Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 12:06:10 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947-Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt  (Đọc 7154 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #150 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:31:06 am »

TRUYỀN THỐNG QUÂN SỰ DÂN TỘC
VỚI CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Đại tá,PGS, TS. LÊ ĐÌNH SỸ
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Thắng lợi Việt Bắc Thu - Đông 1947 là chiến công lớn của quân và dân cả nước nói chung, của lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc Việt Bắc nói riêng trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954). Chiến công đó là sự kế thừa và phát triển cao độ truyền thống quân sự dân tộc - truyền thống anh hùng của ông cha trong lịch sử đánh giặc giữ nước.


Cuộc tiến công Thu - Đông 1947 lên Việt Bắc thể hiện tham vọng rất lớn của thực dân Pháp. Chúng đã huy động hàng vạn quân tinh nhuệ gồm cả hải, lục và không quân vào chiến dịch. Bằng cách cho nhảy dù bất ngờ binh đoàn đổ bộ đường không xuống thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới, đồng thời sử dụng các binh đoàn chủ lực trang bị hiện đại thực hiện cuộc hành quân cơ giới, bao vây, bắt sống lãnh đạo và phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực ta, khủng bố nhân dân, triệt phá kho tàng, phá hoại căn cứ địa Việt Bắc, nhanh chóng giành thắng lợi, thành lập chính phủ bù nhìn, thiết lập nền thống trị thực dân cũ của chúng.


Tham vọng của thực dân Pháp rất nhiều, nhưng kết quả thì hoàn toàn ngược lại. Cuộc tiến công chiến lược của chúng đã hoàn toàn thất bại. Bộ đội chủ lực của ta và dân quân du kích ở Bắc Kạn đã kiên quyết đánh trả quân đô bộ đường không, tiêu diệt một bộ phận quân địch, làm thất bại âm mưu tập kích bất ngờ, đột nhập bắt sống đầu não kháng chiến. Trên Mặt trận Sông Lô, trên đường số 3 và số 4, các đại đội độc lập, các tiểu đoàn, trung đoàn chủ lực kết hợp với tự vệ công xưởng và du kích các địa phương đã lập nên chiến thắng Sông Lô; tiêu diệt địch ở Đông Khê, Thất Khê, Võ Nhai, Tràng Xá, đèo Bông Lau; đánh lớn ở Chợ Chu, Phủ Thông, Chợ Đồn, Chợ Mới, khiến quân Pháp tan tác bỏ chạy. Trải qua hơn hai tháng chiến đấu với rất nhiều trận đánh lớn nhỏ, quân và dân ta đã "phá tan cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp”1 (Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 15-10-1947), tiêu diệt hàng ngàn tên địch, bắn rơi 16 máy bay, phá hủy hàng trăm xe quân sự, thu nhiều vũ khí quân trang, quân dụng của địch; tạo nên một bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến thần thánh của quân và dân ta.


Xét trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) thì chiến dịch Thu - Đông 1947 là chiến dịch phản công quy mô lớn đầu tiên của quân dân ta kể từ ngày mở đầu kháng chiến, diễn ra trên địa bàn căn cứ địa Việt Bắc. Đây là chiến công lớn nhất trong giai đoạn đầu kháng chiến. Những trận chiến đấu tại Việt Bắc - Thu - Đông 1947 cho thấy, bộ đội chủ lực và dân quân du kích ta đã trưởng thành, tiến bộ rõ rệt trên phương diện tổ chức chỉ huy cũng như về tinh thần chủ động đánh địch, về cách đánh du kích và vận động. Qua đợt đọ sức lớn đầu tiên và quyết liệt này, quân ta rút được nhiều bài học quý báu về tổ chức, chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu, kinh nghiệm hiệp đồng tác chiến giữa các lực lượng, kinh nghiệm về thông tin, trinh sát nắm địch, v.v. Chiến thắng Việt Bắc đã củng cố mạnh mẽ ý chí chiến đấu, đã xâv dựng thêm lòng tin của toàn quân, toàn dân về tiền đồ cuộc kháng chiến. Việt Bắc đã cổ vũ cả nước đứng lên quyết chiến, quyết thắng thực dân Pháp, bảo vệ Tổ quốc.


Tiến công Việt Bắc Thu - Đông 1947 là cuộc ra quân quy mô chiến lược lớn đầu tiên của Pháp. Do đó, sự thất bại này là đòn choáng váng, đánh mạnh vào tinh thần và sinh lực của quân viễn chinh. Ảo tưởng dùng hành động quân sự quy mô lớn và bất ngờ nhằm sớm kết thúc chiến tranh theo chủ trương chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp tan thành mây khói. Đó là một thất bại chiến lược nặng nề. Chính phủ Pháp buộc phải thay đổi chiến lược, chuyển sang "chiến tranh tổng lực, đánh lâu dài lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt". Như vậy, chiến thắng Việt Bắc là mốc lịch sử đánh dấu bước thay đổi chiến lược của Pháp và nó cũng tạo ra tiền đề và điều kiện để đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta chuyển sang một giai đoạn mới.


Đặt trong bối cảnh của cả tiến trình lịch sử quân sự dân tộc, thì chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 là một sự kiện lịch sử lớn với nhiều ý nghĩa. Cuộc đọ sức này chứng tỏ, cũng như các thế lực xâm lược lớn mạnh khác, thực dân Pháp với những đạo quân viễn chinh hiện đại, thiện chiến mà như chúng đã từng huênh hoang đâu đến nỗi ghê gớm và không hề đáng sợ. Quân xâm lược ngày xưa như giặc Tống (thế kỷ X và XI), giặc Mông - Nguyên (thế kỷ XIII), giặc Minh (thế kỷ XV) và giặc Thanh (thế kỷ XVIII) cũng đã tự coi mình là "thiên triều", quân hùng tướng mạnh, coi khinh nước ta là "Man di", thì đều bị thất bại, phải rút quân về nước. Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp cũng từng vỗ ngực là "văn minh khai hoá", là "mẫu quốc", với đủ loại máy bay, xe tăng và tàu lớn, có nhiều loại vũ khí và trang bị hiện đại, nhưng cũng không thể trong "chớp nhoáng" mà giành được thắng lợi như chúng tưởng. Tất nhiên, với những đoàn quân viễn chinh hùng mạnh, ở thế kỷ trước, chúng đã làm mưa làm gió trên đất nước ta. Nhưng sau ngày Việt Nam giành được độc lập, tình thế đã đổi thay. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới đã khác, thất bại của chúng là tất yếu; và Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã là một minh chứng hùng hồn.


Lịch sử quân sự Việt Nam có nhiều hiện tượng ngẫu nhiên trùng hợp thú vị. Trong lịch sử chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam cũng đã xuất hiện nhiều cuộc phản công của quân và dân ta đánh tan các cuộc tiến công của quân xâm lược. Chẳng hạn như trong hội chiến Tốt Động - Chúc Động (10-1426) hay trong trận quyết chiến Chi Lăng - Xương Giang (10-1427) của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược đầu thế kỷ XV. Lúc đó, như Nguyễn Trãi nói: "Giặc cậy mạnh đem quân đánh ta...", tướng Minh là Vương Thông đã sử dụng 10 vạn quân, chia làm nhiều hướng từ Đông Quan tiến công quân ta ở Tốt Động - Chúc Động, với hy vọng nhanh chóng tiêu diệt chủ lực quân Lam Sơn, giành lại thế chủ động chiến lược. Nhưng chính quân Minh đã bị bất ngờ, cuộc chiến đấu đầy mưu trí và dũng cảm của các cánh quân Lam Sơn đã bẻ gãy các mũi tiến quân của giặc. Chỉ trong một thời gian ngắn, 5-6 vạn quân Minh bị tiêu diệt, khiến cho "Ninh Kiều máu chảy thành sông, hôi tanh muôn dặm: Tốt Động thây phơi đầy nội, máu chảy đầy đồng" (Bình Ngô đại cáo), tàn quân giặc phải liều chết chiến đấu để tháo chạy về Đông Quan cố thủ. Cuộc tiến công chiến lược của 10 vạn viện binh Liễu Thăng một năm sau đó cũng đã bị quân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi - Nguyễn Trãi, chặn đánh, tiêu diệt gần hết ở Chi Lăng - Xương Giang, v.v. Truyền thống lịch sử đó đã được khơi dậy và phát huy trong chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947. Trong chiến dịch này, tinh thần dân tộc đã được phát huy mạnh mẽ, khiến quân Pháp phải thừa nhận thất bại. Thật "xứng với thanh danh Việt Bắc"; và như lời thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề tặng các lão du kích Việt Bắc rằng:

''Tuổi cao ý chí càng cao,
Múa gươm giết giặc ào ào gió thu.
Sẵn sàng tiêu diệt quân thù,
Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, Tập 4, tr. 390).


"Tiếng thơm Việt Bắc" đã toả lan trong kháng chiến chống Pháp và hoà chung với chiến thắng của cả cuộc chiến tranh, có ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ tiếp đó (1954-1975). Trong kháng chiến chống Mỹ, có nhiều chiến dịch phản công của quân dân ta đánh tan các chiến dịch tiến công của quân đội Mỹ. Tuy thời gian cách xa nhau 20 năm, nhưng chúng ta có thể tìm thấy bóng hình của Việt Bắc Thu - Đông 1947 trong chiến dịch phản công của quân dân miền Nam đánh tan cuộc hành quân chiến lược Gian-xơn Xi-ty (Junction City) của Mỹ vào tháng 2-1967.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #151 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2021, 09:39:02 am »

Từ năm 1965, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam nước ta, chúng ồ ạt đưa quân vào Việt Nam với hy vọng giành thắng lợi quyết định. Tháng 2-1967, Mỹ mở cuộc hành quân lớn Gian-xơn Xi-ty, đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu bằng lực lượng quân sự áp đảo với 45.000 quân, gồm 31 tiểu đoàn bộ binh và lính dù Mỹ, 4 tiểu đoàn lính ngụy, 1.200 xe tăng và xe bọc thép, 2.500 khẩu đại bác, 17 phi đoàn máy bay các loại. Mỹ còn sử dụng hàng trăm lần chiếc máy bay B.52 ném bom hủy diệt để yểm trợ cuộc hành quân "tìm diệt" của chúng. Mục tiêu cuộc hành quân là tiêu diệt Trung ương Cục miền Nam, Bộ chỉ huy Quân giải phóng, cơ quan Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, tiêu diệt chủ lực ta, phá căn cứ và kho tàng của Quân giải phóng. Như vậy là, mục đích của Mỹ ở cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty năm 1967 tương tự như mục đích của Pháp ở Việt Bắc Thu - Đông năm 1947. Trong hai chiến dịch này, quân địch đều kết hợp tiến công đường bộ, đổ bộ đường không với ưu thế hoả lực mạnh gấp bội.


Đây là cuộc hành quân lớn nhất của quân Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mỹ lợi dụng ưu thế cơ động của máy bay lên thẳng để đổ một lực lượng quân lớn, âm mưu bịt kín biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, làm chủ lộ 22 và lộ 4, hình thành thế bao vây Chiến khu Dương Minh Châu. Nếu như chiến dịch tiến công Việt Bắc của Pháp chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn trước mang bí danh "Lê-a" và giai đoạn sau thực hiện kế hoạch "Xanh-tuya", thì cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty của Mỹ cũng được thực hiện qua hai giai đoạn: Giai đoạn đầu đánh bất ngờ, chính diện vào chiến khu, giai đoạn hai chúng lật cánh sang bao vây và oanh tạc phía đông căn cứ. Điều khác biệt ở đây là những hoạt động chiến dịch của Pháp tại Việt Bắc năm 1947 lúc đầu đã gâv bất ngờ đối với ta, còn những hoạt động quân sự của Mỹ năm 1967 đã hoàn toàn nằm trong dự đoán... Tuy vậy, những cuộc chiến đấu của quân và dân ta đều tức thì và đều có sự kết hợp giữa quân chủ lực với lực lượng quân sự địa phương, tự vệ cơ quan và dân quân du kích. Vai trò của chiến tranh du kích trước sau đều rất rõ nét. Và kết quả tất nhiên là cả hai cuộc tiến công của quân Pháp cũng như của quân Mỹ đều thất bại. Trong cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty, Mỹ đã không đạt được mục tiêu gì, lại bị tổn thất rất nặng, bị loại khỏi vòng chiến đấu 14.000 quân, thiệt hại 160 máy bay, 992 xe quân sự và 112 pháo cối bị phá hủy. Ta bảo vệ vững chắc căn cứ, cơ quan đầu não kháng chiến, đánh bại cố gắng lớn nhất của quân đội Mỹ trong cuộc phản công chiến lược này. Cũng như Thu - Đông 1947, ở đây địch đã không đánh quỵ được quân chủ lực ta; không những thế, qua chiến dịch, bộ đội ta được rèn luyện, trưởng thành trong tác chiến và tin tưởng hơn vào thắng lợi cuối cùng.


Cả chiến dịch Việt Bắc và cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty đều là những cuộc "động binh" lớn của Pháp và Mỹ. Đó cũng là những cuộc đọ sức lớn, rất quyết liệt giữa quân ta và quân xâm lược trong hai cuộc chiến tranh, cả Pháp và Mỹ đều đã ngao ngán về thất bại nặng nề, đặc biệt là đối với Mỹ. Sau thất bại Gian-xơn Xi-ty, nhiều nhân vật chóp bu của Mỹ cho là Mỹ không thể thắng nổi, rằng Mỹ sẽ bị thua ở Việt Nam. Những thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ có sự kế thừa, phát triển kinh nghiệm trong kháng chiến chống Pháp. Chiến công sau lớn hơn chiến công trước. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật kế thừa và phát huy kinh nghiệm lịch sử quân sự dân tộc; trong đó Việt Bắc Thu - Đông 1947 là một mốc son chói lọi, để lại những bài học quý giá.


Chiến thắng Việt Bắc là một bước phát triển của truyền thống quân sự rất đáng tự hào của nhân dân các dân tộc sống trên dải đất Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đất nước. Việt Bắc là cái tên quen thuộc của nhân dân cả nước và bè bạn khắp năm châu. Việt Bắc là địa bàn chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam. Nhân dân các dân tộc ở Việt Bắc đã trải qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước. Núi rừng Việt Bắc đã chứng kiến nhiều trận chiến đấu của nhân dân ta chống nạn xâm lăng từ phương Bắc. Từ thuở Hai Bà Trưng chống Đông Hán, trải qua các cuộc kháng chiến chống nhà Lương thời Lý Nam Đế, kháng chiến chống nhà Tống thời Lý, chống quân Mông - Nguyên thời Trần, chống quân Minh thời Lê và chống Thanh thời Quang Trung - Nguyễn Huệ, biết bao sự kiện lịch sử oanh liệt đã diễn ra trên mảnh đất này và lịch sử đã ghi nhận nhiều chiến công của đồng bào các dân tộc miền núi. Đồng bào các dân tộc, quân dân ta ở Việt Bắc đã làm sông lại cái hào khí dân binh đánh giặc, từ các làng bản, hang động thời Lý - Trần - Lê. Nhiều trận đánh trả, đánh lén từ mọi làng bản, mọi quả núi ngọn đồi đã diễn ra, gây khủng khiếp cho quân xâm lược; và thắng lợi của nhân dân ta trước giặc ngoại xâm là thắng lợi của sức mạnh đoàn kết chiến đấu của quân và dân, của khối đoàn kết keo sơn giữa các dân tộc.


Dưới ách thống trị gần một thế kỷ của thực dân Pháp, từ giữa thế kỷ XIX, nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã liên tiếp đứng lên đấu tranh, khi lẻ tẻ, khi đồng loạt, khi thì nông dân vùng lên, lúc thì binh biến khởi nghĩa. Họ tham gia các đội nghĩa quân Dương Đình Cúc, Hoàng Đình Kinh, Mã Sinh Long, Hoàng Hoa Thám, Lương Ngọc Quyến, v.v. Tuy mới chỉ là sự biểu hiện của tinh thần yêu nước, chưa có đường lối cách mạng chỉ đạo, nhưng nhân dân Việt Bắc đã thể hiện ý chí và truyền thống yêu nước quật cường chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương, đất nước mình.


Trong cuộc vận động tiến tới Cách mạng Tháng Tám (1945), Việt Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước. Du kích Bắc Sơn, du kích Võ Nhai, Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Việt Nam giải phóng quân... đều đã sinh ra từ cái nôi Việt Bắc thân yêu và đã được nhân dân các dân tộc che chở, nuôi dưỡng. Cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và phát xít Nhật diễn ra quyết liệt ở Việt Bắc dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ thế, Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi vang dội ở Việt Bắc.


Với truyền thống yêu nước, cách mạng, lại được tập dượt, thử thách qua đấu tranh, quân và dân Việt Bắc đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trên các lĩnh vực hoạt động quân sự. Đó là cái vốn quý báu, một điều kiện rất thuận lợi để Việt Bắc vững vàng bước vào cuộc kháng chiến và trở thành chỗ dựa của cách mạng cả nước. Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 là sự kết tinh, một thành quả cao đẹp, chói lọi. Việt Bắc trong các giai đoạn tiếp theo của kháng chiến chống Pháp và trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là những bước kế tiếp truyền thống Cách mạng Tháng Tám và Thu - Đông 1947. Việt Bắc vì thế toả sáng, trở thành nguồn động viên nhân dân khắp mọi miền bền gan, vững bước, vượt lên khó khăn để giành thắng lợi, như nhà thơ Tố Hữu đã viết: "Ở đâu đau đớn giống nòi, Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền".


Sáu mươi năm đã trôi qua, chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 vẫn như mới hôm qua và luôn đầy ý nghĩa, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta. Vốn là "cái nôi" cách mạng, vừa bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Việt Bắc đã lập công đầu: bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến, giữ vững căn cứ địa, đã cùng quân và dân cả nước tiến lên giành thắng lợi cuối cùng.


Người Việt Bắc cũng như nhân dân cả nước luôn tự hào về truyền thống Việt Bắc Thu - Đông 1947, về chiến công lớn nhất trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #152 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2021, 02:04:48 pm »

TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG
CỦA NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC VIỆT BẮC


Thiếu tướng ĐINH THẾ HOÀ
Phó chính ủy Quân khu 1


Việt Bắc, tên gọi vùng đất thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số địa phương lân cận các tỉnh nói trên, đã trở thành thân quen với đồng bào cả nước. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Việt Bắc luôn giữ vị trí chiến lược quan trọng về cả chính trị và quân sự, là "phên giậu" của đất nước. Kẻ thù xâm lăng, đặc biệt là kẻ thù từ phương Bắc, luôn coi mảnh đất này là đột phá khẩu, làm bàn đạp để tiến hành các mưu đồ thôn tính nước ta. Chính nơi đây đã diễn ra những cuộc giao tranh quyết liệt chống giặc ngoại xâm. Với truyền thống anh dũng bất khuất, nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã cùng quân và dân cả nước làm nên những chiến thắng thần kỳ, góp phần lớn lao vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.


Việt Bắc, là quê hương của Cách mạng Tháng Tám, là "thủ đô" của cuộc kháng chiến trường kỳ và anh dũng 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược và là nơi hướng về của những người dân Việt Nam yêu nước "ở đâu đau đớn giống nòi, trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền".


Địa danh Việt Bắc, được hình thành và trở thành tên gọi thân quen, bắt đầu từ ngày Tổng bộ Việt Minh thực hiện ý định của lãnh tụ Hồ Chí Minh về thành lập Khu giải phóng Việt Bắc (4-6-1945). Khu giải phóng Việt Bắc, một nhà nước Việt Nam thu nhỏ, là thủ đô của cách mạng, là nơi đứng chân của cơ quan đầu não lãnh đạo cả nước trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám và tiến lên Tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân.


Vùng đất trời hùng vĩ này là nơi quy tụ, sinh sống, đoàn kết, gắn bó, thương yêu, giúp đỡ nhau của hơn 40 dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cũng chính nơi đây đã sản sinh ra biết bao những người con ưu tú, đại diện cho lớp lớp thế hệ con Lạc cháu Hồng, làm rạng danh cho non sông đất nước và con người Việt Nam.


Ngay từ thời vua Hùng dựng nước, nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã đoàn kết một lòng cùng nhau chống quân xâm lược phương Bắc. Với lợi thế địa hình thiên hiểm, cùng với tinh thần đoàn kết, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, nhân dân các dân tộc đã vận dụng nhiều hình thức chiến đấu chống lại quân xâm lược, khiến cho chúng tiến không được, thoái cũng không xong, cuối cùng phải chịu thất bại. Ngay buổi đầu của công nguyên, nhân dân Hà Bắc đã cùng Thục Phán đánh tan các mũi tiến công xâm lược của quân Triệu Đà trên núi Tiên Du, Vũ Ninh. Dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, các nữ tướng như Đào Nương, Thánh Thiên công chúa đã cùng dân chúng nổi dậy "công phá các châu, quận", giành lại các thành trì cho người Việt. Trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Tống, ải Chi Lăng, sông Như Nguyệt mãi mãi ghi dấu ấn đại bại của giặc ngoại xâm. Nùng Chí Cao, Dương Tự Minh, những người anh hùng áo chàm, đã làm cho quân Tống phải bại hoại về tinh thần. Lý Thường Kiệt - vị tướng kiệt xuất với nghệ thuật phòng thủ chủ động, đã làm cho quân Tống khiếp đảm. Thế kỷ thứ XIII, nhân dân các dân tộc, với lòng yêu nước nồng nàn, mưu trí, sáng tạo, đã cùng quân dân cả nước ba lần đánh tan quân Mông - Nguyên, đến nỗi tướng giặc Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để thoát thân. Sang thế kỷ thứ XV, nhân dân các dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Hoàng Thiện Hữu, Nguyễn Hách, Nông Văn Lịch, Lưu Nhân Chú, Bế Khắc Thiện, đã đứng lên khởi nghĩa đập tan ách đô hộ của Nhà Minh. Ải Chi Lăng, một lần nữa trở thành cửa tử của quân thù, nơi đây đã chôn vùi Liễu Thăng cùng hàng vạn thây quân xâm lược phương Bắc. Khi thực dân Pháp áp đặt ách thống trị trên núi rừng Việt Bắc, không cam chịu cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân các dân tộc đã liên tiếp đứng lên chiến đấu chống quân thù. Khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám (Bắc Giang), nghĩa quân Hoàng Đình Kinh (Lạng Sơn), nghĩa quân của Triệu Phúc Sinh, Lương Tuấn Tú (Cao Bằng), cuộc binh biến của Lý Bảo Long (Bắc Kạn), Trịnh Văn Cấn, Lương Ngọc Quyến (Thái Nguyên) là những tấm gương tiêu biểu cho ý chí quật cường của nhân dân các dân tộc Việt Bắc. Tuy chỉ mới có tinh thần yêu nước, chưa có đường lối cách mạng, nhưng nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã thể hiện sức mạnh to lớn và truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất vốn có của mình.


Truyền thống yêu nước và đấu tranh bất khuất, kiên cường của nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã trở thành một trong những cơ sở chủ yếu và thuận lợi cho sự tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đường lối cách mạng của Đảng. Những cuộc đấu tranh tự phát chống thực dân Pháp liên tiếp nổ ra ở khắp các tỉnh trước đây, đến khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, dần dần đã chuyền sang đấu tranh tự giác và ngày càng phát triển mạnh mẽ.


Năm 1927, đồng chí Hoàng Văn Thụ, một thanh niên người dân tộc Tày ở Lạng Sơn đã bí mật tổ chức nhóm thanh niên cách mạng ở Cao Bằng và Lạng Sơn để tuyển chọn đưa ra nước ngoài học tập và kết nạp vào "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội".


Ngay sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, tháng 4-1930, đồng chí Hoàng Đình Giong và một số đảng viên ở nước ngoài trở về đã tổ chức chi bộ Đảng đầu tiên ở Cao Bằng. Thời kỳ 1932-1935, mặc dù bị địch khủng bố gắt gao, phong trào quần chúng tạm thời lắng xuống, nhưng các địa phương ở Việt Bắc vẫn giữ được khí thế cách mạng. Các cơ sở Đảng vẫn tiếp tục được củng cố và phát triển mạnh tại một số phủ, huyện ở các tỉnh. Từ năm 1936 đến 1939, làn sóng đấu tranh của nhân dân các dân tộc Việt Bắc, từ miền núi, trung du tới đồng bằng liên tiếp dấy lên mạnh mẽ. Hơn năm trăm đồng bào các dân tộc Cao Bằng, đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống; hơn ba trăm công nhân khuân vác ở Phủ Lạng Thương đình công thắng lợi. Nông dân Bắc Sơn với khí thế mạnh mẽ đấu tranh chống bắt lính, bắt phu, buộc Pháp phải đổi tên tri châu đi nơi khác. Các làng bản ở Phú Thượng, Lâu Thượng, Võ Nhai (Thái Nguyên) lấy chữ ký đấu tranh đòi thả tù chính trị và ủng hộ phong trào bình dân, v.v.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #153 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2021, 02:08:37 pm »

Mùa Thu năm 1940, nhân thời cơ một bộ phận quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật đánh, rút chạy theo đường Bình Gia - Bắc Sơn về Thái Nguyên, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng địa phương, nhân dân Bắc Sơn nổi dậy đã tước vũ khí của tàn quân Pháp. Ngày 25-9-1940, một số cán bộ, đảng viên của ta thoát khỏi được nhà tù ở Lạng Sơn đã cùng chi bộ Bắc Sơn lập Ủy ban khởi nghĩa để phát động quần chúng vùng lên khởi nghĩa. 20 giờ ngày 27-9-1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, đội tự vệ cùng hơn sáu trăm quần chúng Bắc Sơn, được vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác, súng kíp, súng trường chiến lợi phẩm... tiến về châu lỵ Bắc Sơn. Quân khởi nghĩa chia thành ba cánh quân tiến đánh đồn Mỏ Nhài. Tên tri châu Bắc Sơn ra lệnh cho binh lính nổ súng kháng cự quyết liệt. Với khí thế tiến công, quân khởi nghĩa đã xốc tới, vừa bắn vừa kêu gọi binh lính địch trong đồn đầu hàng cách mạng. Tên tri châu và cả trung đội lính địch cùng bọn quan lại của các địa phương chạy Nhật trốn quân đang tụ tập ở đây phải tháo chạy tán loạn. Tri châu Thoát Lãng bị ta trừng trị. Quân khởi nghĩa chiếm đồn Mỏ Nhài, thu súng đạn. Tiếp sau đó, lực lượng tự vệ và quần chúng tiếp tục triệt phá đồn Bình Gia, Điềm He... Tin chiến thắng lan truyền tới đâu, thì hàng ngàn đồng bào nơi đó reo mừng, cầm dao, kiếm cùng nhau kéo về châu lỵ để hỗ trợ cho tự vệ và san bằng đồn bốt của địch tới đó. Tuy nhiên, sau đó, phát xít Nhật đã thoả hiệp với thực dân Pháp để cho Pháp rảnh tay đàn áp cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Quân Pháp đã tập trung lực lượng tổ chức đánh chiếm lại châu lỵ Bắc Sơn, điên cuồng trả thù, đốt phá làng bản, tàn sát nhân dân hòng dập tắt ý chí chống xâm lược của nhân dân các dân tộc.


Tiếng súng của khởi nghĩa Bắc Sơn đã báo hiệu một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam - thời kỳ đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã cổ vũ tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước và cùng với khởi nghĩa Nam Kỳ, báo hiệu một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ tiến lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Từ khởi nghĩa Bắc Sơn đã ra đời Đội du kích Bắc Sơn rồi phát triển thành Đội Cứu quốc quân thứ nhất. Mặc dù bị giặc khủng bố gắt gao, nhưng nhờ có sự ủng hộ, che chở của nhân dân, Cứu quốc quân không những không bị tiêu diệt mà còn phát triển lan sang các vùng khác để rồi lần lượt các đội Cứu quốc quân thứ hai và Cứu quốc quân thứ ba liên tiếp được hình thành.


Sau ba mươi năm đi tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã tìm hiểu, nghiên cứu kỹ về tình hình trong nước, đặc biệt là phong trào cách mạng ở Việt Bắc, quyết định chọn Cao Bằng làm nơi trở về để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Người nhận định: Cao Bằng có "địa - quân sự" tốt, là tỉnh có núi non trùng điệp, địa hình thiên hiểm "tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ", rất thuận lợi cho tác chiến du kích, lại tiếp giáp với Trung Quốc, tiện lợi cho việc liên lạc với quốc tế. Cao Bằng có ưu thế về "địa - chính trị", nhân dân các dân tộc Cao Bằng có lòng yêu nước nồng nàn, phong trào quần chúng đấu tranh cách mạng phát triển sâu rộng, là nơi sớm có chi bộ Đảng ngay từ năm 1930 và đang phát triển mạnh mẽ. Từ đây, Đảng có thể xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang trong căn cứ, bảo đảm bí mật, thuận tiện tác chiến, có thể phát triển về Thái Nguyên nối thông với các tỉnh ở duyên hải, đồng bằng và đi sâu vào vùng Thanh - Nghệ để vận động cách mạng và phát động đấu tranh vũ trang trên phạm vi cả nước.


Để chuẩn bị cán bộ nòng cốt cho cách mạng, cuối năm 1940, tai Ngàm Tảy, Nậm Quang, Tĩnh Tây (Trung Quốc), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và một số cán bộ lãnh đạo của Đảng đã tổ chức một lớp học về chính trị và quân sự cho hơn 40 thanh niên trung kiên được triệu tập từ trong nước.


Tại lán Khuổi Nặm, Pắc Bó (Cao Bằng), Hội nghị Trung ương lần thứ Tám của Đảng (5-1941) đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh và chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng kiểu mẫu rồi nhân rộng ra cả nước. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ Tám, tại Cao Bằng, công tác xây dựng căn cứ địa và xây dựng lực lượng cách mạng được tiến hành khẩn trương với tinh thần "Ở đâu có Việt minh là ở đó có tự vệ và các đội tự vệ chiến đấu”. Mỗi hội viên của Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc... đều là đội viên tự vệ và tự vệ chiến đấu. Từ đó, phong trào Việt Minh đã liên tục phát triển mạnh mẽ, lan rộng sang các tỉnh. Các châu, tổng và xã hoàn toàn Việt minh được hình thành. Những "Con đường quần chúng" từ Cao Bằng "Nam tiến" xuống Bắc Kạn; "Tây tiến” sang Hà Giang, Tuyên Quang; "Đông tiến" sang Lạng Sơn và từ Thái Nguyên "Bắc tiến" lên Bắc Kạn, Cao Bằng đã liên tục được tổ chức. Mặc dù bị địch khủng bố gắt gao, nhưng nhờ có lòng dân che chở, những "Con đường quần chúng” vẫn vươn dài, lan toả về khắp nơi, tạo thành hệ thống liên hoàn của phong trào Việt Minh, nối được liên lạc của Trung ương với hai miền xuôi, ngược. Phong trào cách mạng của Cao - Bắc - Lạng đã gắn với phong trào chung của cả nước. Phong trào Việt Minh phát triển rộng khắp từ các tỉnh miền núi thông suốt xuống miền xuôi và đi khắp cả nước. Nam phụ lão ấu ở khắp vùng quê nô nức tham gia Mặt trận Việt Minh.


Để chuẩn hi lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho khởi nghĩa giành chính quyền từng phần và tiến lên Tổng khởi nghĩa, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, một trong những đội quân chủ lực đầu tiên của quân đội ta. Ngày 22-12-1944, tại núi Slam Cao, rừng Trần Hưng Đạo, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đọc chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh và tuyên bố thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Đội gồm 34 cán bộ, chiến sĩ, hầu hết là những người con trung kiên của các dân tộc Việt Bắc (có 26 người ở Cao Bằng, 2 người ở Thái Nguyên, 1 người ở Lạng Sơn, 1 người ở Bắc Kạn, 4 người là dân tộc Kinh). Ngay sau khi thành lập, những người con ưu tú của núi rừng Việt Bắc đã lập nên chiến công Phai Khắt, Nà Ngần, tỏ rõ tiềm năng của một đội quân bách chiến bách thắng, mở đầu cho truyền thống anh hùng, quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang cách mạng đã bắt đầu hình thành ba thứ quân, trong đó Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, các đội Cứu quốc quân là chủ lực, và ngày 15-5-1945 đã thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Tại các địa phương, các châu có đội vũ trang của châu, các xã có đội tự vệ nửa vũ trang. Để đáp ứng yêu cầu tình thế cách mạng mới, lực lượng Việt Nam giải phóng quân đã tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh 13 đại đội Giải phóng quân chủ lực, ở các huyện, các tỉnh đều có các đội Giải phóng quân của địa phương. Các đơn vị Giải phóng quân đã phối hợp chặt chẽ với nhân dân địa phương, anh dũng chiến đấu chống Nhật, tiễu phỉ, trừ gian, bảo vệ căn cứ địa cách mạng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #154 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2021, 02:09:23 pm »

Thực hiện chủ trương khởi nghĩa từng phần, các đội Giải phóng quân ở các địa phương đã cùng nhân dân nổi dậy tiến đánh đồn bốt, giải phóng các châu lỵ, giành chính quyền về tay nhân dân. Các ban Việt Minh ở nhiều châu, tổng, xã đã ra công khai, bãi bỏ mọi sưu thuế cũ, chia công điền cho dân nghèo, ban bố quyền tự do dân chủ. Mọi người gặp nhau chào bằng đồng chí, thanh niên nô nức tòng quân.


Thực hiện chủ trương của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 4-6-1945, Tổng bộ Việt Minh tuyên bố thành lập Khu giải phóng Việt Bắc, đồng thời thành lập Ủy ban cách mạng lâm thời. Khu giải phóng Việt Bắc, một địa bàn chiến lược bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng lân cận gồm một bộ phận của bốn tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Với diện tích rộng trên bốn vạn cây số vuông và có hơn một triệu dân, Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn cứ địa cách mạng chủ yếu, là ngọn cờ cổ vũ, là niềm tin cho nhân dân cả nước trong cuộc vận động cách mạng, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới. Được sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, Khu giải phóng Việt Bắc được xây dựng mọi mặt về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá để làm căn cứ địa cách mạng cho cả nước.


Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc. Phát xít Đức đầu hàng Đồng minh. Đạo quân Quan Đông của Nhật đầu hàng Hồng quân Liên Xô. Khủng hoảng chính trị ở Đông Dương đã đến đỉnh điểm. Tình thế cách mạng ở Việt Nam đã xuất hiện, thời cơ Tổng khởi nghĩa đã đến. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, quân và dân cả nước đã nhất tề vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Các đội quân chủ lực từ khu căn cứ Việt Bắc đã tiến về giải phóng Thái Nguyên mở đường tiến về Hà Nội. Chỉ trong một thời gian ngắn, Tổng khởi nghĩa đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Ngay khi mới thành lập, chính quyền cách mạng non trẻ đã phải đối mặt với biết bao thử thách khó khăn, phức tạp, trước các họa giặc đói, giặc dốt và đặc biệt là giặc ngoại xâm. Nền độc lập, sau gần một thế kỷ đấu tranh mới giành được, đang đứng trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Quốc khố trống rỗng, việc bảo đảm duy trì bộ máy chính quyền các cấp hoạt động vô cùng khó khăn. Hưởng ứng phong trào Tuần lễ vàng, nhân dân các dân tộc Việt Bắc, mặc dù cuộc sống còn khó khăn gian khổ, nhưng đã không tiếc tiền của, đóng góp bằng mọi hình thức để ủng hộ chính quyền cách mạng. Nhiều gia đình đã bán cả trâu bò, ruộng vườn để ủng hộ chính quyền mà không hề suy tính thiệt hơn.


Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy đã rời Thủ đô Hà Nội chuyển lên Việt Bắc để lãnh đạo kháng chiến. Hàng chục nhà trường, công binh xưởng, nhà máy, xí nghiệp cùng hàng vạn tấn máy móc thiết bị, nguyên vật liệu được cấp tốc chuyển lên Việt Bắc bằng nhiều con đường để đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ kháng chiến lâu dài. Một lần nữa, Việt Bắc lại được vinh dự đảm trách sứ mệnh lịch sử của dân tộc là "Thủ đô kháng chiến". Với tấm lòng "thương nhau chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng", đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã đón nhận và cưu mang gần 63 ngàn người từ Thủ đô Hà Nội và các tỉnh miền xuôi lên tản cư và tham gia kháng chiến. Cuộc sống tuy khó khăn vất vả, nhưng chan hoà tình thân ái, thám tình đoàn kết miền ngược, miền xuôi. Sống trong sự đùm bọc yêu thương của đồng bào các dân tộc Việt Bắc, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vững niềm tin vào sự thắng lợi của công cuộc kháng chiến; trong thư gửi đồng bào các tỉnh Cao - Bắc - Lạng (2-9-1947). Bác đã viết: "Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi”.


Thu - Đông năm 1947, thực dân Pháp mở cuộc hành binh chiến lược, với 12.000 quân bất ngờ tiến công lên Việt Bắc, với mưu đồ hòng chụp bắt cơ quan đầu não của kháng chiến và Chính phủ Hồ Chí Minh để kết thúc chiến tranh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và chỉ đạo của Bộ Tổng chỉ huy, thực hiện khẩu hiệu: Mỗi người dân là một người lính, quân và dân Việt Bắc đã sát cánh bên nhau, dựa vào địa hình thiên hiểm, giành lại thế chủ động, phát động "quần chúng chiến tranh" rộng khắp, đẩy mạnh chiến tranh du kích, càng đánh càng mạnh, góp phần đánh bại chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối cơ quan Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng chỉ huy.


Những trận đánh trên Mặt trận Đường số 3, Đường số 4 và Mặt trận Sông Lô đã trở thành nỗi kinh hoàng của thực dân Pháp. Trong những chiến công này, sự đóng góp của nhân dân các dân tộc Việt Bắc là vô cùng lớn lao, từ tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, làm hậu phương tiếp tế đến cứu chữa, nuôi dưỡng thương, bệnh binh, đều do bà con các bản làng gần nơi trận tuyên lo liệu. Không những thanh niên nam nữ tích cực giúp đỡ bộ đội đánh giặc, các cụ già dù tuổi đã cao vẫn hăng hái thi đua diệt giặc lập công. Các cụ lão du kích ở Trùng Khánh, Cao Bằng đã anh dũng, kiên cường chiến đấu ngăn chặn địch, bảo vệ làng bản. Chủ tịch Hồ Chí Minh làm thơ khen ngợi: "Tuổi cao chí khí càng cao/Múa gươm giết giặc ào ào gió thu/Sẵn sàng tiêu diệt quân thù/Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng".


Sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, nhân dân các dân tộc Việt Bắc càng vững tin vào sự thắng lợi của công cuộc kháng chiến. Con em các dân tộc đã không quản hy sinh gian khổ, xung phong tòng quân ra chiến trường diệt giặc lập công. Tại Việt Bắc, nhờ có lực lượng thanh niên hùng hậu bổ sung, các đơn vị địa phương được phát triển thành các đơn vị chủ lực, các binh đoàn chủ lực của quân đội và các binh chủng lần lượt được xây dựng, chiến đấu, rèn luyện và trưởng thành. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ và anh dũng của dân tộc, Việt Bắc đã trở thành một mặt trận quan trọng của chiến trường chính Bắc Bộ, là nơi đọ sức quyết liệt và đánh bại các binh đoàn chủ lực, tinh nhuệ của quân xâm lược Pháp, góp phần tích cực làm chuyển cục diện của cuộc kháng chiến. Địa bàn Việt Bắc là nơi quân và dân ta liên tục mở các chiến dịch, trong đó có cả chiến dịch làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Trung Quốc và chiến dịch mang ý nghĩa chiến lược, đánh đòn tiêu diệt các cứ điểm lớn trong phòng tuyến biên giới Đông Bắc của địch, mở toang cánh cửa biên giới, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn. Việt Bắc cũng là nơi các binh đoàn chủ lực chuẩn bị và xuất phát những trận đánh lớn, đặc biệt là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ và anh dũng của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #155 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2021, 02:09:53 pm »

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân Việt Bắc đã đánh 5.538 trận, diệt 58.174 tên địch, làm bị thương 7.147 tên, bắt 5.104 tên, gọi hàng 5.776 tên, thu 16 đại bác, 79 trọng liên, 92 đại liên, hàng nghìn súng bộ binh, bắn cháy và phá hủy 1.109 xe quân sự các loại, 47 máy bay, 39 ca nô, 35 đầu máy xe lửa. Nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã đóng góp 379.447 lượt nhân công phục vụ các chiến dịch, huy động 30.840 tấn lương thực, thực phẩm cho kháng chiến. Trong các chiến dịch lớn, Việt Bắc đã huy động tới một phần hai dân số vừa trực tiếp chiến đấu vừa tham gia tải thương, tải đạn, vận chuyển lương thực phục vụ chiến trường. Riêng Chiến dịch Biên Giới năm 1950, Việt Bắc đã huy động tới 121.700 lượt người đi dân công, tham gia 1.716.000 ngày công phục vụ chiến đấu. Cao Bằng huy động hàng vạn lượt người, trong đó có 10 ngàn người bám sát bộ đội trong suốt thời gian chiến dịch. Lạng Sơn huy động hơn 714.000 lượt người đi dân công hỏa tuyến. Các địa phương khác gửi hàng ngàn cán bộ và dân công tới tham gia sửa chữa hàng trăm ki-lô-mét đường, vận chuyển hơn 2.000 tấn lương thực, thực phẩm, 190 tấn đạn, cứu chữa 1.550 thương binh, vận chuyển về tuyến sau hơn 3.000 tấn chiến lợi phẩm, trong đó có 600 tấn vũ khí, 1.000 tấn lương thực, gần 1.000 tấn quân trang quân dụng. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Việt Bắc đã huy động 36.519 dân công hỏa tuyến, 4.680 tấn gạo, 118 tấn thịt, 800 tấn rau quả chi viện kịp thời cho bộ đội ngoài trận tuyến.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, theo lời Đảng gọi: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì miền Nam thân yêu, nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã anh dũng chiến đấu bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa; tích cực thi đua lao động sản xuất, làm ra nhiều của cải để cung cấp cho tiền tuyến đánh Mỹ. Lớp lớp thanh niên nam nữ các dân tộc Việt Bắc - hậu phương của hậu phương lớn miền Bắc - đã hăng hái lên đường nhập ngũ, ra tiền tuyến giết giặc lập công. Chỉ tính riêng các tỉnh trong địa bàn Quân khu 1 đã huy động 341.999 thanh niên nhập ngũ, đưa vào miền Nam chiến đấu một lực lượng tương đương 16 sư đoàn bộ binh, bao gồm: 4 trung đoàn, 252 tiểu đoàn, 13 đại đội, 4 phân đội đặc biệt, 3 phân đội bắn tỉa, 7 lớp lái xe, 2 đội quân y. Cùng với quân dân cả nước, những người con của núi rừng Việt Bắc đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng trên các mặt trận. Nhiều đồng chí đã lập công xuất sắc, 70 đồng chí và 16 đơn vị đã được Quốc hội và Chính phủ tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều đồng chí trở thành các tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp của quân đội. Trong lớp lớp những người con của Việt Bắc trên chiến trường đánh Mỹ, nhiều người đã hy sinh, nhiều người để lại một phần máu thịt của mình trên chiến trường vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Để chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ hậu phương, quân và dân Việt Bắc đã đào 3.938km hào giao thông, làm 8.056.277 hầm hố trú ẩn, huy động 19 triệu ngày công làm hầm, hào; 399.269 công phục vụ chiến đấu, 76.196 công sửa chữa sân bay, 40.000 công khắc phục hậu quả chiến tranh; khôi phục 101.903m đường sắt, 10.387m đường bộ, 294 chiếc cầu đường sắt, cầu đường bộ, làm 168 lần chiếc cầu phao, cầu tạm, làm mới 95 bến phà, làm đường 2.096km vòng tránh liên tỉnh, liên huyện; chuyển tải qua trọng điểm Lạng Sơn, Việt Trì hàng triệu tấn hàng hoá, vũ khí, đạn dược.


Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của không quân Mỹ, quân và dân Việt Bắc cùng các lực lượng của Bộ đã bắn rơi 311 máy bay Mỹ trên địa bàn Việt Bắc. Riêng quân và dân Việt Bắc đã bắn rơi 51 chiếc, rà phá 802.722 quả bom các loại. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, quân và dân Việt Bắc đã bắn rơi 18 trong tổng số 74 chiếc bị bắn rơi trên địa bàn Quân khu, trong đó có 2 pháo đài bay B.52 bị pháo 100mm của Quân khu bắn hạ và máy bay F.111 bị súng bộ binh của dân quân nữ bắn rơi.


Với tinh thần cảnh giác cách mạng, đoàn kết chiến đấu bảo vệ hậu phương, quân và dân Việt Bắc đã kịp thời tiêu diệt và bắt gọn các toán biệt kích của địch tung ra Việt Bắc: tiêu diệt 7 tên, bắt 48 tên, bắn cháy 1 máy bay, thu nhiều vũ khí và trang bị của 9 toán biệt kích nhảy dù xuống địa bàn Việt Bắc.


Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đấu tranh thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam toàn thắng, quân và dân Việt Bắc cùng nhân dân cả nước phấn khởi xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy những thành quả sức mạnh của đoàn kết các dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Quân và dân Việt Bắc đã khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, củng cố, khôi phục kinh tế, giải quyết chính sách hậu phương, điều chỉnh lực lượng, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Khi cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra (17-2-1979), quân và dân Quân khu 1 đã đoàn kết, dũng cảm chiến đấu, ngăn chặn, đẩy lùi hàng trăm đợt tiến công của hơn 6 quân đoàn đối phương có xe tăng, đại bác. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc, 21 đơn vị và 14 cá nhân đã được Quốc hội và Chính phủ tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, quân và dân Việt Bắc luôn phát huy truyền thống quý báu "Yêu nước và cách mạng", một lòng đoàn kết xung quanh Đảng, trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa, quyết tâm cùng với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong tình hình hiện nay, trước những vận hội và thách thức, quân và dân Quân khu 1 luôn đoàn kết một lòng, khắc phục mọi khó khăn, từng bước đi lên, phát triển kinh tế xã hội, làm cho quê hương Việt Bắc ngày một giàu đẹp và xây dựng các địa phương thành khu vực phòng thủ vững chắc, bảo đảm đủ sức làm thất bại âm mưu "diễn biến hoà bỉnh", bạo loạn lật đổ của kẻ thù, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế Quốc và các thế lực phản động quốc tế trên địa bàn lãnh thổ đảm nhiệm, xứng đáng với lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "...để giữ lấy địa vị và cái danh giá vẻ vang của mình”.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #156 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2021, 02:11:36 pm »

BẢO VỆ AN TOÀN CƠ QUAN ĐẦU NÃO KHÁNG CHIẾN - THẮNG LỢI QUẠNTRỌNG CỦA CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Đại tá,TS. NGUYỄN XUÂN NĂNG
Trưởng phòng Quản lý Khoa học, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cách đây vừa tròn 60 năm, tại căn cứ địa Việt Bắc, quân và dân ta đã lập nên một "kỳ tích" đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn, làm phá sản chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang một giai đoạn mới. Một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong thắng lợi này là ta đã bảo vệ vững chắc căn cứ địa và cơ quan đầu não kháng chiến.


Thật vậy, khi mở cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc - căn cứ địa của cuộc kháng chiến, thực dân Pháp chủ trương tập trung sức mạnh tối đa với khoảng 12.000 quân (5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 800 xe cơ giới, 40 máy bay, 40 tàu chiến và ca nô...) kết hợp tiến công bằng cả đường không, đường bộ và đường thủy, nhằm "diệt và bắt cơ quan đầu não của Việt Minh; tiêu diệt chủ lực, phá tan cằn cứ địa Việt Bắc, bịt kín biên giới, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc và loại trừ mọi chi viện từ ngoài vào, truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ"1 (Hồi ký Xa-lăng, Nxb Presses de la cité, Paris, 1971, Tập 2, tr. 58 (bản dịch)).


Đây không phải là lần đầu tiên Pháp đưa ra kế hoạch "chụp bắt cơ quan lãnh đạo kháng chiến" nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Từ trước ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), thực dân Pháp đã có âm mưu đánh úp và bắt gọn Chính phủ ta tại thủ đô Hà Nội. Song ta đã biết được ý đồ của chúng và đã nổ súng trước, mở đầu kháng chiến ngay tại thủ đô Hà Nội, làm cho chúng không kịp trở tay. Cuối tháng 2 đầu tháng 3-1947, phán đoán cơ quan lãnh đạo kháng chiến của ta đang ở khu vực Tây Nam Hà Đông, thực dân Pháp đã mở các cuộc hành binh, lùng sục hòng "cất vó", song chúng đều thất bại.


Cuộc tiến công lên Việt Bắc lần này của thực dân Pháp được tiến hành bài bản và tính toán rất kỹ. Bộ chỉ huy Pháp đánh giá kế hoạch tiến công Việt Bắc là một kế hoạch hoàn hảo. Tổng chỉ huy Va-luy (Valluy), người nêu ra ý tưởng phê chuẩn kế hoạch do Xa-lăng (Salan) vạch ra, khẳng định: đây là "ván bài cuối cùng", là "đòn bất ngờ thọc thắng vào tim quân thù”. Còn tướng Xa-lăng, người chỉ huy trực tiếp cuộc tiến công, thì chủ quan cho rằng: "Chỉ cần 3 tuần lễ để đập tan đầu não của Việt Minh"2 (Y-vơ Gra, Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương, Nxb Plong, Pari, 1979, tr. 185 (bản dịch)).


Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cuộc tiến công chiến lược lên Việt Bắc "là cuộc tiến công mang nhiều tham vọng nhất của Pháp trong suốt, quá trình chiến tranh xâm lược Đông Dương ngoài kế hoạch Na-va sau này nhằm kết thúc chiến tranh trong danh dự"1 (Võ Nguyên Giáp, Chiến thắng Việt Bắc đã đánh bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của đế quốc Pháp, Kỷ yếu hội thảo "Bắc Kạn với chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947", Tỉnh ủy Bắc Kạn - Bộ tư lệnh Quân khu 1, xuất bản 1997, tr. 6, 7). Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi theo Va-luy, xã hội Việt Nam có cấu trúc hình tháp, được cố kết bằng một ý thức hệ, được lãnh đạo chặt chẽ từ bên trong, vì thế muốn tái chiếm Việt Nam, trước hết, phải "đập nát cái đầu" Việt Minh. Vấn đề là cái đầu đó nằm ở đâu? Qua các tài liệu tình báo nắm được, Xa-lăng cho rằng, trung tâm căn cứ kháng chiến là khu tứ giác Chợ Chu - Tuyên Quang - Chiêm Hoá - Chợ Rã, trong đó Bắc Kạn được xác định là trung tâm. Điều này giải thích vì sao trong kế hoạch gồm 4 điểm mà Xa-lăng đã hoàn tất, thì điểm đầu tiên là: dùng quân dù thiện chiến nhảy thang xuống thị xã Bắc Kạn để thực thi nhiệm vụ "bắt gọn chính phủ kháng chiến".


Bắc Kạn là một tỉnh có vị trí khá đặc biệt trong 6 tỉnh Việt Bắc (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) bởi nó nằm ở vị trí trọng tâm, có địa hình hiểm trở, có quốc lộ số 3 chạy qua, nối Cao Bằng với Thái Nguyên và Hà Nội. Đây là "then chốt của con đường thượng du". Chính vì vậy, một số huyện của Bắc Kạn được Trung ương Đảng chọn là một trong những nơi để xây dựng An toàn khu (nơi đứng chân của các cơ quan đầu não kháng chiến). Song, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: "Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, không khi nào có một cơ quan Trung ương của ta ở tại bất kỳ một thị xã, thị trấn nào. Tất cả đều chia thành những bộ phận nhỏ, thường xuyên di chuyển, hoà với nhân dân ở những bản hẻo lánh, được sự che chở của nhân dân, khiến địch khó có thể phát hiện, trong khi vẫn duy trì mọi hoạt động lãnh đạo điều hành cuộc kháng chiến trên cả nước"1 (Võ Nguyên Giáp, Chiến thắng Việt Bắc đã đánh bại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của đế quốc Pháp, Kỷ yếu hội thảo "Bắc Kạn với chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947", Tỉnh ủy Bắc Kạn - Bộ tư lệnh Quân khu 1, xuất bản 1997, tr. 6, 7). Bởi lẽ đó, việc chọn Bắc Kạn làm mục tiêu chủ yếu của cuộc tiến công lên Việt Bắc, theo tính toán của Xa-lăng chưa hẳn đã chính xác. Mặt khác, từ rất sớm, Đảng ta đã phán đoán được ý đồ của thực dân Pháp. Tại Hội nghị quân sự toàn quốc (6-1947), Đảng ta đã nhận định: "Khởi những cuộc tiến công lớn để chiếm những vị trí chiến lược còn ở trong tay ta, hoặc sẽ quét sạch miền châu thổ Bắc Bộ, hoặc để khống chế miền Thanh Nghệ hay Nam Ngãi, chúng cũng có thể mưu đồ cuộc đại tiến công vào Việt Bắc"2 (Văn kiện quân sự của Đảng, Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 150, 208, 245, 246, 247) nhằm mục đích tiêu diệt chủ lực và phá cơ quan đầu não kháng chiến của ta.


Từ nhận định này, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị phải "Tích cực chuẩn bị chiến dịch mùa Đông... chống các cuộc quân địch đánh xuyên mũi dùi, đánh vòng thật rộng, nhảy dù đổ bộ sau lưng ta"3 (Văn kiện quân sự của Đảng, Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 150, 208, 245, 246, 247).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #157 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2021, 02:12:59 pm »

Ngày 7-10-1947, khi thực dân Pháp cho một bộ phận nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới, đồng thời cho quân tiến theo đường bộ bắt đầu cuộc tiến công căn cứ địa Việt Bắc, thì ngay tối hôm đó, Thường vụ Trung ương Đảng điện cho các Khu ủy, "chỉ huy bộ đội đánh mạnh để chia rẽ lực lượng địch và phá kế hoạch của chúng"4 (Văn kiện quân sự của Đảng, Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 150, 208, 245, 246, 247).


Ngày 8-10 Bộ Tổng chỉ huy ra Nhật lệnh kêu gọi bộ đội và dân quân chiến đấu phá tan cuộc tiến công mùa Đông của địch và Quân lệnh diệt địch bảo vệ căn cứ.


Ngày 9-10, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cần kíp cho lãnh đạo tỉnh Bắc Kạn kịp thời đánh địch bảo vệ nhân dân, bảo vệ cơ quan, kho tàng. Chỉ thị nêu rõ: ''chúng ta có ba điều kiện để thắng: Thiên thời, địa lợi, nhăn hòa. Điều cần thiết là chúng ta biết lợi dụng triệt để những điều kiện ấy để giành lấy thắng lợi"1 (Văn kiện quân sự của Đảng, Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 150, 208, 245, 246, 247). Tiếp sau chỉ thị này, khi đã nắm chắc ý đồ cuộc tiến công của Pháp, Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị tiếp "Phải phá cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp" và nhấn mạnh: "Phải làm cho địch thiệt hại nặng nề không gượng lại được sau chiến dịch mùa Đông này". Phương hướng hành động là: ''Giam chân địch tại mấy căn cứ chúng vừa chiếm, bao vây những căn cứ đó... Triệt để làm vườn không, nhà trống xung quanh chỗ địch chiếm đóng... Chặt đứt giao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế... Phải giữ gìn chủ lực, nhưng đồng thời cũng phải nhằm những chỗ yếu của địch mà đánh những trận vang dội, những trận tiêu diệt... Bắt địch chuyển sang thế phòng thủ".


Với sự chỉ đạo chặt chẽ và kịp thời của Trung ương, sự năng động, nhạy bén của các địa phương, trên các hướng, quân Pháp đều bị chặn đánh quyết liệt.


Tại Bắc Kạn, ngay trong ngày đầu tiên khi quân Pháp nhảy dù xuống thị xã nhằm chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến của ta, chúng đã bị học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn tiến công diệt gọn một toán khi vừa chạm đất. Cùng đánh địch với Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, Tiểu đoàn 49 tân binh cũng liên tục đột kích vào các vị trí địch trong thị xã.


Thị trấn Chợ Mới (huyện Bạch Thông) cũng là nơi địch đổ quân xuống rất sớm (chiều ngày 7-10). Ngay sau đó, chúng tổ chức càn quét, cướp phá kho tàng, xí nghiệp của ta đóng tại đây. Ngày 9-10, bộ đội cùng du kích xã Yên Định tổ chức đánh chặn, buộc địch phải rút quân. Trong các ngày 12 và 13-10, du kích Chợ Mới và các xã Yên Định, Cao Kỳ, Hoà Mục tổ chức phục kích tại nhiều vị trí hiểm yếu trên quốc lộ 3. Đáng chú ý là trận phục kích của du kích xã Cao Kỳ diệt 3 xe ô tô, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên địch.


Vừa đánh địch ta vừa khẩn trương di chuyển các cơ quan, công xưởng, kho tàng ở Bản Thi, Đầm Hồng, Chợ Rã... về nơi an toàn. Cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ di chuyển sang khu vực Chợ Đồn, sau đó chuyển sang Tràng Xá, Võ Nhai.


Hướng Thái Nguyên, Tuyên Quang, bộ đội cùng du kích địa phương cũng chặn đánh quyết liệt các cánh quân địch, không cho chúng thực hiện kế hoạch như đã định.


Cho đến cuối tháng 11-1947, cuộc tiến công của Pháp lên Việt Bắc không đạt kết quả gì đáng kể. Chúng còn bị bộ đội và du kích ta tiêu hao. Chính phủ kháng chiến mà chúng cho là đóng ở Bắc Kạn cũng không tìm thấy ở đâu. Công bằng mà nói, trong cuộc đổ quân bất ngờ, quân dù của tướng Xa-lăng cũng đã nhảy xuống đúng một địa điểm mà Chính phủ ta đã đứng chân và chúng đã bắt được cụ Nguyễn Văn Tố - Bộ trưởng không bộ, nguyên Trưởng ban (Chủ tịch) thường trực Quốc hội và một chuyện nực cười đã xảy ra ngay trong ngày đầu tiên của cuộc hành binh, khi Xa-lăng đang ngồi trên chiếc máy bay loại nhẹ của hải quân đế trực tiếp theo dõi, đôn đốc cuộc hành quân, thì nhận được điện "đã tóm được Chính phủ Việt Minh và Chủ tịch Hô Chí Minh”. Lập tức Xa-lăng báo tin vui này cho Cao ủy Bô-la (Bollaert). Nhưng ngay sau đó, Xa-lăng lại phải "xin lỗi" vì "chúng tôi đã bị lừa" như chính Xa-lăng thừa nhận trong hồi ký của mình.


Sau thất bại ở Bắc Kạn, địch chuyên hướng tiến công bằng cuộc hành quân Xanh-tuya (nghĩa là vành đai) nhằm tiếp tục "lùng bắt kỳ được cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt chủ lực Việt Minh, phá nát căn cứ địa”. Hướng càn quét chủ yếu của địch trong cuộc hành quân này là Thái Nguyên, bởi theo chúng, cơ quan Trung ương của ta đóng ở khu vực núi đá Đình Cả.


Ngày 26-11-1947, cánh quân của Bô-phơ-rê (Beaufpre) được rút khỏi Chợ Chu về đóng tại khu vực xung quanh Thái Nguyên như Cù Vân, Làng Ngò (Đại Từ), La Hiên, Tràng Xá (Võ Nhai) để truy lùng cơ quan đầu não kháng chiến của ta.


Lúc này, các cơ quan Trung ương và Chính phủ ta đã từ Tràng Xá (Võ Nhai) vượt qua vòng vây của địch, qua đèo Khuổi Tát - Núi Hồng, về Tân Trào (Tuyên Quang), sang khu an toàn ở Định Hoá (Thái Nguyên). Bộ Tổng chỉ huy chuyển về vùng Lục Rã - phía Bắc huyện Đại Từ (Thái Nguyên), kịp thời chỉ huy các mặt trận đánh địch.


Nắm chắc động thái mới, phán đoán đúng ý đồ của địch, Bộ Tổng chỉ huy ra lệnh cho các mặt trận bố trí lại lực lượng, bám sát các hoạt động của chúng, sẵn sàng tiêu diệt địch khi có thời cơ, đồng thời phát động rộng rãi phong trào toàn dân đánh giặc, khiến cho các cánh quân Pháp đi đến đâu cũng bị đánh.


Ngày 26-11, địch thả 2 tiểu đoàn dù xuống La Hiên, Tràng Xá (Võ Nhai) và Cù Vân, Làng Ngò (Đại Từ) để đón quân của Bô-phơ-rê rút lui, phối hợp lùng sục cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Một đại đội thuộc Trung đoàn 121, đang đóng ở thị xã Thái Nguyên, lập tức được điều lên Làng Ngò diệt địch. Tiểu đoàn 19 cũng tổ chức hai đại đội chặn địch từ Làng Ngò lên Phú Lương.


Ngày 27-11, một bộ phận lính dù từ Võ Nhai kéo sang Mỏ Trạng (Yên Thế) để bắt liên lạc với cánh quân của Cô-xtơ (Coste) từ Phả Lại lên cứu nguy cho đồng bọn. Bộ đội và du kích Võ Nhai đã phối hợp với Tiểu đoàn 80 liên tục tập kích, phục kích diệt 159 tên1 (Việt Bắc - 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 133). Không bắt được liên lạc với quân của Cô-xtơ (cánh quân này ngày 30-11 mới đến được Mỏ Trạng), quân của Bô-phơ-rê bí mật luồn rừng về Quảng Nạp (Đại Từ). Ngày 28-11, chúng bị Tiểu đoàn 103, do đồng chí Vũ Lăng chỉ huy, đánh diệt 30 tên khi chúng vừa đặt chân đến Quảng Nạp. Cùng thời gian này, đại đội du kích, Cam Tre (nay là Cam Giá) vận động phục kích diệt và làm bị thương hàng chục tên.


Ngày 30-11, một đại đội lính lê dương càn vào Lục Rã (gần nơi đóng quân của Bộ Tổng chỉ huy), chúng bị bộ đội ta đánh thiệt hại nặng. Số còn lại chạy về Phú Minh, nơi quân Pháp dồn về rất đông. Ngày 1-12, Đại đội 2 (Trung đoàn 147) tổ chức tiến công vào đội hình địch đóng ở Bình Thành, loại khỏi vòng chiến đấu 100 tên. Đây là một trong những trận thắng lớn trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947. Bị thất bại nặng nề, Bô-phơ-rê không dám tiếp tục mở rộng địa bàn càn quét mà cho quân lui về Phú Minh, Đại Từ, Phục Linh để từ đó tổ chức tìm kiếm cơ quan đầu não kháng chiến của ta, nhưng chúng bị đánh thiệt hại nặng ở Độc Lập, Bản Ngoại, Yên Dã, Phục Linh và nhiều nơi khác.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #158 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2021, 02:13:50 pm »


Quân Pháp phải rút khỏi Định Hoá, (6-12) Võ Nhai (7-12). Một lần nữa, thực dân Pháp lại thất bại trong việc truy lùng cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Cuộc hành quân Xanh-tuya (Vành đai) nhằm siết chặt vòng vây hòng bóp chết bộ máy chỉ đạo kháng chiến của ta, không những quân Pháp không "siết’' được, ngược lại chiếc vòng này còn bị "cắt" vụn thành nhiều khúc.


Đến đây, với sự đoàn kết phối hợp chiến đấu chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc Việt Bắc, ta đã đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp lên vùng căn cứ địa kháng chiến, đập tan âm mưu chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến của ta để sớm kết thúc chiến tranh của thực dân Pháp.


Việc bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 không những là một thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, nó còn để lại cho ta những bài học kinh nghiệm quý giá.


Thứ nhất, để bảo vệ căn cứ và cơ quan đầu não kháng chiến, phải nắm chắc âm mưu, thủ đoạn, kế hoạch hành động của đối phương, có phương sách đối phó kịp thời, hiệu quả.


Châm ngôn Việt Nam có câu "hiểu địch, hiểu ta trăm trận trăm thắng". Bất kỳ một cuộc chiến tranh hay cuộc xung đột nào, hai bên đều phải tìm hiểu rất kỹ về nhau từ mục tiêu, chủ trương, biện pháp, thực lực, thủ đoạn, thậm chí cụ thể đến từng bước kế hoạch hành động để đạt mục tiêu. Cuộc tiến công lên Việt Bắc của thực dân Pháp, cũng như cuộc phản công của ta đánh bại cuộc tiến công đó cũng vậy. Vấn đề là mỗi bên nắm được về nhau đến đâu và có phương án để thực hiện hay đối phó nhau như thế nào? Có đúng với thực tiễn sẽ xảy ra hay không?


Thực tế đã chứng minh, thực dân Pháp không phải không nắm được ở một mức độ nhất định, nơi cơ quan đầu não kháng chiến của ta đứng chân. Trong cả hai cuộc hành quân Lê-a và Xanh-tuya, chúng đã xác định và đưa quân đến được khu vực một số cơ quan Trung ương của ta đóng. Song quân Pháp lại không nắm và không thể nào hình dung nổi thế trận chiến tranh nhân dân mà ta đã tạo ra, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: "không khi nào có một cơ quan Trung ương của ta ở tại bất kỳ một thị xã, thị trấn nào. Tất cả đã chia thành những bộ phận nhỏ thường xuyên di chuyển hoà với nhân dân ở những bản làng hẻo lánh được sự che chở của nhân dân, khiến địch khó có thể phát hiện". Ngược lại, ta nắm tương đối chắc âm mưu, thủ đoạn và kế hoạch hành binh của thực dân Pháp, đề ra chủ trương, biện pháp đối phó hiệu quả, kịp thời trong từng thời điểm, ở từng mũi, từng hướng, khiến địch ’’không biết đường nào mà lần”, phải chịu thất bại, phải rút quân khỏi chính nơi mà chúng đặt mục tiêu phải diệt bằng được. Đương nhiên, cũng có lúc ta nắm chưa thật sát hành động cụ thể của các cánh quân, nên có bất ngờ, lúng túng, nhưng ngay sau đó, ta đã kịp thời điều chỉnh, khẩn trương tổ chức lực lượng đánh địch giành lại thế chủ động.


Thứ hai, phải xây dựng được chỗ đứng chân cho cơ quan đầu não kháng chiến vững chắc về mọi mặt.

Trong chiến tranh, chiến sự có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào, nhất là nơi cơ quan đầu não chỉ đạo điều hành chiến tranh đứng chân, đó thường là mục tiêu tấn công hàng đầu của đối phương. Vì vậy, muốn bảo vệ được cơ quan đầu não kháng chiến, chúng ta phải xây dựng được chỗ đứng chân thật vững chắc về mọi mặt.


Vấn đề xây dựng căn cứ địa và nơi cơ quan đầu não kháng chiến đứng chân được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Nhận thấy Việt Bắc - một địa bàn chiến lược quan trọng, nơi hội tụ đầy đủ các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, nên ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Phạm Văn Đồng cùng một số cán bộ ở lại một thời gian để củng cố khu giải phóng. Tháng 10-1946, đồng chí Nguyễn Lương Bằng, sau đó là đồng chí Trần Đăng Ninh, cũng được Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh phái lên Việt Bắc để khảo sát, nghiên cứu chọn địa điểm an toàn đặt cơ quan Trung ương đứng chân.


Đầu năm 1947, cuộc tổng di chuyển hoàn thành, hầu hết các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng chỉ huy... đã có mặt ở căn cứ địa Việt Bắc. Lúc này, công tác xây dựng, củng cố căn cứ địa, nhất là an toàn khu được đẩy mạnh hơn. Khi thực dân Pháp tiến công lên Việt Bắc trong kế hoạch tác chiến chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 của Bộ Tổng chỉ huy, bên cạnh nội dung tập trung lực lượng đánh địch, Bộ Tổng chỉ huy xác định phải củng cố căn cứ Chợ Đồn (Bắc Kạn), Chợ Chu (Thái Nguyên), Sơn Dương (Tuyên Quang) tạo thành Khu an toàn (An toàn khu) cho Trung ương Đảng, Chính phủ, chuẩn bị căn cứ Võ Nhai, Đình Cả, Tràng Xá để khi cần sẽ chuyển sang đó, tránh những mũi dùi tiến công của địch.


Các An toàn khu này được xây dựng vững chắc cả chính trị, quân sự, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục... Đặc biệt, công tác phòng gian, giữ bí mật được xác định là nguyên tắc hàng đầu để bảo đảm an toàn tuyệt đối nơi cơ quan đầu não đứng chân.


Với việc xây dựng và chuẩn bị sẵn các An toàn khu như vậy, khi địch tiến công, cơ quan đã khéo léo di chuyển vượt qua vòng vây của địch đến vị trí mới an toàn, khiến địch không có cách gì vây bắt được.


Thứ ba, phải tổ chức xây dựng lực lượng mạnh, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, đẩy lùi các cuộc tiến công của địch vào căn cứ địa - An toàn khu Trung ương.

An toàn khu Trung ương cho dù đã được chọn lựa khá kỹ lưỡng địa điểm đứng chân, với đầy đủ các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hoà", song đây là nơi tập trung cơ quan đầu não kháng chiến, nên nó luôn bị kẻ thù tìm mọi cách tiến công, tiêu diệt. Vì vậy, muốn bảo vệ an toàn căn cứ của Trung ương, ngoài lực lượng chiến đấu bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc nói chung, cần phải tổ chức xây dựng lực lượng bảo vệ An toàn khu đủ mạnh, có thể chiến đấu đẩy lùi các cuộc tiến công của địch vào nơi đứng chân của cơ quan đầu não kháng chiến. Điều này được Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm. Từ đầu 1947, cùng lúc với việc hình thành và di chuyển các cơ quan Trung ương lên An toàn khu trong căn cứ điạ Việt Bắc, đơn vị cảnh vệ làm nhiệm vụ bảo vệ nơi đứng chân của các cơ quan Trung ương cũng được thành lập mang tên Đại đội 15. Đại đội gồm 145 cán bộ chiến sĩ. Đại đội này sau phát triển thành trung đoàn. Lực lượng này đã nhiều lần phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích trên địa bàn đóng quân chiến đấu, đẩy lùi các cuộc càn quét của địch vào An toàn khu.


Không chỉ có lực lượng cảnh vệ, tham gia chiến đấu bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến còn có công an - lực lượng bảo vệ có hiệu quả ở khu vực vòng ngoài. Thời kỳ đầu Toàn quốc kháng chiến, một số địa phương trong căn cứ địa Việt Bắc nói chung, An toàn khu nói riêng đã chú trọng xây dựng lực lượng trật tự (công an xã), xây dựng cơ sở quần chúng làm nòng cốt cho công tác bảo vệ An toàn khu, làm vô hiệu hoá mọi âm mưu phá hoại bằng tình báo, gián điệp của địch. Dần dần, lực lượng công an được xây dựng mạnh hình thành nên các đồn bố trí ở những nơi quan trọng để kiểm soát việc ra vào khu vực an toàn khu.


Bên cạnh sự bảo vệ của lực lượng cảnh vệ, công an, sự che chở, đùm bọc của nhân dân địa phương cũng là một nhân tố không kém phần quan trọng để An toàn khu đứng vững trước sự tiến công của kẻ thù lên Việt Bắc Thu - Đông 1947 cũng như trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


60 năm đã trôi qua nhưng bài học về sự bảo vệ thắng lợi cơ quan đầu não kháng chiến trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 vẫn còn nguyên giá trị.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #159 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2021, 02:15:18 pm »

CHIẾN THẮNG VIỆT BẮC VÀ THÚ NHẬN THẤT BẠI
CỦA CÁC TƯỚNG CHỈ HUY QUÂN ĐỘI PHÁP


LÊ KIM
Đại tá, cựu chiến binh


Chiến thắng Việt Bắc 1947 mở đầu cho một loạt chiến thắng vang dội của nhân dân và quân đội ta đồng thời cũng là một đòn phủ đầu làm phá sản tham vọng của thực dân Pháp xâm lược. Hơn nửa thế kỷ qua, đã có nhiều cuốn sách, bài báo và cả nhiều công trình nghiên cứu về sự kiện lịch sử này được xuất bản không chỉ trên đất nước ta mà ngay cả trên đất Pháp. Trong số những lời thú nhận thất bại của Pháp, nổi bật trên hết có hai cuốn tường trình và ghi nhận của hai viên tướng Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp, được dư luận đánh giá cao, nhiều báo chí lên tiếng bình luận, nhiều nhà nghiên cứu tìm đọc nhằm rút ra tư liệu bổ ích. Đó là cuốn hồi ký của Trung tướng Pháp Ra-un Xa-lăng (Raoul Salan), người trực tiếp chỉ huy chiến dịch, nhan đề Việt Minh, địch thủ của tôi (Le Vietminh, mon adversaire) và công trình nghiên cứu của Thiếu tướng Y-vơ Gra (Yves Gras), nhan đề Lịch sử cuộc chiến tranh Đông Dương (Histoire de la guerre d' Indochine). Nếu như cuốn hồi ký của Xa-lăng, xuất bản năm 1971, mang nặng dấu ấn cá nhân, tuy có giá trị tường thuật khá đầy đủ diễn biến chiến dịch với nhiều chi tiết lý thú, nhưng vẫn lộ rõ ý thức chủ quan, thì cuốn của Y-vơ Gra, xuất bản lần đầu năm 1979, tức 8 năm sau cuốn hồi ký của Xa-lăng, đến năm 1992 lại tái bản, bổ sung thêm tư liệu, mang tính chất nghiên cứu khách quan hơn, có tầm nhìn bao quát hơn.


Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin trình bày một cách chọn lọc, dựa trên cơ sở chủ yếu là công trình nghiên cứu của Y-vơ Gra, còn hồi ức của Ra-un Xa-lăng chỉ sử dụng như những dẫn chứng cụ thể. Bên cạnh đó, cũng xin được trích thêm những ý kiến của tướng Va-luy (Jean Etienne Valluy) Tổng chỉ huy các lực lượng viễn chinh Pháp ở Đông Dương vào thời điểm đó, và báo cáo của tướng Các-păng-chi-ê (Marcel Carpentier), Tổng chỉ huy các lực lượng viễn chinh Pháp ở Đông Dương, người kế tục sự nghiệp hẩm hiu của Va-luy và cũng là người gánh chịu hậu quả của thất bại Việt Bắc năm 1947.


Trái với Xa-lăng khoe trong hồi ký là "chính bản thân" đã có "sáng kiến" mở chiến dịch tiến công quy mô lớn đánh lên Việt Bắc mùa Thu 1947, thì Y-vơ Gra căn cứ vào các báo cáo tối mật hiện còn lưu trữ, khẳng định chính Va-luy mới là kẻ chủ mưu đánh lên Việt Bắc, Xa-lăng chỉ là người thực hiện. Như nhiều người còn nhớ, một thời gian ngắn sau khi chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ vào tối 19-12-1946, Bô-la (Emile Bollaert), một quan chức dân sự, được cử thay Đô đôc Đác-giăng-li-ơ (D’Argenlieu) làm Cao ủy Đông Dương. Trước sức ép của dư luận đòi phải tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh để giải quyết xung đột, ngày 20-4-1947, Bô-la đã cử đặc phái viên Pôn Muýt (Paul Mus) tới gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh giấy giới thiệu do Bô-la ký, Pôn Muýt còn mang theo một "thông điệp miệng" bao gồm 4 điều kiện tiên quyết do Tổng chỉ huy Va-luy yêu sách đòi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải giao nộp cho Pháp toàn bộ vũ khí của quân chủ lực, phải để cho Pháp hoàn toàn phụ trách việc duy trì an ninh, trật tự, quân đội Pháp được tự do đi lại, còn quân đội Việt Nam trước khi di chuyển phải báo cáo với Pháp. Thậm chí, Va-luy còn đòi Chính phủ ta phải giao nộp cho Pháp tất cả những người Pháp và người nước ngoài đang làm việc trong quân đội ta. Theo chính lời Pôn Muýt kể lại, ngay tại thị xã Thái Nguyên đang tiêu thổ kháng chiến này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã "điềm đạm lắng nghe” rồi "nghiêm nghị trả lời”: ’’Không thể được! Làm như vậy tôi sẽ là kẻ phản bội. Chỉ có những kẻ hèn nhát mới làm như vậy".


Rất tiếc, cả Bô-la lẫn Va-luy đã không nhận thức được đầy đủ ý chí và quyết tâm kháng chiến của Việt Nam. Theo Y-vơ Gra, chính Va-luy đã lập tức soạn thảo kế hoạch hành quân lớn đánh lên Việt Bắc ngay sau cuộc gặp giữa Pôn Muýt và Hồ Chí Minh. Kế hoạch này gồm những mục tiêu đầy tham vọng. Đó là: đập tan cơ quan đầu não kháng chiến của Việt Minh, đứng đầu là Hồ Chí Minh; hủy diệt toàn bộ kho tàng, tài nguyên, tiềm năng kháng chiến của Việt Minh trong căn cứ địa Việt Bắc rộng lớn; tiêu diệt lực lượng chủ lực kháng chiến của Việt Minh ngay khi đang còn trong trứng nước. Tóm lại là thanh toán Việt Minh bằng một cuộc hành quân tổng lực trên quy mô lớn và nhanh chóng dứt điểm trong một thời gian ngắn nhất. Y-vơ Gra cho biết kế hoạch "năng nổ táo bạo" này được Cao ủy Bô-la nhất trí tán thành và được Chính phủ Pháp "chấp nhận trên nguyên tắc”. Theo Y-vơ Gra, tướng Ra-un Xa-lăng được Va-luy tín nhiệm giao cho trọng trách trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân quy mô lớn đánh lên Việt Bắc và Xa-lăng là một chỉ huy đã phục vụ sớm nhất và lâu năm nhất ở Đông Dương. Xa-lăng vốn là một sĩ quan quân báo từng hoạt động nhiều năm trên cương vị chỉ huy một loạt đồn biên phòng ở khu vực biên giới Bắc Lào và Bắc Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc, thông thạo địa hình cũng như phong tục tập quán các dân tộc thượng du, đặc biệt còn là viên tướng duy nhất có nhiều quan hệ giao thiệp với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phan Anh, Tạ Quang Bửu từ trước và sau khi ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946. Nếu "bắt sống" Hồ Chí Minh ngay tại khu căn cứ kháng chiến thì cái "thông điệp miệng" 4 điểm yêu sách, do Va-luy đề ra và do Pôn Muýt truyền đạt tới Hồ Chí Minh ngày 12-4 nhưng bị bác bỏ, thì lần này sẽ dễ dàng thực hiện và thực hiện vượt mức rất cao.


Trong cuộc họp "bộ ba" giữa Bô-la, Va-luy và Xa-lăng, cả ba nhân vật quan văn quan võ này cùng thống nhất chủ trương: dùng khoảng 800 quân dù bất ngờ "úp chụp" cơ quan Chính phủ kháng chiến Việt Nam, mà tình báo Pháp đã "đánh hơi" thấy tại những khu rừng rậm gần thị xã Bắc Kạn; dùng 2.200 lính thủy đánh bộ, mà Pháp gọi là bộ binh của hải quân, đi trên 18 tàu chiến, tàu đổ bộ đáy bằng và sà lan, ngược dòng sông Hồng lên tận sông Thao, sông Gâm, đổ bộ lên Chiêm Hoá, tăng cường thêm cho lính dù bao vây, lùng sục, càn quét, triệt phá các kho tàng, công xưởng, cơ quan chính phủ; dùng 7.000 bộ binh, có 62 xe tăng, xe bọc thép và 620 xe tải, từ Lạng Sơn tiến lên Cao Bằng rồi quặt về Bắc Kạn tiêu diệt các lực lượng vũ trang chủ lực của Việt Minh. Cuộc hành quân tổng hợp này mang tên mật là Lê-a, hoạt động trên một địa bàn rất rộng, nhằm tiêu diệt các căn cứ kháng chiến lớn nhỏ của Việt Nam trong khu vực Bắc Kạn, Chiêm Hoá. Tuyên Quang, Thái Nguyên. Bên cạnh đó là một cuộc hành quân kép, sử dụng 2.300 quân đánh chiếm Lào Cai, Yên Bái, có thể tiến hành trước khi bắt đầu cuộc hành quân Lê-a nhằm nghi binh, tạo thế bất ngờ cho cuộc nhảy dù xuống Bắc Kạn. Sau khi hai cuộc hành quân chính và phụ này được thực hiện, lại nối tiếp thêm bằng một cuộc hành quân mang tên Xanh-tuya (Ceinture) đánh vào khu tứ giác Tuyên Quang, Thái Nguyên, Việt Trì, Bắc Giang và cả một dải từ Bắc Ninh, Phả Lại lên Uông Bí, tiêu diệt nốt các căn cứ kháng chiến và quân chủ lực Việt Minh trong khu vực.


Theo Y-vơ Gra, gần như toàn bộ các lực lượng tinh nhuệ nhất, do các sĩ quan chỉ huy thiện chiến nhất, cùng với những phương tiện hiện đại nhất, đều được huy động cho cuộc hành quân hỗn hợp quy mô lớn nhất, địa bàn rộng nhất trong lịch sử chiến tranh Đông Dương. Hơn nữa, cuộc hành quân này còn được chuẩn bị sớm nhất, thời gian chuẩn bị kéo dài nhất. Cụ thể là bắt đầu nhen nhóm từ tháng 5, ngay sau cuộc tiếp xúc Pôn Muýt - Hồ Chí Minh, tức cuối mùa Xuân; bắt đầu lên kế hoạch và chuẩn bị suốt cả Hè tối tận giữa mùa Thu, mãi ngày 7-10-1947 mới chính thức thực hiện. Vì vậy, có thể coi đây là cuộc hành quân được chuẩn bị chu đáo nhất. Chính vì vậy cho nên "tinh thần các sĩ quan chỉ huy rất cao, ai nấy đều tin chắc vào chiến thắng và đều quyết tâm "thanh toán Việt Minh trong thời gian ngắn nhất". Y-vơ Gra cho biết, chính Ra-un Xa-lăng được giao trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân đã trịnh trọng cam kết với Cao ủy Pháp Bô-la, chỉ trong vòng "ba tuần là cùng sẽ "chặt đầu" Việt Minh".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM