nghị chủ trương kiên quyết nắm vững bộ đội, giữ vững chủ lực đi đôi với tiêu diệt từng bộ phận quân địch, "bảo vệ căn cứ, không cố thủ", thực hiện phối hợp tác chiến giữa các khu và phối hợp chiến lược toàn quốc, phá tan âm mưu chính trị lập ngụy quyền của địch.


Về chỉ đạo tác chiến chiến lược. Ngay từ Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ ba, 11 nguyên tắc chỉ đạo tác chiến đã được xác định, trong đó nêu rõ việc giữ vững chủ động, nắm chắc ta và địch, về sử dụng lực lượng, về nghi binh lừa địch tạo bất ngờ, tổ chức phối hợp tốt bộ đội chủ lực với dân quân, du kích, tự vệ, v.v...


Do ta còn ít kinh nghiệm và công tác quân báo cũng chưa ổn định nên việc phán đoán ý đồ của địch gặp nhiều khó khăn. Trong cả hai hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 3 và 4, vẫn có ba ý kiến khác nhau là địch có thể tiến công vào đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Hoá - Nghệ An và Việt Bắc.


Tuy nhiên, căn cứ vào việc Xa-lăng sang làm chỉ huy quân Pháp ở Bắc Bộ, việc dự đoán địch tiến công lên Việt Bắc được chú ý hơn. Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 4 chủ trương "bảo vệ căn cứ, không cố thủ", thực hiện phối hợp giữa các khu và phối hợp chiến lược toàn quốc, phá tan âm mưu chính trị lập ngụy quyền của địch.


Về cách đánh, hội nghị nhấn mạnh "kiên quyết phát động du kích chiến", "kiên quyết tập trung để đánh vận động chiến", "tránh phòng ngự chính diện, bộ đội phải ở lại sau lưng địch, hoá chỉnh vi linh, hoá linh vi chỉnh, hoá trang lẫn vào dân khi cần". Hội nghị quán triệt nhiệm vụ phải "phá tan kế hoạch tiêu diệt ta của địch... Bao giờ cũng lấy bảo tồn lực lượng chứ không phải giữ đất làm chủ". Nếu thắng lợi về quân sự hồi đầu kháng chiến toàn quốc là do ta chủ động buộc địch phải chấp nhận sớm cuộc tổng giao chiến ở đô thị, mà chúng chưa kịp chuẩn bị đầy đủ, thì ở Việt Bắc, ta lại giành được thắng lợi do chủ động khước từ những trận đánh lớn mà quân Pháp cố tình nhử ta, với ý đồ đánh quỵ chủ lực ta. Lấy tiến công, phục kích, tập kích là chủ yếu để đánh thắng địch tiến công, không chủ trương phòng ngự bị động, là một bài học sáng tạo của ta trong tư duy chiến lược thời kỳ này.


Để phù hợp điều kiện về lực lượng địch, về chiến trường và năng lực chỉ huy chiến đấu của bộ đội, các trung đoàn đều phân tán 1 đến 2 tiểu đoàn thành đại đội độc lập, cùng dân quân, du kích đánh địch tại chỗ, bám sát và liên tục đánh địch cả nơi chúng trú quân cũng như trên đường chúng cơ động. Trong tiến công, quân Pháp mạo hiểm vận dụng chiến thuật "con trăn", chúng ta đã kịp thời khai thác chỗ yếu nhất về chiến thuật của chúng là những đoàn quân xa, những chiến thuyền buộc phải di chuyển trên những trục đường bộ, đường sông để duy trì sự sống cho một đạo quân lớn. Các tiểu đoàn tập trung của các trung đoàn, được tăng cường các đơn vị hoả lực của Bộ, lấy đánh địch trên đường bộ, đường sông khi chúng hành quân là chính. Nhờ cách đó, ta vừa căng địch ra ở khắp nơi, vừa thực hiện được nhiều trận đánh như trận Bông Lau (30-10) diệt đoàn xe 28 chiếc, trận Đoan Hùng
(Sông Lô, 23-10) đánh chiếm 2 tàu và làm bị thương hai tàu khác, v.v...


Như vậy, về chỉ đạo chiến tranh và nghệ thuật quân sự, tuy khi vào cuộc ta chưa xác định được thật cụ thể hướng tiến công chủ yếu và cách tiến công của địch, nhưng Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã sớm dự kiến địch sẽ tiến công lớn trong Thu - Đông, nên đã sớm giao nhiệm vụ cho các chiến khu sẵn sàng đánh địch và hướng dẫn cách đánh cho các chiến trường. Nhờ vậy, dù địch có gây cho ta bất ngờ và khó khăn trong những ngày đầu do không dự kiến chính xác thủ đoạn của địch, nhưng chúng ta đã nhanh chóng chuyển hoá thế trận, sớm giành lại quyền chủ động trong quá trình đối phó và làm thất bại cuộc tiến công quy mô lớn, đầy tham vọng của địch. Điều này cho thấy, trong chiến tranh, có khi ta không dự kiến được hết âm mưu, thủ đoạn của địch, nhưng vấn đề quan trọng nhất là khi nắm được ý đồ của chúng, phải nhanh chóng xử trí đúng các tình huống chiến lược, phù hợp thực tế.

Vậy là, qua chiến thắng Việt Bắc, lực lượng kháng chiến đã trưởng thành vượt bậc về mọi mặt, tạo cơ sở vững chắc, tạo đà cho những thắng lợi mới.

Chiến thắng Việt Bắc bước đầu biến dự đoán và nỗi lo của thực dân Pháp thành sự thật. Tướng Lơ-cle, đầu năm 1946 cho rằng, trở lại Nam Bộ, Nam Trung Bộ, với quân Pháp, chỉ là một cuộc "dạo mát quân sự". Đầu năm 1947, trên đường ra sân bay Tân Sơn Nhất về Pa-ri, ông tâm sự với sĩ quan tùy tùng "ở đây có quá nhiều người tưởng rằng cứ việc lấp đầy hố những xác người là người ta có thể dựng lại nhịp cầu nối liền Việt Nam với Pháp"1 (Phi-líp Đờ-vi-le, Sđd, tr. 446, 447). Về Pa-ri, trong báo cáo gửi Thủ tướng Lê-ông Blum, ông viết: "Năm 1947, Pháp sẽ không dùng nổi vũ khí để đè nén một tập hợp đông hàng 24 triệu người đang lớn mạnh lên, mang tư tưởng bài ngoại và có thể cả tư tưởng quốc gia chủ nghĩa nữa"1 (Đờ-vi-le, Sđd, tr. 446, 447). Còn J.Xanh-tơ-ni từng cảnh báo Chính phủ Pháp: "Bảo lưu tại Hà Nội một chính phủ là đáng ngại, nhưng nói cho cùng thì thà cứ ở đây, họ còn ít đáng sợ hơn, so với việc họ tiến hành chiến tranh du kích ở miền Thượng du"2 (J.Xanh-tơ-ni, Câu chuyện về một nền hoà bình bị bỏ lỡ, Pa-ri, 1967, lưu Thư viện Trung ương Quân đội, bản dịch, tr.207).


Như đã nêu ở trên, âm mưu tiến công Việt Bắc của quân Pháp rất thâm hiểm mà mấu chốt là tiêu diệt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến và lực lượng vũ trang cách mạng, giành thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh, thiết lập lại ách thống trị thực dân cũ của Pháp trên đất Việt Nam và Đông Dương. Tuy nhiên, chúng đã chịu thất bại nặng nề: Căn cứ địa của Trung ương càng vững chắc hơn, thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận toàn dân đánh giặc trên chiến trường chính Bắc Bộ, cũng như Trung Bộ và Nam Bộ đi vào thế xen kẽ, hình thành các vùng tự do, hậu phương trực tiếp của chiến trường. Chiến thắng cũng gợi mở cho Trung ương Đảng và Chính phủ thấy rõ hơn nhiều nội dung chiến lược phải xử lý, trong đó cần nhanh chóng xây dựng khối chủ lực cơ động mạnh, quả đấm chiến lược của lực lượng kháng chiến; về xây dựng ba thứ quân và đẩy mạnh phối hợp hoạt động giữa các chiến trường toàn quốc với chiến trường chính...


Với cuộc chiến chiến lược Thu - Đông 1947, mà chiến dịch Việt Bắc là hướng chủ yếu, ta đã phát huy được thắng lợi của cuộc chiến chiến lược mở đầu kháng chiến toàn quốc (12-1946 - 3-1947), tiến thêm một bước, và là đòn quyết định đánh bại chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng phải bị động đánh lâu dài với ta, theo cách mà ta lựa chọn, trái hắn với ý đồ của chúng. Sau thất bại ở Việt Bắc Thu - Đông 1947, mâu thuẫn giữa tập trung lực lượng để tiến công với khả năng giữ các vùng Pháp chiếm đóng xuất hiện, đồng thời xuất hiện khả năng tiếp tục cuộc chiến có nhiều hạn chế, khó khăn buộc phải chuyển hướng chiến lược và phải dựa vào Mỹ để có cơ sở vật chất, tài chính tiếp tục chiến tranh.


Đặt chiến dịch Việt Bắc trong vị trí hướng chủ yếu, một hoạt động trung tâm của cuộc chiến chiến lược Thu - Đông 1947, sẽ thấy chiến thắng Việt Bắc là sự kiện lớn, có ý nghĩa và vai trò đặc biệt trong lịch sử 30 năm chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc 1945-1975 của nhân dân ta.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #36 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2021, 07:55:49 pm »

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG VIỆT BẮC
TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Trung tướng PHẠM XUÂN THỆ
Tư lệnh Quân khu 1


Ngay từ những ngày còn sa lầy trong các đô thị, Bộ chỉ huy quân Pháp đã mưu đồ mở một cuộc tiến công quân sự lớn, chớp nhoáng, đánh đòn quyết định nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não tối cao và lực lượng chủ lực của cuộc kháng chiến, thiết lập ngụy quyền, kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Từ mùa Hè năm 1947, Bộ chỉ huy quân Pháp đã khẩn trương xúc tiến mọi công tác chuẩn bị để thực hiện mưu đồ trên.


Nhận rõ bản chất, mưu đồ hành động thâm độc và xảo quyệt của thực dân Pháp, Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ ba, họp từ ngày 12 đến ngày 15-6-1947, đã dự báo: có thêm viện binh, quân Pháp có thể "khởi những cuộc tiến công lớn để chiếm đóng những vị trí chiến lược còn ở trong tay ta, hoặc để quét sạch miền trung châu Bắc Bộ; hoặc để khống chế miền Thanh - Nghệ hay Nam Ngãi; chúng cũng có thể mưu đồ cuộc đại tiến công vào Việt Bắc”. Hội nghị đã xác định nhiệm vụ của quân dân ta là "Đánh vào đô thị, đánh rất mạnh các đường giao thông, đánh mạnh hơn trong các vùng do địch kiểm soát, đập tan mưu mô chính trị và kinh tế của địch". Hội nghị đề cao việc xây dựng lực lượng quân sự, chú trọng huấn luyện dân quân, củng cố các căn cứ địa và chỉ đạo cụ thể việc chuẩn bị phá kế hoạch Thu - Đông của địch.


Ngày 19-8-1947, nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào và chiến sĩ Khu 1. Người nhắc đến lịch sử cách mạng vẻ vang, truyền thống anh hùng bất khuất của nhân dân các dân tộc Việt Bắc, tiên đoán về âm mưu của địch. Sau khi nhắc nhở cần tăng cường cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, Người căn dặn đồng bào và chiến sĩ Việt Bắc: "Đã đoàn kết, phải đoàn kết thêm, khắp nơi phải tổ chức Hội Liên hiệp quốc dân. Ra sức tăng gia sản xuất, làm cho nhiều lúa, nhiều sắn, nhiều ngô, nuôi cho nhiều gia súc. Tập luyện dân quân tự vệ, du kích, giúp đỡ bộ đội. Phát triển bình dân học vụ. Giúp đỡ đồng bào tản cư. Giữ bí mật. Cán bộ quân sự, chính trị, hành chính và chuyên môn thì phải làm đúng bốn chữ: Cần, Kiệm, Liêm, chính. Tôi chắc rằng: Với truyền thống cách mạng lâu dài, với lòng sốt sắng yêu nước, với sự đoàn kết chặt chẽ, đồng bào và chiến sĩ Khu 1 sẽ làm tròn nhiệm vụ của mình".


Tiếp đó, ngày 2-9-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn nhắc lại những kỷ niệm hoạt động bí mật ở Việt Bắc "No đói có nhau, sướng khổ cùng nhau, đồng lòng một chí" và những ngày đấu tranh quyết liệt chống địch khủng bô. Cuối thư, Người động viên đồng bào: "Việt Bắc trước kia là căn cứ địa của cách mệnh, đã nổi tiếng khắp cả nước, khắp thế giới. Thì ngày nay, Việt Bắc phải thành căn cứ của kháng chiến, để giữ lấy địa vị và cái danh giá vẻ vang của mình...".


Ngày 15-9-1947, tại Việt Bắc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "sửa soạn phá những cuộc tấn công lớn của địch", đề ra nhiệm vụ cụ thể cho các địa phương về quân sự, kinh tế, về tuyên truyền cổ động, về tài chính và tiếp tế... Trung ương Quân ủy cũng triệu tập Hội nghị các cán bộ chủ trì Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng chỉ huy, các đơn vị trực thuộc Bộ. Cán bộ dân, chính, Đảng các tỉnh Việt Bắc dự kiến có chiến sự cũng được triệu tập đến họp để chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công sắp tới của giặc Pháp.


Quán triệt chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 27-9-1947, Hội nghị quân sự lần thứ tư họp tại Việt Bắc, thống nhất nhận định về hướng tiến công của địch: "Bắc Bộ sẽ là chiến trương chính... nếu mạo hiểm thì chúng sẽ đánh lên Việt Bắc"1 (). Chiến lược của địch là "Đánh nhanh, thắng nhanh". Hội nghị chủ trương nắm vững bộ đội, giữ gìn chủ lực, kiên quyết tiêu diệt từng bộ phận địch, "bảo vệ căn cứ, không cố thủ", phá tan âm mưu lập ngụy quyền của chúng. Cách đánh của ta là "kiên quyết phát động du kích chiến tranh và áp dụng đánh vận động trong điều kiện thuận lợi". Vừa "dùng đơn vị đại đội để hoạt động... vừa tập trung từng tiểu đoàn chủ lực cơ động đánh vận động chiến".


Để thống nhất chỉ huy, phối hợp tác chiến và tăng cường tính độc lập của địa phương khi chiến trường bị chia cắt, Hội nghị chia Bắc Bộ thành ba khu, trong đó Khu A gồm Khu 1 và Khu 12 (tiền thân của Liên khu 1).


Phấn khởi trước sự động viên khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào và chiến sĩ Việt Bắc, khẩn trương chấp hành các chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương và Bộ Tổng chỉ huy, Khu ủy và Bộ chỉ huy Khu 1, Khu 12 và các tỉnh trên địa bàn Việt Bắc đã khẩn trương bàn biện pháp thực hiện, đẩy mạnh công tác chuẩn bị chiến đấu, chuẩn bị lực lượng và xây dựng thế trận.


Các lực lượng vũ trang của Khu 1, Khu 12 được bố trí đảm nhiệm các nhiệm vụ như sau:

Khu 1 có 3 trung đoàn bộ binh được bố trí theo các địa bàn trọng điểm:

Trung đoàn 121 (Thái Nguyên - Phúc Yên), bố trí xung quanh thị xã Thái Nguyên và dọc phía Đông quốc lộ 3 (Sơn Cẩm, La Hiên, Đình Cả), sẵn sàng đánh địch tiến công vào thị xã và dọc đường số 3 đến Bắc Kạn. Một bộ phận của Trung đoàn dựa vào dãy núi Tam Đảo, sẵn sàng đánh địch ở Đa Phúc, Phúc Yên.

Trung đoàn 72, bố trí hoạt động xung quanh khu vực thị xã Bắc Kạn, Phú Lương, sẵn sàng đánh địch trên Đường số 3 đến Bắc Kạn.

Trung đoàn 74, bố trí xung quanh thị xã Cao Bằng, sẵn sàng đánh địch trên Đường số 4 từ Đông Khê lên thị xã Cao Bằng và Cao Bằng về Bắc Kạn.

Hai tiểu đoàn 19 và 53 trực thuộc Khu 1, bố trí xung quanh thị xã Thái Nguyên, sẵn sàng đánh địch từ Đa Phúc và Hiệp Hoà lên Thái Nguyên.


Khu 12 có 4 trung đoàn bộ binh, được bố trí như sau:

Trung đoàn 28, có nhiệm vụ chặn địch từ Đồng Đăng lên Na Sầm, Thất Khê và từ Lạng Sơn về Đồng Mỏ, đánh địch ở trong thị xã Lạng Sơn.

Trung đoàn 36 (Bắc Bắc), có nhiệm vụ chặn địch từ cầu Đuống lên và tiến công địch ở Nam phần Bắc Ninh.

Trung đoàn 59, ngăn chặn địch từ Chũ xuống Lục Nam và đánh địch ở Đình Lập, An Châu.

Trung đoàn 98, có nhiệm vụ giữ Phả Lại, khi địch tiến công lên Việt Bắc thì đánh vào Nam Sách, Kinh Môn.

Tiểu đoàn 517 trực thuộc Khu 12, bố trí và hoạt động trên Đường số 1; Tiểu đoàn 19 và Tiểu đoàn 43 làm dự bị cơ động.


Đến đầu tháng 10-1947, bộ đội chủ lực của Khu 1 và Khu 12 có bảy trung đoàn bộ binh, năm tiểu đoàn bộ binh độc lập trực thuộc Khu; tổng quân số khoảng hơn 6.000 người. Ngoài ra còn có các đại đội, trung đội bộ đội địa phương và dân quân du kích các tỉnh, huyện, bố trí tại địa phương. Hầu hết các trung đoàn của Khu 1 mới được thành lập, một số đơn vị của Khu 12 đang ở thời kỳ chấn chỉnh, củng cố sau chiến đấu. Trang bị vũ khí còn thiếu và không thống nhất. Mỗi tiểu đoàn có từ 1 đến 2 khẩu cối 60mm, 2 đại liên, 8 trung liên và 140 đến 160 súng trường các loại.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #37 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2021, 07:57:00 pm »

Thực hiện chủ trương của trên, Khu ủy và Bộ chỉ huy Khu đã chú trọng chỉ đạo tổ chức, xây dựng hệ thống cơ quan dân quân tự vệ từ cấp Khu đến các cơ sở. Tích cực hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thư của Người gửi đồng bào các dân tộc Việt Bắc, lực lượng dân quân tự vệ phát triển khá nhanh. Đến tháng 8-1947, Khu 1 và Khu 12 có khoảng 33.000 dân quân tự vệ, trong đó có hơn 4.000 du kích thoát ly.


Công tác phá hoại được coi trọng ở các địa phương Việt Bắc. Từ tháng 5 đến tháng 9-1947, quân và dân Việt Bắc đã phá hoại các công trình kiên cố, cầu, đường, để cản địch, bố trí lực lượng làm trận địa giả, trận địa nghi binh. Đồng bào các dân tộc dọc các trục đường đã tiến hành đào hố "chân chim", "hố răng lược" trên các đoạn đường chủ yếu, cắm chông tre, chông sào ở các bãi trống đề phòng địch nhảy dù. Riêng Khu 12, từ ngày đầu kháng chiến đến tháng 9-1947, đã phá 138km đường sắt, 91 cầu, đào đắp 324.169m3 đất đá, làm hố, đắp ụ chống xe tăng, phá nhiều công sở ở thị xã, thị trấn và 7.950 căn nhà các loại.


Tuy nhiên, công tác phá hoại ở một số địa phương chưa được coi trọng, có nơi còn mang tư tưởng "đại hậu phương chủ nghĩa" nên dẫn đến chủ quan "tiêu thổ kháng chiến không triệt để". Mặt khác, một số tuyến đường từ Định Hoá, Chợ Mới lên Bắc Kạn, Cao Bằng ta có ý định để thông thương qua biên giới Việt - Trung và tuyến liên tỉnh Thái Nguyên - Tuyên Quang cũng để lại nên chưa phá hoại. Thị xã Bắc Kạn nằm sâu trong lòng Việt Bắc, từ cuối tháng 6 đến Thu - Đông 1947, mật độ dân số tăng lên khá đông gồm các cơ quan, nhà trường, kho tàng, công xưởng của Trung ương và đông đảo nhân dân đô thị các tỉnh bạn sơ tán lên. Do ảnh hưởng của tư tưởng "đại hậu phương" nên công tác phá hoại tiến hành chậm, chỉ làm sơ sài, chiếu lệ, kết quả chỉ phá được một ít nhà cửa và một ít đồn bốt cũ.


Thực hiện mệnh lệnh ngày 4-10-1947 của Bộ Tổng chỉ huy gửi các khu, Bộ chỉ huy Khu 1 và Khu 12 xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang Việt Bắc là:

- Bảo tồn lực lượng chủ lực trước cuộc tiến công ồ ạt của địch, lập nhiều căn cứ, cản đường dịch tiến nhưng không cố thủ.

- Phát động du kích chiến tranh, bám lấy địch và tập trung lực lượng đánh vận động tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng.

- Phá hoại triệt để các đường tiến công của địch, đồng thời tiêu thổ tất cả các thị trấn, không cho địch lợi dụng chiếm đóng.

- Phân tán các cơ quan nặng, nhất là binh công xưởng, để tránh sự tàn phá của địch.


Theo đó, các đơn vị chủ lực và các tỉnh, huyện, xã đã tiến hành khẩn trương công tác củng cố căn cứ kháng chiến. Nếp sống thời chiến được xác lập, hệ thống giao thông liên lạc giữa các xã, từ xã lên cơ quan cấp trên được củng cố; trống, mõ, tù và được dùng làm các phương tiện thông tin, thông báo, báo động.


Công tác bảo vệ an toàn căn cứ được chú trọng, dân quân du kích đã đặt các trạm kiểm soát tại các đoạn đường trọng điểm. Tổ chức canh gác, tuần tra phòng giữ căn cứ địa và các nơi xung yếu. Công tác tiễu phỉ, trừ gian được triển khai tích cực. Các ổ phỉ ở Yên Thế (Bắc Giang), ở vùng cao, vùng biên giới Cao Bằng bị truy quét. Các tổ chức tình báo, gián điệp, phản động ở nhiều nơi bị phá rã.


Nhân dân được giáo dục về ý thức cảnh giác, thực hiện khẩu hiệu "Ba không", ở các vùng Định Hóa (Thái Nguyên), Chợ Đồn, Bạch Thông (Bắc Kạn), đồng bào các dân tộc được học tập về công tác bảo vệ, giữ bí mật, bảo đảm nơi ở, nơi làm việc của cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ được an toàn tuyệt đối. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc coi việc bảo vệ các cơ quan Đảng, Chính phủ là trách nhiệm và vinh dự của mình, tự giác chấp hành nghiêm ngặt các quy định.


Tại căn cứ địa Việt Bắc, cán bộ, nhân viên cơ quan thực hiện nếp sống quân sự hoá, ba lô, tài liệu luôn gọn gàng, sẵn sàng cơ động. Nhân dân cất giấu phần lớn tài sản, chuẩn bị sẵn sàng di chuyển vào rừng để đối phó với các tình huống.


Đầu tháng 10-1947, giặc Pháp huy động 12.000 quân tinh nhuệ mở cuộc tiến công bảy tỉnh thuộc Việt Bắc và trung du theo Kế hoạch Lê-a.

Hồi 8 giờ 15 phút ngày 7-10-1947, thực dân Pháp bất ngờ mở cuộc hành binh chiến lược lên Việt Bắc. Mở đầu cuộc tiến công, giặc Pháp đã sử dụng nhiều máy bay ném bom, bắn phá dữ dội xuống các mục tiêu xung quanh thị xã Bắc Kạn để dọn bãi. Tiếp đó, hàng chục lần chiếc máy bay vận tải thả hai tiểu đoàn quân dù (khoảng 800 tên), do trung tá Sô-va-nhắc (Sauvagnac) chỉ huy, xuống các khu vực ngoại vi, các điểm cao khống chế và ngay trong thị xã Bắc Kạn. Cũng ngay chiều ngày 7-10, Pháp lại thả một tiểu đoàn quân dù (khoảng 300 tên) xuống chiếm đóng Chợ Mới (Bạch Thông, Bắc Kạn). Đồng thời, từ Đình Lập (Lạng Sơn), binh đoàn bộ binh, do trung tá Bô-phơ-rê chỉ huy (có 2 trung đoàn bộ binh cơ giới với 300 xe), được lệnh theo Đường số 4 tiến về Cao Bằng, hình thành gọng kìm phía Đông.


Ngày 8-10, Pháp tiếp tục ném hơn 200 lính dù xuống đánh chiếm thị trấn Chợ Đồn (Bắc Kạn), Cao Kỳ (Bạch Thông), nam thị xã Bắc Kạn 21km. Như vậy, ngay từ những ngày đầu, thực dân Pháp đã thực hiện cú nhảy táo bạo xuống trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, hòng chụp bắt cơ quan đầu não của ta và hình thành gọng kìm phía Đông, tạo thành thế bao vây, chia cắt Việt Bắc.


Ngày 9-10, do cánh quân phía Đông của Bô-phơ-rê gặp nhiều khó khăn trên đường số 4, cơ động chậm, tướng Xa-lăng (Salan), Tư lệnh chiến trường Bắc Đông Dương, buộc phải sử dụng thêm 300 quân dù Pháp nhảy xuống thị xã Cao Bằng. Cũng trong ngày 9-10, từ Hà Nội, binh đoàn hỗn hợp bộ binh và lính thủy đánh bộ do Com-muy-nan chỉ huy, ngược sông Hồng, vào sông Lô lên Tuyên Quang, hình thành gọng kìm phía Tây. Trong khi đó, các tiểu đoàn dự bị của quân viễn chinh Pháp ở Bắc Đông Dương được tập kết ở sân bay Gia Lâm, sẵn sàng tung xuống những nơi phát hiện cơ quan đầu não kháng chiến.


Ngay từ đầu, cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Bắc đánh trả cuộc tiến công chiến lược của địch đã diễn ra quyết liệt. Tại thị xã Bắc Kạn, địch dựa vào thế quân đông, hoả lực mạnh, khai thác yếu tố bất ngờ của chiến thuật nhảy dù, hung hăng càn quét đánh chiếm các khu vực trong và ngoài thị xã. Lực lượng vũ trang ta tuy mỏng, yếu và bị bất ngờ, nhưng vẫn anh dũng chiến đấu. Học viên Trường Võ bị Trần Quôc Tuấn đã tiêu diệt gọn một toán quân dù khi chúng vừa chạm đất. Tiểu đoàn 49 tân binh dùng lựu đạn đánh trả địch, diệt tại chỗ nhiều tên. Dân quân xã Thanh Mai tiến công vào những toán dù mới tiếp đất, tiêu diệt một số tên, thu 1 súng cối và 2 súng máy; dân quân xã Hà Vị chặn đánh toán lính dù vào Cốc Xá. Tại Chợ Mới, dân quân du kích Chợ Mới và các xã Yên Định, Cao Kỳ, Hoà Mục, Nông Thượng đã toả đi tìm diệt những tên lính dù lạc ra ngoài thị xã và Chợ Mới. Ngay từ ngày đầu, quân dù của Pháp đã bị chết và bị thương hàng trăm tên. Những ngày tiếp sau, dân quân du kích Bắc Kạn và Chợ Mới liên tục tổ chức các trận tập kích, phục kích, bắn tỉa, đánh trả các cuộc hành quân càn quét của địch nhằm mở rộng khu vực đổ bộ và giải toả giao thông trên đường số 3 từ Bắc Kạn vê Chợ Mới.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #38 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2021, 07:59:48 pm »

Trên hướng Lạng Sơn, đường số 4 bị ta phá ở nhiều nơi, khiến cho đoàn quân cơ giới của địch phải tiến theo kiểu sâu đo, vừa đi vừa sửa đường và đối phó với các trận phục kích, tập kích của ta. Địch phải bỏ xe pháo lại phía sau, cho lính đi bộ, dùng lừa ngựa thồ hàng. Trên đường số 4, bộ đội địa phương huyện Văn Lãng (Lạng Sơn) và dân quân du kích liên tục tổ chức bắn tỉa, đánh địa lôi, phục kích, tập kích vào đội hình tiến quân của địch, diệt nhiều tên tại Khuổi Slìn, Khuổi Slo...


Tại Cao Bằng, bộ đội và tự vệ thị xã tích cực bám trụ đánh địch. Phân đội phòng không của đại đội trợ chiến thuộc Trung đoàn 74 bố trí trên đồi Thiên Văn (Cao Bằng) đã chiến đấu dũng cảm, lập công xuất sắc, bắn rơi chiếc máy bay JU-52, diệt 12 tên sĩ quan địch, thu nhiều tài liệu có giá trị - trong đó có bản kế hoạch tiến công Việt Bắc của địch. Chiến sĩ liên lạc Nguyễn Doanh Lộc của Trung đoàn 74 đã được giao nhiệm vụ chuyên gấp tài liệu thu được của địch về Bộ Tổng Tham mưu. Đồng chí đã từ Cao Bằng luồn rừng, vượt núi liên tục bốn ngày, ba đêm mang tài liệu về đến Yên Thông (Định Hóa - Thái Nguyên) an toàn. Tài liệu thu được của địch, đã cung cấp những ẩn số về cuộc hành binh của địch, giúp cho Bộ Tổng chỉ huy sớm hoàn thành kế hoạch phản công.


Hành động của địch trong cuộc hành binh lên Việt Bắc, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích trong thư kêu gọi quân dân cả nước tiêu diệt địch ngày 15-10-1947, Người cho rằng: địch hội quân ở Bắc Kạn, tạo thành cái ô bọc lấy Việt Bắc, rồi cụp ô lại, dưới đánh lên, trên đánh xuống, phá cho được cơ quan đầu não cuộc kháng chiến. Người chỉ rõ: "Chúng mạnh ở hai gọng kìm, gọng kìm mà gãy thì cái ô cụp xuống sẽ thành ô rách và cuộc tiến công thất bại".


Ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Phải phá cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp", biểu dương tinh thần chiến đấu của quân dân Việt Bắc, vạch rõ những chỗ mạnh, chỗ yếu của địch và nhấn mạnh "Chúng đóng quân ở xa càng dễ cho ta bao vây và chặn đường tiếp tế đánh chúng một cách có lợi trong khi chúng vận động".


Theo quyết định của Bộ Tổng chỉ huy, các trung đoàn chủ lực của Bộ và của Chiến khu được phân tán, tổ chức thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung", nhằm thực hiện lối đánh kết hợp tác chiến du kích rộng khắp với tác chiến tập trung trên các hướng.


Cuối tháng 10-1947, các lực lượng vũ trang Việt Bắc đã mau chóng điều chỉnh lực lượng, kết hợp với lực lượng chủ lực Bộ, hình thành thế trận phản công theo kế hoạch của Bộ Tổng chỉ huy trên Mặt trận Đường số 3, Mặt trận Đường số 4 và Mặt trận Sông Lô.

- Mặt trận Đường số 3 gồm có Trung đoàn 121, Trung đoàn 72, Trung đoàn 165 (của Bộ). Trung đoàn 121, dùng tiểu đoàn tập trung đánh địch từ Thái Nguyên tới Phúc Yên, đưa 7 đại đội độc lập xuống các huyện Đông Anh, Yên Lãng (Phúc Yên), Võ Nhai, Đại Từ, Đồng Hỷ (Thái Nguyên). Trung đoàn 72, dùng tiểu đoàn tập trung đánh địch ở Bắc Kạn đến Thái Nguyên; đưa 5 đại đội độc lập xuống các huyện Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Na Rì, Bạch Thông (Bắc Kạn). Trung đoàn 165, đánh địch ở Chợ Rã, Chợ Đồn, Bắc Kạn.

- Mặt trận Đường số 4 có Trung đoàn 74, Trung đoàn 28. Trung đoàn 74 dùng tiểu đoàn tập trung đánh địch trên đường số 4, đoạn Cao Bằng - Đông Khê; đưa các đại đội độc lập xuống các huyện Nguyên Bình, Hà Quảng, Hoà An, Quảng Uyên, Phục Hoà, Đông Khê (Cao Bằng). Trung đoàn 28 dùng Tiểu đoàn 249 đánh địch trên đoạn đường số 4 từ Lạng Sơn đi Đông Khê và đoạn đường số 1 từ Lạng Sơn đi Đồng Mỏ; đưa 6 đại đội độc lập xuống các huyện Thất Khê, Thoát Lãng, Văn Uyên, Văn Quan, Lộc Bình và Đồng Mỏ (Lạng Sơn).

- Mặt trận Sông Lô có lực lượng của Khu 10 và một tiểu đoàn chủ lực của Bộ. Các tiểu đoàn tập trung được bố trí đánh địch trên sông Lô, đoạn từ Việt Trì đến Tuyên Quang, các đại đội độc lập bố trí phân tán xuống các huyện phối hợp với du kích và nhân dân đánh địch rộng khắp.


Phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" là nét sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật dùng binh của Đảng và Bộ Tổng chỉ huy trong chiến dịch phản công Việt Bắc. Phương châm trên đã tạo điều kiện cho quân dân Việt Bắc đẩy mạnh "quần chúng chiến tranh", phát huy được sức mạnh tổng hợp, phát huy được thế và lực của chiến tranh toàn dân, toàn diện trên các mặt trận của chiến trường Việt Bắc. "Quần chúng chiến tranh" chính là tiền đề, là sự khỏi đầu của loại hình "chiến tranh nhân dân" ở Việt Nam.


Trong chiến dịch phản công, quân và dân Việt Bắc đã phối hợp với chủ lực của Bộ, chủ động bám đánh địch cả ngày lẫn đêm, đẩy mạnh hoạt động "du kích chiến" rộng khắp, hình thành thế bao vây, chia cắt quân địch, chọn thời cơ tập trung lực lượng đánh những trận tiêu diệt đạt hiệu suất chiến đấu cao. Những trận đánh tiêu biểu như trận phục kích đèo Bông Lau - Lũng Phầy (30-10), trận tập kích đồn Phủ Thông (30-11), trận phục kích Đèo Giàng (15-12-1947) đã khiến cho địch hết sức kinh hoàng.


Trận phục kích đèo Bông Lau - Lũng Phầy, do Tiểu đoàn 249, Trung đoàn 28 phối hợp với du kích Đông Khê tiến hành, đã diệt 94 lính Âu - Phi, 55 lính ngụy, bắt 101 tên, bắn cháy, phá hủy 27 xe trong tổng số 33 xe cơ giới, thu nhiều vũ khí đạn dược. Đây là trận phục kích đánh giao thông xuất sắc của ta kể từ khi địch tiến công lên Việt Bắc. Chiến công của Tiểu đoàn 249 đã được Đảng và Chính phủ tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì và Tiểu đoàn được vinh dự mang danh hiệu "Tiểu đoàn Bông Lau".


Trải qua hai tháng rưỡi liên tục chiến đấu, quân và dân Việt Bắc đã góp phần quan trọng cùng chủ lực của Bộ bẻ gãy cả hai gọng kìm phía Đông, phía Tây của địch, cắt đường giao thông tiếp tế trên các đường số 3, đường số 4, thực hiện đúng quân lệnh của Bộ Tổng chỉ huy là ’’Phải đánh cho xứng với thanh danh Việt Bắc", và "tiêu diệt địch để bảo vệ Việt Bắc". Trong chiến dịch này, chỉ riêng quân và dân Việt Bắc đã đánh 167 trận, diệt hàng nghìn tên, bắt hàng trăm tên, bắn rơi 4 máy bay, phá hủy và bắn cháy hơn 30 xe quân sự. Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 khảng định Việt Bắc là căn cứ địa kháng chiến của cả nước, xứng đáng với lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lòng yêu nước của đồng bào, nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch, nó đã đánh tan cuộc tiến công của thực dân".


Sau hơn hai tháng tiến công Việt Bắc, thực dân Pháp không những không thực hiện được mục tiêu đề ra mà còn bị thiệt hại lớn về sinh lực và phương tiện chiến tranh. Để cứu vãn tình thế, cuối tháng 12-1947, địch cố duy trì một phần lực lượng tổ chức chốt giữ thị xã Bắc Kạn, Phủ Thông, Cao Bằng và xây dựng phòng tuyến Đông Bắc dọc đường số 4, còn đại bộ phận rút quân khỏi Việt Bắc.


Thất bại nặng nề của cuộc hành binh chiến lược lên Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã đánh dấu thất bại hoàn toàn của chiến lược "Đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp, trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ 2 (1945-1954).


Chiến thắng Việt Bắc là kết quả của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng ta, kết quả của sự chỉ đạo trực tiếp, kịp thời và sáng suốt của Bộ Tổng chỉ huy. Chiến thắng Việt Bắc phản ánh tinh thần chiến đấu dũng cảm, anh dũng tuyệt vời của quân và dân Việt Bắc nói riêng và cả nước nói chung, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến trường kỳ và anh dũng của dân tộc.


Chiến thắng Việt Bắc đã làm cho Pháp bị sa lầy, phải đánh theo cách đánh của ta và ngày một suy yếu, bị động trên khắp các chiến trường. Sau Thu - Đông 1947, căn cứ địa Việt Bắc ngày một vững mạnh và trở thành "đất Thánh" của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng Việt Bắc khẳng định sự lựa chọn xây dựng An toàn khu (ATK) Trung ương trong căn cứ địa Việt Bắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, chính xác.


Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 để lại nhiều bài học quý báu cho quân và dân ta. Bài học bao trùm trên hết là kết hợp và giải quyết đúng đắn việc xây dựng lực lượng thế trận với phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược.


Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã đi vào lịch sử, nhưng ý nghĩa chính trị, tinh thần và giá trị tư tưởng - nghệ thuật quân sự của nó đã, đang và mãi mãi phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sáu mươi năm đã đi qua, thời gian tuy đã lùi xa, trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa của đất nước hôm nay, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm xưa vẫn luôn động viên, nhắc nhở quân và dân Việt Bắc: "Việt Bắc trước kia là căn cứ của cách mệnh, đã nổi tiếng khắp cả nước, khắp thế giới, để giữ lấy địa vị và cái danh giá của mình. Cách mệnh do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi. Mong đồng bào đều gắng sức".


Phát huy truyền thống "Việt Bắc căn cứ địa", các lực lượng vũ trang Quân khu 1 và đồng bào các dân tộc Việt Bắc nguyện không ngừng phát huy tinh thần yêu nước và cách mạng, đoàn kết phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đảm nhiệm, giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, không ngừng xây dựng quê hương Việt Bắc ngày một giàu đẹp.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #39 vào lúc: 12 Tháng Ba, 2021, 08:01:22 pm »

CÁC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TÂY BẮC
TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Trung tướng ĐỖ BÁ TỴ
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Tư lệnh Quân khu 2


Tây Bắc là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ đối với miền Bắc Việt Nam mà cả khu vực Bắc Đông Dương. Vì vậy, trên chiến trường này, vào năm 1947, ta đã hình thành ba mặt trận chính: Mặt trận Sơn La, Mặt trận Lào Cai và Mặt trận Yên Bái. Trong thư gửi cán bộ, chiến sĩ và đồng bào các dân tộc đang chiến đấu trên chiến trường Tây Bắc (2-1947), đồng chí Võ Nguyên Giáp đã một lần nữa khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng của miền Tây Bắc.


Về phía thực dân Pháp, chúng cũng coi Tây Bắc là một hướng chiến trường vô cùng quan trọng. Ngay từ đầu năm 1947, địch liên tiếp mở hàng loạt các cuộc hành quân nhằm mở rộng phạm vi chiếm đóng; đồng thời đẩy mạnh việc sử dụng bọn tay sai, phản động, lôi kéo đồng bào các dân tộc để chống phá ta.


Vào thời điểm trước khi thực dân Pháp tiến công lên Việt Bắc (Thu - Đông 1947), lực lượng chủ lực của Khu 10 có 5 trung đoàn, 1 tiểu đoàn độc lập và 1 đại đội pháo binh với 5 trung đội. Các đơn vị được bố trí như sau: Trung đoàn 92 ở Yên Bái, Trung đoàn 171 ở Lào Cai, Trung đoàn 148 ở Sơn La, Trung đoàn 112 ở Hà Giang và Tuyên Quang, Trung đoàn 87 ở Vĩnh Yên.


Dưới sự chỉ đạo của Trung ương và Bộ Tổng chỉ huy, trực tiếp là Bộ Tư lệnh Khu 10, các đơn vị lực lượng vũ trang và đông đảo nhân dân các dân tộc trên địa bàn, mặc dù tổ chức còn non trẻ, trang bị còn thô sơ, đời sống mọi mặt còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng đã chủ động, tích cực, ngoan cường, anh dũng chiến đấu với đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp. Mục tiêu chiến đấu của ta lúc này là tiêu diệt, tiêu hao, ngăn chặn và làm giảm sức tiến công, mở rộng phạm vi chiếm đóng của quân xâm lược Pháp. Tuy vậy, do tương quan lực lượng cùng với những yếu tố về khách quan và chủ quan, các đơn vị của ta vừa chiến đấu ngăn chặn địch, vừa phải tổ chức rút về phía sau để bảo toàn lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Do đó, thực dân Pháp đã đánh chiếm và mở rộng vùng kiểm soát của chúng ở Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, một phần Yên Bái. Như vậy, sườn phía Tây của căn cứ địa Việt Bắc đã trực tiếp bị uy hiếp; các đơn vị của ta cùng các cơ quan dân, chính, đảng của ba tỉnh trên phải rút về đứng chân ở Yên Bái và vùng tây nam Phú Thọ. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang Khu 10 lúc này đòi hỏi hơn bao giờ hết phải quyết tâm chiến đấu, giữ vững vùng lãnh thổ còn lại bên sườn phía Tây căn cứ địa Việt Bắc.


Vào đầu tháng 10-1947, quân Pháp từ Sơn La liên tục mở các cuộc hành quân đánh chiếm sang Yên Bái, chiếm đóng 4/5 đất đai của tỉnh miền núi này. Nhiệm vụ đặt ra cho lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Khu 10 rất nặng nề: vừa trực tiếp chiến đấu bảo vệ sườn phía Tây căn cứ địa Việt Bắc, vừa tham gia các trận chiến đấu trên Mặt trận Sông Lô - đường số 2 từ Vĩnh Yên, Phú Thọ đến Tuyên Quang, Hà Giang.


Ngày 4-10-1947, sau khi dự hội nghị ở Khu về, các đồng chí Bằng Giang - Tư lệnh Khu 10 và Song Hào - Chính ủy, đã trực tiếp chỉ đạo mọi công tác chuẩn bị chiến đấu, kiên quyết đập tan cuộc tiến công của địch. Tinh thần làm việc trong cơ quan Bộ Tư lệnh khẩn trương hơn bao giờ hết. Các chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch chuẩn bị tác chiến được gấp rút soạn thảo và nhanh chóng chuyển xuống các đơn vị. Từ thủ trưởng Bộ Tư lệnh, đến cán bộ, sĩ quan ở cơ quan đều được cử đi các hướng để cùng các địa phương và đơn vị xúc tiến công việc chuẩn bị chiến đấu. Công tác phòng tránh, sơ tán được thực hiện. Hai trung đoàn chủ lực của Khu được triển khai bố trí lực lượng tại Lập Thạch, ở hai bờ sông Lô, dọc theo đường số 2 từ Đoan Hùng - Tuyên Quang lên Chiêm Hoá. Ba trung đội pháo binh triển khai trận địa ở những vị trí hiểm yếu bên bờ sông Lô, sẵn sàng đánh tàu địch. Nhân dân các địa phương tích cực cất giấu lương thực, thực phẩm, đào hầm hào tránh bom đạn, thực hiện rào làng chiến đấu, xác định địa điểm sơ tán khi chiến sự xảy ra. Các đội du kích ngày đêm luyện tập, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, lập kè ngăn sông ở Sóc Đăng. Thế trận toàn dân đánh giặc được xây dựng ở mọi nơi.


Ngày 10-10-1947, quân xâm lược Pháp ngược sông Lô, tiến theo đường số 2, thực hiện "gọng kìm thứ 2" tiến quân lên Tuyên Quang hòng siết chặt và nghiền nát căn cứ địa Việt Bắc. Phán đoán đúng ý đồ của địch, dọc sông Lô, các trận địa chiến đấu của ta được triển khai ở Phan Dư, Khoan Bộ, Đoan Hùng, Bình Ca sẵn sàng đánh địch. Cuộc chiến đấu của quân và dân Khu 10 trên Mặt trận Sông Lô và đường số 2 đã bắt đầu. Những trận đầu, do thiếu kinh nghiệm trong xây dựng và bố trí trận địa, bảo đảm thông tin liên lạc, nắm bắt thời cơ nổ súng...; mặt khác, do súng pháo của ta cũ kỹ, bị hỏng hóc trong quá trình chiến đấu, nên hiệu quả chiến đấu thấp, bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt địch. Tất cả những vấn đề trên từng bước được chỉ huy các cấp kịp thời chấn chỉnh và khắc phục trong quá trình chiến đấu. Điều ấy được thể hiện ở trận chiến đấu trên bến Bình Ca, ngày 13-10-1947. Tại đây, hàng chục tên địch đã bị tiêu diệt, nhiều tên khác bị thương. Bình Ca đã làm nên chiến thắng trận đầu trên sông Lô, là khúc dạo đầu của những chiến công lẫy lừng trên dòng sông Lô lịch sử. Qua thực tế chiến đấu, Bộ Tư lệnh Khu 10 đã nhận rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của địch cũng như những khuyết, nhược điểm của ta, từ đó đã kịp thời đề ra các giải pháp để chỉ đạo các đơn vị trước khi bước vào cuộc chiến đấu mới với mức độ và cường độ cao hơn. Bộ Tư lệnh đã tăng cường công tác chỉ đạo cho các đơn vị tổ chức thế trận chiến đấu, bổ sung thêm súng đạn, tổ chức nghiên cứu, học tập chiến thuật đánh địch đường sông; tổ chức tốt việc phối hợp tác chiến hiệp đồng giữa bộ binh, pháo binh và công binh trong chiến đấu; đặc biệt là trong những trận vận động tập kích, xây dựng phương án, cách đánh đặt pháo gần mục tiêu, bắn thẳng, chống lại tư tưởng sợ mất pháo, đặt pháo xa, bắn xa. Bộ Tư lệnh đã chỉ đạo cơ quan tham mưu nghiên cứu, đề xuất đánh những trận chắc thắng để rút kinh nghiệm, qua đó lấy thực tế để giáo dục, huấn luyện bộ đội, dân quân du kích, củng cố tinh thần quyết chiến quyết thắng cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang cũng như đồng bào các dân tộc trên địa bàn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM