Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 06:41:58 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông 1947-Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt  (Đọc 7382 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #110 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2021, 02:12:44 pm »

Đầu tháng 10-1947, để thực hiện kế hoạch "Lê-a" tấn công lên Việt Bắc, Bộ chỉ huy Pháp đã điều Trung đoàn Ma-rốc số 5 lên Đình Lập - Lạng Sơn. Địch đóng quân dọc đường số 4 và đường số 1, tiến hành nâng cấp sân bay Mai Pha, lấy Lạng Sơn làm bàn đạp quan trọng phục vụ cho âm mưu tiến công chiến lược của chúng.


Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp sử dụng một lực lượng lớn gồm 12.000 quân cùng nhiều xe tăng, máy bay, đại bác, theo 2 hướng, kết hợp với quân nhảy dù mở cuộc hành binh chiến lược lên Việt Bắc. Lạng Sơn nằm trên hướng tiến công phía Đông, là một trong những hướng chủ yếu của địch.


Sáng ngày 7-10, cánh quân bộ do Bô-phơ-rê chỉ huy, từ Đình Lập tiến theo đường số 4 lên Cao Bằng. Do ta thực hiện tốt công tác phá hoại trên đường số 4, nên quân Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong cơ động, vừa đi vừa phải dò đường và lấp các hố chướng ngại. Khi đến Khuổi Slin, Khuổi So thì bị Đại đội huyện Thoát Lãng cùng dân quân du kích chặn đánh, tiêu diệt nhiều tên địch. Những ngày tiếp sau, các địa phương trên trục đường đã dùng chiến thuật du kích, đánh địa lôi, phục kích trên đường hành quân của địch, phải mất nửa tháng địch mới rải xong quân dọc đường số 4 từ Lạng Sơn lên Cao Bằng.


Quyết tâm chặt đứt đường số 4, phối hợp với toàn mặt trận, đập tan kế hoạch tiến công lên Việt Bắc của địch, đó là nhiệm vụ nặng nề, đồng thời là ý chí quyết tâm của Đảng bộ, quân và dân tỉnh Lạng Sơn. Tỉnh đội bộ dân quân đã điều Tiểu đoàn 249 phối hợp với dân quân du kích các địa phương, làm nhiệm vụ cơ động phục kích tiêu diệt địch trên đường số 4 từ Lạng Sơn lên Cao Bằng.


Hưởng ứng lời kêu gọi nhân dân, bộ đội và dân quân du kích ra sức tiêu diệt địch của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị ngày 15-10-1947 của Ban Thường vụ Trung ương "Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp", Tỉnh ủy Lạng Sơn đã đề ra chủ trương củng cố các căn cứ an toàn, nêu cao cảnh giác, đối phó với âm mưu bao vây và thọc sâu của địch vào căn cứ địa Việt Bắc, phát triển chiến tranh du kích ở những vùng địch tạm chiếm, tổ chức tiến công, phục kích, tập kích, phá hủy cầu cống, đường giao thông quan trọng, tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, tập trung chủ yếu vào những nơi chúng đóng quân dọc đường số 4.


Ngày 30-10-1947, Tiểu đoàn 249 Lạng Sơn phối hợp với dân quân du kích phục kích trên đèo Bông Lau - Lũng Phầy, chặn đánh một đoàn xe cơ giới của địch. Chỉ sau một thời gian ngắn chiến đấu, Tiểu đoàn 249 đã làm chủ trận địa, tiêu diệt đoàn xe cơ giới của Pháp; phá hủy 27 xe quân sự, tiêu diệt 94 lính Âu - Phi, 55 lính ngụy, bắt sống 101 tên, thu 600 chiếc dù và toàn bộ vũ khí, quán trang quân dụng. Sau chiến thắng này, Tiểu đoàn 249 đã vinh dự được mang danh hiệu "Tiểu đoàn Bông Lau” và được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì. Đây là một trong những trận đánh có hiệu suất chiến đấu cao, thắng giòn giã của ta kể từ khi quân Pháp mở cuộc tiến công lên Việt Bắc. Trận Bông Lau - Lũng Phầy là một đòn đánh mạnh, đánh hiểm vào giao thông, tiếp viện của địch, đẩy quân địch ở chiến trường Việt Bắc vào tình cảnh hoang mang lo sợ.


Tên quan năm Các-bô-nen đã báo cáo với Bộ chỉ huy Pháp ở Hà Nội như sau:

"Địch (Việt Minh) quấy rối cứ điểm và đường giao thông ta luôn không ngớt, đã có nhiều trận khá to (ý nói trận Bông Lau) chứng tỏ địch gan góc, liều lĩnh và kiên quyết đẩy chúng ta khỏi xứ này. Những cuộc phục kích của địch chuẩn bị rất cẩn thận và thi hành rất mạnh dạn...".


Chiến thắng Bông Lau - Lũng Phầy đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của quân và dân Lạng Sơn, củng cố niềm tin ở khả năng chiến đấu và chiến thắng của lực lượng vũ trang địa phương, mở đầu thắng lợi cho du kích chiến và vận động chiến trên địa bàn Lạng Sơn sau này. Sau trận đánh, nhân dân địa phương càng tin tưởng, sẵn sàng giúp đỡ bộ đội, cơ sở cách mạng được củng cố thêm một bước, tạo đà cho hoạt động du kích đánh địch trên đường số 4 phát triển. Chiến thắng Bông Lau - Lũng Phầy đã mở đầu cho hàng loạt những trận đánh oanh liệt của quân và dân ta trên Mặt trận đường số 4. Với tinh thần liên tục tiến công, các lực lượng vũ trang Lạng Sơn đã ngàv đêm bám sát địch, lập nên những trận thắng lớn ở Đèo Khách, Bản Nằm, Bản Trại, Lũng Vài, Lũng Phầy, Bản Trang, diệt, làm bị thương, bắt sống hàng trăm tên địch; bắn cháy, phá hủy nhiều xe cơ giới và phương tiện chiến tranh của giặc Pháp... Điều đặc biệt là đã làm cho đường số 4 thực sự trở thành "con đường lửa”, nỗi kinh hoàng đối với giặc Pháp.


Cùng với chiến thắng của các lực lượng vũ trang trên đường số 4, quân và dân ta ở vùng địch tạm chiếm đã bước đầu tiến hành có hiệu quả hoạt động phá thế kìm kẹp của địch, diệt tề, trừ gian và đẩy mạnh tác chiến du kích trong hậu địch, làm thất bại âm mưu phục hồi chính quyền tay sai của thực dân Pháp, từng bước làm cho địch mất chỗ dựa và ngày càng bị cô lập.


Sau hai tháng rưỡi đánh lên Việt Bắc, kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của thực dân Pháp bị thất bại nặng nề, hai gọng kìm phía Đông và phía Tây bị ta chặt nát, quân Pháp buộc phải rút lui và để lại một bộ phận nhỏ chuyển sang thực hiện mưu đồ bám sâu vào trong lòng Việt Bắc.


Trong chiến công chung của quân và dân cả nước nói chung, của quân và dân Việt Bắc nói riêng trong Thu - Đông 1947, có phần đóng góp xứng đáng của Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn trên Mặt trận đường số 4. Với niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến, quân và dân Lạng Sơn đã đoàn kết một lòng, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, vững bước đi lên trên con đường kháng chiến, liên tục chiến đấu và trưởng thành.


Tiếp sau Thu - Đông 1947, quân và dân Lạng Sơn đã cùng quân và dân cả nước lập nên nhiều kỳ tích vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng thời làm tốt nghĩa vụ quốc tế cao cả. Đặc biệt, đã hoàn xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950, góp phần giải phóng hoàn toàn Việt Bắc, Lạng Sơn sạch bóng quân thù, chuyển cục diện của cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới - giai đoạn tiến lên phản công, với trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ và anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #111 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2021, 02:17:52 pm »

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG YÊN BÁI VỚI NHIỆM VỤ CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ SƯỜN PHÍA TÂY BẮC CĂN CỨ ĐỊA VIỆT BẮC TRONG THU - ĐÔNG 1947


Đại tá NGUYỄN VĂN KỲ
Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Yên Bái


Yên Bái là tỉnh miền núi, được thành lập từ năm 1900, trải qua nhiều lần sáp nhập và phân chia địa giới, đến nay, Yên Bái có 1 thành phố trực thuộc, 1 thị xã, 7 huyện, trong đó 2 huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải và 70 xã vùng cao đặc biệt khó khăn, với diện tích tự nhiên là 6.882,9km2, dân số trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có khoảng 10 vạn, đến nay đã có trên 71 vạn người, gồm 30 dân tộc anh em cùng chung sống. Phía Bắc Yên Bái giáp tỉnh Lào Cai, phía Đông giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu. Yên Bái nằm án ngữ các tuyến giao thông huyết mạch xung yếu giữa Việt Bắc và Tây Bắc, giữa vùng xuôi và miền ngược.


Nhân dân các dân tộc Yên Bái có truyền thống yêu nước nồng nàn, đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, anh dũng quật cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, quân và dân Yên Bái phối hợp với bộ đội chủ lực tiến hành và tham gia chiến đấu giành thắng lợi trong nhiều chiến dịch. Trong chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông 1947, lực lượng vũ trang tỉnh Yên Bái đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vững chắc sườn phía Tây của căn cứ địa Việt Bắc.


Thu - Đông 1947, thực hiện chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh”, thực dân Pháp mở cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực, dựa vào thắng lợi quân sự để thúc đẩy việc thành lập chính quyền bù nhìn toàn quốc, nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, đồng thời khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn liên hệ giữa cách mạng nước ta với quốc tế.


Thực hiện ý đồ nghi binh và phối hợp với cuộc tiến công lên Việt Bắc, quân Pháp ở Tây Bắc mở các đợt tiến công từ Lai Châu, Sơn La sang vùng tự do của ta ở Lào Cai - Yên Bái, hỗ trợ cho "gọng kìm" sông Lô, hòng bao vây toàn bộ hướng Tây của khu căn cứ cách mạng. Tại Yên Bái, quân Pháp chia làm nhiều mũi đánh chiếm Than Uyên, Văn Chấn, Trấn Yên, Văn Bàn và một số nơi trong tỉnh. Chúng đã lập 17 đồn bốt, gồm các đồn Đồng Bồ, Vần Dọc, Đồng Bằng, Ba Khe, Cửa Nhì, Nghĩa Lộ, Gia Hội, Kiến Lao, Ngòi Lao, Mỵ, Minh Lương, Dương Quỳ, Coóc Doỏng, Làng Mạ... Đến tháng 10-1947, sau khi chiếm được 4/5 diện tích đất đai tỉnh Yên Bái, quân Pháp tăng cường củng cố, xây dựng các vị trí chiếm đóng, tạo thành một "phòng tuyến", bảo vệ vùng tạm chiếm, uy hiếp sườn phía Tây của căn cứ địa Việt Bắc. Nắm được âm mưu và ý đồ của địch, quân và dân Yên Bái đã cùng với quần dân Việt Bắc và cả nước, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có nhiều hoạt động nhằm phá vỡ, làm tan rã ý đồ của địch.


Đầu tháng 11-1947, xuất phát từ tình hình thực tiễn, Tỉnh ủy Yên Bái họp chủ trương củng cố tinh thần, ý chí chiến đấu cho nhân dân và lực lượng vũ trang tỉnh, đồng thời thành lập 3 tổ công tác và đội võ trang tuyên truyền, đưa trở về vùng sau lưng địch hoạt động, vừa xây dựng cơ sở chính trị, vừa vận động nhân dân tham gia kháng chiến. Trong vùng địch tạm chiếm, vận động nhân dân vào các lán bí mật trong rừng, nuôi giấu cán bộ, bộ đội, du kích hoạt động. Các đội du kích như Khau Phạ (Mù Cang Chải); Cát Thịnh, Thượng Bằng La, Đại Lịch (Văn Chấn); Hưng Thịnh, Đại Khánh (Trấn Yên) được tăng cường và được bộ đội trang bị thêm vũ khí, đã tích cực bám đất, bám dân xây dựng cơ sở trừ gian diệt ác, hoạt động liên tục nên đã hạn chế được sự phá hoại của địch. Vào giữa Thu - Đông năm 1947, trước tình hình diễn biến ác liệt, Khu ủy Khu 10 quyết định thành lập Ban Chính trị Tây tiến, chỉ đạo toàn diện các mặt công tác ở 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái, tổ chức các đại đội độc lập thuộc Trung đoàn 92 (sau đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 115), phối hợp với các đội vũ trang tuyên truyền của tỉnh luồn sâu vào vùng sau lưng địch hoạt động. Tiêu biểu trong số này là các đại đội 514, 524 của Trung đoàn. Sau một thời gian phối hợp hoạt động nhiều cơ sở của địa phương có phong trào kháng chiến sôi nổi, đặc biệt là đã phát động được phong trào chiến tranh du kích, tổ chức một số trận phục kích diệt địch, trừng trị một số tên tề điệp tay sai phản động nguy hiểm. Tháng 12-1947, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã chỉ đạo xây dựng xã Đại Lịch thành căn cứ du kích và thành lập chi bộ Đảng tại đây. Sau khi chi bộ Đảng xã Đại Lịch được thành lập và chỉ đạo trực tiếp, dân quân du kích xã đã phối hợp với bộ đội tổ chức phục kích đánh chúng tại đèo Din khi địch từ Vần, Dọc thuộc xã Vân Hội, huyện Trấn Yên lên lấy tiếp tế, diệt 1 tên Pháp và 2 tên lính dõng. Trong trận này, người thiếu niên du kích Hoàng Văn Thọ chiến đấu rất dũng cảm và đã anh dũng hy sinh (được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, ngày 31-7-1998). Đây là trận đánh đầu tiên của xã Đại Lịch, có sự chỉ đạo của chi bộ Đảng, cũng là trận đánh đầu tiên của du kích trong vùng địch hậu Yên Bái. Trận đánh thắng lợi đã cổ vũ, động viên tinh thần khí thế bộ đội, du kích, củng cố thêm ý chí quyết tâm cho quân và dân trong vùng địch hậu. Sau đó, du kích Đại Lịch tiếp tục phối hợp với bộ đội đánh 2 trận ở Bồ Kết và Bãi Chằm, tiêu diệt 40 tên địch, bắn bị thương một số tên khác. Phát huy khí thế chiến đấu trong vùng địch tạm chiếm, ngày 31-12, Đại đội 524 phối hợp với du kích xã Chấn Thịnh phục kích tại thôn Mỵ, đánh địch từ Hưng Khánh vào Nghĩa Lộ. Sau khoảng 15 phút chiến đấu, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 1 đại đội địch, tiêu diệt 20 tên, có 2 tên chỉ huy Pháp, bắt 20 tên, có 1 tên Pháp, một số tên sống sót chạy tán loạn vào rừng; thu được một số vũ khí, quân trang quân dụng của địch. Trận đánh thắng lợi đã cổ vũ bộ đội du kích tiếp tục tăng cường bám trụ, xây dựng làng bản chiến đấu, quấy rối, tập kích, phục kích tiêu hao sinh lực địch, giữ vững cơ sở. Liên tục bị đánh ở khắp nơi, do vậy quân Pháp ở Yên Bái không thực hiện được ý đồ mở rộng địa bàn chiếm đóng, buộc phải tập trung co cụm ở các địa bàn chính như Thượng Bằng La, Văn Chấn, Nghĩa Lộ, Văn Bàn, Vần, Dọc thuộc Vân Hội (Trấn Yên) và một số đồn bốt ở các thị trấn và trung tâm huyện lỵ. Sau mỗi trận đánh, bộ đội và du kích đã tổ chức rút kinh nghiệm về sự phối hợp phục kích đánh địch, xây dựng cơ sở, vận động nhân dân tham gia kháng chiến và thông báo kết quả một số trận phục kích diệt địch trên địa bàn, từ đó đã củng cố thêm tinh thần kháng chiến cho quần chúng nhân dân và trang bị thêm những kinh nghiệm chiến đấu cho các đội du kích. Các đơn vị bộ đội từng bước nâng cao trình độ tác chiến, khả năng phối hợp chiến đấu, trở thành chỗ dựa vững chắc, tin tưởng cho du kích hoạt động. Với tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường và quyết tâm chiến đấu cao, sáng tạo trong vận dụng quan điểm đường lối của Đảng về kháng chiến "Toàn dân, toàn diện", quân và dân Yên Bái đã tìm ra cách đánh phù hợp, liên tiếp đánh bại nhiều cuộc càn quét lùng sục của địch. Những chiến công trong Thu - Đông 1947 đã làm cho quân và dân trong tỉnh, đặc biệt là trong vùng địch tạm chiếm, càng tăng thêm quyết tâm chiến đấu; khẳng định sự đúng đắn của chủ trương chuyển từ tác chiến trận địa sang xây dựng cơ sở bám dân, bám đất, bám làng đánh du kích lâu dài với địch; kết hợp tổ chức các đội vũ trang tuyên truyền với xây dựng các đội du kích trong vùng địch hậu để hoạt động, đồng thời phối hợp với các đơn vị bộ đội phục kích, quấy rối tiêu hao tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, không cho chúng mở rộng vùng chiếm đóng. Thắng lợi đó của quân và dân Yên Bái đã góp phần rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội ta ở Mặt trận sông Lô - Đường số 2 chiến đấu giành thắng lợi, góp phần bẻ gãy một trong hai gọng kìm tiến công chiến lược của Pháp đánh vào căn cứ địa Việt Bắc.


Từ chủ trương xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng lực lượng, luồn sâu vào vùng địch hậu tổ chức đánh địch, quân và dân Yên Bái liên tục giành thắng lợi trong thời kỳ đầu kháng chiến và trong Thu - Đông năm 1947, Yên Bái đã rút ra một số kinh nghiệm, đó là:

- Phải thường xuyên giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, vai trò chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy các cấp. Tích cực xây dựng củng cố cơ sở chính trị, các tổ chức đoàn thể như: các hội cứu quốc; thường xuyên tiến hành tốt việc tuyên truyền sâu rộng về chủ trương kháng chiến của Đảng và Chính phủ tới toàn thể nhân dân và lực lượng vũ trang tỉnh.

- Biết dựa vào dân, biết phát huy sức mạnh của toàn dân để khắc phục mọi khó khăn, nâng cao ý chí tự lực, tự cường, xây dựng củng cố lực lượng vũ trang địa phương trên từng địa bàn sát với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.

- Thường xuyên quán triệt tư tưởng tiến công, chủ động nắm địch, xây dựng kế hoạch sát tình hình thực tiễn, cụ thể, có quyết tâm cao trong chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu giành thắng lợi.

- Phối hợp hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng, giữa bộ đội chủ lực, dân quân du kích và nhân dân địa phương trong xây dựng, tổ chức và thực hiện đánh địch. Biết vận dụng sáng tạo, linh hoạt các cách đánh tiến công, phục kích, tập kích, kết hợp chặt chẽ hoạt động đánh địch của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương với các hoạt động tác chiến nhỏ lẻ, rộng khắp của dân quân du kích. Kết hợp chặt chẽ hoạt động tác chiến với công tác binh địch vận.

- Phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc, tôn giáo, kiên cường bám trụ, bám dân, xây dựng các cơ sở kháng chiến, vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng trong thực hiện các nhiệm vụ.

Những kinh nghiệm đó còn nguyên giá trị trong thực tiễn hiện nay.

60 năm đã trôi qua, nhưng tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng, bám trụ, dám đánh, biết đánh và đánh thắng địch ngay từ những ngày đầu kháng chiến, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn sườn phía Tây của Việt Bắc, căn cứ địa cách mạng, trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, vẫn còn in đậm trong ký ức các thế hệ chúng ta. Phát huy tinh thần đó, lực lượng vũ trang tỉnh Yên Bái đã kiên cường chiến đấu, tích cực tham gia phục vụ các chiến dịch sau này, góp phần to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và trong công cuộc đổi mới, xây dựng bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.


Chặng đường chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của quân và dân Yên Bái đã được lịch sử của đất nước và địa phương ghi nhận. Đó là tinh thần yêu nước và ý chí quyết tâm chiến đấu để giải phóng và bảo vệ quê hương. Tinh thần đó mãi mãi là niềm tự hào của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc và lực lượng vũ trang Yên Bái, góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của địa phương, với hàng vạn con em đã lên đường tham gia kháng chiến, trong đó 4.500 con em các dân tộc trong tỉnh đã hy sinh trên các chiến trường, 3.400 người đã hy sinh một phần xương máu, mang thương tật suốt đời. Ghi nhận những thành tích và công lao đó, Đảng và Nhà nước đã phong tặng 27 tập thể, 5 cá nhân danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 75 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, tỉnh Yên Bái được phong tặng danh hiệu: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Những giá trị tinh thần và những tiền đề vật chất, được các thế hệ xây đắp nên, sẽ là động lực to lớn và bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững của tỉnh Yên Bái trong tương lai.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #112 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2021, 02:21:37 pm »

BẢO ĐẢM HẬU CẦN TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG 1947


Thiếu tướng NGÔ HUY HỒNG
Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần


Ngay trong những ngày Toàn quốc kháng chiến đánh địch trong đô thị ở bắc vĩ tuyến 16, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, Việt Bắc, do có vị thế thiên hiểm, đã được Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm nơi xây dựng thành căn cứ địa vững chắc của cả nước. Đây là địa bàn rừng núi, bao gồm phần lớn các tỉnh thuộc các chiến khu 1, 10 và 12, được thành lập cuối năm 1946. Mặc dù là vùng đất kinh tế chậm phát triển, dân cư thưa thốt, song nhân dân các dân tộc ở Việt Bắc, vốn có truyền thòng yêu nước nồng nàn, lại sớm được giác ngộ cách mạng qua cao trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945 nên sẵn sàng tham gia giúp đỡ, ủng hộ cách mạng. Mặt khác, kể từ sau ngày toàn quốc kháng chiến, các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể... ở Việt Bắc được củng cố, kiện toàn một bước quan trọng. Hơn nữa, do yêu cầu chuẩn bị kháng chiến, cơ quan đầu não của Đảng, Chính phủ và quân đội đã nhanh chóng di chuyển lên chiến khu để trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến. Trung ương Đảng và Chính phủ còn chỉ đạo "tổng di chuyển" hàng vạn tấn máy móc, thiết bị, vật chất lên Việt Bắc nhằm phục vụ cho cuộc kháng chiến lâu dài... Chỉ tính riêng về muối, ta đã vận chuyển được 20.000 tấn từ kho Văn Lý (Nam Định) theo đường sông lên Phú Thọ, Tuyên Quang và đến các địa phương khác của Việt Bắc... Tất cả những việc làm này đã tạo ra nguồn tiếp tế tại chỗ hết sức quan trọng phục vụ bộ đội đánh giặc, không chỉ đối với chiến dịch Thu - Đông 1947, mà còn cho toàn bộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Trong Thu - Đông 1947, công tác tiếp tế, bảo đảm hậu cần (lúc đó còn gọi là cung cấp) đã gặp rất nhiều khó khăn: địa bàn Việt Bắc luôn bị địch bao vây, phong toả, trong khi hầu hết các kho tàng, xưởng máy của hậu cần vừa từ vùng đồng bằng, các đô thị di chuyển lên căn cứ còn đang củng cố, sắp xếp, ổn định nơi đứng chân, thậm chí có cơ sở chưa kịp triển khai hoạt động... Thêm vào đó, dù đã chuẩn bị và tích cực đề phòng, song do ta chưa dự kiến đầy đủ âm mưu và hướng tiến công cụ thể của địch, nên trong một số trường hợp đã bất ngờ, bị động ứng phó và bị tổn thất. Dĩ nhiên, giống như bất kể thời điểm nào, sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng vẫn là nhân tố quyết định nhất tới thắng lợi của bảo đảm hậu cần. Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 cũng vậy. Sớm nhận thức, đánh giá đúng tình hình, ngày 15-9-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Sửa soạn phá những cuộc tiến công lớn của địch". Kế đó, trong nửa cuối tháng 9, Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy liên tiếp triệu tập Hội nghị quân sự lần thứ 4 và lần thứ 5 để thống nhất nhận định âm mưu, hành động của địch và bàn chủ trương tác chiến. Đặc biệt, ngày 27-9-1947, tại Hội nghị quân sự lần thứ 5, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã chỉ rõ nhiệm vụ của hậu cần trong Thu - Đông là: "phải chuẩn bị kế hoạch cho bộ đội để giải quyết vấn đề quân nhu trong trường hợp khó khăn, phải chú trọng tăng gia sản xuất, phải chú trọng tiếp tế cho những miền bị chiếm, lo phân tán và bảo vệ kho tàng... cần phải bảo vệ cơ xưởng, tiết kiệm đạn dược, nêu cao tinh thần gìn giữ vũ khí, chuẩn bị việc điều trị thương bệnh binh, lúc cần phải dựa vào dân. Dạy cho bộ đội những phương pháp tự chữa thông thường"1 (Biên  niên sự kiện Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam 1944-1954, Tổng cục Hậu cần xuất bản, 1986, tr. 117).


Chấp hành sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, sau Hội nghị quân sự lần thứ 5, công tác chuẩn bị chiến đấu của các cơ quan, đơn vị, địa phương ở Việt Bắc được đẩy mạnh hơn. Cấp ủy Đảng và chính quyền các làng xã ven thị xã, ven đường giao thông đã vận động nhân dân tiến hành cất giấu thóc lúa, tài sản, sẵn sàng tản cư vào rừng, núi. Nhiều nơi tổ chức cắm chông trên những cánh đồng, bãi trống... đề phòng địch nhảy dù. Hầu hết các cơ quan đều thực hiện "quân sự hoá", chuyển thiết bị, công văn, tài liệu đến nơi kín đáo, chọn địa điểm để khi cần sẽ di chuyển, bảo đảm an toàn. Các xưởng quân giới, các kho quân nhu, quân y... có phương án phòng tránh và di chuyển máy móc, vật tư, sơ tán người và tham gia phục vụ chiến đấu. Một số xưởng quân giới còn tổ chức đội sửa chữa lưu động giúp bộ đội sửa chữa vũ khí, đạn tại chỗ. Các cơ sở quân y di chuyển sâu hơn vào căn cứ và được chia thành nhiều bộ phận nhỏ để sẵn sàng tiếp nhận thương, bệnh binh...


Về phía địch, thực hiện chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh", ngày 7-10-1947, thực dân Pháp đã huy động một lực lượng lớn quân tinh nhuệ mở cuộc tiến công quy mô lớn bằng cả đường bộ, đường thủy và nhảy dù xuống Việt Bắc. Chúng cho quân tiến sâu vào căn cứ và thậm chí nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn - nơi cách xa vùng tạm chiếm của địch đến hơn 100km đường chim bay và hơn 200km đường bộ. Từ những nơi này, chúng tổ chức lùng sục, đánh vào các cơ quan, xưởng máy, kho tàng... gây cho ta một số thiệt hại. Do chưa kịp di chuyển, nên kho muối ở Đầm Hồng, kho quân nhu ở giáp thị xã Bắc Kạn đã bị địch phá, thủ kho Vũ Kim Phiếm bị quân Pháp giết hại.


So với các cơ sở khác của hậu cần thì các xưởng quân giới bị địch lùng phá hơn cả. Ngay sau khi nhảy dù xuống Bắc Kạn, địch đã lùng sục vào khu vực cơ quan Ty Quân giới và Cục Quân giới. Song, do các cơ quan này đã di chuyển đi chỗ khác nên chúng chỉ bắt được một vài nhân viên. Đến ngày 8-10, quân địch tiến xuống Cao Kỳ, đánh vào Xưởng C6 khi công nhân của xưởng đang tổ chức tháo dỡ và di chuyển máy móc, thiết bị. Một số công nhân của xưởng bị địch giết hại, bị bắt, máy móc bị phá hủy. Ở Khuổi Huyền, Xưởng C2 tổ chức các đội tự vệ của công nhân và tiến hành gài mìn, lập trận địa từ trên núi đánh xuống, diệt và làm bị thương một số tên, buộc chúng phải tháo chạy. Sau đó, ngày 10-10, địch tổ chức tiến vào Khuổi Huyền lần thứ 2, nhưng cũng bị tự vệ công nhân đánh bật trở lại. Các xưởng ở Vị Hương, Sĩ Bình, cũng bị địch đánh phá, song do trước đó ta đã kịp sơ tán công nhân, cất giấu máy móc kịp thời nên không bị thiệt hại. Tại Cao Bằng, xưởng Lê Tổ đã di chuyển ra khỏi thị xã về Lam Sơn. Ngày 10-10, quân địch tiến vào Lam Sơn, nhưng bị tự vệ của xưởng đánh trả quyết liệt. Cuộc chiến đấu giữa tự vệ công nhân với địch ở đây kéo dài hai ngày ròng rã, quân địch bị tổn thất nặng nề mà vẫn không vào được xưởng. Một cánh quân khác của địch tiến lên Chiêm Hoá, Đầm Hồng, Bản Thi, đánh vào Nha Nghiên cứu kỹ thuật và một số xưởng quân giới gần đó, nhưng các cơ quan, xưởng máy của ta đã khẩn trương sơ tán, di chuyển đến vị trí mới.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #113 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2021, 02:22:44 pm »

Chiến sự ngày càng lan rộng và ác liệt nên hầu hết các cơ quan, cơ sở hậu cần đều phải vừa tổ chức cất giấu, di chuyển, sơ tán, lại vừa triển khai bố phòng đánh địch để bảo vệ an toàn cho người và tài sản. Mặt khác, còn nhanh chóng tiến hành cấp phát phục vụ các đơn vị bộ đội, tự vệ công nhân, du kích địa phương đánh giặc. Do yêu cầu của công tác tiếp tế hậu cần, một số xưởng quân giới đã tổ chức những tổ, đội, bộ phận nhỏ mang theo dụng cụ, vật tư bám sát các đơn vị, kịp thời thay thế, sửa chữa vũ khí, đạn dược hư hỏng, nhồi lắp đạn, mìn, lựu đạn... phục vụ bộ đội chiến đấu.


Ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị "Phải phá tan cuộc tiến công mùa Đông của giặc Pháp". Sau khi nhận định, đánh giá về cuộc tiến công của địch và nhất là những thiếu sót của ta, Thường vụ Trung ương Đảng đề ra một số nhiệm vụ cấp bách nhằm kiên quyết đánh bại cuộc tiến công của địch lên căn cứ địa Việt Bắc và chỉ rõ phương hướng sản xuất, xây dựng cơ sở của các chuyên ngành Quân nhu, Quân giới, Quân y trong điều kiện chiến tranh: "Phải tiến tới chỗ Việt hoá, giản đơn và phổ biến, nghĩa là cố gắng tìm vật liệu trong nước mà chế tạo máy móc, dụng cụ cho nhẹ nhàng, có thể di chuyển và cất giấu nhanh chóng; phân tán xưởng máy, kho tàng, y viện to thành các bộ phận nhỏ, để ở nhiều nơi, làm cho khu nào, tỉnh nào, kể cả các huyện cũng có những xưởng nhỏ sản xuất và sửa chữa vũ khí, có những nhà bào chế thuốc ta và xưởng, kho quân nhu. Đề phòng địch phá hoại, các xưởng quân giới, kho tàng, phòng thí nghiệm, viện bào chế... không đặt trong các thị xã, thị trấn hoặc đường cái lớn"1 (Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần, Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1 (1944-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 93).


Nhằm tăng cường chỉ đạo chiến đấu và phục vụ chiến đấu, ngày 27-10-1947, Bộ Tổng chỉ huy ra mệnh lệnh cho các chiến khu 1, 10 và 12: đánh mạnh ở Mặt trận sông Lô và đường số 4, phá vận tải tiếp tế của địch, phục kích các đường rừng, đánh đường sông, quấy rối các căn cứ, bao vây tiêu diệt các vị trí nhỏ của địch. Các Mặt trận Đường số 4, Đường số 3 và Sông Lô được thành lập để thống nhất chỉ huy, chỉ đạo trực tiếp các đơn vị chủ lực của Bộ, lực lượng vũ trang thuộc các chiến khu, tỉnh chiến đấu bảo vệ từng địa bàn, khu vực.


Từ cuối tháng 10 trở đi, công tác tiếp tế, bảo đảm hậu cần cho các mặt trận đánh địch ở Việt Bắc được các cấp chỉ huy, cơ quan, đơn vị quan tâm coi trọng, và đã khắc phục được tình trạng di chuyển, sơ tán quá sâu hoặc chỉ triển khai cấp phát, tiếp tế mà sao nhãng khâu bố phòng, tổ chức đánh địch, bảo vệ kho tàng, xưởng máy... Nhờ được sự chỉ đạo kịp thời của cấp ủy Đảng, sự phối hợp, giúp đỡ của chính quyền và đồng bào các địa phương, công tác bảo đảm hậu cần đã có nhiều tiến bộ, đáng kể là bảo đảm vũ khí, quân y và quân nhu.


Các xưởng quân giới và xưởng vũ khí dân quân ở Việt Bắc tranh thủ thời gian sản xuất và sửa chữa súng, mìn, lựu đạn... để đáp ứng ngay yêu cầu của chiến đấu. Một số xưởng vũ khí dân quân sản xuất được súng kíp cung cấp cho du kích và nhân dân địa phương đánh địch tại chỗ. Ở Mặt trận sông Lô, một số khẩu pháo và đạn pháo bị hỏng cũng được sửa chữa kịp thời. Tại Chiến khu 10, Công trường J5 sửa chữa được 2 khẩu pháo hỏng và tiến hành kiểm tra, bảo dưỡng toàn bộ pháo, đạn pháo cho các đơn vị trước khi bước vào chiến đấu... Do tăng cường công tác sản xuất, sửa chữa nên không những đã bảo đảm được số lượng, chủng loại mà còn phát huy được tính năng, hiệu quả tiêu diệt sinh lực địch, làm thất bại cuộc tiến công quân sự của chúng. Chẳng hạn, trong trận Đoan Hùng ngày 24-10, khẩu sơn pháo 75mm được dồn lắp từ nhiều bộ phận của các khẩu pháo khác nhau, đã bắn chìm hai tàu chiến, bắn bị thương hai chiếc khác của giặc Pháp trên Sông Lô. Đến ngày 10-11, bộ đội ta còn dùng khẩu sơn pháo này bắn chìm hai tàu và khẩu Ba-zô-ca do quân giới sản xuất đã bắn bị thương chiếc tàu LCT của địch trong trận Khe Lau (khu vực ngã ba sông Lô và sông Gâm). Bộ đội ta sử dụng địa lôi do quân giới Chiến khu 10 chế tạo từ đầu đạn pháo 320mm, diệt một số tên địch trong trận đánh trên đoạn đường từ Tuyên Quang đi Chiêm Hoá...


Trước và trong quá trình phục vụ chiến đấu, các ban quân y trung đoàn đã được bổ sung thêm lực lượng, có bác sĩ hoặc y sĩ phụ trách. Ở phía trước, nhiều đơn vị tổ chức "quân y lưu động" làm nhiệm vụ cấp cứu thương bệnh binh trên các hướng. Ở tuyến sau có quân y viện khu hoặc bệnh viện dân y của các tỉnh hỗ trợ. Để tăng cường bảo đảm quân y, Ủy ban kháng chiến, hành chính, các đoàn thể quần chúng huy động dân công địa phương làm lán trại cho các trạm quân y, chăm sóc, nuôi dưỡng thương bệnh binh... Nhờ vậy, thương binh, bệnh binh đã được cứu chữa kịp thời, chu đáo, hạn chế được tử vong. Riêng vận chuyển thương bệnh binh, hầu hết các đơn vị đều dựa hẳn vào dân công địa phương, nhất là ở tuyến vận chuyển từ trạm quân y trung đoàn về phía sau. Trên các tuyến vận chuyển, thường được phân chia thành nhiều cung chặng, trong đó nhân viên quân y chỉ lo đảm nhiệm chuyên môn, còn dân công thay nhau khiêng, cáng và phục vụ thương, bệnh binh.


Về quân nhu, các kho lương thực, vải, xưởng may dọc đường số 3 Phủ Thông - Bắc Kạn đẩy nhanh việc di chuyển vào rừng và tổ chức cấp phát cho bộ đội. Một số kho lương thực của Nha Tiếp tế ở Phấn Mễ, Chợ Mới, di chuyển về Từ Văn (Nhã Nam, Bắc Giang) và phân tán vào các đình chùa, nhà dân. Đồng thời, quân nhu các đơn vị đã liên hệ với các địa phương để mua gạo, thực phẩm và huy động dân công tiếp tế cho bộ đội.


Các Ủy ban kháng chiến hành chính địa phương động viên nhân dân đóng góp lương thực, thực phẩm, tập trung ở những nơi đã định trước để bộ đội đến nhận hoặc lập các nhóm du kích (mỗi nhóm 5-7 người) vận chuyển tiếp tế cho các đơn vị. Do nguồn cung cấp tại chỗ hạn chế, nên quân nhu tổ chức khai thác, vận chuyển lương thực, thực phẩm từ địa phương khác đưa đến. Quân nhu Khu 1 mua từ Phúc Yên, Thái Nguyên chuyển lên Bắc Kạn để tiếp tế cho các đơn vị chiến đấu trên Mặt trận đường số 3. Quân nhu Khu 12 mua ở Bắc Ninh, Bắc Giang chuyển lên Bình Gia, Văn Mịch cho các đơn vị chiến đấu trên Mặt trận đường số 4. Quân nhu Chiến khu 10 mua ở Vĩnh Yên, Phú Thọ chuyển lên Tuyên Quang, Chiêm Hoá cho các đơn vị chiến đấu trên Mặt trận sông Lô... Trong điều kiện chiến đấu ác liệt, sự phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đơn vị và các ngành, nhân dân các địa phương trong tiếp tế bảo đảm là hết sức quan trọng. Chẳng hạn, khi cản bước tiến của địch ở Bắc Kạn, Trung đoàn 102 bị lâm vào cảnh hết gạo ăn. Nhận được tin này, Nha Tiếp tế (Bộ Tài chính) đã tổ chức một đoàn thồ lương thực cấp tốc cho đơn vị. Do thiếu phương tiện vận chuyển, Nha Tiếp tế đã phải mượn ngựa, trâu, bò của dân. Sau mấy ngày xuyên rừng vất vả, đoàn thồ đã giao được hơn 10 tấn gạo cho Trung đoàn 102. Tinh thần khắc phục khó khăn, vận chuyển phục vụ kịp thời cho chiến đấu của Nha Tiếp tế đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #114 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2021, 02:23:31 pm »

Đến ngày 19-12-1947, do bị các lực lượng vũ trang của ta chặn đánh khắp nơi và bị tổn thất nặng nề, giặc Pháp buộc phải rút khỏi Việt Bắc. Chúng chỉ còn chiếm giữ được một số vị trí ở thị xã Cao Bằng, Bắc Kạn trên đường số 3 và đường số 4. Cuộc tiến công vào căn cứ địa Việt Bắc của thực dân Pháp đã bị thất bại.


Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 của ta hoàn toàn thắng lợi. Trong chiến dịch này, mặc dù có một số tổn thất, nhưng về cơ bản, cơ quan, cơ sở hậu cần được bảo vệ an toàn. Mặt khác, các xưởng máy, kho tàng... hậu cần vừa mới hoàn thành cuộc "Tổng di chuyển" lên Việt Bắc, còn chưa kịp ổn định tổ chức, địa điểm đứng chân... đã tích cực tham gia phục vụ chiến dịch. Công tác bảo đảm cụ thể của hậu cần chủ yếu dựa vào nhân dân các địa phương và do các khu, các trung đoàn tự tổ chức, đảm nhiệm. Cơ quan hậu cần cao nhất của quân đội, trước hết là các cục Quân nhu, Quân y, Quân giới niới chỉ đạo được phần chuẩn bị, chưa có điều kiện sâu sát, trực tiếp bảo đảm cho cấp dưới... nên việc bảo đảm còn phân tán, thiếu thống nhất cho toàn chiến dịch... Tuy nhiên, trong hoàn cảnh nền kinh tế địa phương còn thấp kém, địch lại bao vây, đánh phá ác liệt và nhất là các cơ quan, cơ sở hậu cần thiếu kinh nghiệm bảo đảm trên một phạm vi rộng, cho nhiều hướng đánh địch ở địa bàn rừng núi, thì những việc làm được của công tác bảo đảm hậu cần là hết sức cố gắng. Nó đã đáp ứng được phần lớn các yêu cầu của chiến đấu, góp phần quan trọng vào chiến công chung của toàn chiến dịch, đưa cuộc kháng chiến của quân và dân ta chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Cũng qua đây, công tác bảo đảm hậu cần rút ra được nhiều kinh nghiệm quý.


Một là, phải quán triệt sâu sắc đường lối cách mạng và đường lối quân sự của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy vào công tác chuẩn bị và bảo đảm hậu cần. Đặc biệt, phải dựa chắc vào nhân dân để vừa tổ chức sơ tán, vừa triển khai sản xuất, chủ động chuẩn bị hậu cần cho chiến dịch.


Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp của căn cứ địa kháng chiến, hình thành thế trận hậu cần rộng khắp, tập trung vào hướng chính (chủ yếu), địa bàn quan trọng. Hơn nữa, đối với những căn cứ có vị thế chiến lược như Việt Bắc, nơi đứng chân của cơ quan đầu não và các lực lượng, thì cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật càng phải được đầu tư xây dựng thế trận hậu cần vững chắc để đủ sức bảo đảm cho quân đội cùng các lực lượng vũ trang nhân dân đánh bại mọi âm mưu và hành động của địch, kể cả trong trường hợp chúng mở chiến dịch tiến công quy mô lớn (bằng nhiều hướng, nhiều đường...) vào căn cứ của ta.


Ba là, chỉ đạo và tổ chức chặt chẽ việc sản xuất tạo nguồn, phát huy vai trò nòng cốt của hậu cần quân đội, cùng với sự đóng góp to lớn của nhân dân, bảo đảm đầy đủ vũ khí, trang bị, lương thực thực phẩm và cứu chữa thương bệnh binh (tại chỗ và cơ động) cho chiến dịch. Bên cạnh đó, đối với các chiến dịch diễn ra trên địa bàn miền núi như Việt Bắc thì phải thấy hết vai trò và phát huy cao độ lòng yêu nước, sự ủng hộ, giúp đỡ của đồng bào các dân tộc thiếu số để cùng chung lo bảo đảm hậu cần. Đồng thời còn phải thành lập và kiện toàn cho được "bộ máy hậu cần chiến dịch" đủ sức chỉ huy, chỉ đạo tập trung thống nhất đối với mọi lực lượng hậu cần và tổ chức bảo đảm cho toàn chiến dịch giành thắng lợi.


Bốn là, trong các cuộc tiến công vào căn cứ của ta, nhất là những căn cứ như Việt Bắc, bao giờ địch cũng tăng cường lùng sục, đánh phá các cơ quan, cơ sở hậu phương - hậu cần nhằm triệt hạ cho được tiềm lực, nguồn tiếp tế bảo đảm hậu cần của cuộc kháng chiến. Do đó, phải kết hợp chặt chẽ lực lượng hậu cần với bộ đội địa phương, dân quân du kích để tổ chức chiến đấu, bảo vệ an toàn cho căn cứ và các cơ quan, cơ sở hậu cần.


60 năm đã qua đi, kể từ chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947. Quá trình ấy, Ngành Hậu cần ngày một trưởng thành và có những đóng góp xuất sắc để cùng quân và dân cả nước kết thúc thắng lợi các cuộc chiến tranh giải phóng chống Pháp và chống Mỹ, đưa nước nhà bước vào kỷ nguyên hoà bình, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh mới, Ngành Hậu cần đang cùng cả nước ra sức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


Căn cứ vào xu thế phát triển chung của tình hình, có thể nhận thấy, một khi tiến hành chiến tranh, kẻ thù sẽ sử dụng vũ khí công nghệ cao có sức công phá, hủy diệt lớn để xâm lược nước ta và các căn cứ hậu phương - hậu cần sẽ trở thành mục tiêu trọng yếu đánh phá ngay từ đầu của chúng. Vì thế, nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho các mặt trận đánh thắng địch sẽ hết sức phức tạp, nặng nềc cần quán triệt sâu sắc hơn nữa đường lối quân sự, đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào công tác hậu cần, cũng như trong việc xây dựng căn cứ hậu phương - hậu cần. Mặt khác, phải tích cực xây dựng lực lượng, thế trận hậu cần quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, sự ưu việt của công cuộc đổi mới vào xây dựng hậu cần khu vực phòng thủ trên các địa bàn căn cứ hậu phương; phải đầu tư xây dựng Ngành Hậu cần quân đội từng bước tiến lên chính quy, hiện đại, xứng đáng làm nòng cốt cho sự phát triển vững chắc của các căn cứ hậu phương - hậu cần và cả nền hậu cần quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.


Cần làm tốt công tác chuẩn bị ngay từ trong thời bình, Ngành Hậu cần mới đáp ứng được yêu cầu của tình hình và sẵn sàng bảo đảm cho quân đội cùng cả nước đánh thắng mọi hành động chiến tranh, kể cả chiến tranh công nghệ cao của kẻ thù nếu chúng liều lĩnh xâm lược Tổ quốc ta.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #115 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2021, 02:27:40 pm »

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VŨ KHÍ, TRANG BỊ
TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG NẨM 1947


Thiếu tướng, TS. VÕ MINH CẨM
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật


Thu - Đông năm 1947 thực dân Pháp huy động hơn 12.000 quân tinh nhuệ cùng nhiều vũ khí trang bị hiện đại mở cuộc tấn công lên Việt Bắc nhằm chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến, phá căn cứ địa, tiêu diệt bộ đội chủ lực ta, giành thắng lợi quân sự quyết định, lập chính quyền bù nhìn, nhanh chóng kết thúc chiến tranh, lập lại ách thực dân lên đất nước ta một lần nữa. Nhưng chúng đã bị quân và dân ta đánh trả quyết liệt, bị thất bại thảm hại, buộc phải rút khỏi Việt Bắc.


Thắng lợi to lớn của chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của chiến dịch là bảo đảm vũ khí, trang bị cho chiến dịch. Sự sáng tạo trong tạo nguồn vũ khí, trang bị giai đoạn chuẩn bị và thực hành chiến dịch được thể hiện trên một số lĩnh vực sau:


1. Chủ động tạo nguồn vũ khí, trang bị cơ bản đáp ứng yêu cầu cho quân và dân ta chiến đấu giành chiến thắng.

Ngay từ những ngày mới giành được chính quyền, trong điều kiện lực lượng còn nhỏ, vũ khí trang bị thiếu thốn, lại thô sơ, để đánh thắng kẻ thù có quân số đông, thiện chiến, có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến phát triển lực lượng và cơ sở vật chất, vũ khí trang bị.


Trong "Chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa", Đảng ta chỉ rõ: "Một dân tộc bị áp bức cũng như một giai cấp bị bóc lột, muốn tự giải phóng phải cầm vũ khí trong tay mà chiến đấu. Không thể tay không mà đuổi được giặc. Dân ta muốn đánh đuổi Nhật, Pháp cũng không thể không sắm vũ khí và tập dùng vũ khí. Phải hết sức cổ động quần chúng nhiệt liệt tham gia các cuộc tìm vũ khí hay các ngày mua súng...". Chỉ thị nêu rõ: "Có hai cách kiếm vũ khí là: tự chế, mua và chiếm của giặc... còn chiếm của giặc thì bằng hai cách: đánh các đồn trại, các kho súng, các đội quân tuần tiễu của địch mà chiếm lấy vũ khí và vận động binh lính địch, làm cho họ giác ngộ, đem súng của địch nộp cho ta"1 (Lịch sử Ngành Quân khí Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 17).


Trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị: "Trọng tâm công tác quân nhu lúc này là vũ khí. Phải có nhiều vũ khí, có nhiều súng đạn. Phải chuyển một số nhà máy, xí nghiệp để lo phục vụ cho quốc phòng. Quân nhu chưa đủ sức phục vụ thì đã có nhân dân, có anh em công nhân giúp"1 (60 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội , 2004, tr. 26).


Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng ta nêu rõ: "Vì cuộc kháng chiến của ta mang tính chất toàn dân, toàn diện, cho nên nếu không phát triển việc chế tạo vũ khí thô sơ thì không võ trang được dân quân, du kích, không thể võ trang toàn dân... Không cố gắng chế tạo vũ khí hiện đại thì khố nói đến việc ngăn cản bộ đội cơ giới hóa của địch hoặc phản công địch"1 (Trường Chinh, Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 63).


Thực hiện chủ trương trên, từ cuối năm 1946, một cuộc tổng di chuyển máy móc, nguyên liệu đã được triển khai đưa về Việt Bắc phục vụ cho nhiệm vụ sản xuất vũ khí, đạn dược. Di chuyển một khối lượng lớn máy móc, nguyên liệu về các khu căn cứ lúc này là việc rất khó khăn vì phải tiến hành trong hoàn cảnh khẩn cấp của cuộc chiến tranh đang lan rộng. Các loại phương tiện vận chuyển thủy, bộ đều được huy động: ô tô, tàu hỏa, xe goòng, tàu thuyền, ca nô, xe trâu, xe thồ và cả vai người gánh vác. Máy móc, trang bị, nguyên liệu được chuyển từ Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Bắc Ninh... đưa về khu vực xa chiến sự để thành lập các xưởng sản xuất vũ khí. Hơn 40.000 tấn máy móc, nguyên liệu bảo đảm xây dựng được 200 xưởng quân giới, giúp ta tạo được một tiềm lực lớn cho cuộc kháng chiến lâu dài. Ngoài ra, chúng ta còn đưa về các khu căn cứ hàng nghìn thợ và cán bộ kỹ thuật giỏi. Các cơ sở sản xuất, sửa chữa vũ khí đa dạng về quy mô tổ chức và quản lý: thuộc Trung ương, địa phương, đoàn thể, tổ hợp tác, gia đình; sản phẩm cũng đa dạng: súng tiểu liên, súng Ba-zô-ca 60mm, SKZ (súng không giật), AT, súng cối, dao mác, mã tấu, chai cháy, các loại đạn dược... Việc nghiên cứu, chế tạo được đẩy mạnh. Nhiều loại vũ khí với số lượng lớn được xuất xưởng, trang bị cho các đơn vị. Mặc dù nguồn vũ khí trang bị đã tăng so với trước nhưng vẫn không đủ cho các lực lượng vũ trang. Trong một đơn vị chỉ có một số người được trang bị súng, song chủ yếu là súng trường. Các loại súng tiểu liên, đại liên, súng cối rất ít. Quân số còn lại thường được trang bị gươm, mã tấu, giáo mác, lựu đạn tự tạo và cả cung, nỏ.


Khắc phục sự thiếu thốn vũ khí, các xưởng quân giới đẩy mạnh chế tạo vũ khí thô sơ, mìn, lựu đạn. Tập trung sản xuất lựu đạn theo ba kiểu: lựu đạn cần (mỏ vịt) cải biên từ lựu đạn kiểu Anh, Pháp, Mỹ; lựu đạn chày rút dây nụ xòe, cải biên từ lựu đạn kiểu Trung Quốc; lựu đạn đập, cải biên từ lựu đạn kiểu Nhật. Trong ba loại trên, lựu đạn chày dễ chế tạo, vật liệu dễ kiếm hơn nên được sản xuất rộng rãi hơn cả.


Chủ trương tự chế tạo các loại vũ khí, đạn dược đã đáp ứng được phần nào yêu cầu trang bị, phát huy sức sáng tạo, tự lực, tự cường của quân và dân ta. Nếu như những ngày đầu kháng chiến, vũ khí của chúng ta còn rất thiếu thốn1 (Theo thống kê vào tháng 3-1947, toàn quân có 26.018 súng trường (kể cả súng săn), 1.522 súng máy. Như vậy tính riêng bộ đội tập trung, bình quân 3 người mới có 1 khẩu súng bộ binh) thì đến trước chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, vũ khí trang bị của quân và dân ta từng bước được bổ sung, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến đề ra, góp phần bảo đảm cho quân và dân ta thực hiện thắng lợi chiến dịch phản công, đánh bại chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #116 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2021, 02:29:41 pm »

2. Lực lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật và các cơ sở sản xuất, sửa chữa vũ khí nhanh chóng phát triển, phát huy ý chí tự lực, tự cường trong sản xuất và sửa chữa

Ngày 4-2-1947, Chính phủ quyết định thành lập Cục Quân giới trên cơ sở nâng cấp Phòng Quân giới đã có trước đây. Tại các khu cũng đã hình thành cơ quan chỉ đạo kỹ thuật. Ở Bộ chỉ huy chiến khu có Ty Quân giới; ở các tỉnh và các đơn vị, cơ quan tham mưu đảm nhiệm chức năng bảo đảm về trang bị kỹ thuật. Trên toàn quốc, các xưởng sản xuất vũ khí hình thành 2 hệ thống: hệ thống các xưởng quân giới thuộc Cục Quân giới do Bộ Quốc phòng quản lý; hệ thống các xưởng do các khu, tỉnh chỉ đạo và quản lý gọi là hệ thống vũ khí dân quân. Trước chiến dịch, ta đã có 168 công binh xưởng có quy mô từ 200 đến 500 người/xưởng. Hàng trăm xưởng nhỏ có quy mô từ vài người đến vài chục người/xưởng. Ngoài ra còn tổ chức các đội thợ lưu động sửa chữa vũ khí và nhồi lắp đạn cho đơn vị chiến đấu. Dưới sự chỉ đạo thống nhất của Cục Quân giới, các cơ sở sản xuất vũ khí đẩy mạnh việc sản xuất, sửa chữa. Lực lượng vũ trang và nhân dân ở hầu hết các tỉnh, địa bàn cả nước đều ráo riết tổ chức rèn, đúc, sản xuất vũ khí, đạn dược. Cùng thời gian này, Công chính giao thông Cục thuộc Bộ Quốc phòng cũng được thành lập. Bộ Quốc phòng quy định rõ nhiệm vụ cho Công chính giao thông Cục: "...Trông nom, mua bán súng, tất cả các loại xe cộ dùng trong Bộ và cơ quan quân đội. Tổ chức mở các xưởng sửa chữa xe, chữa máy, các xưởng công binh. Tại các khu, thành lập các Ban Công binh thuộc Phòng Tham mưu”1 (Thông tư số 290/TT ngày 29-3-1946 của Bộ Quốc phòng).


Hội nghị quân sự toàn quốc họp từ ngày 12 đến ngày 16-1-1947 đã xác định phương hướng công tác sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị: "Mỗi khu có một ty quân giới, người phụ trách do Bộ Quốc phòng cử, có nhiệm vụ phụ trách các xưởng, tìm nguyên liệu, mua, bán, chế tạo vũ khí và coi kho. Vũ khí để phân phát cho bộ đội thì do quản lý khu phụ trách. Các ty quân giới liên lạc với Quân giới khu qua khu trưởng. Trừ các nhà máy (xưởng) đặc biệt và cần thiết mà Bộ Quốc phòng phải trực tiếp điều khiển, tất cả các nhà máy (xưởng) trong khu đều do ty trưởng quân giới phụ trách. Khu trưởng và ty trưởng phải liên đới chịu trách nhiệm về sức sản xuất của nhà máy đó"1 (Văn kiện quân sự của Đảng, Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 102-103).


Một nhiệm vụ quan trọng cũng được xác định là: "Phải thu hút những nhân tài chuyên môn". Trong các công binh xưởng, phong trào nghiên cứu, cải tiến được đẩy mạnh. Cán bộ, công nhân thực hiện vừa làm, vừa học, với ý chí tự lực tự cường, lao động quên mình để chế tạo vũ khí. Tháng 4-1947, Hội nghị cán bộ Trung ương họp xác định chủ trương chiến lược và những nhiệm vụ cấp bách của cuộc kháng chiến, về quốc phòng, Hội nghị chủ trương: "Kết hợp chế tạo vũ khí hiện đại và vũ khí thô sơ, chống khuynh hướng cực đoan, lệch lạc, coi trọng thứ này, xem nhẹ thứ khác"2 (Văn kiện quân sự của Đảng, Tập 2, Sđd, tr. 67, 68). Chấp hành Nghị quyết của Đảng, Hội nghị quân giới toàn quốc được triệu tập nhằm xác định chương trình chê tạo vũ khí, phân phối máy móc, nguyên vật liệu, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, sửa chữa vũ khí giữa các địa phương. Sau hội nghị, việc tổ chức sản xuất, sửa chữa vũ khí đã dần đi vào nền nếp, chuyên môn hóa cao hơn, sản lượng sản xuất một số loại vũ khí tăng hơn gấp nhiều lần so với năm đầu kháng chiến. Tuy nhiên, để đáp ứng với đòi hỏi của chiến trường, cần phải nâng cao chất lượng sửa chữa, sản xuất các loại vũ khí có uy lực chiến đấu cao.


Trong khi chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất "vũ khí căn bản", Cục Quân giới đồng thời chú trọng chỉ đạo phát triển "vũ khí tối tân". Phát huy tài trí thông minh của toàn dân tham gia sản xuất vũ khí. Chủ trương trên đã thu hút được nhiều cán bộ nghiên cứu, nhiều nhân tài tham gia chế tạo, sản xuất vũ khí. Xưởng vũ khí Giang Tiên (Phú Lương - Thái Nguyên) với nhiệm vụ sửa chữa súng, sản xuất súng trường, nhồi đạn ĐAM1 (Đạn ĐAM, một loại đạn súng trường của Pháp). Đây là xưởng quân giới đầu tiên của quân đội ta. Những loạt vũ khí đầu tiên của xưởng Giang Tiên được trang bị cho các chi đội Nam tiến và gửi vào chi viện cho đồng bào Nam Bộ giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến; cũng tại đây, kỹ sư Trần Đại Nghĩa cùng các cán bộ, công nhân đã nghiên cứu, sản xuất súng và đạn Ba-zô-ca (loại 60mm) theo kiểu của Mỹ. Cùng với các khu, các địa phương trên cả nước, quân và dân Chiến khu 1, Chiến khu 10, Chiến khu 12 thuộc địa bàn Chiến khu Việt Bắc đã tích cực tham gia sản xuất vũ khí. Riêng ba khu nói trên có 13 xưởng quân giới, 11 xưởng vũ khí dân quân, 5 công trường sản xuất, sửa chữa vũ khí các loại. Dưới sự lãnh đạo của các khu ủy, tỉnh ủy, các xưởng sửa chữa, sản xuất súng, lựu đạn, địa lôi lần lượt được thành lập. Nhiều tỉnh có xưởng sản xuất, sửa chữa vũ khí dân quân như: Xưởng Làng Chè - tỉnh Bắc Ninh, Xưởng Hoàng Hoa Thám - tỉnh Bắc Giang, Xưởng Lê Tổ - tỉnh Cao Bằng, Xưởng Sơn Kịch - tỉnh Vĩnh Yên, Xưởng Phú Thọ - tỉnh Phú Thọ. Tỉnh Thái Nguyên có 2 xưởng chuyên sửa chữa súng, sản xuất lựu đạn, phu-mi-nát thủy ngân... Nhờ có chủ trương, biện pháp tích cực đó nên chỉ trong một thời gian ngắn đã dần khắc phục được một phần khó khăn về vũ khí. Riêng lực lượng dân quân ở các địa phương, xã ít nhất cũng có 2 súng trường và một số mìn, lựu đạn. Đặc biệt, dân quân xã Đình Bảng (Từ Sơn - Bắc Ninh) đã có tới 70 súng trường và 1 súng trung liên.


Các loại vũ khí tối tân bước đầu cũng đã được nghiên cứu, chế tạo thành công: súng, đạn Ba-zô-ca loại 60mm được sản xuất đạt chất lượng tốt. Đạn nổ có sức xuyên phá như đạn của Mỹ. Cục Quân giới nhanh chóng phổ biến mẫu đạn và quy trình sản xuất đạn Ba-zô-ca 60mm đến các ty quân giới trong cả nước. Việc sản xuất thành công súng, đạn Ba-zô-ca loại 60mm đã tăng cường uy lực vũ khí của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp, làm cơ sở cho việc phát triển sản xuất súng đạn Ba-zô-ca loại 75mm, 92mm sau này.


Từ đầu năm 1947, nhiều xưởng trong cả nước đã nghiên cứu chế tạo lựu phóng và súng phóng lựu theo kiểu của Nhật, Pháp. Giữa năm 1947, Nha Nghiên cứu kỹ thuật chế thử thành công Đạn AT1 (Một loạt đạn chống tăng cỡ nhỏ theo nguyên lý nổ lõm, được lắp ở đầu súng trường. Khi bắn khí nén của đạn súng trường (đã tháo đầu đạn) sẽ đẩy đạn AT tới mục tiêu). Sau khi chế thử thành công, đạn AT được sản xuất hàng loạt, kịp thời cung cấp cho bộ đội. Súng cối 51mm, lựu phóng cũng được nghiên cứu, chế tạo thành công góp phần quan trọng vào tăng cường sức mạnh chiến đấu của bộ đội và du kích.


Bước vào Thu - Đông năm 1947, Cục Quân giới tổ chức lại hệ thống sản xuất theo hướng chuyên môn hóa; đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về vũ khí và nguyên vật liệu. Hai tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn nằm trên địa bàn "địch có thể tiến công" đã tích cực triển khai công tác chuẩn bị. Tỉnh Bắc Kạn đã vận động nhân dân chế ra nhiều súng kíp, hỏa mai, thuốc súng và đạn pháo bằng nguyên liệu sẵn có của địa phương. Hai huyện Ngân Sơn và Chợ Đồn học tập kinh nghiệm của Cao Bằng còn chế tạo được "Đại bác kíp", mỗi phát bắn có thể tiêu diệt được nhiều tên địch. Tại Thái Nguyên, Tỉnh đội thành lập xưởng quân khí trực thuộc Ban Cung cấp, có 20 công nhân, đã sản xuất được nhiều súng kíp và lựu đạn trang bị cho du kích và dân quân địa phương. Một số tổ công tác đặc biệt được thành lập, đi vào các vùng địch hậu tìm mua vũ khí và nguyên liệu, hóa chất về làm vũ khí, chế tạo đạn. Ta còn thông qua các thương nhân Hoa kiều đi cả Hồng Kông mua hóa chất, nguyên liệu hiếm. Một số tổ còn được cử đi thu nhặt phân dơi trong các hang núi và thu gom than củi từ hàng nghìn gia đình về để chế tạo thuốc súng... nhờ vậy, nhịp độ sản xuất phát triển nhanh, đến cuối năm 1947 so với đầu năm, máy móc tăng 4 lần, nguyên liệu sử dụng tăng 20 lần. Chỉ tính từ Khu 5 trở ra, đến cuối năm 1947, ta đã sản xuất được 7.000 súng trường, hàng trăm súng Ba-zô-ca trong một tháng, hàng nghìn viên đạn. Cùng với tự sản xuất, ta đã mua được 17.000 súng trường, 300 súng liên thanh.


Với việc tự sản xuất và một phần mua sắm, tích cực đánh địch, thu được vũ khí của địch nên các đơn vị đã được trang bị vũ khí tốt hơn; lực lượng dân quân, du kích của các chiến khu cũng được trang bị thêm nhiều vũ khí cơ bản (mìn, lựu đạn, địa lôi). Công tác huấn luyện cũng được coi trọng và được tiến hành dưới nhiều hình thức. Ngoài kỹ thuật bắn súng, ném lựu đạn, đâm lê, các đơn vị còn huấn luyện thêm kỹ thuật bắn máy bay bằng súng bộ binh. Do đó, bộ đội tham gia chiến dịch phát huy được tính năng các loại vũ khí được trang bị.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #117 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2021, 02:31:02 pm »

3. Chiến đấu bảo vệ các công bỉnh xưởng, cơ sở sản xuất vũ khí, đẩy mạnh nhịp độ sản xuất, kịp thời bảo đảm vũ khí trang bị cho mặt trận

Một trong những mục tiêu tấn công của thực dân Pháp vào Việt Bắc là phá các công binh xưởng, các kho tàng của ta. Ngay chiều ngày 7-10, máy bay Pháp đổ 200 lính dù xuống Chợ Mới, Xưởng quân giới A.1 tại đây đã chuyển gấp máy móc về phía Na Rì. Trong các ngày 8 và 10-10, chúng đổ tiếp 250 quân dù xuống Cao Kỳ, tiến công Xưởng hóa chất C.4. Cán bộ, công nhân xưởng đã dũng cảm chiến đấu, nhưng lực lượng mỏng, yếu, không đủ sức ngăn địch. Chúng tràn vào phá xưởng, bắt và giết một số công nhân. Bộ Tư lệnh các khu 1, 10, 12 đã phát động chiến tranh du kích kết hợp với đánh vận động tiêu hao sinh lực địch, bảo toàn lực lượng, kho xưởng của ta. Một số kho, xưởng ở gần đường được chuyển sâu vào căn cứ. Máy móc, vật tư chưa dùng đến được phân tán, cất giấu. Tại Bắc Kạn, một bộ phận quân dù đã xông vào văn phòng Cục Quân giới và cơ quan quân giới Khu 3; tuy nhiên, ta đã kịp thời di chuyển cơ quan cùng toàn bộ tài liệu. Ngày 9-10, quân Pháp từ Cao Kỳ tiến đánh Xưởng cơ khí C.2 ở Khuổi Huyền. Cán bộ, công nhân xưởng đã cất giấu xong máy móc, sẵn sàng đón đánh địch. Mìn do xưởng chế tạo được bố trí khắp các đường vào xưởng. Địch bị chặn đánh quyết liệt buộc phải rút chạy, để lại nhiều xác đồng bọn. Ở hướng Cao Bằng, ngày 9-10, trên 300 quân dù đổ xuống đông nam thị xã, một bộ phận tiến đánh Xưởng Lê Tổ nhưng trước đó xưởng đã rút về Lam Sơn, chỉ còn lại lực lượng tự vệ chiến đấu đánh trả. Khi địch đến gần, lực lượng chiến đấu của xưởng phục sẵn hai bên sườn núi, đồng loạt nổ súng, ném lựu đạn vào đội hình địch. Suốt hai ngày giằng co, không vào được xưởng, lại bị thiệt hại về người và vũ khí, địch phải rút chạy. Ý định tiến công phá hoại các công binh xưởng của địch bị đẩy lùi trước tinh thần cảnh giác và quyết tâm chiến đấu của cán bộ, nhân viên các xưởng quân giới.


Nhằm kịp thời bảo đảm vũ khí cho quân và dân ta chiến đấu, các xưởng quân giới trên địa bàn Việt Bắc đều tích cực cải tiến phương thức sửa chữa, sản xuất cho phù hợp tình hình thực tế. Chủ trương cải tiến để Việt hóa, đơn giản hóa quy trình sản xuất và máy móc sản xuất, nghĩa là gắng tìm vật liệu trong nước mà chế tạo máy móc, dụng cụ gọn nhẹ, có thể di chuyển và cất giấu nhanh chóng. Các xưởng máy, kho tàng được phân tán thành các bộ phận nhỏ, bố trí ở nhiều nơi, bảo đảm khu nào, tỉnh nào, huyện nào cũng có xưởng chế tạo vũ khí. Xưởng L.1 tại Bắc Sơn ở xa địch, có điều kiện thuận lợi, đã cố gắng sản xuất không kể ngày đêm. Khi không kịp sản xuất hạt lửa, xưởng đã linh hoạt sản xuất lựu đạn kiểu châm ngòi. Lựu đạn của xưởng làm ra đến đâu được cấp ngay cho bộ đội và dân quân. Xưởng J.4 ở Yên Bình được tăng cường thêm bộ phận hóa chất, hóa cụ của xưởng J.2 sản xuất lựu đạn mỏ vịt và sửa chữa đạn ĐAM. Công trường sửa chữa pháo J.5 tổ chức một bộ phận đi theo các đơn vị pháo binh để sửa chữa pháo ngay tại trận địa. Đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật ra sức sản xuất, sửa chữa vũ khí không kê ngày đêm. Nhiều gương chiến đấu dũng cảm trong bảo vệ xưởng, trong nghiên cứu, sản xuất vũ khí, đạn dược như các đồng chí Trần Gia Huấn, Ngô Gia Khảm... Trong điều kiện khó khăn của cuộc kháng chiến, chiến công của đội ngũ những người làm công tác kỹ thuật trực tiếp phục vụ chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 thật đáng tự hào. Các công binh xưởng vừa phòng tránh, đánh địch, bảo vệ mình, vừa duy trì và đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm vũ khí cho mặt trận trong suốt quá trình chiến đấu1 (Tính trung bình mỗi tháng, các xưởng trên địa bàn Việt Bắc sản xuất được mười nghìn quả lựu đạn, 2 khẩu ba-zô-ka, 1 khẩu cối, 600 quả đạn cối, 20 địa lôi, 1.200 kg thuốc súng, 500 bộ đánh lửa, sửa chữa 3.258 quả lựu đạn cung cấp cho mặt trận).


4. Tìm cách đánh phù hợp để phát huy hiệu quả của các loại vũ khí, trang bị hiện có

Với tư tưởng tiến công, trong chiến dịch Việt Bắc, Đảng ta tổ chức một cuộc chiến tranh nhân dân đầy mưu trí, sáng tạo. Nhiều cách đánh giặc thông minh tài trí xuất hiện. Đặc biệt là trong việc sử dụng một cách sáng tạo mọi loại vũ khí có trong tay để chiến đấu, đánh thắng địch.


Trên mặt trận sông Lô - đường số 2: Bộ đội pháo binh Khu 10 tham gia đánh tàu địch trên suốt chặng đường tiến công của chúng. Do trang bị kỹ thuật pháo binh của ta còn thiếu, chất lượng kém, pháo không có kính ngắm, không có máy thông tin liên lạc, bộ đội pháo binh đã có nhiều sáng kiến trong sử dụng pháo đạt hiệu quả trong chiến đấu. Trước khó khăn, tài trí của bộ đội pháo binh được phát huy, khẩu sơn pháo 75mm của Trung đội 225 được anh em công nhân J5 lắp ráp từ các bộ phận thu nhặt ở 6 tỉnh nên còn có tên gọi là "pháo Lục tỉnh". Thợ sửa chữa pháo J5 đã có sáng kiến tháo pháo thành 6 bộ phận nhỏ để dễ khiêng, vác cơ động bám sát địch ven sông Lô. Trên hướng này, nhân dân các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái cùng bộ đội đắp kè, ngăn sông, đào đường, đắp ụ, làm trận địa nghi binh, cắm chông trên các bãi đất trống... Trên sông Lô, khi địch tiến vào, trung đội pháo binh tiến hành bắn chặn, nhưng các loạt bắn đều không trúng mục tiêu. Bộ chỉ huy khu đã tổ chức rút kinh nghiệm cách đánh, cách bắn trong điều kiện pháo, đạn chất lượng kém. Các khẩu pháo được đưa ra sát bờ sông hơn, đặt trận địa ở nơi hiểm yếu sao cho có thể bắn được ở góc rộng và xa. Đồng thời phối hợp với các lực lượng khác, kết hợp giữa đánh địch và nghi binh để lừa địch. Quân ta đốt lửa tạo ra các ụ khói nhử phi cơ địch đến để tiêu diệt, đóng cọc làm kè giữa sông để ngăn tàu địch. Dùng những quả bưởi quét sơn đen, luồn dây thả trôi giả thủy lôi, khiến tàu địch phải dạt vào gần bờ cho pháo ta bắn. Pháo thiếu kính ngắm đều được bộ đội pháo binh áp dụng phương pháp ngắm bắn thẳng vào tàu địch. Trưa ngày 24-10, Trung đội pháo binh cơ động 175 đặt trận địa sát bờ sông thuộc làng Khoan Bộ - Đoan Hùng đã bắn cháy 2 tàu, bắn bị thương 2 tàu khác. Tại Khe Lau (ngã ba sông Gâm, sông Lô) "pháo Lục tỉnh" bắn chìm 2 tàu địch, 1 chiếc ca nô còn lại dạt vào bờ, bị khẩu đội Ba-zô-ca của Trung đoàn 112 tiêu diệt nốt.


Trên hướng Đông, mặt trận Cao Bằng - đường số 4, sau khi nắm chắc quy luật hành quân của địch, ta quyết định chọn đèo Bông Lau để tổ chức trận phục kích tiêu diệt địch. Quân ta bố trí trên sườn núi, bằng mìn tự tạo và súng trường, súng liên thanh, lựu đạn đã tiêu diệt 30 xe quân sự cùng hàng trăm tên địch, thu nhiều vũ khí. Trận phục kích đạt hiệu suất chiến đấu cao.


Cuối tháng 11, đầu tháng 12-1947, trên cả 3 mặt trận, những đạo quân thủy, bộ của địch đều bị quân và dân ta chặn đánh quyết liệt. Ngày 28-11, hàng trăm tên địch bỏ mạng ở Khu Tra. Ngày 29-11, gần 1 đại đội địch bị diệt ở Lục Rã. Đêm 30-11, 50 tên địch ở đồn Phủ Thông bị tiêu diệt ngay trong công sự kiên cố. Ngày 1-12, hơn 100 xác giặc bỏ lại trong trận Quán Ông Già (Thái Nguyên). Ngày 15-12, gần 60 tên địch cùng 17 xe cơ giới chất đầy vũ khí bị phá hủy ở Đèo Giàng.


Cùng với bộ đội chủ lực, phong trào thi đua giết giặc trong dân quân du kích diễn ra sôi nổi với nhiều hình thức phong phú, độc đáo, bằng mọi vũ khí có trong tay: Lão du kích Lương Văn Khoáng tự chế ra "Đại bác" bằng gỗ và súng "Sàng là", diệt được 6 tên Pháp ở Bó Ca. Cụ Hứa Văn Khải tự chế và sửa chữa được hàng chục quả lựu đạn cho du kích. Ông Nông Văn Chấn, dân tộc Nùng đã lấy ống nước bằng kẽm chế tạo thành súng "Hỏa mai" bắn chết 3 tên Pháp... khiến kẻ địch kinh hoàng, lúng túng.


Sau hơn hai tháng tấn công Việt Bắc, địch không thực hiện được mục tiêu cơ bản đã đề ra, lại bị thiệt hại lớn về sinh lực và phương tiện chiến tranh, Bộ chỉ huy Pháp buộc phải ra lệnh rút quân khỏi Việt Bắc.


Chiến thắng chiến dịch phản công Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 cho chúng ta nhiều bài học quý giá, trong đó có bài học về công tác bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật phục vụ cho cách đánh mang đặc điểm riêng của Việt Nam: nhỏ đánh lớn, yếu đánh mạnh về vật chất kỹ thuật. Đặc biệt là phương châm tích cực, chủ động tạo nguồn vũ khí, sử dụng sáng tạo mọi loại vũ khí có trong tay đạt hiệu quả trong chiến đấu. Ngày nay, trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bài học đó vẫn còn nguyên giá trị.


Phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông, Ngành Kỹ thuật quân đội luôn nêu cao tinh thần "chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường", thực hiện quản lý, khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật theo lời căn dặn của Bác Hồ: "Vũ khí là mồ hôi, nước mắt của đồng bào, là xương máu của bộ đội vì vậy phải quý trọng nó, phải tiêt kiệm, ngăn nắp, phải sử dụng hợp lý".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #118 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2021, 02:35:19 pm »

THÔNG TIN LIÊN LẠC
TRONG CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU - ĐÔNG NĂM 1947


Thiếu tướng NGUYỄN NHƯ KHÁNH
Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc


Cách đây đúng 60 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã mở chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 - chiến dịch phản công đầu tiên của quân đội ta diễn ra trên một địa bàn rộng, với nhiều lực lượng tham gia. Trong chiến dịch này, quân và dân Việt Bắc đã anh dũng chiến đấu, đập tan cuộc tiến công quy mô lớn của địch, làm phá sản chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến, bảo toàn và phát triển bộ đội chủ lực của ta. Thắng lợi này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo nên một bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đưa cuộc kháng chiến của quân và dân ta phát triển sang một thời kỳ mới. Hơn thế nữa, chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 là một mốc son quan trọng đánh dấu sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội ta nói chung và Bộ đội Thông tin liên lạc nói riêng, trở thành biểu tượng sáng chói về ý chí quyết tâm, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, khí phách anh hùng, sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam.


Công tác tổ chức đảm bảo thông tin liên lạc trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 để lại nhiều bài học quý báu, tạo tiền đề, cơ sở đầu tiên, góp phần hình thành nên nghệ thuật tổ chức, bảo đảm thông tin liên lạc.


Bài viết này tập trung làm rõ yếu tố quan trọng, đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, đó là: "Tổ chức đảm bảo thông tin liên lạc trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947".


Sau ngày toàn quốc kháng chiến, lực lượng vũ trang ta trên khắp các chiến trường trong phạm vi cả nước đã anh dũng chiến đấu, tiêu hao và giam chân quân Pháp từ 1 đến 3 tháng, tạo điều kiện cho Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng chỉ huy, các địa phương chuẩn bị đối phó yới các cuộc tiến công mở rộng vùng chiếm đóng của địch, xây dựng thế trận đánh địch lâu dài. Đầu năm 1947, Đảng ta đã nhận định: tuy địch không thực hiện được tham vọng đè bẹp ta chớp nhoáng bằng lực lượng quân sự; nhưng khi có viện binh, địch sẽ mở những cuộc tiến công quy mô lớn, nên quân và dân ta cần chuẩn bị sẵn sàng đối phó với chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của địch.


Để chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến trường kỳ, Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về chuẩn bị chiến dịch mùa Đông và tổ chức các Hội nghị quân sự toàn quốc để bàn các kế hoạch tác chiến và định hướng hoạt động cho lực lượng chủ lực. Đối với thông tin, Bộ Tổng chỉ huy xác định: "phải coi vấn đề liên lạc trong bộ đội là một trong những vấn đề thắng bại khi tác chiến". Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ thị cho Phòng Thông tin liên lạc phải nhanh chóng tiến hành triển khai và hoàn chỉnh các mạng điện thoại, các tuyến trục thông tin liên lạc chuyển đạt và nhất là mạng lưới thông tin vô tuyến điện ở cả hai khu vực trong căn cứ địa Việt Bắc để bảo đảm thông tin liên lạc với các chiến trường khác trên phạm vi cả nước.


Chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu, để đối phó với các âm mưu của địch mở rộng vùng lấn chiếm, Phòng Thông tin liên lạc quân sự và sở Vô tuyến điện Việt Nam đã nhanh chóng tổ chức di chuyển các vật tư, thiết bị thông tin; sơ tán ra các khu vực ngoại thành Hà Nội và sau đó tiếp tục di chuyển lên Phú Thọ, Tuyên Quang để tổ chức các cơ sở thông tin mới, sẵn sàng thay thế các cơ sở thông tin đang hoạt động trên khu vực Hà Nội. Đồng thời tổ chức triển khai các đài vô tuyến điện lưu động (LD1, LD2), bảo đảm thông tin trong quá trình di chuyển các cơ quan Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Tổng Tham mưu từ Hà Đông lên Sơn Tây, Phú Thọ, Tuyên Quang rồi về ATK ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.


Sau khi tổ chức bảo đảm thông tin liên lạc cho việc di chuyển cơ quan và các phân đội trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Tổng Tham mưu lên căn cứ địa Việt Bắc an toàn, Phòng Thông tin liên lạc quân sự đã nhanh chóng tổ chức triển khai kế hoạch bảo đảm thông tin liên lạc cho Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Tổng Tham mưu từ căn cứ địa Việt Bắc có thể chỉ đạo, chỉ huy các chiến khu, các chiến trường trong cả nước và các trung đoàn chủ lực trực thuộc Bộ, tiếp tục chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.


Thông tin vô tuyến điện được xác định là phương tiện thông tin chủ yếu để bảo đảm cho chỉ đạo, chỉ huy tác chiến tại căn cứ địa Việt Bắc và trên các chiến trường khác. Phòng Thông tin liên lạc quân sự đã xây dựng trung tâm phát tin của Bộ đặt tại Bãi Gió thuộc bản Piềng và sử dụng 2 máy thu phát SPIL có công suất 50W, đảm bảo thông tin liên lạc với chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ; sử dụng 3 máy phát vô tuyến điện có công suất từ 15W đến 20W, bảo đảm liên lạc với các đài vô tuyến điện ở khu vực Bắc Bộ và từ Khu 4 trở ra; tại trung tâm thu tin, sử dụng các máy HRO, NC44 được chuyên từ Hà Nội lên. Ngoài ra, Phòng Thông tin liên lạc quân sự còn chuyển các đài vô tuyến điện lưu động (LD1, LD2) thành các đài dự bị, sẵn sàng cơ động theo các bộ phận nhẹ của Bộ Tổng chỉ huy khi có các tình huống chiến đấu đột xuất. Lúc này, mạng thông tin vô tuyến điện ở Việt Bắc đã ngày càng được mở rộng, tăng cường về số lượng, bảo đảm tốt cho việc truyền một khối lượng lớn các công điện đến các chiến trường nhất là chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ.


Để đáp ứng yêu cầu nhân lực trong khai thác, sử dụng hệ thống điện đài vô tuyến điện đang phát triển nhanh, Phòng Thông tin quân sự đã tổ chức một lớp đào tạo hiệu thính viên gồm 16 học viên (trong đó có 5 nữ), được tuyển chọn từ số thanh niên đã tham gia chiến đấu ở Thủ đô những ngày đầu toàn quốc kháng chiến và tại một số địa phương khác theo cơ quan Bộ lên Việt Bắc, do xưởng CRL trực tiếp đào tạo. Sở Vô tuyến điện Việt Nam cũng đã mở một lớp đào tạo hiệu thính viên đầu tiên, với 30 học viên; cơ bản đáp ứng được các yêu cầu về hiệu thính viên cho mạng thông tin vô tuyến điện của Chiến khu Việt Bắc. Xưởng CRL vừa phụ trách việc đào tạo hiệu thính viên, vừa nghiên cứu và tổ chức sản xuất một số điện đài vô tuyến điện, kịp thời trang bị cho các chiến khu và bổ sung cho trung tâm thu, phát tin và một số trung đoàn chủ lực trực thuộc Bộ (loại máy phát SST, máy phát MKII).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #119 vào lúc: 08 Tháng Tư, 2021, 02:36:06 pm »

Đồng thời, để đảm bảo cho Đài Tiếng nói Việt Nam hoạt động liên tục, Bộ Tổng chỉ huy cũng đã chỉ thị cho Phòng Thông tin liên lạc quân sự, Sở vô tuyến điện Việt Nam tiến hành triển khai thêm một số đài phát thanh dự bị đặt tại dốc Cun - Hòa Bình và sau đó đã di chuyển lên Ao Cá - Phú Thọ; 1 đài phát thanh tại Phú Hộ để kịp thời thay thế cho đài phát thanh ở chùa Trầm di chuyển lên Tuyên Quang và sau đó di chuyển về Bắc Kạn. Đài Phú Hộ, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đã di chuyển về Đa Năng; tại đây, đài Phú Hộ đã tách làm 2 bộ phận, 1 bộ phận chuyển lên Chợ Rã để thành lập ra Đài phát thanh Ba Bể; phần còn lại được chuyển lên km 3, đường Bắc Kạn - Chợ Đồn, dự bị cho Đài phát thanh Bắc Kạn.


Sau khi di chuyển lên Việt Bắc, Bộ Tổng chỉ huy và Bộ Tổng Tham mưu cũng đã chỉ đạo Phòng Thông tin liên lạc quân sự nhanh chóng kiện toàn lại biên chế của các ban liên lạc trực thuộc Bộ và các ban liên lạc tại căn cứ địa Việt Bắc, để có thể đáp ứng được các yêu cầu bảo đảm thông tin liên lạc trong nội bộ Khu và trong phạm vi cả nước. Trung đội liên lạc nội bộ cũng được thành lập (Trung đội 234), cùng với Ban liên lạc đặc biệt của Bộ Tổng chỉ huy, Ban liên lạc nội bộ của Bộ Tổng Tham mưu, đã bảo đảm tốt công tác vận chuyển, thu phát công văn, tài liệu giữa Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Tổng Tham mưu trên cả 2 khu vực của căn cứ địa Việt Bắc là Thái Nguyên và Bắc Kạn. Đồng thời đã thành lập ra một Tổng trạm liên lạc nội bộ đặt tại Bắc Kạn và một số trạm lẻ, bố trí trục liên lạc chạy bộ từ Chợ Chu, qua Chợ Đồn lên thị xã Bắc Kạn; song song với trục liên lạc chạy bộ là trục liên lạc sử dụng xe đạp để chuyển công văn, tài liệu trên đường số 3, từ Đại Từ, qua Chợ Mới, lên trạm "Cây Mai” Bắc Kạn; bảo đảm tuyến vu hồi liên lạc nội bộ của thông tin truyền đạt trong toàn Khu căn cứ địa Việt Bắc.


Ngoài việc tổ chức hệ thống liên lạc chuyên đạt, Phòng Thông tin liên lạc quân sự còn tổ chức triển khai hệ thống đường trục điện thoại nối với mạng điện thoại nội bộ tại mỗi trung tâm (đã được triển khai từ trước). Bộ Tổng chỉ huy đã chỉ thị cho Ban điện thoại nội bộ, thuộc Văn phòng Bộ Tổng chỉ huy, tiến hành xây dựng gấp đường trục điện thoại từ Chợ Chu đi Bắc Kạn. Trên cơ sở kết hợp giữa hệ thống điện thoại bưu điện ở Đại Từ và hệ thống điện thoại quân sự được triển khai thêm (hệ thống dây trần mắc trên cột gỗ), đã hình thành được hệ thống điện thoại ngoại bộ, bảo đảm thông tin trên phương tiện hữu tuyến điện giữa Trung ương Đảng và quân đội. Chính sự kết hợp này đã tạo điều kiện cho mạng điện thoại toàn Khu căn cứ địa Việt Bắc mau chóng được hình thành và hoàn chỉnh.


Trước khi quân Pháp nhảy dù xuống chiếm đóng Bắc Kạn và Chợ Mới, thông tin liên lạc trong toàn khu căn cứ địa Việt Bắc đã ổn định trên tất cả các mạng thông tin vô tuyến điện, hữu tuyến điện và thông tin chuyển đạt, bảo đảm tốt thông tin nội bộ đồng thời bảo đảm cho Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Tổng Tham mưu từ căn cứ địa Việt Bắc có thể lãnh đạo, chỉ đạo và chỉ huy các Khu, chiến trường và các trung đoàn chủ lực trực thuộc Bộ. Tất các các chỉ thị của Trung ương Đảng, mệnh lệnh của Bộ Tổng chỉ huy đều đã được mã hóa và thông qua mạng thông tin vô tuyến điện quân sự và mạng vô tuyến điện của Trung ương đến tất cả các Khu ủy, Bộ chỉ huy các Khu, các mặt trận.


Để đối phó với khả năng địch tiến công lên Việt Bắc, hệ thống thông tin liên lạc của căn cứ địa Việt Bắc từ thế ổn định đã được lệnh chuyển sang thế sẵn sàng đối phó với tình huổng khó khăn nhất có thể xảy ra. Phòng Thông tin liên lạc quân sự đã nhanh chóng chia lực lượng thành 2 bộ phận, đi theo các cơ quan của Bộ Tổng chỉ huy và Bộ Tổng Tham mưu di chuyển về Khu A và Khu B, đề phòng địch đánh úp vào cơ quan lãnh đạo, chỉ huy tối cao của ta, đồng thời bảo đảm trong mọi tình huống đều có lực lượng nhanh chóng khôi phục thông tin liên lạc trong toàn căn cứ địa Việt Bắc. Cũng trong thời gian này, Đội vô tuyên điện 59 của Bộ Tổng Tham mưu (được thành lập ở Việt Bắc) cũng đã được lệnh tách thành 2 bộ phận: bộ phận các đài vô tuyến điện có công suất lớn (liên lạc với chiến trường Nam Bộ và các chiến trường xa) ở lại tại chỗ (Khu A); các đài vô tuyến điện có công suất thấp hơn (loại điện đài vô tuyến điện có công suất từ 15-20W) thì cơ động sang Khu B, để bảo đảm liên lạc với các chiến trường miền Bắc. Ngoài ra, còn bố trí một số đài vô tuyến điện cơ động đi theo Tổng chỉ huy, Tổng tham mưu trưởng, 1 đài vô tuyến điện được biệt phái sang Trung ương Đảng để bảo đảm thông tin với Bộ Tổng chỉ huy.


Sở Vô tuyến điện Việt Nam cũng đã chuẩn bị và triển khai xong đài phát thanh dự bị ở Bản Vài - Ba Bể, sẵn sàng thay thế cho đài phát thanh ở km 3, đường Bắc Kạn - Chợ Đồn. Đồng thời, đã bí mật triển khai xong các phương tiện thông tin ở vùng an toàn khu của căn cứ địa Việt Bắc tại Bắc Sơn - Tràng Xá.


Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt, với tầm nhìn xa, trông rộng của Đảng ta, căn cứ địa Việt Bắc về cơ bản đã được xây dựng và củng cố tương đối vững chắc và trở thành trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của cả nước; tất cả các mạng thông tin trong toàn căn cứ địa Việt Bắc đã ở tư thế sẵn sàng đối phó với các tình huống xấu nhất có thể xảy ra khi địch tiến công lên Việt Bắc.


Sáng sớm ngày 7-10-1947, địch cho quân nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, mở đầu cuộc tiến công lên căn cứ địa Việt Bắc. Mặc dù ta chưa dự kiến trước tình huống này, tuy bị địch tập kích bằng quân dù vào sau lưng, nhưng do có các phương án bảo đảm thông tin đã được chuẩn bị kỹ từ trước, thông tin liên lạc của ta không bị động và vẫn giữ vững thông tin liên lạc theo các phương án đã xác định. Bằng các phương tiện vô tuyên điện của Đội vô tuyến điện 59, cùng với thông tin chuyển đạt của các Ban liên lạc đặc biệt, Ban liên lạc nội bộ, bức công điện tối khẩn của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, thông báo về địch tiến công lên Việt Bắc, đã nhanh chóng được chuyển đến khắp các chiến khu, các đơn vị trong căn cứ địa Việt Bắc và các chiến trường trong cả nước. Nhờ có hệ thống thông tin liên lạc luôn thông suốt, vững chắc, nên trong những ngày đầu của chiến dịch, tất cả các chỉ thị, mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đều được chuyển tới các chiến khu, các đơn vị trong căn cứ địa Việt Bắc và các chiến trường trên cả nước; đồng thời đã đảm bảo tốt thông tin cho Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang trong căn cứ địa Việt Bắc, cơ động bảo toàn lực lượng và sẵn sàng chiến đấu chống lại cuộc tiến công lên Việt Bắc của địch.


Trong những ngày đầu, việc địch nhảy dù xuống Bắc Kạn, hình thành 2 "gọng kìm" lớn kẹp chặt căn cứ địa Việt Bắc từ phía Đông và phía Tây, đã uy hiếp mạnh một trong những cơ sở thông tin do Phòng Thông tin liên lạc quân sự trực tiếp quản lý. Đó là các khu xưởng, kho tàng, đài phát thanh và cơ quan hành chính của sỏ Vô tuyến điện Việt Nam đặt tại km 3, km 8 đường Bắc Kạn - Chợ Chu, đồng thời làm cho toàn mạng điện thoại của ta tại khu vực thị xã Bắc Kạn bị tê liệt, đường trục điện thoại về Chợ Chu (trục điện thoại ngoại bộ Bắc Kạn - Chợ Chu) chỉ còn sử dụng được từ km 8 trở đi, với các máy điện thoại ở Sở vô tuyến điện. Để đối phó với tình hình này, tại km 8 đường Bắc Kạn - Chợ Chu; đồng chí Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã gọi điện thoại báo cáo tình hình về Bộ Tổng chỉ huy và trực tiếp chỉ thị cho các khu xưởng, kho tàng, đài phát thanh và cơ quan hành chính của Sở vô tuyến điện Việt Nam, đặt tại km 3, km 8, nhanh chóng sơ tán toàn bộ máy móc, trang thiết bị vào rừng; đồng thời theo phương án đã dự kiến trước, kịp thời đưa đài phát thanh dự bị ở Bản Vài - Ba Bể vào thay thế, phát chính thức, không để "Tiếng nói Việt Nam" bị gián đoạn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM