quansuvn
Moderator
Bài viết: 6589
|
|
« Trả lời #130 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2021, 10:35:18 am » |
|
TRƯỜNG VÕ BỊ TRẦN QUỐC TUẤN VỚI CHIẾN THẮNG ĐẦM HỒNG - BẢN THÍ TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947 Thiếu tướng NGUYỄN QUỐC KHÁNH Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1 Cách đây 60 năm, thực dân Pháp mở cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc, căn cứ địa kháng chiến của cả nước, nhằm tim diệt cơ quan đầu não kháng chiến, đánh quỵ bộ đội chủ lực, phá hủy tiềm năng kháng chiến của ta và dọn đường thành lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại, thực hiện chiến lược "đánh nhanh, giải quyết nhanh", kết thúc cuộc chiến tranh tái xâm lược nước ta. Song tham vọng của thực dân Pháp đã bị thất bại hoàn toàn trước quyết tâm và sức mạnh kháng chiến của quân dân cả nước nói chung, quân dân căn cứ địa Việt Bắc nói riêng. Sau 75 ngày đêm anh dũng chiến đấu (7-10 - 19-12-1947), quân dân ta đã đánh bại cuộc hành binh quy mô lớn của địch, bảo toàn và phát triển được bộ đội chủ lực, bảo vệ an toàn căn cứ địa và cơ quan lãnh đạo kháng chiến, tạo ra bước phát triển của cuộc kháng chiến. Trong chiến công chung đó, có phần đóng góp của Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1. Trường Sĩ quan Lục quân 1 được thành lập ngày 15-4-1945 tại Chiến khu Việt Bắc, với tên gọi ban đầu là Trường Quân chính kháng Nhật. Trong chặng đường 62 năm xây dựng và trưởng thành, do yêu cầu phát triển của nhiệm vụ đào tạo cán bộ đáp ứng với từng thời kỳ cách mạng và đặc điểm khốc liệt của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trường đã 8 lần đổi tên, 14 lần chuyển đổi địa điểm mở lớp, mở trường. Chỉ tính trong khoảng thời gian từ ngày thành lập trường (15-4-1945) đến trước chiến dịch phản công Việt Bắc 1947, Trường đã có bốn lần đổi tên gọi, đó là: Trường Quân chính kháng Nhật (15-4-1945 - 6-9-1945); Trường Quân chính Việt Nam (7-9-1945 - 14-10-1945); Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam (15-10-1945 - 16-4-1946); Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (17-4-1946 - 30-1-1948). Trong thời gian 3 năm (từ ngày thành lập trường đến trước chiến dịch phản công Việt Bắc 1947, trường đã đào tạo được 10 khoá học với 2.470 cán bộ. Các khoá học nói trên đều được đào tạo cấp tốc để điều về các chi đội Giải phóng quân, các địa phương làm nòng cốt để huấn luyện, xây dựng các đơn vị bộ đội chủ lực, các đơn vị "du kích chiến", chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945 và chiến dịch phản công Việt Bắc 1947. Trong chiến dịch phản công Việt Bắc 1947, có 1.450 cán bộ do nhà trường đào tạo (từ khoá 1 đến khoá 10) trực tiếp tham gia chiến dịch, trong đó có 675 đồng chí cán bộ, học viên đang học tập công tác tại trường. Mặc dù các khoá học đều đào tạo cấp tốc trong thời gian ngắn để đáp ứng kịp thời cho các chiến trường, nhưng các đồng chí học viên tốt nghiệp ra trường về các đơn vị, các địa phương đã vận dụng tốt các kiến thức được học ở trường vào thực tế huấn luyện và chiến đấu. Nhiều đồng chí đã chiến đấu dũng cảm mưu trí, góp phần quan trọng vào sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta. Trong chiến dịch phản công Việt Bắc 1947, nhà trường đã phối hợp với quân dân xã Phú Bình, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang và thị trấn Bản Thí, châu Chợ Đồn, tỉnh Bắc Cạn thực hành trận chiến đấu vận động phục kích đánh tan một đại đội lính Pháp, do tên quan ba Kê-roát chỉ huy, tại km 4 đường Đầm Hồng - Bản Thí. Đây là trận đánh đầu tiên của cán bộ, giáo viên, học viên nhà trường với quân đội viễn chinh Pháp, góp phần cùng quân dân Việt Bắc đập tan cuộc tiến công chiến lược của thực dân Pháp trong chiến dịch phản công Việt Bắc 1947. Ngày 7-10-1947, địch nhảy dù xuống Bắc Cạn, vào ngay địa điểm đóng quân của nhà trường. Đồng chí Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái (lúc đó đang có mặt ở trường trong chuyến đi công tác Bắc Cạn) đã ra lệnh cho nhà trường phải tích cực đánh địch bảo vệ địa phương, bảo vệ các cơ quan như Ty Ngân khố (tài chính), cơ sở in giấy bạc, Đài Tiếng nói Việt Nam, kho quân nhu, xưởng quân giới và giúp đỡ các cơ sở này di chuyển đến địa điểm mới. Tối ngày 7-10, Hiệu ủy họp và quyết định tạm ngừng việc huấn luyện, tổ chức toàn trường thành một đơn vị chiến đấu để tự bảo vệ và cử một số lực lượng cán bộ, học viên giúp đỡ nhân dân, dân quân du kích châu Chợ Đồn, Chợ Rã, tham gia di chuyển cơ sở in giấy bạc, các kho quân nhu, xưởng quân giới đến địa điểm mới an toàn. Ngày 9-10, trường biên chế tạm thời thành một trung đoàn, quân số gồm 675 đồng chí, (chủ yếu là học viên khoá 2 và khoá 3 Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn), lấy phiên hiệu là Trung đoàn 79, do đồng chí Hoàng Đạo Thúy - Hiệu trưởng làm Trung đoàn trưởng; đồng chí Lê Đình làm Chính trị viên; đồng chí Phan Phác - Cục trưởng Quân huấn, kiêm Tổng đội trưởng. Trung đoàn hành quân lên Chợ Rã, về Bản Thí. Trên đường hành quân cán bộ, học viên đã tích cực hướng dẫn nhân dân cất giấu tài sản, thực hiện "vườn không, nhà trống" và hướng dẫn dân quân địa phương cách bố phòng, đánh địch để bảo vệ bản làng. Theo nhận định của Bộ, quân địch từ hai phía Chợ Đồn và Chiêm Hoá tiến công đánh chiếm Bản Thí và hợp điểm hội quân tại Đài Thị, siết chặt vòng vây đối với quân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định âm mưu của địch: "Chúng tạo thành một cái ô bọc lấy Việt Bắc, rồi cụp ô lại, dưới đánh lên, trên đánh xuống phá cho được cơ quan đầu não của kháng chiến. Địch mạnh ở hai gọng kìm, gọng kìm mà gãy thì cái ô cụp thành ô rách". Do đó, nhiệm vụ Bộ giao cho trường là nhanh chóng triển khai chặn đánh hai cánh quân địch từ Chợ Đồn và Chiêm Hoá tiến công lên Bản Thí nhằm phá vỡ kế hoạch hợp điểm hội quân của chúng, bảo vệ cơ quan Trung ương Đảng và Chính phủ.
|
|
|
Logged
|
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
|
|
|
quansuvn
Moderator
Bài viết: 6589
|
|
« Trả lời #131 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2021, 10:39:59 am » |
|
Chấp hành mệnh lệnh của Bộ, nhà trường chia thành hai đoàn để chặn đánh địch từ Chợ Đồn đến Bản Thí và từ Chiêm Hoá đến Bản Thí. Trước khi xuất quân, trường tổ chức phát động thi đua giết giặc lập công và diễu binh biểu dương lực lượng tại thị trấn Bản Thí để động viên tinh thần chiến đấu của bộ đội và nhân dân quyết tâm đánh địch. Sau đó, hai đoàn gấp rút hành quân đến khu vực tác chiến của mình.
Sau khi nghiên cứu địa hình xác định hướng tiến công chủ yếu của địch, ta triển khai đội hình chiến đấu, chuẩn bị vũ khí đạn dược và ngụy trang kín đáo trận địa. Lần đầu tiên ra trận, cả thầy lẫn trò, chỉ huy và bộ đội đều bỡ ngỡ nhưng rất tự tin vào bản lĩnh của mình. Với vinh dự được chiến đấu bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ và vì danh dự, trách nhiệm của nhà trường với lá cờ "Trung với nước, hiếu với dân" mà Người đã trao tặng khoá 1; đồng thời, với nguyện vọng cháy bỏng được giết giặc lập công và kiểm nghiệm những kiến thức đã học tập ở trường với thực tế chiến đấu, cán bộ, học viên đều quyết tâm và tin tưởng vào chiến thắng.
Khoảng 8 giờ sáng ngày 18-10, bộ phận đi đầu của địch đến gần sát trận địa của ta. Mọi người động viên nhau bình tĩnh chờ địch dồn đội hình lên mới nổ súng. Trận đánh diễn ra khoảng 20 phút, cán bộ, giáo viên, học viên nhà trường đã nêu kỷ lục xạ kích: 72 viên đạn diệt 38 tên giặc, trong đó có viên quan ba Pháp Kê-roát và bắn bị thương nhiều tên, buộc địch phải bỏ cuộc tiến công lên Bản Thí, rút tàn quân về Đầm Hồng, Chiêm Hoá. Trong trận chiến đấu này học viên Vũ Hải Đường đã bắn 3 viên đạn diệt 3 tên địch, thực hiện khẩu hiệu "Một viên đạn một quân thù" và đồng chí đã anh dũng hy sinh.
Cũng trong đêm 18-10, trường tổ chức một tiểu đội quyết tử gồm 8 học viên do đồng chí Nguyễn Bội Dong làm Tiểu đội trưởng, bí mật tập kích đồn Yên Thịnh, châu Chợ Đồn (cách Bản Thí gần 6km) diệt một số tên địch, phá một khẩu đại liên. Đồng chí Nguyễn Bội Dong bị thương nặng, nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy tiểu đội tiến công địch.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, nhà trường được lệnh hành quân về Nghĩa Tá, châu Chợ Đồn, tỉnh Bắc Cạn và tiến hành lễ bế giảng khoá 2 và khoá 3 vào chiều ngày 28 tháng 10-1947. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đến dự và biểu dương Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn đã thực hiện đúng huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không những hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo cán bộ mà còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp.
Trong buổi lễ bế giảng khoá 2 và khoá 3, được sự ủy nhiệm của Bộ Quốc phòng, lãnh đạo nhà trường đọc quyết định của Chính phủ tặng huân chương cho một số cán bộ học viên của nhà trường có thành tích trong chiến đấu. Cụ thể:
- Truy tặng Huân chương Chiến công hạng nhất cho các đồng chí: Nguyễn Hải - học viên khoá 1 Trường Quân chính kháng Nhật, chiến đấu anh dũng hy sinh trong trận tiến công địch ở cầu Đuống (18-1-1947); Tổn thất Xuân - học viên khoá 1 Võ bị Trần Quốc Tuấn, diệt nhiều địch, chiến đấu anh dũng đến hơi thở cuối cùng ở mặt trận Huế; Vũ Hải Đường - học viên khoá 3 Võ bị Trần Quốc Tuấn, chiến đấu anh dũng, thực hiện một viên đạn một quân thù, hy sinh trong trận Bản Thi (18-10-1947).
- Tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba cho các đồng chí: Trần Hậu Tưởng, Bùi Xuân Đăng - cán bộ, học viên khoá 2 và khoá 3 Võ bị Trần Quốc Tuấn đã chiến đấu anh dũng trong trận Bản Thí (18-10-1947); đồng chí Nguyễn Bội Dong được tuyên dương về thành tích chiến đấu.
Đây là những tấm huân chương cao quý đầu tiên mà cán bộ, học viên nhà trường được tặng thưởng. Sau trận chiến đấu Đầm Hồng - Bản Thí và Yên Thịnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen ngợi và tặng nhà trường danh hiệu Trung dũng Quyết thắng.
Trận Đầm Hồng - Bản Thí trong chiến dịch phản công Việt Bắc 1947, có ý nghĩa lịch sử đánh dấu bước trưởng thành của Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và là nguồn động viên, cổ vũ cán bộ, giảng viên, học viên, công nhân viên, chiến sĩ nhà trường hăng hái phấn đấu, tạo tiền đề để cùng cả nước chuyển cuộc kháng chiến sang một giai đoạn mới. Từ thực tiễn lịch sử chiến công của trận Đầm Hồng - Bản Thí, chúng tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là: Cùng với nhiều trận đánh của quân và dân Việt Bắc, chiến thắng Đầm Hồng - Bản Thí đã góp phần vào thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta trong chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947. Điều đó khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân toàn diện, phát huy sức mạnh của mọi lực lượng, bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích và ngay cả các nhà trường, công xưởng để tham gia đánh giặc. Với phương châm đẩy mạnh hoạt động "du kích chiến" rộng khắp, hình thành thế bao vây, chia cắt quân địch, chọn thời cơ tập trung lực lượng đánh từng trận đạt hiệu quả chiến đấu cao. Cùng với những trận đánh tiêu biểu như trận phục kích Bông Lau - Lũng Phầy (3-10), trận tập kích Phủ Thông (30-11), trận phục kích Đèo Giàng (15-12), trận Đầm Hồng - Bản Thí đã khiến cho quân địch hết sức bàng hoàng trước tinh thần chiến đấu quả cảm, mưu trí, sáng tạo các cách đánh độc đáo của quân đội ta. Đây là một chiến công góp phần cùng với chiến công của quân dân Việt Bắc, đồng thời là một môc son lịch sử của nhà trường trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hai là: Qua trận Đầm Hồng - Bản Thí và các trận đánh khác trong chiến dịch phản công Việt Bắc năm 1947, nhà trường đã kịp thời nghiên cứu rút kinh nghiệm để xây dựng nội dung, chương trình giảng dạy cho các học viên khoá tiếp sau. Bài học kinh nghiệm đó là, trong điều kiện khi lực lượng ta còn yếu, vũ khí trang bị kỹ thuật còn thiếu, lạc hậu thì phải kiên quyết tránh dàn tuyến đánh các trận lớn mà sử dụng các đơn vị nhỏ, nhằm vào nơi hiểm yếu của địch thực hiện các trận đánh phục kích, tập kích địch trên đường vận chuyển, những nơi địch mới đến đóng quân, kết hợp với quấy rối, bắn tỉa... làm cho địch bị tiêu hao, từng bước suy yếu, bẻ gãy từng mũi, từng cuộc tiến công, từng gọng kìm và tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi.
Điều vinh dự cho nhà trường là sau thắng lợi của chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947, trường được đồng chí Võ Nguyên Giáp - Tổng chỉ huy, trực tiếp giảng bài: "Thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc, cái mốc chuyển sang giai đoạn mới" và đồng chí Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng, giảng bài: "Thực hiện phương châm chiến lược đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung". Đây là cơ sở để nhà trường quán triệt sâu sắc thêm đường lối, quan điểm và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng. Đặc biệt, trong quá trình giảng dạy đã chú trọng nhấn mạnh việc dùng mưu mẹo, phát huy ưu thế tinh thần để đánh địch. Cách đánh phục kích được giới thiệu khá kỹ, nhất là chiến thuật đánh cứ điểm nhỏ bằng kỳ tập và cường tập. Kinh nghiệm các trận đánh đồn Phủ Thông, An Châu, các trận phục kích trên Đường số 4 (Cao Bằng - Lạng Sơn) được phổ biến rộng rãi. Nhờ vậy, học viên được trang bị kiến thức ngày càng phong phú, đáp ứng với yêu cầu chiến đấu và phát triển của quân đội trong những năm tiếp theo.
Ba là: Khi chiến sự xảy ra, nhà trường vừa được giao nhiệm vụ tổ chức lực lượng đánh địch bảo vệ căn cứ, vừa được giao nhiệm vụ cử một bộ phận cán bộ, giáo viên, học viên giúp đỡ nhân dân và phối hợp với lực lượng du kích Chợ Đồn, Chợ Rã đánh địch có hiệu quả. Điều đó thể hiện nhà trường được quán triệt sâu sắc phương châm chiến lược phân tán binh lực các trung đoàn thành các "đại đội độc lập", đẩy mạnh tác chiến du kích khắp nơi để phân tán, kìm chân địch, tạo điều kiện cho những trận tác chiến tập trung (quy mô nhỏ nhưng hiệu quả) trên các hướng trọng điểm là hướng tây và hướng đông để bẻ gãy từng gọng kìm của địch.
|
|
|
Logged
|
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
|
|
|
quansuvn
Moderator
Bài viết: 6589
|
|
« Trả lời #132 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2021, 10:40:30 am » |
|
Với nhiệm vụ được giao, bộ phận phối hợp chiến đấu với nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương đã giúp đỡ, dìu dắt du kích của Chợ Đồn, Chợ Rã đánh địch rộng khắp, vừa tiêu hao lực lượng địch, hạn chế khả năng các toán quân địch lùng sục vào sâu trong căn cứ, vừa bảo vệ, giúp đỡ các cơ quan, công xưởng, bệnh viện di chuyển, tránh địch ngay trong vòng vây của chúng.
Sau Thu - Đông 1947, cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ phát triển chiến tranh du kích mạnh mẽ trong vùng địch tạm chiếm để căng mỏng địch, tiêu hao chúng, đồng thời từng bước xây dựng, phát triển bộ đội chủ lực. Nhà trường đã hướng nội dung huấn luyện vào tác chiến tập trung, đánh tiêu diệt từ nhỏ đến lớn. Thực hiện phương thức tổ chức lực lượng "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung", dùng đại đội độc lập để làm nòng cốt phát triển chiến tranh du kích, dùng tiểu đoàn tập trung để học tập, huấn luyện tác chiến tập trung. Việc đào tạo cán bộ và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường. Muốn tiến tới tác chiến tập trung thì viêc đào tạo cán bộ phải đi trước một bước, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ và tác chiến của quân đội ta trong thời kỳ mới.
Bốn là: Từ tinh thần chiến đấu và hiệu quả diệt địch của cán bộ, học viên nhà trường trong trận Đầm Hồng - Bản Thí có thể rút ra: Để đối phó với kẻ thù xâm lược có vũ khí trang bi kỹ thuật hiện đại, trước hết cần phải giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc về mới quan hệ giữa con người và vũ khí, trong đó con người đóng vai trò quyết định, vũ khí là hết sức quan trọng. Từ đó, xây dựng niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ vào vũ khí, trang bị kỹ thuật có trong biên chế, sáng tạo ra cách đánh phù hợp để đánh thắng kẻ địch. Trong công tác đào tạo cán bộ quân đội, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được ý chí quyết tâm chiến đấu cao, có trình độ làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật, nghiên cứu phát triển và vận dụng linh hoạt nghệ thuật quân sự để đối phó thắng lợi với kẻ thù trong mọi hoàn cảnh. Sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, Nghị quyết Hội nghị Trung ương mở rộng xác định: "Phải nâng cao trình độ kỹ thuật quân sự và nghệ thuật tác chiến cho bộ đội... đào tạo cán bộ trong bộ đội một cách thận trọng và chu đáo. Cán bộ này phải là con đẻ trung thành với nhân dân"1 (Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, Văn kiện Đảng 1945-1954, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, Tập 2, tr. 168).
Sau Việt Bắc Thu - Đông 1947, cùng với sự trưởng thành lớn mạnh và chiến thắng vẻ vang của quân đội ta, Trường Sĩ quan Lục quân đã phát triển về mọi mặt và đạt được những thành tích quan trọng trong sự nghiệp đào tạo cán bộ cho lực lượng vũ trang. Từ một trường bộ binh, mỗi khoá vài trăm học viên trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, đã phát triển thành một trường lục quân tổng hợp, có nhiệm vụ vừa đào tạo, vừa bổ túc cán bộ từ sơ cấp đến trung cấp cho lục quân. Từ huấn luyện đánh du kích là chủ yếu, nhà trường đã từng bước đào tạo cán bộ biết cách đánh tập trung từ nhỏ đến lớn, với nhiều hình thức chiến thuật. Học viên ra trường được phân công đi khắp các chiến trường trên cả nước, đã chiến đấu dũng cảm, mưu trí, nhiều đồng chí đã hiến dâng cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng. Rất nhiều đồng chí đã trưởng thành và giữ những trọng trách quan trọng trong các cơ quan Bộ, các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương trong cả nước. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà trường được Quốc hội, Chính phủ tặng Huân chương Quân công hạng ba, nhiều cán bộ, giáo viên, nhân viên được tặng huân, huy chương các loại.
Ngày nay, cùng với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang tiến nhanh trên con đường đổi mới, nhà trường đã thu được những thành quả và kinh nghiệm bước đầu trong công cuộc đổi mới công tác đào tạo và xây dựng Nhà trường quân sự. Một bài học kinh nghiệm không thể thiếu trong lịch sử xây dựng và trưởng thành của Nhà trường là trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng, lý luận khoa học quân sự Việt Nam, bám sát thực tiễn hoạt động quân sự trên thế giới, khu vực và trong nước, thường xuyên đổi mới công tác giáo dục - đào tạo, trước hết đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy học nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đào tạo đã xác định. Thường xuyên quan tâm bồi dưỡng, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên, đấy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tăng cường xây dựng nên nếp chính quy, thực hiện đoàn kết, thống nhất ý chí, xây dựng nhà trường vững mạnh toàn diện, chính quy, mẫu mực, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và quân đội giao cho. Phát huy truyền thống trận đầu ra quân chiến thắng trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 và những chiến công trong chiến đấu, xây dựng 60 năm qua, Trường Sĩ quan Lục quân 1 tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ, xứng đáng với lá cờ 6 chữ vàng "Trung với nước, hiếu với dân" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao tặng trong dịp Người về dự lễ khai giảng khoá 1 Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (26-5-1946).
|
|
|
Logged
|
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
|
|
|
quansuvn
Moderator
Bài viết: 6589
|
|
« Trả lời #133 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2021, 10:43:11 am » |
|
ĐÓNG GÓP CỦA ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC VIỆT BẮC TRONG CHIẾN THẮNG THU - ĐÔNG 1947 Thiếu tá, ThS. LÊ THANH BÀI Viện Lịch sử quân sự Việt Nam Tháng 10-1947, Bộ chỉ huy quân Pháp huy động 12 nghìn quân mở cuộc tiến công lên Việt Bắc, hòng thực hiện đòn đánh quyết định phá tan cơ quan đầu não kháng chiến; tiêu diệt bộ đội chủ lực; chiếm đóng khu căn cứ, khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn mối quan hệ cuộc kháng chiến của nhân dân ta với cách mạng Trung Quốc. Kẻ thù muốn dùng thắng lợi quân sự để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, lập chính phủ bù nhìn, đặt lại ách thống trị thực dân lên toàn bộ nước ta. Trong 75 ngày đêm anh dũng chiến đấu (7-10 - 19-12-1947), quân dân ta đã đánh bại cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn của địch, đập tan tham vọng của kẻ thù. Chiến thắng Việt Bắc là thắng lợi quyết định làm thất bại hoàn toàn chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp, đưa kháng chiến bước sang giai đoạn mới. Trong chiến công đó, có sự đóng góp lớn lao của đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Việt Bắc, địa bàn rộng hơn 5 vạn ki-lô-mét vuông, bao gồm các tỉnh: Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, nơi cư trú của đồng bào 19 dân tộc như Tày, Nùng, Dao, Thái, Mông, v.v. Vùng đất "quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà", sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lại được chọn làm nơi xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Một số địa điểm thuộc huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang) và Chợ Đồn (Bắc Kạn) được lựa chọn xây dựng an toàn khu của Trung ương. Cuối năm 1946 đầu năm 1947, đồng bào các dân tộc đã góp công sức vào cuộc tổng di chuyển. Các phương tiện như thuyền mảng, xe cộ, ngựa trâu đều được huy động vận chuyển hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu đến nơi an toàn, góp phần tạo dựng cơ sở vật chất ban đầu cho cuộc kháng chiến. Nhiều bản làng đã trở thành nơi ở, nơi làm việc của các cơ quan Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Quân đội, các tổ chức đoàn thể, các công xưởng... Với truyền thống đoàn kết, thương yêu, đùm bọc, bà con các dân tộc đã giúp đỡ hơn 6,3 vạn đồng bào tản cư nhanh chóng ổn định cuộc sống, góp phần củng cố và bảo vệ An toàn khu, căn cứ địa của kháng chiến, tạo nên hậu phương vững chắc cho cuộc chiến đấu lâu dài. Thực hiện chủ trương "võ trang toàn dân"; "tự vệ rộng rãi", "toàn dân kháng chiến", đồng bào các dân tộc Việt Bắc tích cực động viên chồng, con, anh em, người thân gia nhập lực lượng vũ trang, hăng hái tham gia đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp "kháng chiến, kiến quốc". Lực lượng vũ trang địa phương nhanh chóng được củng cố về tổ chức, tăng cường về số lượng và chất lượng. Đến tháng 10-1947, trên toàn Việt Bắc đã có 60 nghìn bộ đội địa phương gồm 3 trung đoàn trực thuộc khu, 3 tiểu đoàn thuộc tỉnh, 10 đại đội bộ đội địa phương, 33 nghìn dân quân tự vệ 1 (Bộ Tổng tham mưu, Chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Chuyên đề Đặc trưng chiến tranh du kích trong khởi nghĩa vũ trang, kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr. 55). Nhiều làng bản hình thành nên "làng xã chiến đấu", "khu du kích chiến đấu miền núi", "liên xã chiến đấu"... Công tác giữ gìn bí mật, bảo đảm an toàn các cơ quan của Đảng, Chính phủ, nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được hết sức chú trọng. Bà con các dân tộc Việt Bắc coi đó là vinh dự lớn lao, là trách nhiệm nặng nề. Khẩu hiệu "ba không" (không biết, không nghe, không nói) được các tầng lớp nhân dân, từ cụ già đến em nhỏ thường xuyên nhắc nhở, tự giác thực hiện, trở thành nếp sống hàng ngày. Công tác tiêu thổ kháng chiến được triển khai thực hiện ở nhiều nơi. Nhân dân tự tay phá đi những công trình nhà cửa, cầu cống, đào phá đường,v.v. để ngăn chặn bước tiến quân của địch; cắm chông nhọn trên các bãi đất trống chống địch nhảy dù; dựng kè chắn trên sông ngăn tàu thuyền địch. Có thể nói, đóng góp quan trọng của quân và dân Việt Bắc trong thời gian sau ngày Toàn quốc kháng chiến là đã góp phần xây dựng Việt Bắc thành hậu phương, căn cứ địa kháng chiến của cả nước, trở thành nơi ở và nơi làm việc cho các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, nơi xây dựng và đứng chân của các lực lượng vũ trang, là hậu phương quan trọng của cuộc kháng chiến. Việt Bắc - "thủ đô gió ngàn" nơi đặt niềm tin và hy vọng của quân dân cả nước. Việt Bắc cũng trở thành mục tiêu tiến công của kẻ thù. Để tiến hành cuộc tiến công vào căn cứ địa Việt Bắc, Bộ chỉ huy quân Pháp đã xây dựng kế hoạch hết sức táo bạo, cùng với quân nhảy dù xuống Bắc Kạn, Chợ Mới, Cao Bằng, một cánh quân bộ với hơn 300 xe quân sự dưới sự chỉ huy của trung tá Bô-phơ-rê, từ Lạng Sơn theo Đường số 4 lên Cao Bằng bao vây sườn đông; cánh quân thủy với 2.200 quân do trung tá Com-muy-nan chỉ huy từ Hà Nội ngược sông Hồng theo sông Lô vào sông Gâm, bao vây từ phía Tây, tạo thành hai "gọng kìm" vây toàn bộ Việt Bắc, lấy Đài Thị (Tuyên Quang) làm nơi hợp điểm. Địch gọi đây là cuộc hành quân Lê-a, bước một của cuộc tiến công. Tiép theo, chúng sẽ tung quân lùng sục, càn quét các địa điểm đóng quân của các cơ quan Trung ương, các đơn vị quân đội. ... Đối phó với cuộc tiến công của địch, Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã ra nhiều chỉ thị quan trọng. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp ra Nhật lệnh, nêu rõ "Việt Bắc phải anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm cho chúng khiếp sợ... để xứng đáng với truyền thống vẻ vang, để làm gương cho cả nước" 1 (Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, Tập 1, Bộ Tổng tham mưu xuất bản, 1963, tr. 20-21), đồng thời kêu gọi khắp nơi trong cả nước hăng hái chiến đấu, hỗ trợ cho chiến trường Việt Bắc. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, chấp hành mệnh lệnh của Tổng chỉ huy, quân dân Việt Bắc đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống địch tiến công; phá hoại giao thông, ngăn chặn các bước tiến quân, vận chuyển của địch; nhanh chóng thu hoạch vụ mùa, cất giấu của cải, triệt để thực hiện "vườn không nhà trống"; nhân dân thực hiện sơ tán, tạm lánh vào rừng núi góp công, góp sức phân tán kho tàng, di chuyển máy móc công xưởng vào sâu rừng núi, tránh khỏi sự phá hoại của kẻ thù... Lực lượng vũ trang các huyện, tỉnh chuẩn bị kế hoạch sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu.
|
|
|
Logged
|
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
|
|
|
quansuvn
Moderator
Bài viết: 6589
|
|
« Trả lời #134 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2021, 10:44:31 am » |
|
Suốt hai tháng rưỡi chiến đấu trong vòng vây quân thù, đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã phát huy sức mạnh của căn cứ địa - hậu phương, đóng góp sức nguời, sức của, sát cánh cùng các lực lượng vũ trang anh dũng chiến đấu vì sứ mệnh bảo vệ an toàn cơ quan đầu não của kháng chiến. Tận dụng lợi thế thông thuộc địa hình, quân dân các địa phương tổ chức đánh chặn, tập kích, phục kích đường hành quân, đẩy lùi các cuộc tiến công của địch. Khi địch nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, dân quân xã Thanh Mai đã chặn đánh quyết liệt. Đoàn cảnh vệ Bắc Kạn, dân quân xã Nông Thiệp, du kích xã Yên Định, Cao Hoà tổ chức truy lùng những tên lính dù rơi lạc ngoài thị xã. Dân quân xã Hà Vị chặn đánh lính dù ở Cốc Xá, lập nhiều trận địa quanh thị xã, quyết không cho địch mở rộng phạm vi lấn chiếm, tổ chức nhiều trận tập kích, quấy rối tiêu hao sinh lực địch. Tự vệ các nhà máy, công xưởng cùng anh em bộ đội bắn tỉa diệt nhiều tên địch, bảo vệ an toàn kho xưởng. Dân quân du kích tổ chức tập kích, chặn địch trên các tuyến đường Bắc Kạn - Chợ Rã, Bắc Kạn - Chợ Đồn; chủ động đánh địch ở Đèo Giàng, Đèo Gió; bẻ gãy các mũi tiến công, tiêu diệt các toán địch nhỏ lẻ. Thực hiện chủ trương "không phân biệt tiền phương hay hậu phương", Mặt trận Đường số 4 phát động cuộc chiến đấu toàn dân, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, tổ chức đánh địch bằng mọi vũ khí, bằng nhiều cách đánh sáng tạo, biến hoá khiến cho kẻ thù bất ngờ, lúng túng. Đường số 4 với những trận đánh nổi tiếng như Bông Lau, Văn Mịch... trở thành nỗi ám ảnh khiếp sợ của quân thù. Dân quân du kích Thoát Lãng (Lạng Sơn) tổ chức đánh địch ở Khuổi Slìn, Khuổi So diệt nhiều tên địch. Cùng với các đơn vị bộ đội, du kích Cao Bằng, Bắc Kạn... liên tiếp đột nhập vào thị xã, quấy rối các vị trí địch. Với khẩu hiệu "Mỗi viên đạn, một quân thù", bộ đội, dân quân thi đua chiến đấu đạt hiệu quả cao. Trong cuộc "đọ sức" lớn đầu tiên này đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu cho truyền thống yêu nước của quân dân Việt Bắc. Sáng 10-10, ba thiếu niên ở Chợ Chu (Thái Nguyên) đã mưu trí dùng lựu đạn diệt toán quân Pháp đi tuần; ngày 13 du kích xã Cao Kỳ (Bạch Thông) đánh địa lôi phá hủy ba xe quân sự, diệt 50 tên địch; du kích Yên Định chặn đánh địch tại ki-lô-mét số 128 (quốc lộ 3) không cho chúng tiến lên thị xã Bắc Kạn. Tiểu đội nữ du kích tập trung Hoà An (Cao Bằng) đã tổ chức phục kích, đánh chặn đoàn xe địch ở Nước Hai, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Các đội lão du kích hăng hái đánh giặc giữ làng, ngăn đường tiến quân của địch. Phát huy tinh thần sáng tạo, lão du kích Lương Văn Khoáng đã tự chế súng "Sàng Là"1 (Loại súng theo kiểu súng kíp, làm bằng gỗ ghiến, đạn là những mảnh gang đập vỡ nhỏ) đưa vào sử dụng ở trận đánh Bó Ca, diệt 6 tên địch. Cụ Hứa Văn Khải tự chế và sửa chữa hàng chục quả lựu đạn. Ông Nông Văn Chấn, dân tộc Nùng, chế súng hoả mai, tự mình diệt ba tên giặc.... Biểu dương các cụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi những vần thơ:
Tuổi cao chí khí càng cao Múa gươm giết giặc ào ào gió thu Sẵn sàng tiêu diệt quân thù Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 334).
Nhân dân Phú Thọ, Tuyên Quang phối hợp cùng bộ đội tích cực đánh chặn, cản đường hành quân thủy của địch. Bà con hăng hái đóng góp tre nứa, gỗ, đá,v.v, huy động hàng nghìn ngày công lập kè ngăn sông. Com-muy-nan, viên chỉ huy cánh quân đường thủy hết sức kinh ngạc trước kè Sóc Đăng (Phú Thọ), coi đó "rào chắn đặc biệt". Phải mất hai ngày với sự yểm trợ của máy bay ném bom và máy nhổ cọc, đội hình địch mới vượt qua được quãng sông này. Đó là thời gian quý cho các lực lượng vũ trang chuẩn bị đón đánh địch. Nhân dân làng Ngọc Chúc trợ giúp bộ đội lập trận địa pháo sát bờ sông, thực hiện phương châm "đặt gần bắn thẳng” - đồng bào các xã Chí Đám, Hữu Đô hái hàng trăm quả bưởi bôi đen giả làm thủy lôi, xâu thành từng chuỗi, thả nổi trên sông, buộc tàu địch phải đi chậm để tránh, tạo điều kiện cho pháo binh ngắm bắn. Bất chấp bom đạn, bà con làng Đại Nghĩa, Phú Thứ, Vân Cương đốt lửa tạo khói, thu hút máy bay địch... Tất cả những hành động đó đã góp phần làm nên chiến thắng Đoan Hùng lịch sử (24-10-1947), bắn chìm hai tàu, bắn cháy hai chiếc khác, diệt 300 tên địch, bắn rơi một máy bay, dựng nên mốc son trong lịch sử Pháo binh nhân dân Việt Nam. Đó là hình ảnh đẹp của sự phối hợp giữa lực lượng vũ trang và nhân dân trong chiến đấu. Hơn 2.000 đồng bào đã được huy động cho trận đánh này. Phát huy thắng lợi, nhân dân Đoan Hùng không quản gian lao, cùng bộ đội chuyển pháo lên phía trước, lập trận địa đánh địch tại Khe Lau (nơi sông Lô gặp sông Gâm), góp phần tạo nên "bể lửa Khe Lau", chôn vùi 3 tàu chiến, diệt 200 tên địch vào ngày 10-11-1947. Cùng với đánh địch trên sông, dân quân du kích tổ chức giữ làng, chặn địch trên bộ. Cũng như đường số 3, số 4, đường số 2 cũng trở thành nỗi kinh hoàng của kẻ thù. Tận dụng địa hình rừng núi, quân dân Tuyên Quang liên tiếp tổ chức các trận tập kích, phục kích khiến cho kẻ thù khiếp sợ gọi "Tuyên Quang là một nghĩa địa khổng lồ", không dám tung quân lùng sục, tiêu diệt lực lượng ta như kế hoạch đã định mà chỉ co cụm ở thị trấn Chiêm Hoá, gọi máy bay tiếp viện.
Sự phối hợp chiến đấu của quân dân Việt Bắc đã làm cho kế hoạch hành quân của địch bị chậm lại. Càng dấn sâu vào núi rừng Việt Bắc, quân địch càng sa vào thế trận chiến tranh nhân dân. Đến đâu chúng cũng gặp cảnh vườn không nhà trống, liên tiếp bị tập kích, phục kích, lực lượng bị chia cắt bị tiêu hao, không thể tìm diệt được cơ quan đầu não kháng chiến. Mục tiêu cuộc hành quân không đạt. Cánh quân thủy đến Chiêm Hoá đành phải quay lại, quân dù bị bao vây, cô lập. Tuy gắng đến được Bắc Kạn nhưng cánh quân bộ bị tiêu hao quá nhiều sức lực và sinh mạng. Bộ chỉ huy hành quân phải điều chỉnh kế hoạch, chuyển sang lui quân cục bộ kết hợp càn quét khu tứ giác Tuyên Quang - Thái Nguyên - Việt Trì - Bắc Giang hòng bắt cho được cơ quan đầu não kháng chiến, phá nát căn cứ địa, nhưng chúng lại liên tục bị phục kích, chặn đánh. Không chỉ đánh địch khi chúng hành quân càn quét mà dân quân du kích cùng với bộ đội chủ lực tổ chức nhiều trận tập kích vào đồn địch ở làng Ngò (Võ Nhai), Quảng Nạp (Đại Từ), Phủ Thông, Nà Phạc (Bắc Kạn) tiêu diệt nhiều tên. Hoạt động của lực lượng vũ trang Việt Bắc đã khiến cho kẻ địch phải thường xuyên đối phó, luôn ở trong trạng thái lo sợ, dừng lại bị tập kích, hành quân bị phục kích, không dám mở rộng khu càn quét, buộc phải lui quân. Trên đường rút, chúng lại liên tiếp sa vào các trận địa phục kích của quân dân ta, khiến cho đội hình càng thêm rôì loạn, quân số thương vong nhiều. Ngày 19-12-1946, đại bộ phận quân Pháp phải rút khỏi căn cứ địa Việt Bắc, đánh dấu thất bại chiến lược trong cuộc chiến tranh xâm lược của chúng
Trong chiến dịch đầu tiên của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân Việt Bắc đã cùng các lực lượng vũ trang đánh địch cắt đứt đường tiếp tế trên đường số 3, số 4, số 2; đánh diệt quân thù trên sông Lô, sông Gâm, sát cánh với các đơn vị bộ đội cùng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần đánh bại cuộc hành quân lớn của địch. Bộ đội địa phương và dân quân du kích Việt Bắc đã tổ chức 167 trận đánh, tiêu diệt 2.183 tên địch trong tổng số 6.000 tên, bắn rơi bốn máy bay, phá hủy 20 xe quân sự1 (Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 135). Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi "Đồng bào Việt Bắc gồm có Kinh, Thổ, Nùng, Thái, v.v. phong tục tập quán tuy có khác nhau ít nhiều nhưng lòng nồng nàn yêu nước, lòng căm hờn giặc sâu sắc thì muôn người như một.
Lòng yêu nước của đồng bào, nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch, nó đã đánh tan cuộc tấn công của thực dân"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 366, 207).
Với vị trí căn cứ địa đầu não của cuộc kháng chiến, đồng bào Việt Bắc đã làm tốt nhiệm vụ của mình, giành thắng lợi trong cuộc đọ sức quyết liệt đầu tiên với kẻ thù, bảo vệ an toàn cho các cơ quan Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo toàn và phát triển lực lượng kháng chiến. Việt Bắc - tên gọi vùng núi rừng địa đầu Tổ quốc, trở nên thân thương, gần gũi với đồng bào cả nước, xứng đáng với niềm tin "Cách mạng do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 366, 207).
Thắng lợi Thu - Đông 1947 càng khẳng định thêm lòng yêu nước, ý chí kiên cường dũng cảm của đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Thắng lợi đó đã để lại kinh nghiệm trong huy động sức mạnh toàn dân, tổ chức nhân dân tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, phát huy thế mạnh chiến tranh nhân dân trên địa bàn rừng núi. Đó là những kinh nghiệm quý gợi mở, vận dụng cho công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
|
|
|
Logged
|
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
|
|
|
quansuvn
Moderator
Bài viết: 6589
|
|
« Trả lời #135 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2021, 10:46:14 am » |
|
VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947 VÀ SỰ CÁO CHUNG CHIẾN LƯỢC "ĐÁNH NHANH, THẮNG NHANH" CỦA THỰC DÂN PHÁP Đại tá,TS. TRẦN NGỌC LONG Tổng biên tập Tạp chí Lịch sử quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam Cách đây 60 năm, ngày 7-10-1947, quân Pháp mở cuộc hành binh đại quy mô tiến công cứ địa Việt Bắc từ 3 hướng: đường không, đường bộ và đường thủy. Trong suốt quá trình chiến tranh xâm lược Đông Dương, ngoại trừ kế hoạch Na-va (1953) nhằm kết thúc chiến tranh trong danh dự, thì đây được coi là cuộc tiến công chiến lược mang nhiều tham vọng nhất của giới cầm quyền Pháp. Thông qua cuộc tiến công này, Pháp hy vọng sẽ kết thúc cuộc xâm lược tái chiếm Việt Nam bằng chiến lược "Đánh nhanh, thắng nhanh". Điều này được thể hiện rất rõ trong các mục tiêu cơ bản được đặt ra cho cuộc hành binh, đó là: chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến Việt Minh; đánh bại chủ lực, phá hủy tiềm lực kháng chiến của đối phương, bít chặt cửa ngõ biên giới... mở đường cho việc thành lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại. 1. Tham vọng lớn.Khác với trước đây, cuộc xâm lược Đông Dương lần này của thực dân Pháp diễn ra trong bối cảnh nước Pháp vừa trải qua cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ 2 (1939-1945). Gánh nặng thời hậu chiến không cho phép Pháp kéo dài cuộc chiến tranh. Xu hướng chung của giới tướng lĩnh cũng như Chính phủ Pháp là muốn kết thúc cuộc tái xâm lược một cách chóng vánh. Kế hoạch của Đác-giăng-li-ơ, Lơ-cle nhằm bình định miền Nam Việt Nam trong vài tuần lễ cũng là nhằm thực hiện mục tiêu đó. Tuy nhiên, đã qua hơn một năm kể từ ngày phát động chiến tranh (23-9-1945), tình hình vẫn không mấy sáng sủa. Chiến phí từ 27 tỷ (năm 1946) đã tăng vọt lên 53 tỷ frăng (1947) vậy mà quân Pháp tại Đông Dương vẫn không thể nhanh chóng kết thúc được cuộc chiến tranh xâm lược như mong muốn; trong khi đó làn sóng phản đối cuộc "chiến tranh bẩn thỉu" này đang ngày càng lan rộng. Bất chấp mọi cố gắng vãn hồi hoà bình từ phía Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được thể hiện trong bức thư gửi Chính phủ Pháp ngày 6-7-1947, giới cầm quyền Pháp vẫn chủ trương tập trung ra một đòn quân sự mang tính quyết định để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến; đồng thời tiếp tục lôi kéo sự ủng hộ của Mỹ, đẩy nhanh việc ve vãn Bảo Đại về nước thành lập chính quyền bù nhìn. Việc chọn địa bàn để thực hiện đòn quân sự mang tính quyêt định ấy diễn ra chóng vánh và không mấy khó khăn. Đó là khu Việt Bắc. Theo hồi ký của Xa-lăng (Salan) 1 (Hồi ký Xa-lăng, Nxb Press de la cite, Paris, 1971) thì mục đích chính của đòn tiến công quân sự này là triệt để tận dụng yêu tế bất ngờ, đánh trúng mục tiêu, chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Là người từng được tiếp xúc và có vốn hiểu biết khá sâu về Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như vai trò của Người đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Xa-lăng cho rằng chỉ cần đập nát "cái đầu Việt Minh" ở khu cố thủ Việt Bắc, nhằm vô hiệu hoá bộ óc và linh hồn của cuộc kháng chiến, thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu của cuộc chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà chỉ mới một ngày sau khi đặt chân tới Hà Nội (23-5-1947), điều quan tâm đầu tiên đối với Xa-lăng là nghiên cứu kỹ kế hoạch di chuyển và nơi đứng chân của các cơ quan đầu não kháng chiến. Trong hồi ký Bên dòng lịch sử, Linh mục Cao Văn Luận cho biết sau khi đến Hà Nội, tướng Xa-lăng và đại tá Đép-bơ (Debes) được mạng lưới mật vụ cho biết "Hồ Chí Minh và Tổng bộ hiện đang trôn tại một vùng rừng núi Việt Bắc". Xa-lăng đề nghị tổ chức một cuộc hành quân nhảy dù đột kích vào nơi đó, trong lúc bề ngoài lên tiếng chấp thuận thương thuyết trở lại với Cụ Hồ và như thế có nhiều hy vọng bắt trọn bộ tham mưu Việt Minh" 1 (Cao Văn Luận, Bên dòng lịch sử, Trí Dũng ấn hành tại Sài Gòn, 1972, tr. 140). Vốn là một viên tướng có thâm niên 13 năm ở Đông Dương đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trận mạc cũng như am hiểu về thuộc địa, vậy nên trước khi sang Việt Nam, Xa-lăng đã được Mu-tê, Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, ủy thác đem 20 tiểu đoàn lên vùng thượng du Bắc Bộ đập tan sức đề kháng của Việt Minh, phong toả vòng cung biên giới Đông Bắc để ngăn chặn làn sóng cộng sản Trung Quốc. Mu-tê yêu cầu "các đơn vị quân Pháp phải lên vùng biên giới trước khi cộng sản Trung Hoa tràn xuống". Trong bản chỉ thị số 3739 của Bộ Pháp quốc hải ngoại, gửi cho Cao ủy Bô-la, tháng 7-1947, một lần nữa nhắc lại rằng "đối với vùng thượng du Bắc Kỳ phải tìm mọi cách ngăn cản không để cho Việt Minh tiếp xúc được phong trào cách mạng ở Trung Quốc". Để tiến hành cuộc tiến công quy mô lên Việt Bắc, Bộ chỉ huy quân Pháp đã tập trung 12 ngàn quân trong tổng số 2 vạn viện binh được tăng cường từ chính quốc và thuộc địa. Nội dung bản kế hoạch hành binh Thu - Đông của địch, mà ta thu được ngày 9-10-1947, cho thấy cuộc hành binh này dự định chia làm 2 bước: Bước 1: mang mật danh Lê-a, địa bàn tập trung chủ yếu vào khu tam giác Bắc Kạn - Chợ Đồn. Theo đó ngày 7-10, quân dù chiếm Bắc Kạn, Chợ Mới; ngày 8-10, chiếm chợ Đồn và càn quét vùng phụ cận; ngày 9-10 hội quân ở Bản Poi; ngày 10-10, binh đoàn cơ giới chiếm Cao Bằng sau đó kéo xuống Bắc Kạn cùng với lực lượng ở Chợ Đồn hợp điểm ở Đài Thị, để ngày 13-10 hội quân với cánh quân phía tây từ Đoan Hùng, Tuyên Quang đánh lên... Bước 2: mang mật danh Clô-clô, địa bàn trọng điểm là Chợ Chu. Theo đó, ngày 14 đánh huyện lỵ Định Hoá... tiến hành lùng sục càn quét khu tam giác Bắc Cạn, Chợ Chu - Chợ Mới. Ý đồ chiến lược của cuộc hành binh này là hình thành hai gọng kìm kẹp chặt căn cứ địa Việt Bắc. Địa bàn của cuộc hành binh trải rộng trên 8 tỉnh mà trung tâm là khu tứ giác Tuyên Quang - Đài Thị - Bắc Kạn - Thái Nguyên, trong đó trọng điểm là vùng Bắc Kạn - Chợ Chu - Chợ Mới, nơi được coi là "đại bản doanh" của Tổng bộ Việt Minh. Xét về mục tiêu đánh chiếm, quy mô lực lượng, không gian hoạt động đủ thấy tham vọng lớn của Bộ chỉ huy quân Pháp và tâm chiến lược của cuộc hành binh "đại quy mô" này. Sau khi bỏ ra 10 ngày cùng các cộng sự và thuộc cấp nghiên cứu, tìm hiếu cả trên sa bàn lẫn đi thị sát thực địa... Xa-lăng đã hoàn thiện bản kế hoạch tiến công lên Việt Bắc. Theo đó quân dù thiện chiến sẽ được ném xuống thị xã Bắc Kạn để "cất vó" chính phủ kháng chiến. Hai gọng kìm lớn ôm toàn bộ tứ giác Cao Bằng - Lạng Sơn - Vĩnh Yên - Tuyên Quang sẽ bóp nát chủ lực Việt Minh. Hướng Tây và Tây Bắc (Hoà Bình - Yên Bái - Lào Cai) là hướng phối hợp và nghi binh. Việc bảo đảm nhu cầu vật chất cho cuộc hành binh sẽ được huy động từ đồng bằng lên. Sau này, trong hồi ký của mình, chính Xa-lăng tiết lộ rằng ông ta đã trực tiếp ra lệnh cho trung tá Xô-va-nhắc chỉ huy Binh đoàn S nhảy dù xuống Bắc Kạn; trung tá Bô-phrê chỉ huy Binh đoàn B theo đường bộ tiến lên Cao Bằng, khoá chặt đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc; trung tá Com-muy-nan, chỉ huy Binh đoàn E, tiến theo sông Lô và sông Gâm khoá chặt sườn phía tây của khu căn cứ Việt Minh, sát trục đường Việt Trì - Chiêm Hoá 1 (Hồi ký Xa-lăng, Sđd). Bản kế hoạch chứa đầy tham vọng này nhanh chóng được phê duyệt. Xa-lăng là người trực tiếp chỉ huy cuộc hành binh tiến công Việt Bắc cho rằng "chỉ cần ba tuần lễ để đập tan đầu não của Việt Minh". Và đúng như kế hoạch đã được phê duyệt, sáng ngày 7-10-1947, cuộc tiến công của quân Pháp lên Việt Bắc bắt đầu bằng việc quân dù bất ngờ nhảy xuống thị xã Bắc Kạn, Chợ Mới. Cùng ngày, Binh đoàn cơ giới từ Lạng Sơn tiến về Cao Bằng. Tiếp đó, ngày 9-10, cánh quân theo Đường sông tiến lên Tuyên Quang, Chiêm Hoá...
|
|
|
Logged
|
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
|
|
|
quansuvn
Moderator
Bài viết: 6589
|
|
« Trả lời #136 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2021, 10:46:59 am » |
|
2. Thất bại đau
Sau 75 ngày đêm, kế hoạch hợp điểm không thực hiện được (binh lực bị phân tán, tiêu hao nhiều do bị đánh khắp nơi và do không quen khí hậu, địa hình, công tác tiếp tế khó khăn); không dụ được đối phương vào thế trận của một cuộc đọ sức chính quy; không chụp bắt được cơ quạn đầu não kháng chiến; không phá huy được tiềm lực kháng chiến của Việt Minh... hay nói một cách khác, các mục tiêu chủ yếu của cuộc hành binh Thu - Đông đều không thực hiện được, nên Bộ chỉ huy quân Pháp buộc phải ra lệnh rút lui khỏi Việt Bắc, kết thúc cuộc hành binh mang đầy tham vọng này trong ê chê và thảm bại. Lần giở những trang hồi ký của Xa-lăng có thể thấy "điểm gở" của cuộc tiến công lên Việt Bắc đã được dự báo trước, khi nó mới diễn ra được ba tuần. Lúc đó, cả Cao ủy Bô-la lẫn tướng Xa-lăng đều nhận thấy: "quân Pháp tuy chiếm được một số thị trấn, thị xã nhưng lực lượng đã bị dàn mỏng trên những vị trí cô lập, quá xa nhau, thường xuyên bị đối phương quấy rối, tiến công”.
"Quân Pháp bị thiệt hại quá nhiều về người và phương tiện tăng viện và tiếp tế chỉ còn dựa vào đường không là chính, vừa tốn kém, vừa rất khó khăn vì không đủ máy bay. Tuy quân Pháp lùng sục vào một vài kho tàng ở Bắc Kạn, Chợ Đồn nhưng các mục tiêu chủ yếu của chiến dịch đều không đạt được" .
Mặc dầu vậy, cũng cần phải thấy rằng quyết định mở cuộc tiến công lên Việt Bắc, cũng như đặt ra các mục tiêu cho nó, không phải là một hành động quân sư vội vàng, thiếu cân nhắc. Chính Va-luy chứ không phải ai khác đã từng nhận xét rằng Việt Nam lúc này không còn là những cộng đồng riêng lẻ như trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương lần thứ nhất để người Pháp có thể đánh chiếm bằng phương thức bình định cổ truyền. Xã hội Việt Nam ngày nay là một cấu trúc hình tháp, có kết cấu bằng một ý thức hệ, được lãnh đạo chặt chẽ từ bên trên. Vì vậy, muốn tái chiếm Việt Nam trước hết phải "đập nát cái đầu" là Việt Minh, là chính phủ Hồ Chí Minh, phải chiếm được "khu cố thủ" Việt Minh ở Việt Bắc.
Cái sai lầm "chết người" của Bộ chỉ huy quân Pháp dẫn đến thất bại chính là việc đưa 12.000 quân vào một địa bàn núi rừng hiểm trở. Việt Bắc, khí hậu khắc nghiệt, điều kiện tiếp tế khó khăn để rồi rơi vào thế trận chiến tranh nhân dân thiên la địa võng mà Việt Minh giăng ra khắp nơi. Hy vọng vào một cuộc chạm trán chính quy để nghiền nát chủ lực đối phương đã không thành hiện thực.
Thất bại đau của quân Pháp chính là việc phải trả giá quá đắt cho một canh bạc mà Bộ chỉ huy của họ đặt cược vào đấy quá cao; vừa bị tổn thất lớn về binh lực và vũ khí, trang bị; trong khi đó lại không đạt được một mục tiêu chủ yếu nào của cuộc tiến công. Xa-lăng và Bộ chỉ huy của quân đội Pháp đã không chụp bắt được cơ quan đầu não kháng chiến của Việt Minh, cho dù trước đó đã bỏ ra khá nhiều công sức để nghiên cứu, theo dõi từng bước di chuyển của các cơ quan đầu não Việt Minh. Cuộc hành binh Lê-a, với cú nhảy dù táo bạo và bất ngờ xuống thị xã Bắc Kạn tuy có làm cho ta bị động lúng túng lúc đầu và gây một số thiệt hại, mất mát nhất định (cụ Nguyễn Văn Tố - nguyên Trưởng ban Thường trực Quốc hội và là Bộ trưởng không bộ bị địch bắt và bắn chết khi chúng nhảy dù xuống trụ sở Liên tỉnh bộ Việt Minh), nhưng các cơ quan đầu não kháng chiến vân an toàn và mọi hoạt động lãnh đạo điều hành cuộc kháng chiến toàn quốc vẫn diễn ra bình thường.
Quân Pháp cũng không thể "bóp chết" được chủ lực Việt Minh. Trái lại, qua cuộc chạm trán và đọ sức với những đội quân thiện chiến và tinh nhuệ của Pháp, bộ đội ta đã có bước trưởng thành vượt bậc cả về bản lĩnh chiến đấu lẫn trình độ tổ chức, chỉ huy tác chiến. Đặc biệt, Quân đội nhân dân Việt Nam đã có bước phát triển về hình thức chiến thuật và phương thức tổ chức lực lượng (tích lũy kinh nghiệm "du kích chiến", "vận động chiến", tổ chức "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung"). Ngoài ra, chúng ta còn thu được một số lượng lớn vũ khí của địch để trang bị cho lực lượng vũ trang còn non trẻ và thiếu thốn.
Đối với mục tiêu "triệt phá tiềm lực kháng chiến", thực dân Pháp có gây cho ta một số thiệt hại nhất định do công tác tiêu thổ kháng chiến, tản cư ở một số địa phương triển khai chậm chạp, thiếu kiên quyết; việc di chuyển, sơ tán cơ quan, công binh xưởng, kho tàng còn dở dang, địch thu được của ta 10 triệu tiền Việt Nam của Ty Ngân khố... Tuy nhiên, xét về tổng thể, những thiệt hại, mất mát đó không thấm vào đâu so với "tiếm lực kháng chiến" hiện hữu, vì phần lớn hệ thống kho tàng của ta đều được bố trí phân tán và rộng khắp trong núi rừng Việt Bắc bao la. Hơn nữa, ’'tiềm lực kháng chiến" của ta chủ yếu là nằm trong dân, bởi cuộc chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân.
Quân Pháp cũng không thể bịt kín được cửa ngõ biên giới phía Bắc cho dù chúng đã dày công dựng lên "lá chắn Bô-phrê" để khoá chặt biên giới Việt - Trung. Quân Pháp chiếm được Lạng Sơn, Thất Khê, Đông Khê, Cao Bằng và lập được một số đồn bốt khác trên biên giới phía Bắc, nhưng, đều chỉ là những vị trí cô lập nằm giữa vùng kiểm soát rộng lớn của ta mà thôi. Đường số 4 - trục xương sống của "lá chắn Bô-phrê", nối Lạng Sơn với Cao Bằng, trở thành "con đường lửa", "con đường tử thần".
Tham vọng lớn, thất bại đau. Trong cuộc hành binh Thu - Đông 1947 lên Việt Bắc, Bộ chỉ huy quân Pháp đã nuôi tham vọng bằng một hành động quân sự đại quy mô, có thế sớm kết thúc được cuộc chiến. Song, tham vọng đó đã tan biến, dẫn đến sự thất bại bi thảm của chiến lược ’’đánh nhanh, thắng nhanh".
Sau thảm bại này, hầu hết nội các Ra-ma-đi-ê buộc phải từ chức; Mu-tê mất ghê trong nội các mới. Tổng chỉ huy Va-luy, rồi tiếp đó là tướng Xa-lăng lần lượt bị triệu hồi.
Hệ lụy từ thất bại cuộc hành binh Thu - Đông 1947 của thực dân Pháp đã vượt qua ngưỡng của một cuộc tiến công thông thường. Thất bại này là một thất bại chiến lược nặng nề, khai tử cho chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh", buộc thực dân Pháp phải bị động, chấp nhận theo đuổi một cuộc chiến tranh kéo dài ngoài ý muốn.
|
|
|
Logged
|
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
|
|
|
quansuvn
Moderator
Bài viết: 6589
|
|
« Trả lời #137 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2021, 10:49:58 am » |
|
CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947 - MỐC ĐÁNH DẤU SỰ RA ĐỜI CỦA CHIẾN DỊCH VÀ NGHỆ THUẬT CHIẾN DỊCH VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP Đại tá PHẠM HỮU THẮNG Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử nghệ thuật quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp mở đầu cuộc tiến công quy mô lớn lên căn cứ địa Việt Bắc hòng phá căn cứ địa kháng chiến, chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, giành thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh. Mặc dù những ngày đầu ta bị động, song ngay sau đó, Thường vụ Trung ương Đảng cùng Bộ Tổng chỉ huy đã bình tĩnh, sáng suốt, lãnh đạo chỉ đạo quân và dân ta vượt qua thế bất lợi, tổ chức chiến dịch phản công, từng bước giành lại thế chủ động đánh địch và cuối cùng đã làm thất bại cuộc hành binh đầy tham vọng của kẻ thù. Chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947 giành thắng lợi có ý chiến lược quan trọng và là mốc đánh dấu sự ra đời của chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Tiến công lên Việt Bắc, thực dân Pháp đã huy động 12 nghìn quân (5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiêu đoàn pháo, 2 tiểu đoàn công binh, 3 đại đội cơ giới, 2 phi đội với 40 máy bay, 3 thủy đội xung kích với 40 tàu xuồng). Kế hoạch tiến công dự kiến theo hai bước, do tướng Xa-lăng trực tiếp chỉ huy. Bước thứ nhất mang mật danh Lê-a, địch cho quân dù đổ bộ càn quét khu vực Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Đồn, đồng thời sử dụng bộ binh cơ giới và quân thủy hình thành hai cánh quân như hai gọng kìm, từ hướng đông và tây, tiến hành bao vây chặt vùng căn cứ địa Việt Bắc. Cánh quân hướng Đông, Binh đoàn do Bô-phơ-rê chỉ huy, từ Lạng Sơn theo đường số 4, đánh chiếm Cao Bằng, Bắc Kạn, phong toả biên giới Việt - Trung, tạo thành gọng kìm dài hơn 420km kẹp toàn bộ phía đông Việt Bắc. Cánh quân hướng tây, Binh đoàn do Com-muy-nan chỉ huy, từ Hà Nội theo sông Hồng, sông Lô, qua Việt Trì đánh lên Tuyên Quang, Chiêm Hoá, tạo nên gọng kìm dài 250km. Dự kiến sau một tuần, hai cánh quân sẽ hội quân tại Đài Thị (đông bắc Chiêm Hoá 12km). Bước thứ hai mang mật danh Clô-clô, địch sẽ theo các hướng Bắc Kạn đánh xuống, Chợ Mới đánh sang, kết hợp với quân dù nhảy xuống Chợ Chu và phía nam Định Hoá, tiến hành càn quét lùng sục khu vực Bắc Kạn - Chợ Chu - Chợ Mới, trong đó trọng điểm càn quét là khu vực Chợ Chu. Mưu đồ của Pháp là sử dụng sức mạnh hiệp đồng thủy - lục - không quân, táo bạo đánh sâu vào vùng căn cứ địa Việt Bắc, tạo yếu tố bất ngờ, tiến hành càn quét từng khu vực, từng bước thu hẹp vòng vây để thực hiện triệt để các mục tiêu đề ra. Sau những ngày điều chỉnh lực lượng, khắc phục tình trạng bị động ban đầu và thông qua việc thu được kế hoạch của địch, Bộ Tổng chỉ huy đã đưa ra nhận định địch hình thành hai gọng kìm lớn kẹp lấy căn cứ địa Việt Bắc; điểm mạnh của địch là ưu thế về máy bay, pháo binh, cơ giới, nhưng ưu thế đó không thể phát huy được đầy đủ trên chiến trường rừng núi, nhất là trong điều kiện thời tiết mùa đông; điểm yếu nổi bật của chúng là lực lượng phải dàn mỏng trên một chiến trường rộng, rất xa hậu phương, buộc phải dùng các trục đường bộ và đường sông để giải quyết vấn đề tiếp tế, tăng viện. Về ta, trình độ tổ chức chỉ huy, trang bị và khả năng chiến đấu của bộ đội không cho phép dùng đơn vị lớn bộ đội chủ lực đối mặt với bộ binh, cơ giới địch cũng như trực tiếp tiến công vào các vị trí đã được củng cố của chúng. Từ nhận định trên, Bộ Tổng chỉ huy chủ trương lấy mục tiêu tác chiến chủ yếu là quân địch vận động trên bộ và trên sông. Cụ thể, hình thành ngay ba mặt trận: Sông Lô - Đường số 2, Cao Bằng - Đường số 4, Bắc Kạn - Đường số 3 với binh lực khoảng 20 tiểu đoàn chủ lực; dùng đơn vị nhỏ cỡ đại đội, tiểu đoàn, với hình thức tác chiến chủ yếu là phục kích, để tiêu hao, tiêu diệt địch, ngăn chặn việc tiếp tế, tăng viện, tiến tới bẻ gãy từng gọng kìm của chúng, trước hết là gọng kìm phía tây; cần thực nghiệm ngay '’đại đội độc lập" về các châu, huyện giúp đỡ lực lượng vũ trang địa phương phát động chiến tranh du kích, tiêu hao địch rộng rãi, hạn chế khả năng càn quét, lùng sục của chúng trong vùng sâu căn cứ địa; dân quân du kích phải triệt để thực hiện nhiệm vụ phá hoại đường sá, cầu cống, giúp nhân dân làm "vườn không, nhà trống", hạn chế tổn thất về người và của; trong điều kiện thông tin liên lạc còn hạn chế, Bộ Tổng chỉ huy sẽ trực tiếp điều hành hoạt động của bộ đội chủ lực trên các mặt trận. Thực hiện chủ trương của Bộ Tổng chỉ huy, hạ tuần tháng 10, Mặt trận Sông Lô - Đường số 2, Mặt trận Bắc Kạn - Đường số 3 và Mặt trận Cao Bằng - Đường số 4 lần lượt hình thành. Lực lượng tác chiến ở các mặt trận này gồm một số tiểu đoàn tập trung của Bộ và các khu của Việt Bắc. Mặt trận Sông Lô - Đường số 2 do các đồng chí Trần Tử Bình và Tạ Xuân Thu chỉ đạo. Mặt trận này có nhiệm vụ đánh địch hành quân, vận chuyển trên sông, trên bộ, ngăn chặn việc tiếp tế, tăng viện của chúng, tiến tới bẻ gãy gọng kìm phía tây. Mặt trận Bắc Kạn - Đường số 3 do đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách, có nhiệm vụ tiêu hao, tiêu diệt quân địch cơ động trên đường Bắc Kạn - Cao Bằng, bảo vệ các cơ quan Trung ương trong khu vực trung tâm căn cứ địa. Mặt trận Cao Bằng - Đường số 4, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ đạo, có nhiệm vụ đánh địch cơ động trên đường 4, đoạn Lạng Sơn - Cao Bằng, từng bước vô hiệu hoá gọng kìm phía đông. Tất cả ba mặt trận đặt dưới sự chỉ đạo chung của Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy. Thường trực tại cơ quan Bộ Tổng chỉ huy do Cục trưởng Cục Chính trị Văn Tiến Dũng đảm nhiệm.
|
|
|
Logged
|
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
|
|
|
quansuvn
Moderator
Bài viết: 6589
|
|
« Trả lời #138 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2021, 10:50:43 am » |
|
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các mặt trận, bộ đội chủ lực trên từng hướng đã phối hợp với dân quân du kích tổ chức thành công nhiều trận phục kích đánh quân địch vận chuyển trên bộ và trên sông. Trên hướng tây sông Lô, rút kinh nghiệm từ những trận đánh không thành công, bộ đội pháo binh mạnh dạn bố trí pháo ở sát bờ sông, đồng thời tổ chức các lực lượng bảo vệ pháo, nghi binh lừa địch, đã liên tiếp đánh thắng nhiều trận, bắn chìm nhiều tàu địch. Đặc biệt, trận Đoan Hùng (24-10), bắn chìm 2 tàu, bắn bị thương 2 tàu khác, diệt nhiều địch buộc chúng phải ngừng hoạt động trên tuyến sông Lô nhiều ngày.
Trên hướng Đường số 4, sau khi phân chia thành các đại đội độc lập, các đơn vị của hai trung đoàn Lạng Sơn và Cao Bằng tích cực thực hiện du kích chiến, phát động cuộc chiến đấu toàn dân, góp phần ngăn chặn đường tiến công xuyên ngang của địch vào căn cứ địa. Đặc biệt, ngày 29-10, Tiểu đoàn 249 của Trung đoàn 11 Lạng Sơn tổ chức thành công trân phục kích trên đường 4, đoạn Bản Sao - đèo Bông Lau, phá hủy 27 xe quân sự, diệt 94 lính Âu - Phi, 51 lính ngụy, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Đây là một trong những trận thắng giòn giã nhất của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947. Trận đánh đã cắt đứt Đường số 4 nhiều ngày, buộc địch phải dùng máy bay tiếp tế cho lực lượng ở Cao Bằng, Bắc Kạn và tổ chức đóng thêm nhiều đồn bốt để bảo vệ việc vận chuyển trên đường 4.
Triển khai các tiểu đoàn tập trung trên ba mặt trận, lấy phục kích đánh quân địch vận chuyển trên bộ, trên sông là chủ yếu, quân và dân ta đã nhằm vào chỗ yếu của địch là buộc phải cơ động trên đường bộ, Đường sông để giải quyết vấn đề tăng viện, tiếp tế. Những trận đánh điển hình như trận km số 7 trên đường số 2 (22-10), trận Khoan Bộ (23-10), Đoan Hùng (24-10), Khe Lau (10-11) trên sông Lô, trận Bông Lau (30-10) trên đường 4, v.v, là những trận đánh hiểm, bất ngờ, những trận phục kích đạt hiệu quả cao, góp phần hạn chế khả năng tập trung binh lực thọc sâu, hợp điểm thực của địch.
Cùng với các hoạt động của các tiểu đoàn tập trung, 30 đại đội độc lập của ta triển khai về các huyện trọng điểm thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng và Tuyên Quang tích cực phát động chiến tranh du kích, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc. Các trận tập kích quấy rối, phục kích của ta đã làm cho quân Pháp hàng ngày, hàng giờ bị tiêu hao sinh lực. Chúng đi đến đâu cũng gặp phải cảnh "vườn không, nhà trống" và bị cuốn vào lối đánh du kích của quân và dân ta.
Sau 1 tháng tiến hành cuộc tiến công, quân Pháp ngày càng khó khăn trong việc thực hiện kế hoạch hợp điểm của cuộc hành quân. Hai cánh quân Com-muy-nan (gọng kìm phía tây) và Bô-phơ-rê (gọng kìm phía đông) đều bị tổn thất và bắt đầu rút bở các vị trí lẻ về tập trung ở Bắc Kạn và Tuyên Quang. Không thể tiếp tục tiến công Việt Bắc như kế hoạch ban đầu đề ra, Bộ chỉ huy quân Pháp quyết định rút dần lực lượng đồng thời tổ chức càn quét trên đường rút quân.
Các tiểu đoàn chủ lực của ta bám sát các cánh quân rút lui của địch, vừa tổ chức đánh địch vừa bố trí lực lượng bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến. Tuy nhiên, do nắm địch không chắc và chưa có kinh nghiệm đánh địch rút quân nên ta không tổ chức được những trận quy mô lớn theo dự kiến của Bộ Tổng chỉ huy. Ngày 19-12-1947, đúng một năm sau ngày Toàn quốc kháng chiến, đại bộ phận quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc, chấm dứt cuộc tiến công chiến lược đầy tham vọng của chúng.
Kết quả, toàn chiến dịch, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, bắn rơi 18 máy bay, bắn chìm 16 tàu chiến và 38 ca nô, phá hủy 255 xe quân sự, hơn 100 khẩu pháo cối các loại cùng hàng nghìn súng bộ binh, thu nhiều quân trang quân dụng.
Cuộc chiến đấu đánh bại cuộc tiến công chiến lược của thực dân Pháp lên Việt Bắc Thu - Đông 1947 đã đặt dấu chấm hết cho chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của địch, đồng thời là cuộc chiến đấu vượt xa phạm vi các đợt tác chiến trước đó và được xác định là mốc đánh dấu sự ra đời của chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Nhìn lại đợt tác chiến trong các đô thị hồi đầu Toàn quốc kháng chiến, đặc biệt là tại thủ đô Hà Nội, ta thấy không gian và thời gian của các đợt tác chiến đã vượt ra ngoài pham vi của từng trận đánh cụ thể và đã là không gian, thời gian của nhiều trận đánh đồng thời và kế tiếp, có tác dụng hỗ trợ tác động qua lại ở một mức độ nhất định. Về tổ chức chỉ huy ở từng mặt trận đã có sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất từ khâu chuẩn bị đến thực hành chiến đấu; biết điều hành phối hợp các trận đánh đồng thời và kế tiếp, ở nhiều hướng, nhiều khu phố, buộc địch phải phân tán đối phó nhiều nơi; biết tổ chức các hoạt động tác chiến nghi binh lừa địch để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính... Tuy nhiên, các yếu tố trên chỉ là những nội dung, manh nha tạo cơ sở, hình thành, phát triển chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch Việt Nam sau này.
Cho đến tháng 9-1947, chấp hành Nghị quyết Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 4, Bộ Tổng chỉ huy mỏ lớp tập huấn cán bộ về công tác chỉ huy, tham mưu về cách đánh, thì khái niệm chiến dịch mới được đề cập tới. Tại hội nghị này, Bộ Tổng chỉ huy lần đầu tiên xác định chiến dịch là "một loạt các trận chiến đấu, với một binh lực cụ thể, trong khoảng thời gian và không gian nhất định, nhằm giải quyết một số mục đích yêu cầu của chiến đấu nhất định". Khái niệm tuy còn sơ khai, chưa hoàn chỉnh nhưng đã tạo sự nhất trí ban đầu về một vấn đề lớn trong chỉ đạo hoạt động tác chiến, làm cơ sở lý luận hết sức quan trọng cho sự phát triển của chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch Việt Nam.
Kế thừa kinh nghiệm các đợt tác chiến hồi đầu Toàn quốc kháng chiến, đồng thời có sự chuẩn bị trước về lý luận, nên khi thực dân Pháp mở cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc, chúng ta đã tiến hành một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược nhằm đánh bại cuộc tiến công của địch. Trước cuộc tiến công ồ ạt, mạo hiểm, với ưu thế về binh khí, kỹ thuật của địch, chúng ta đã không "phòng ngự theo lối trận địa, lập phòng tuyến cô định, đào hào đắp lũy, giữ đất một cách cứng đờ", mà mở chiến dịch phản công "phối hợp các chiến thuật du kích, vận động mà tiến công, bao vây địch, chặt đứt đường giao thông, tiếp tế của địch, đánh bên sườn hoặc sau lưng địch, khiến địch phải rút lui, hoặc đánh vào chỗ yếu, khiến địch phải chia sẻ một phần lực lượng đang tiến công ta đem ứng cứu chỗ đó"1 (Trường Chinh, Kháng chiến nhất định thắng lợi, Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1995, tr. 107).
|
|
|
Logged
|
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
|
|
|
quansuvn
Moderator
Bài viết: 6589
|
|
« Trả lời #139 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2021, 10:51:17 am » |
|
Trong điều kiện không gian chiến dịch rộng (gồm địa bàn các khu 1, 10 và 12), lực lượng lớn, phân tán (13 trung đoàn và 11 tiểu đoàn chủ lực cùng lực lượng địa phương các tỉnh), trình độ tổ chức chỉ huy, phương tiện thông tin còn hạn chế, Bộ Tổng chỉ huy đã trực tiếp chỉ huy, điều hành chiến dịch, đồng thời tổ chức thành ba mặt trận đánh địch trên ba hướng. Đây là phương án tổ chức, chỉ huy chiến dịch tối ưu, vừa tạo khả năng độc lập tác chiến trên từng mặt trận, vừa tạo điều kiện cho sự phối hợp hoạt động của toàn chiến trường.
Trong chỉ huy, điều hành chiến dịch, ta đã xác định đúng hướng phản công, điều chỉnh lực lượng, tạo thế trận có lợi, bẻ gẫy từng gọng kìm, phá thế hợp vây của địch. Sau khi nắm được kế hoạch hành quân của địch, Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã chỉ rõ thế mạnh của địch là ở hai gọng kìm, ta bẻ gãy từng gọng kìm thì cuộc tiến công của địch sẽ thất bại. Ta còn xác định đúng những điểm yếu cơ bản ngay trong chỗ mạnh của hai gọng kìm: lực lượng bị rải ra trên các trục đường bộ. Đường sông quá dài, địa hình hiểm trở thời tiết không thuận lợi, quá xa căn cứ, vận tải tiếp tế khó khăn.
Từ xác định đúng ý đồ và mạnh yếu của địch, ta đã kịp thời điều chỉnh lực lượng, tạo thế có lợi, từng bước phá kế hoạch bao vây, hợp điểm của chúng. Với 20 tiểu đoàn bộ binh và pháo binh tập trung triển khai trên ba mặt trận - ba hướng đã lựa chọn, không những ta đã tránh được cái mạnh của địch mà còn từng bước: vô hiệu hoá, tiến tới bẻ gãy từng gọng kìm của chúng, trên hướng tây (sông Lô - đường số 2). "Những nhát búa tiến công của địch đã giáng vào chân không... Chúng ta đã kịp thời khai thác đúng chỗ yếu nhất của cuộc tiến công là những đoàn quân xa, những chiến thuyền buộc phải thường xuyên di chuyển trên những trục đường bộ, đường sông nhất định để duy trì sức sống cho một đạo quân lớn không thể tìm ra lương thực, đạn dược ở địa phương. Nó cho phép những đơn vị nhỏ của ta với trình độ, trang bị hạn chế có thể giáng trả quân địch những đòn hiệu quả”1 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1995, tr. 210).
Trong chiến dịch, ta đã tổ chức binh lực thích hợp, chỉ đạo cách đánh sáng tạo, vừa tiêu hao lực lượng địch, vừa bảo toàn và rèn luyện nâng cao trình độ tác chiến của bộ đội ta. Trước khi bước vào chiến dịch, bộ đội chủ lực của Bộ và 3 khu gồm hàng chục trung đoàn và tiểu đoàn độc lập. Triển khai kế hoạch tác chiến chiến dịch, chúng ta mạnh dạn phân tán bộ đội chủ lực thành các "đại đội độc lập" và "tiểu đoàn tập trung" biên chế gọn nhẹ. Các đại đội độc lập về hoạt động ở các châu, huyện trên địa bàn 3 khu phát triển chiến tranh du kích, phát động toàn dân tham gia đánh giặc, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, tạo điều kiện cho các tiểu đoàn chủ lực tập trung của ta đánh địch trên ba mặt trận chính. Trên cơ sở chiến tranh du kích phát triển, bộ đội tập trung ở quy mô tiểu đoàn của ta đã thực hiện được một số trận chiến đấu phục kích thành công, gây nhiều thiệt hại và khó khăn cho địch. Quân Pháp càng đi sâu vào căn cứ địa Việt Bắc càng bị bao vây, cô lập và bị tiêu hao từng bộ phận.
Trên cả ba mặt trận, bộ đội tác chiến với quy mô tiểu đoàn, đại đội và hình thức phục kích là phổ biến. Đặc biệt trên Mặt trận Sông Lô - Đường số 2, ta còn kết hợp bộ binh đánh trên bộ với pháo binh đánh trên sông. Mục tiêu chính của bộ đội ta là nhằm vào các đơn vị nhỏ địch đang vận động hoặc các đoàn xe, đoàn tàu vận chuyển trên bộ, trên sông. Bằng cách đánh đó, ta đã khoét sâu chỗ yếu cơ bản của địch khi thoát ly công sự, thoát ly sự chi viện của không quân và pháo binh.
Tổ chức binh lực thích hợp, dùng cách "đánh nhỏ ăn chắc”, phối hợp tác chiến của các "tiểu đoàn tập trung" với hoạt động của các "đại đội độc lập" và lực lượng vũ trang tại chỗ, quân và dân ta đã làm thất bại cuộc tiến công của địch đồng thời vừa trưởng thành trong thực tế chiến đấu, vừa góp phần đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trên toàn chiến trường Việt Bắc. Thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, khẳng định chủ trương tổ chức "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" là đúng đắn và phù hợp với điều kiện trang bị, trình độ tác chiến của lực lượng vũ trang cùng đặc điểm chiến trường của ta lúc bấy giờ. "Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" là một bước sáng tạo về nghệ thuật dùng binh và đã trở thành phương thức cần thiết để phát động phong trào toàn dân đánh giặc, tạo thế, tạo lực cho "du kích chiến" phát triển và "du kích vận động chiến" có đà đi lên trên phạm vi chiến trường cả nước.
Cuộc tiến công của thực dân Pháp lên căn cứ địa Việt Bắc trong Thu - Đông 1947 là một thử thách vô cùng quyết liệt đối với toàn quân và toàn dân ta trong năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc. Bằng ý chí kiên cường, tinh thần quyết chiến, quyết thắng và trí thông minh sáng tạo, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã kịp thời đưa ra những biện pháp thích hợp, xoay chuyển tình thế, từng bước giành lại thê chủ động đánh địch và tiến tới làm thất bại hoàn toàn mưu đồ của cuộc hành binh. Nếu như các đợt tác chiến hồi đầu Toàn quốc kháng chiến bắt đầu xuất hiện các yếu tố manh nha của chiến dịch và nghệ thuật chiến dịch thì cuộc chiến đấu của quân dân ta ở Việt Bắc trong Thu - Đông 1947 là mốc đánh dấu sự ra đời của chiến dịch. Những bài học nêu trên rút ra từ chiến dịch phản công Việt Bắc là những kinh nghiệm đầu tiên rất cơ bản về nghệ thuật chiến dịch và cũng là mốc đánh dấu sự hình thành rõ nét nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
|
|
|
Logged
|
Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
|
|
|
|