Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:34:43 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 2  (Đọc 5338 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #100 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 09:59:02 pm »

Về xây dựng quân đội triều Nguyễn, tuy mỗi vua nhận thức đôi chỗ khác nhau, nhưng nhìn chung đều chú ý đến việc thi cử, tuyển chọn, bổ dụng quan võ ở triều đình và các cấp. Nhằm tuyển chọn người tài, vua Thiệu Trị ra lệnh Bộ Binh cùng thống quản quân thủy, sát hạch suất đội các vệ quân thủy sư. Hai suất đội đạt hạng giỏi là Nguyễn Tình và Dương Đức Sung là thủy sư ngoài Kinh đô được bổ chức Phó vệ úy.


Để đào tạo nhân tài, hằng năm, triều Nguyễn đặt lệ thi võ. Năm Đinh Mão (1807), vua Gia Long cho mở khoa thi võ đầu tiên. Cũng như thi văn, thi võ gồm: thi hương, thi hội và thi đình. Các kỳ thi được tổ chức theo định kỳ với các môn: cử tạ, cầm thương nhảy đâm hình nộm, côn quyền, bắn súng. Những người vượt qua các bài thi vòng một tùy số điểm được cấp bằng tú tài võ, hoặc cử nhân võ. Nếu muốn có bằng cao hơn là phó bảng, hay tiến sĩ võ khoa (tạo sĩ), các cử nhân võ phải qua vòng thi thứ hai thi đấu với nhau về chiến lược, chiến thuật. Các thí sinh trúng tuyển thi hương, thi hội võ được bổ chức suất đội. Tú tài võ được bổ tòng thất phẩm suất đội; cử nhân võ bổ chánh thất phẩm suất đội; phó bảng võ bổ chánh lục phẩm suất đội.


Về đào tạo quan võ còn có hai trường Anh Danh và Giáo Dưỡng chuyên dành cho con em quan võ. Những người học tại hai trường này được bổ chức từ đội trưởng trở lên (tòng thất phẩm). Tháng 9 năm Mậu Thân (1848), triều Nguyễn mở khoa thi võ ở Kinh đô Phú Xuân. Vua Tự Đức chuẩn y, võ sinh vào thi theo từng kỳ cứ giảm bớt dần, nhất trường bị liệt không được vào kỳ đệ nhi, nhị trường liệt không được vào kỳ đệ tam. Đến kỳ phúc hạch, trước đây, mỗi thí sinh bắn 3 phát súng điểu thương là hơi ít, nên mỗi kỳ thi 2 ngày và phúc hạch 1 ngày; mỗi kỳ đều cách nhau một ngày. Tháng 5 năm Canh Tuất (1850), triều Nguyễn mở khoa thi Hương về võ ở Kinh đô (đúng kỳ là năm Kỷ Dậu (1849) nhưng hoãn); trong đó có 33 người đậu, lưu giữ 5 người.


Nhằm thực hiện chế độ tuyển chọn nền nếp, ổn định, vua Tự Đức định lệ cú 3 năm một lần lựa bổ các lính Anh Danh, Giáo Dưỡng vào ngạch võ quan. Tiếp đó, vua Tự Đức cho mở khoa thi tiến sĩ võ, lấy đỗ tiến sĩ và phó bảng, bổ chức chánh phó quản cơ. Các cử nhân võ đỗ ở các khoa thi Hương Hà Nội, Thanh Hóa, Thừa Thiên, Bình Định, Gia Định đi tập sự ít năm được bổ đội trưởng. Còn các thí sinh đã qua kỳ đệ nhất, đệ nhị, đệ tam thì tùy tài nghệ được tuyển ngay vào thân binh, cấm binh, hay tinh binh làm thập hay ngũ trưởng. Những lính thường có quân công được thưởng tiền, thưởng phẩm hàm và có khi được thăng đến chức cao như đề đốc Tạ Hiển.


Tháng 2 năm Quý Sửu (1853), vua Tự Đức ra lệnh định lại lệ sát hạch các thuộc viên văn, võ. Trước đây ban văn, từ tam phẩm trở xuống giữ chức hai năm mới sát hạch. Ban Văn từ tứ phẩm trở xuống tại chức ba năm. Nay cả hai ban văn, võ đều 3 năm mới sát hạch chức vụ. Sau đó, nhà vua ra chỉ dụ cho các quần thần: Địa phận nước ta nhiều sông ngòi, biển cả nên phải tập luyện thực hành trên mặt nước. Cứ 10 ngày luyện thực hành trên sông biển một lần và ba năm thì xét duyệt quyết định thưởng phạt. Đồng thời, toàn bộ binh lính ở Kinh đô cứ 3 năm một lần sát hạch sung, thải. Do hạn chế về quan điểm giai cấp, nên dưới triều Nguyễn, cách thi cử, tuyển dụng người vào quân đội còn có những hạn chế nhất định. Có lúc triều Nguyễn quá chú ý đến tiêu chuẩn dòng họ, mà xem nhẹ hoặc bỏ qua tiêu chuẩn đức tài. Do đó, trong quân đội triều Nguyễn ít xuất hiện những danh tướng tên tuổi được lưu danh trong lịch sử.


Triều Nguyễn hết sức chú ý đến việc huấn luyện quân đội. Các quan võ nghiên cứu về cách luyện tập theo trận đồ bát quái, ngũ hành các thế trận và lối đánh trong sách Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ. Vua Thiệu Trị cho in 45 bộ Võ kinh phát cho các tướng, sĩ học tập. Binh lính thì luyện tập võ nghệ, côn, quyền, bắn nỏ. Hằng năm, đầu xuân binh lính các tỉnh được điều động một nửa về Kinh đô luyện tập trong một tháng theo chương trình, nội dung triều đình đề ra. Tháng 2 năm Ất Sửu (1805), triều Nguyễn tổ chức tập trận kiểm tra khả năng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của binh lính. Tháng 4 năm Tân Mùi (1811), vua Gia Long ra lệnh duyệt các quân trước điện Càn Nguyên, tiếp đó dự cuộc thao diễn của thủy binh trên sông Hương (Huế). Những cuộc tập trận như vậy chưa được nhiều, hiệu quả còn hạn chế, nhưng cũng góp phần nâng cao sức mạnh bảo vệ Kinh đô Huế.


Nhằm tăng cường luyện tập hiệu quả, triều đình tổ chức phân cấp thuốc súng cho các quân luyện tập bắn theo cấp bậc. Ở Kinh đô, binh lính luyện tập bắn súng điểu thương, từ phó vệ úy trở lên được cấp mỗi người 2 cân thuốc súng, hai lạng tín dược, 8 cân đạn chì và 3 miếng đá lửa. Cai đội hiệu úy Cẩm Y và suất đội các quân được cấp mỗi người 1 cân thuốc súng, một lạng tín dược, 2 cân đạn chì, 2 miếng đá lửa. Các viên tử được cấp mỗi người tám lạng thuốc súng, 5 đồng cân tín dược, 1 cân đạn chì, 1 miếng đá lửa. Các vệ đội ở ban cung Giáo Dưỡng diễn tập bắn súng quá được cấp mỗi người 6 phát súng và diễn tập bắn súng điểu thương mỗi người được cấp 12 phát thuốc súng.


Đối với kỵ binh, triều Nguyễn tổ chức diễn tập ở trước Nam Đài. Vua Minh Mạng giao cho Vũ Văn Giai soạn sách thao diễn kỵ binh (mã trận). Triều Nguyễn cử hai người ở hai đội Tả Hầu và Hữu Hầu đến vùng Thanh Hóa, Nghệ An theo dõi binh lính Oai Chấn ở hai trấn này tập bắn súng hỏa xa quá sơn theo chế độ luyện tập hằng năm.


Tháng 9 năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng quy định điều lệ thao diễn voi ở Kinh đô. Hằng năm, việc tổ chức thao diễn voi gồm 24 lần, vào thượng tuần và trung tuần hằng tháng. Thống quản vệ kinh Tượng phái một quản vệ và 150 binh lính, vệ Thần Cơ phái 10 pháo thủ trang bị đầy đủ súng nhỏ, súng lớn, thuốc đạn, chọn chỗ đất rộng thích hợp để tổ chức thao diễn. Số binh lính và voi thao diễn lần lượt thay phiên nhau, thao diễn chung 12 lần vào những ngày cuối tháng từ tháng giêng đến tháng 11 hằng năm. Ngày 20 tháng chạp hằng năm, Thân binh, Cấm binh gồm 1.000 người trang bị súng lớn, nhỏ, thuốc đạn và voi ở Kinh đô phối hợp với voi trong 3 vệ tập trung ở Nam Đài.


Theo lệ hằng năm, triều Nguyễn tổ chức diễn tập thủy chiến ở sông Thanh Phúc. Đô thống Nguyễn Tăng Ninh và Trương Đăng Quế tham dự, xét duyệt cuộc diễn tập này. Vua Minh Mạng ra lệnh cho quan lại đại học sĩ Trương Đăng Quế nghiên cứu bản đồ thủy chiến của các nước phương Tây, trong đó tập trung nghiên cứu các phương pháp đánh thủy, tập hợp thành sách Thủy chiến tuyên cơ quyết thắng. Đồng thời, ra chỉ dụ cho thủy quân ba điều chủ yếu khi vào trận: Bắn vào lái thuyền, bắn vào cột buồm và bắn vào tướng điều khiển thuyền. Tiếp đó, tháng 5 năm Canh Tý (1840), triều Nguyễn tổ chức cho binh lính luyện tập đánh thủy chiến. Thuyền được làm bằng bè, phên nứa và thả neo cho khỏi trôi. Quân lính ở bên bồ, cách 50 trượng (2.000 mét) được bắn 3 phát súng hồng y khi có lệnh.


Tháng chạp năm Quý Sửu (tháng 12-1853), vua Tự Đức quy định lại lịch binh lính ở các tỉnh về Kinh đô diễn tập: Năm Giáp Dần (1854), ban thứ nhất có các tỉnh Bình Định, Nghệ An, Hà Nội, Nam Định; năm Ất Mão (1855), ban thứ hai có các tỉnh Quảng Nam, Thanh Hóa, Sơn Tây, Ninh Bình đều phải một vệ cơ thao diễn; năm Bính Thìn (1856), ban thứ ba có các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Nghệ An đều phái nửa vệ. Bắc Ninh, Hải Dương đều phái một vệ, cơ lần lượt khi đến phiên của mình. Chế độ diễn tập này được duy trì khá đều đặn trong một vài năm. Vua Tự Đức cùng quần thần quy định lệ lưu ban và nghỉ ngơi cho binh lính: Binh lính ở Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi từng ngạch đều chia ba ban, một ban lưu trực, một ban cho về nghỉ, cứ thế thay đổi nhau.


Nhằm tăng cường kỷ luật quân đội, tháng chạp năm Kỷ Dậu (tháng 12-1813), vua Gia Long quy định: Ai bắt binh lính làm việc riêng hoặc cho về nhà nghỉ thì bị trị theo quân pháp. Cuối năm Bính Tuất (1826), triều Nguyễn định lệ phạt đối với những viên quan cai quản nếu để cho binh lính bỏ ngũ thì xử theo các hình thức: Mỗi thập (10 lính) mà lính trốn đến 2 người thì suất thập phải chịu đòn 30 roi, thêm một người trốn thì phạt thêm một bậc. Mỗi đội Thi Trung mà lính trốn đến 12 người, thì viên chánh, phó suất đội đều phải chịu đòn 30 roi, sau cứ 6 người lính trốn nữa thì phạt thêm lên một bậc. Đội Cẩm Y thị nội và đội quân Thần Sách, mỗi đội trốn đến 6 người thì viên suất đội bị phạt đòn 30 roi, sau cứ 3 người lính trốn thì phạt thêm lên một bậc. Mỗi vệ cơ để lính trốn đến 60 người, thì viên chánh, phó quản cơ đều phải phạt đòn 30 roi, sau cứ để lính trốn đến 30 người, phải phạt thêm lên một bậc nữa.


Trước tình hình binh lính hay bỏ trốn, tháng giêng năm Kỷ Sửu (tháng 1-1829), vua Minh Mạng định luật trị tội đối với những binh lính bỏ trốn về các địa phương như trốn lần đầu phạt đánh 90 trượng, lần thứ hai đóng gông 2 tháng và khi mãn hạn đánh 100 trượng rồi sung ngũ, trốn lần thứ ba thì trị tội giảo giam hậu (thắt cổ nhưng giam lại đợi vua quyết định). Đối với lính giản đến kỳ canh gác ở Kinh đô nếu bỏ trốn, triều đình phạt lần đầu bỏ trốn, đóng gông hai tháng, khi hết hạn đánh 100 côn đỏ, giao về hàng ngũ cũ, trấn lần hai thì chém hoặc điều đến Trấn Ninh làm lính. Tiếp đó, tháng chạp năm Nhâm Thìn (tháng 12-1832), vua Minh Mạng ra luật trị tội đối với quan quản ngũ: nếu lính đang tại ngũ phạm tội ăn cướp, giết người, đốt nhà, một người lính vi phạm thì suất đội bị phạt 30 trượng, hai người vi phạm thì phạt 60 trượng. Mức phạt tối đa là 100 trượng thì bị cách chức, còn suất thập được miễn tội.


Dưới triều Nguyễn có cả Luật binh gồm 58 điều, trong đó quy định nghiêm ngặt: tướng thua trận, hoặc bị cách chức, trảm giam hậu, hoặc xử trảm; binh lính bỏ trốn lần đầu phạt 100 trượng, tái phạm trảm giam hậu; những người che giấu, lý trưởng và quản suất cũng bị phạt; các quan không được tùy tiện sai phái việc quân; không được tùy ý bán đồ quân khí. Những luật lệ triều Nguyễn ban hành đã có tác dụng nhất định, góp phần giữ nghiêm kỷ luật quân đội.


Nhìn chung, dưới triều Nguyễn, quân đội được xây dựng với thành phần nhiều lực lượng, nhưng không được luyện tập nhiều, nội dung huấn luyện về chiến thuật, kỹ thuật sơ lược, vũ khí trang bị rất lạc hậu so với quân đội các nước trong khu vực, nhất là quân đội các nước phương Tây. Trong quân đội, tinh thần chiến đấu không cao, tổ chức và kỷ luật thiếu chặt chẽ, trình độ chỉ huy kém. Nguyên nhân của những hạn chế đó là do triều Nguyễn chưa có phương lực xây dựng quân đội thích hợp cả về số lượng và chất lượng quân đội để tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng bảo vệ đất nước. Việc xây dựng quân đội cốt để bảo vệ dòng họ và khi cần sử dụng để đàn áp các lực lượng chống đối, chủ yếu là nhân dân, nên quân đội triều Nguyễn khó dựa được vào dân và không thực hiện được chiến lược “toàn dân là binh” khi đất nước có giặc ngoại xâm đe dọa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #101 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 10:00:18 pm »

3. Tập trung xây dựng hệ thống thành lũy, pháo đài, đồn trú để phòng thủ, bảo vệ biên cương lãnh thổ của Tổ quốc

- Xây dựng thành lũy và tăng cường lực lượng trấn giữ Kinh đô Huế.

Sau khi giành quyền thống trị đất nước, triều Nguyễn đã nhanh chóng bắt tay vào việc xây dựng, phát huy tiềm lực quân sự, quốc phòng của đất nước, trong đó vấn đề củng cố, xây dựng hệ thống thành lũy, pháo đài, đồn trú và bố trí lực lượng bảo vệ được đặc biệt chú trọng. Kế thừa tư tưởng thành tựu về kinh nghiệm xây dựng thành lũy của các triều đại trước, của chính các chúa Nguyễn trong những năm bảo vệ lãnh thổ cát cứ xứ Đàng Trong, các vua triều Nguyễn tập trung nhân lực, vật lực xây dựng các công trình phòng thủ ở nhiều địa phương, nhất là ở Kinh thành Huế.


Những biểu hiện cụ thể về quan điểm tư tưởng quân sự này thể hiện ở một số nội dung chính sau đây:

Sau khi đánh tan quân Tây Sơn, lên ngôi vua, định đô ở Phú Xuân (Huê), Gia Long lo củng cố thành lũy, bố trí lực lượng phòng giữ Kinh đô. Ngay từ tháng 2 năm Ãt Sửu (1805), vua Gia Long đã ra lệnh tổ chức xây đắp Kinh thành Huế. Sách Đại Nam thực lục cho biết: Mặt bằng xây dựng Kinh thành bao gồm trọn đô thành cũ thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, một phần phủ chính thời Nghĩa vương Nguyễn Phúc Thái, cùng đất 8 làng: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, Thế Lại, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bữu. Sách Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ (Hội điển) chép rằng: chu vi của thành là 10.571,28 mét (2.487 trượng 3 thước 7 tấc), bề dày thân thành là 21,25 mét (5 trượng), chiều cao thành là 6,46 mét (1 trượng 5 thước 2 tấc) và bốn mặt đều có hào dài 10.639,7475 mét (2.503 trượng 4 thước 7 tấc)1 (Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội Sử học Việt Nam: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Tlđd, tr. 464-468).


Dưới thời Gia Long, việc xây dựng Kinh thành Huế huy động từ 5 đến 8 vạn nhân công tham gia. Nhân dân các địa phương như Nghệ An đóng góp gỗ lim, Gia Định đóng góp gỗ ván, Thanh Hóa đóng góp đá lát, Quảng Nam đóng góp gạch ngói... để cung cấp nguyên liệu xây dựng Kinh thành. Sau 27 năm tập trung hàng vạn dân, kể cả binh lính xây dựng, đến cuối năm Nhâm Thìn (1832), triều Nguyễn tổ chức xây dựng xong Kinh thành Huế. Thành được xây dựng theo kiểu Vôbăng (tên một kỹ sư công binh người Pháp ở thế kỷ XVIII), kết hợp với nguyên tắc kiến trúc của phương Đông và phương Tây. Trong suốt quá trình xây dựng, triều Nguyễn đã chi hàng nghìn quan tiền; đồng thời huy động hàng vạn người tham gia, trong đó có 9.500 binh lính và hơn 130 đổng lý, suất đội.


Kinh thành Huế được xây dựng thời Nguyễn là thành lũy có quy mô tương đối lớn và khá kiên cố so với các kinh đô trước đó trong lịch sử Việt Nam. Mục đích xây dựng thành là để “lấy oai trấn áp các nước bên để nền tảng muôn đời cho con cháu, để vững căn bản cho nước mà giữ vững lấy dân, nên mới sai xây lắp”1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Minh Mạng chính yếu, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1994, t.III, tr. 229). Kinh thành có 11 cửa đường bộ, 2 cửa đường thủy; 24 pháo đài, trấn Bình đài, kỳ đài và tuyến phòng thủ xung quanh kinh thành (gồm phòng lộ, hào, thành giai, hộ thành hà).


Nhằm tăng cường lực lượng phòng thủ, bảo vệ Kinh đô, triều Nguyễn duy trì một đội quân thường trực đủ mạnh và chấn chỉnh lại quân đội. Thời Gia Long, quân ở Kinh đô được gọi là lính vệ, chia làm ba đạo: Thân binh, Cấm binh và Tinh binh. Tháng 2 năm Tân Mùi (1811), vua Gia Long điều động 3.000 lính Thần Sách ở Thanh - Nghệ và 4.500 lính thuộc ngũ quân, tượng quân ở Bắc Thành (Bắc Bộ) đến Huế, nhằm tăng cường lực lượng phòng thủ, bảo vệ chế độ thống trị chuyên chế họ Nguyễn. Để nâng cao khả năng phòng giữ Kinh đô, tháng 8 năm Nhâm Thân (1812), vua Gia Long ra quy định binh lính ứng trực ở Hoàng thành và Kinh thành: Bốn mặt ngoài Kinh, thành, do tiền binh các dinh quân ứng trực, mặt phía nam 100 người, mặt phía đông 98 người, mặt phía tây 90 người, mặt phía bắc 84 người, dưới sự chỉ huy lần lượt của 4 quản vệ. Mỗi mặt thành đều có cờ trống, khí giới và đồ cứu hỏa. Hằng ngày, binh lính đổi gác một lần, nếu ở mặt nào xảy ra bất trắc, quan binh mặt ấy chỉ huy binh lính đối phó, còn ba mặt kia giới nghiêm chờ lệnh ứng phó.


Đến thời Minh Mạng, tổ chức quân đội bảo vệ Kinh đô được chấn chỉnh hoàn thiện gồm các binh chủng: bộ binh, tượng binh, pháo binh và thủy binh. Tháng 3 năm Canh Thìn (1820), triều Nguyễn bắt đầu đặt 4 dinh Thần Cơ, Tiên Phong, Long Võ, Hổ Oai trong quân Thị nội, mỗi dinh đều có 5 vệ quân canh giữ. Tiếp đó, tháng 7 năm Canh Thìn (1820), triều Nguyễn tổ chức xây dựng trường bắn súng ở phía sau Kinh thành Huế cho binh lính luyện tập, kiểm tra bắn đạn thật sau mỗi đợt huấn luyện, góp phần cải thiện một bước trình độ và khả năng chiến đấu của quân đội triều Nguyễn.


Nhằm nâng cao an ninh cho triều đình Huế, tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mạng định lệ binh lính canh giữ bốn đài đông, tây, nam, bắc cửa Hoàng thành. Mỗi đài có 36 binh lính, do một cai đội, hoặc phó đội Thị Trung 4, chánh đội trưởng, đội trưởng và suất thập phụ trách. Ngoài ra còn có một đội trưởng pháo thủ và 9 lính. Cứ một ngày đêm, các đội thay phiên nhau canh giữ một lần. Vua Minh Mạng ra lệnh cho Ty Vũ khố, tập trung sản xuất các loại súng tay có thuốc nổ mạnh theo kiểu súng của phương Tây và định lệ sửa chữa súng, cứ 5 năm tổ chức sửa chữa một lần. Nếu trong thời gian súng bị hỏng thì kiểm tra làm rõ trách nhiệm để xử phạt xứng đáng. Đến tháng 9 cùng năm, triều đình Huế tăng cường binh lính canh giữ Cung thành, Hoàng thành và Kinh thành Huế; điều động binh lính ở các vệ Tiền Phong, Hổ Oai, Hữu Bảo, Hùng Cự ở Bắc Thành về Kinh đô thao diễn theo lệ hằng năm.


Thực hiện chủ trương tăng cường vũ khí bảo vệ Kinh đô, tháng 8 năm Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng ra lệnh đặt 19 cỗ đại bác bằng đồng ở 4 đài đông, tây, nam, bắc cửa Hoàng Thành gồm: 16 cỗ súng đồng hỏa xa, 3 cỗ súng đồng thủy xa, mỗi cỗ có 6 bao đạn kít và 100 cân hòn chì. Tháng chạp năm Kỷ Sửu (tháng 12-1829), vua Minh Mạng ra quy định số lượng lính đóng giữ ở Kinh thành là 35 vệ. Mười vệ Thị Trung đảm nhiệm phòng thủ, các vệ Thần Cơ coi giữ súng đạn; đồng thời ra lệnh cho Tôn Thất Thiện quản kho hỏa dược, phụ trách 100 lính Thần Cơ làm cối gỗ chạy bằng sức nước gọi là "Thủy hỏa khí tế" để dễ luyện thuốc súng; và cho xây dựng ở Kinh đô 6 xưởng đúc súng ở các đài Chính Nam, Đông Thái, Nam Minh, Tây Thành, Định Bắc và Bắc Trung.


Cũng vào cuối năm Kỷ Sửu (1829), vua Minh Mạng định lại binh lính trong và ngoài Kinh đô theo ba bậc: Thân binh, Cấm binh và Tinh binh. Thân binh gồm mười vệ dực tả, hữu quân Thi Trung, bằng 10 vệ 2 dực tả, hữu dinh Vũ Lâm. Tả dực gồm 5 vệ: Trung nhất, Tiền nhất, Tả nhất, Hữu nhất, Hậu nhất. Hữu dực gồm 5 vệ: Trung nhị, Tiền nhi, Tả nhị, Hữu nhị, Hậu nhị gộp với hai vệ Cẩm Y Loan Giá liệt. Cấm binh gồm quan Thị Nội ở 4 dinh Thần cơ, Tiền phong, Long võ, Hổ oai và các đội Thượng trà viện, Kim thương, Ngân thương, Giáo dưỡng, Thương thiện, Tài hoa, Thự hòa thanh, vệ Nội thủy, biện Thượng tứ, các vệ kinh Tượng đều bỏ danh hiệu Thi Nội, gộp với 5 dinh Thần Sách. Tĩnh binh gồm các vệ Ngũ quân, Thủy quân, Hộ lăng, Giám thành, Võng thành; các đội Kiên, đội Sai, đội Dực, đội Lý thiện; các đội của các ty; các đội Tuần bạc, Tân sài; các đội thuộc phủ đệ, thuộc binh các nha ở Kinh, Thự Thanh Bình, Ngư hộ các vệ cơ đội các trấn thành, lính kho, lính trạm thuộc binh các nha ở ngoài Kinh thành.


Nhằm bảo đảm chế độ canh giữ thường xuyên Kinh đô, tháng 2 năm Canh Dần (1830), vua Minh Mạng quy định binh lính trông coi giữ các sở nội phủ, Vũ khố, Nội Tàng, Nội Tạo, Hỏa Dược Khô, hằng năm được đổi phiên hiệu một lần để tiện quản lý, theo dõi công việc. Tiếp đến, tháng 9 năm Kỷ Hợi (1939), quy định lệ túc trực của lính Thân binh: Lính vệ Cẩm Y, Kim Ngô gồm 450 người ngày thường túc trực hai bên tả, hữu phía ngoài cửa đại cung. Lính vệ Cẩm Y gồm 250 người cầm 40 lá cờ rồng vuông, 40 khẩu súng thần cơ, 90 cây giáo 3 cạnh, 45 khẩu súng điểu sang, 20 thanh đao, 3 lá khiên mây, 2 đội côn sơn đỏ, 4 đội roi và cọc. Binh vệ kim Ngô 200 người, cầm 30 lá cò đuôi nheo, 110 cây giáo 3 cạnh, 35 khẩu điểu sang, 20 thanh đao và 15 lá khiên mây. Đến tháng 11 năm Canh Tuất (1850), vua Tự Đức định lại ngạch lính thuộc binh (lính hầu) ở Kinh thành.


Có thể nói, triều Nguyễn đã có những cố gắng nhất định trong việc xây dựng, mở rộng thành Huế, tăng thế phòng thủ của Kinh đô; đồng thời tăng cường lực lượng quân đội, bổ sung vũ khí trang bị, định lệ binh lính thường xuyên trấn giữ và một số công việc khác đã đạt được kết quả đáng kể. Đây là thành quả tất yếu, bởi như chỉ dụ của vua Minh Mạng năm Quý Mùi (1823) đã chỉ rõ: “Việc binh có thể 100 năm không dùng đến, nhưng không thể một ngày không phòng bị được”1 (Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên, Bản dịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004, t.I, tr. 648). Thế nhưng, do mục đích xây dựng sức mạnh quân sự chủ yếu mang tính chất bảo vệ nền thống trị dòng họ, nên thế trận phòng thủ tại Kinh đô của triều Nguyễn vẫn còn những hạn chế. Điều đó chứng tỏ, do điều kiện xã hội và bản chất giai cấp, tư tưởng củng cố, xây dựng thế trận phòng thủ Kinh đô dưới triều Nguyễn không những không được phát huy so với các triều đại trước, mà tự nó đã bộc lộ hạn chế. Song với thành tựu đạt được như vậy, cũng có tác dụng tăng thêm thế trận phòng thủ, bảo vệ Kinh đô Huế trong nửa đầu thế kỷ XIX.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #102 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 10:01:28 pm »

- Củng cố các thành, pháo đài, đồn trú, tăng cường thế trận quốc phòng ở các địa phương trong cả nước.

Cùng với việc xây dựng, tăng cường thế trận phòng thủ ở Kinh đô Huế, triều Nguyễn chú trọng đến việc chấn chỉnh các thành, pháo đài, đồn trú nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng ở nhiều địa phương trong cả nước. Đó là củng cố các thành Hà Nội, Lạng Sơn, Nghệ An... Đầu tháng 2 năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long ra lệnh khôi phục và mở rộng thành Thăng Long. Thành được xây dựng từ năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) đời Lý, thuộc địa phận của huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, chu vi 1.385 trượng 4 thước 2 tấc, cao một trượng 2 thước 2 tấc, xây dựng bằng gạch đá, năm cửa, một kỳ đài; hào rộng 6 trượng 5 thước. Tiếp đó, tháng giêng năm Kỷ Mão (tháng 1-1819), vua Gia Long tập trung 3.500 nhân công, cấp 35.000 quan tiền và 35.000 phương gạo để tiến hành sửa chữa, đắp lại thành Thăng Long nhằm tăng cường thế phòng thủ hiệu quả hơn. Năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng chấp thuận đề nghị đổi tên Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Thành Thăng Long cũng đổi là thành Hà Nội, quy mô cơ bản vẫn như cũ. Những năm sau này, thành Hà Nội tiếp tục được củng cố, bố trí một bộ phận lực lượng quân triều đình đóng giữ, bảo đảm an ninh trật tự của một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước hồi đó.


Nhằm tăng cường khả năng phòng thủ các tỉnh thành miền Trung, tháng 3 năm Giáp Thân (1824), vua Minh Mạng ra lệnh tập trung hơn 3.700 binh lính các tỉnh thuộc Bắc Thành và Thanh - Nghệ cùng binh lính các đội Chấn Uy, do Nguyễn Văn Trí chỉ huy, xây đắp thành Quảng Bình. Chu vi của mặt thành dài khoảng 468 trượng, mặt trên rộng 3 thước, mặt dưới rộng 4 thước 6 tấc, cao 11 thưốc 5 tấc, chân móng sâu một thước rưỡi. Thành có 3 cửa tả, hữu và hậu. Sau một thời gian khẩn trương xây dựng, các lực lượng tham gia đã xây dựng xong thành Quảng Bình, bảo đảm theo yêu cầu kỹ thuật hồi đó.


Tháng 4 năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng ra lệnh huy động binh lính xây dựng thành tại trấn Nghệ An. Thành có ba cửa tiền, tả, hữu. Mặt ngoài thành cao 11 thước 5 tấc, móng sâu 1 thước, mặt trên dày 2 thước 7 tấc, dưới dày 3 thước. Tham gia xây dựng có khoảng 1.000 lính Thanh Hóa, 4.000 lính Nghệ An, do Đỗ Quý thống chế tả dinh quân Thần Sách phụ trách.


Đối với tỉnh thành Lạng Sơn, nằm ở vùng biên giới phía Bắc, tháng 3 năm Nhâm Thìn (1832), vua Minh Mạng tổ chức tu sửa thành Lạng Sơn. Thành có chu vi 636 trượng, 7 thước 2 tấc, cao 6 thưóc, mặt thành dày 3 trượng 2 thước, phía bên ngoài xây bằng gạch; tháng 3 năm Quý Tỵ (1833), ra lệnh xây dựng thành Nam Định. Tham gia xây dựng có biền binh tỉnh Nam Định và 2.000 biền binh được điều động từ các tỉnh Bắc Ninh và Hải Dương đến cùng xây dựng.


Cùng với việc củng cố, xây dựng một số tỉnh thành, triều Nguyễn chú trọng xây dựng thành ở các phủ, huyện nằm trên những địa bàn trọng yếu. Tháng 2 năm Kỷ Sửu (1829), vua Minh Mạng ra lệnh xây dựng thành phủ Lý Nhân và thành các huyện Duy Tiên, Nam Xang, Thanh Liêm thuộc trấn Sơn Nam. Trong thành xây dựng công đường, nhà kho, kho súng, nhà binh, nhà ngục; riêng thành phủ Lý Nhân được xây dựng thêm chuồng voi. Thành phủ xây dựng 4 Giác Đài, mỗi đài đặt 4 khẩu súng to, do 200 binh lính đóng giữ. Thành huyện được xây dựng gồm 4 Nguyệt Đàì, mỗi đài đặt 2 khẩu súng to, do 100 binh lính trấn giữ. Đến tháng 4 năm Kỷ Sửu (1829), vua Minh Mạng cho xây dựng thành Vĩnh Ninh thuộc đạo Cam Lộ, trấn Quảng Trị. Thành được xây dựng trên địa bàn hai phường Yên Mỹ và Tân Yên, xã Cam Lộ. Chu vi của thành là 138 trượng 4 thước, cao 6 thước 5 tấc. Trên mặt thành được xây dựng gồm 4 đài bố trí súng gang và súng đồng quá sơn lấy ở kho Kinh đô (mỗi thứ 4 cỗ). Trong thành xây dựng kỳ đài, kho thuốc súng và doanh trại cho quan quân; đồng thời điều động 500 lính ở Kinh đô đến đóng giữ.


Tháng 8 năm Ất Tỵ (1845), quan quân tỉnh Sơn Tây tổ chức đắp thành phủ Đoan Hùng ở huyện Tây Quan; chu vi 195 trượng 7 thước 2 tấc, cao 7 thước 2 tấc, mặt trước và mặt hữu có hào rộng 2 trượng, mặt sau và mặt tả liền với sông. Việc tổ chức củng cố, chấn chỉnh thành ở các huyện Duy Tiên, Nam Xang, Thanh Liêm (trấn Sơn Nam), phủ Đoan Hùng (Sơn Tây) và ở một số phủ, huyện khác chứng tỏ triều Nguyễn quan tâm củng cố thế phòng thủ dưới cấp tỉnh, trấn.


Một trong những công việc được triều Nguyễn quan tâm trong việc xây dựng các công trình phòng thủ là xây dựng các pháo đài ở những nơi trọng yếu ở các địa phương trong cả nước. Tháng 4 năm Kỷ Sửu (1829), vua Minh Mạng ra lệnh cho trấn Thanh Hóa xây dựng: Pháo đài to gọi là pháo đài Biện Sơn ở phường Tư Chính, pháo đài nhỏ là pháo đài Tĩnh Hải ở núi Lộc Dữ. Cả hai pháo đài đều xây dựng cột cờ, nhà trú quân và kho thuổc súng, về trang bị có 4 cỗ đại bác, 8 cỗ quá sơn bằng đồng, mỗi cỗ 200 viên đạn được chuyển từ Kinh đô chia ra hai pháo đài. Pháo đài Biện Sơn có 100 biền binh và một đội lính pháo thủ. Pháo đài Tĩnh Gia có 20 biền binh và một đội lính pháo thủ. Quản cơ Đặng Văn Thành được cử lãnh chức Thành thủ úy pháo đài Biện Sơn kiêm pháo đài Tĩnh Hải, đồng thời giữ chức trấn thủ Biện Sơn.


Đối với vùng đất phía Nam, tháng 11 năm Nhâm Thìn (1832), vua Minh Mạng ra lệnh cho xây dựng pháo đài Kim Dữ ở Hà Tiên. Phía trong pháo đài dựng một tòa nhà ba gian đặt súng đại bác. Hai bên dựng hai nhà đều một gian hai chái làm kho chứa thuốc đạn. 160 binh lính và 3 thuyền, do thành thủ úy Lê Văn Do chỉ huy đóng giữ. Cứ ba tháng một lần binh lính thay phiên nhau canh giữ pháo đài Kim Dữ.


Tháng 3 năm Bính Thân (1836), triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng đồn và pháo đài ở đảo Côn Lôn gọi là bảo Thanh Hải và pháo đài Thanh Hải thuộc Gia Định. Theo kế hoạch, triều Nguyễn điều động 50 binh lính, do một suất đội phụ trách, dùng thuyền chuyển khí giới đến đóng giữ mỗi năm thay phiên nhau một lần để canh giữ vùng biển, đảo của Tổ quốc. Đồng thời, ra lệnh tổ chức xây pháo đài Phòng Hải ở đảo Mỏ Diều thuộc Trà Sơn (Quảng Nam), đối diện với pháo đài Định Hải, xây dựng thêm pháo đài ở vùng Hổ Cơ, gọi là pháo đài Hổ Cơ và đặt một bảo Thị Nại để có thể hỗ trợ, bảo vệ cho nhau khi cần thiết. Triều đình cấp mỗi nơi súng hồng y bằng gang, phách sơn, súng đồng quá sơn, mỗi loại là hai cỗ, điều 30 lính, do một suất đội phụ trách đóng giữ.


Bên cạnh đó, dưới thời Nguyễn, việc xây dựng đồn, bảo canh gác ở những nơi trọng yếu, nhất là các tỉnh ven biển và vùng biên giới cũng đặc biệt được chú trọng. Tháng 2 năm Đinh Sửu (1817), vua Gia Long ra lệnh cho quan tỉnh Gia Định tập trung 1.000 người gồm cả quân và dân xây đắp bảo Châu Đốc. Phó tướng Nguyễn Văn Xuân được giao nhiệm vụ cai quản công việc xây dựng bảo này. Tháng 4 năm Bính Thân (1836), triều đình Huế ra lệnh xây dựng đồn Thu Bồn ở Quảng Nam, đồng thời điều động 30 binh lính trong tỉnh, do một suất đội phụ trách đóng giữ. Tiếp đó, triều đình tổ chức xây dựng pháo đài ở cửa biển Phúc Thắng thuộc Biên Hòa. Phía trước đặt 6 cỗ hồng y, tả, hữu mỗi bên hai cỗ súng phách sơn và một cỗ quá sơn. Pháo đài có 5 pháo thủ và 40 lính, do một suất đội phụ trách, cùng với trấn thủ canh phòng, cứ một tháng thay phiên nhau một lần. Vua Nguyễn ra lệnh cho quan tỉnh Gia Định và tỉnh Biên Hòa đắp thêm một số đồn bảo như: Bảo Lôi Lạp (Gia Định), do một trấn thủ quản lãnh 32 binh tính đóng giữ; Bảo Cần Giờ (Gia Định) gồm 60 binh lính, do một trấn thủ quản lãnh; tỉnh Biên Hòa xây dựng đồn Tam Kỳ, phái 250 binh lính đến phòng thủ, để bảo vệ vùng ven biển phía Tây Nam của Tổ quốc.


Nhằm tăng cường khả năng phòng thủ các tĩnh thành và các phủ huyện, các pháo đài, đồn, bảo, triều Nguyễn tổ chức lực lượng vũ trang với quân số và trang bị vũ khí phù hợp làm nhiệm vụ trấn giữ ở từng địa phương trong cả nước.


Theo đó, triều Nguyễn ra quy định số quân đóng ở thành Điện Hải và An Hải (Quảng Nam). Thành Điện Hải có nhiều tàu thuyền tụ họp và quan trọng hơn, do 300 binh lính dưới sự chỉ huy của một quản vệ đóng giữ. Thành An Hải do một phó vệ úy, hoặc thành thủ úy chỉ huy 20 binh lính trấn giữ. Cả hai thành Điện Hải và pháo đài Định Hải do một lãnh binh phụ trách kiêm chức cai quản.


Nhằm tăng cường lực lượng phòng giữ vùng đất phía Nam, tháng 5 năm Giáp Tuất (1814), vua Gia Long ra lệnh tuyển binh lính và quy định về ngạch binh dài hạn ở Gia Định. Trong thành chọn quân bảo thành cũ và mộ dân ngoại tịch lập ba vệ bảo thành nhất, nhị, tam, mỗi vệ gồm 10 đội. Các trấn Phiên An, Biên Hòa, Vinh Thanh, Định Tường đều lập một cơ, mỗi cơ có 10 đội, mỗi đội gồm từ 50 đến 60 người, chuyên canh giữ thành Gia Định và các trấn. Tiếp đó, vua Gia Long ra lệnh cho thành thần (quan trấn thủ thành) Gia Định tuyển chọn 557 tính các đội Trung Nghĩa, Trung Thắng, Trung Thuận thuộc Trung quân quê ở Gia Định, chia làm 11 đội Gia Võ, do thành thần trực tiếp quản lãnh. Đối với 60 người quê từ Bình Thuận trở ra cho phép trở về quê.


Tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), quan phủ Hoài Đức (Bắc Thành) tuyển mộ đinh tráng, thành lập 3 đội Hoài An làm nhiệm vụ canh giữ phủ và sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác khi cần thiết. Cùng thời gian này, triều Nguyễn đặt cơ Định Man ở Quảng Tri, mỗi cơ có 10 đội. Tháng 8 năm Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng ra lệnh cấp cho thành Quảng Bình một số vũ khí gồm: súng đại bác và các loại súrig quá sơn là 30 cỗ, 12 lá cờ đuôi nheo, 30 giáo cờ, 200 giáo dài, 20 súng tay cò máy, 1.000 phiến đá lửa và 4.000 kg thuốc súng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #103 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 10:02:02 pm »

Thực hiện chủ trương tăng cường vũ khí trang bị cho các địa phương, tháng 2 năm Bính Thân (1836), triều Nguyễn ra quy định lại trang bị các loại súng cho những tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận và pháo đài thuộc các tỉnh thành. Tỉnh Quảng Bình gồm: 4 cỗ tướng quân, 4 cỗ phách sơn cương pháo, 12 cỗ hồng y sơn pháo, 16 cỗ quá sơn đồng pháo, 12 cỗ trường thành hồng y cương pháo. Tỉnh thành Quảng Trị gồm: 4 cỗ hồng y cương pháo, 4 cỗ phách sơn cương pháo, 4 cỗ thành công sơn pháo, một cỗ quá sơn cương pháo, 9 cỗ quá sơn đồng pháo. Thành Vĩnh Linh thuộc đạo Cam Lộ gồm: 2 cỗ hồng y cương pháo, 6 cỗ phách sơn cương pháo, 8 cỗ quá sơn đồng pháo. Tỉnh Quảng Nam gồm: 1 cỗ tướng quân cương pháo, 14 cỗ hồng y cương pháo, 5 cỗ phách sơn cương pháo, 16 cỗ quá sơn cương pháo. Thành Điện Hải gồm: 2 cỗ đại luân xa thảo nghịch tướng quân đồng pháo, 21 cỗ quá sơn đồng pháo, 24 cỗ hồng y cương pháo.


Pháo đài Định Hải gồm: 7 cỗ hồng y cương pháo, 16 cỗ quá sơn đồng pháo. Tỉnh thành Quảng Ngãi gồm: 8 cỗ hồng y cương pháo, 2 cỗ phách sơn cương pháo, 12 cỗ quá sơn đồng pháo. Tỉnh thành Bình Định gồm: 1 cỗ tướng quân sơn pháo, 15 cỗ hồng y sơn pháo, 4 cỗ phách sơn cương pháo, 16 cỗ quá sơn đồng pháo. Tỉnh thành Phú Yên gồm: 10 cỗ hồng y cương pháo, 7 cỗ phách sơn cương pháo, 12 cỗ quá sơn đồng pháo. Tỉnh thành Khánh Hòa gồm: 8 cỗ hồng y cương pháo, 4 cỗ phách sơn cương pháo, 10 cỗ quá sơn đồng pháo. Tỉnh thành Bình Thuận gồm: 8 cỗ hồng y cương pháo, 4 cỗ phách sơn cương pháo, 10 cỗ quá sơn đồng pháo.


Để nắm tình hình phòng thủ các tỉnh thành, đồn bảo, tháng 4 năm Kỷ Hợi (1839), vua Minh Mạng truyền chỉ cho các đốc, phủ, bố, án và lãnh binh các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh kiểm tra thực trạng đồn thú của quản vệ, do Kinh phái đến năm 1835, phân bố tốt xấu tâu lên triều đình.


Cùng thời gian này, triều Nguyễn lệnh cho tỉnh Hà Nội điều động 500 lính cơ Trấn Ninh, do một quản cơ phụ trách, gồm 400 người đến đóng giữ tỉnh thành Ninh Bình và 100 binh lính đóng giữ phủ thành Thiên Quan (trước đó là 100 lính), mỗi tháng thay phiên nhau một lần canh giữ.


Tháng 9 năm Mậu Tuất (1838), triều Nguyễn đổi 4 đội Ninh Tráng nhất, nhị, tam, tứ làm cơ Ninh Tráng ở Ninh Bình. Hai đội Thuận Tráng nhất, nhị ở Bình Thuận, một đội làm đội Tuần Thành, một đội làm đội pháo thủ nhất, đội pháo thủ cũ đặt làm đội pháo thủ nhị. Đội Bắc dũng ở Thái Nguyên (trước có 9 đội). Lấy ba đội Long Tráng nhất, nhị, tam ở Vĩnh Long, bổ sung làm các đội tam, tứ, ngũ thuộc cơ Vĩnh Long nhất (trước có hai đội). Triều Nguyễn đặt quan đề đốc thủy quân và 15 thủy vệ (trước có 4 vệ), do một quan đô thống cai quản. Mỗi vệ có hơn 500 người, chia làm 3 doanh trung, tả, hữu. Mỗi doanh đặt một viên chưởng vệ. Đầu tháng 10 năm Kỷ Hợi (1839), triều đình cấp 3 cỗ du sơn pháo và 70 viên đạn cho quân thứ Tôn Thất Bật ở Thanh Hóa. Du sơn pháo bằng đồng, nòng súng có hai đoạn dễ tháo rời, tiện mang vác khi vận chuyển. Tiếp đó, triều đình điều động binh lính ở Kinh đô đến đóng giữ ở các địa phương: vệ trung doanh Hổ Uy đóng tại Gia Định; vệ Trung bảo nhất đóng ồ An Giang; hai vệ bảo nhất, tiền hậu và doanh Long Võ đóng ở thành Trấn Tây; vệ Hùng Nhuệ tả đóng ở Thanh Hóa, Nghệ An; vệ tả nhị quân Vũ Lâm đóng ở Nam Định, Hưng Yên; vệ kỳ Võ nhất đóng ở Sơn Tây, Ninh Bình; vệ Kỹ võ nhị đóng ở Hải Dương và Bắc Ninh.


Bộ binh điều hai suất đội cùng 100 lính thủy đến đóng ỏ Nam Định và 50 binh lính, do một suất đội phụ trách tới đóng ỏ Hải Dương. Triều đình nhà Nguyễn ra lệnh cấm dân gian không được tự chế tạo, mua bán súng điểu thương và các loại vũ khí khác, vì lo sợ dân chúng nổi dậy chống phá triều đình. Cùng thời gian này, triều đình Huế ra lệnh cho quan tỉnh Bình Thuận tuyển binh lính của địa phương lập thành vệ, cơ. Số binh lính dư thừa ra khoảng 260 người được lập thành vệ Hữu Thủy Bình Thuận và đặt một phó vệ úy cai quản.


Vua Minh Mạng ra lệnh cho bộ binh, đồn nào đóng gần ở nơi trọng yếu cần tuyển chọn 50 binh lính đến đóng giữ, đồn trọng yếu vừa phải có 30 lính đóng giữ, đồn bình thường là 20 binh lính đóng giữ. Theo lệ hằng năm, triều đình Huế ra lệnh cho các quan tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, mỗi tỉnh cử 500 binh lính, do một quản vệ cai quản đến đóng giữ Nam Định và Hưng Yên để đàn áp đạo Giatô nổi dậy chống lại triều Nguyễn. Đồng thời, thành lập vệ Phòng Hải ở Thuận An (Huế). Phủ Thừa Thiên tuyển chọn 190 đinh tráng ở ven biển, chia làm 4 đội là tứ, ngũ, lục, thất. Mỗi đội đặt một chánh đội trưởng, một suất đội, hai đội trưởng và hai ngoại ủy đội trưởng. Bốn đội tứ, ngũ, lục, thất mới tuyển và 3 đội nhất, nhị, tam có trước thành 7 đội, gọi là vệ Phòng Hải, do một phó vệ úy quản lãnh.


Như vậy, triều Nguyễn đã quan tâm xây dựng thành lũy, pháo đài, đồn bảo, bố trí lực lượng phòng thủ, nâng cao trình độ, khả năng chiến đấu của các lực lượng vũ trang (gồm lực lượng, vũ khí trang bị, cơ sở vật chất bảo đảm...), chủ yếu ở Kinh đô và một số địa bàn ở các tỉnh trọng yếu. Đây là một trong những nhân tố cơ bản tạo tiềm lực về sức mạnh quân sự để triều Nguyễn giữ gìn, ổn định tình hình quốc gia thống nhất; đồng thời có thể phát huy trong sự nghiệp chống ngoại xâm. Tuy nhiên, do tư tưởng chỉ đạo về xây dựng, bố trí lực lượng phòng thủ chưa hợp lý, trang bị vũ khí còn lạc hậu, trình độ tác chiến thấp. Mặt khác, các thành lũy, pháo đài, đồn bảo được xây dựng chủ yếu mang tính chất phòng thủ địa phương, chưa tạo được thế phòng thủ liên hoàn trong thế trận chung cả nước, vì thế, triều Nguyễn không thể phát huy được hiệu quả vai trò của thành lũy, pháo đài, đồn bảo để có thể đương đầu thắng lợi trước đội quân xâm lược nhà nghề.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #104 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 10:03:42 pm »

4. Thân thiện đối với các nước láng giềng, “đóng cửa” với các nước tư bản phương Tây - tư tưởng bang giao quân sự xuyên suốt thời Nguyễn

- Quan hệ với nhà Thanh và các nước Miên, Ai Lao, Xiêm.

Trong nửa đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn đảm nhiệm quản lý chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam thống nhất, từ cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), đến vùng đất mũi Cà Mau, được xem là một trong những vương triều mạnh ở khu vực. Về chính sách bang ngoại đối với các nước, nhìn chung triều Nguyễn có điểm hạn chế so với các vương triều trong lịch sử dân tộc. Trong quan hệ với các nước, nhất là những nước láng giềng, triều Nguyễn thực hiện chính sách bang giao tùy vào sự mạnh yếu của từng quốc gia mà có những đối sách khác nhau, chủ yếu là vì quyền lợi của dòng họ Nguyễn.


Bang giao quân sự là một bộ phận quan trọng trong đối ngoại của triều Nguyễn thuộc lĩnh vực quân sự, quốc phòng, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Đối với nhà Thanh, cũng như một số triều đại trong lịch sử dân tộc, triều Nguyễn vẫn giữ thái độ hòa hiếu ở mức độ nhất định. Triều Nguyễn luôn coi chế độ chuyên chế của nhà Thanh là mẫu mực từ pháp luật, tổ chức chính quyền, thi cử, lễ giáo, kể cả một số điểm về quân sự cho đến cả cung điện, nhà cửa... Với quan điểm như vậy, các vua triều Nguyễn luôn ý thức thực hiện mối quan hệ bang giao chủ yếu mang tính chất thần phục nhà Thanh.


Ngay sau khi đánh đổ triều Tây Sơn và lập ra triều Nguyễn, vua Gia Long đã sai Lê Quang Định làm chánh sứ sang nhà Thanh cầu phong và xin đổi tên nước1 (Năm 1804, vua Gia Long đặt tên nước là Việt Nam, tháng 4-1838, vua Minh Mạng đổi thành Đại Nam). Từ đó, theo lệ cứ vài năm, vua triều Nguyễn lại cử người mang vàng, bạc, lụa, sừng tê giác, ngà voi, cùng nhiều hương liệu quý sang công nhà Thanh, về cơ bản, quan hệ giữa triều Nguyễn và triều Thanh cũng như quan hệ nhân dân hai nước trong nửa đầu thế kỷ XIX tương đối thân thiện, hai bên đều cử sứ giả sang thăm viếng lẫn nhau khi có việc. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức khi lên ngôi đều nhận sự tấn phong của triều đình nhà Thanh. Lúc đầu, lễ tấn phong được tổ chức ở Hà Nội, sau chuyển vào tổ chức ngay tại Kinh đô Huế.


Đối với vùng biên giới giữa hai nước không có gì đặc biệt. Ranh giới giữa hai nước được hai bên ghi nhận, có địa bàn đã được dựng bia để phân rõ giới phận mỗi bên. Tháng 4 năm Quý Mão (1843), mốc bia phân định ranh giới lãnh thổ hai nước bờ nam sông Đỗ Chú (Tụ Long), bị người nước Thanh phá đổ. Vua Thiệu Tri lệnh cho quan tỉnh Tuyên Quang không được làm bia mới, mà phải chắp nối lại các mảnh vỡ của tấm bia cũ (bia này làm bằng đá do nước Thanh dựng) để dựng lại. Bởi theo Minh Mạng, “bia ấy nguyên là hội đồng với nước Thanh dựng lên”, nếu đúc khắc tấm khác dựng vào sẽ “không khỏi khơi lòng ngờ vực cho nhà Thanh”1 (). Triều Nguyễn đã có cách giải quyết mốc chủ quyền biên giới như vậy là hết sức tế nhi, nhằm tránh việc diễn ra phức tạp từ phía nhà Thanh, không nên để họ có cớ sinh chuyện với ta. Đối với việc qua lại vùng biên giới của nhân dân hai nước, triều Nguyễn chú ý quản lý và điều hành các hoạt động, nhằm vừa tăng cường sự quản lý của nhà nước, vừa bảo đảm quan hệ thống thương giữa hai nước.


Trong quan hệ với triều Thanh, một nước lớn kề sát đường biên giới phía Bắc, đối sách của triều Nguyễn là “nhu”. Vì thế, khi Nguyễn Văn Thành, Tổng trấn Bắc Thành đề nghị triều đình đấu tranh đòi lại miền đất 6 châu An Tây thuộc Hưng Hóa bị nhà Thanh bao chiếm từ thời Lê - Trịnh, triều Nguyễn không đả động gì đến. Mặc dù vậy, trong nửa đầu thế kỷ XIX, khi ở một số địa bàn vùng biên giới phía Bắc bị các thế lực từ bên kia biên giới sang phá hoại, lấn chiếm trái phép, triều Nguyễn đã ra lệnh cho các địa phương đưa lực lượng, kể cả quân triều đình đến chiến đấu, kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi về bên kia biên giới, giữ vững sự ổn định an ninh, trật tự địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vùng biên giới phía Bắc.


Đối với các nước Đông Nam Á láng giềng, triều Nguyễn cũng thực hiện chính sách ngoại giao thân thiện. Khi các vua triều Nguyễn lên ngôi, các nước Ai Lao (Lào), Miên (Campuchia), Xiêm (Thái Lan) đều sai sứ đến chúc mừng và thiết lập bang giao với triều Nguyễn.


Về quan hệ giữa triều Nguyễn với Xiêm: khi Gia Long lên ngôi, các phái bộ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam - Xiêm thường xuyên thăm viếng, tặng quà giao hiếu thể hiện mối quan hệ thân thiện, tôn trọng lẫn nhau giữa hai nước “ngang bằng thế lực” ở khu vực, nhằm giải quyết những vấn đề song phương, cũng như đa phương. Sách Đại Nam thực lục ghi rằng: Dưới thời Gia Long (1802-1819), Xiêm cử 12 phái bộ sang triều Nguyễn, và triều đình nhà Nguyễn cũng đã cử 5 phái bộ sang Xiêm1 (). Việc tăng cường các phái bộ ngoại giao thăm viếng lẫn nhau, thể hiện mối quan hệ bang giao thân thiện giữa hai triều đình, cũng như sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau giữa Gia Long và Rama I, góp phần củng cố quan hệ láng giềng, thân thiện giữa hai nước. Đây là cơ sở quan trọng để giải quyết các vấn đề liên quan đối với Ai Lao và Miên bằng con đường hòa bình; đồng thời cũng ảnh hưởng, chi phối trực tiếp đến tình hình chính trị, xã hội của Ai Lao và Miên, vốn còn lệ thuộc Xiêm trong những năm đầu thế kỷ XIX.


Đối với Ai Lao (Lào), khi Gia Long lên ngôi, vua Inthavông cho sứ sang dâng quốc thư chúc mừng. Năm Ất Sửu (1805), Châu Anụ sai sứ mang lễ vật đến triều cống vua Gia Long, mong muốn thiết lập quan hệ với triều Nguyễn. Sau đó, cứ 3 năm một lần, sứ bộ của Vạn Tượng1 (Từ thế kỷ XVIII, Ai Lao bị chia cắt thành 3 vương quốc: Luổng Phạbang (Nam Chưởng), Viêng Chăn (Vạn Tượng) và Chămpaxắc (do phong kiến Xiêm khống chế)) lại sang cống triều Nguyễn. Từ năm 1802 đến năm 1827, quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Vạn Tượng diễn ra thân thiện.


Với Miên (Campuchia), năm Đinh Mão (1807), vua Ang Chan sai sứ giả sang dâng tặng lễ vật, xin phong vương, được vua Gia Long chấp thuận. Từ đó, cũng như Vạn Tượng, cứ 3 năm một lần, vua Miên lại cho phái bộ sang triều công nhà Nguyễn.


Việc Vạn Tượng và Miên là nước lệ thuộc Xiêm, nhưng lại xin thần phục và triều cống triều Nguyễn là điều ngoài ý muốn của Xiêm, nhưng Xiêm vẫn không thể ngăn được xu thế thân thiện giữa Việt Nam với hai nước láng giềng này. Điều này thể hiện uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam đã tăng lên đối với Vạn Tượng và Miên; đồng thời thể hiện tương quan lực lượng giữa hai nước Việt Nam và Xiêm cũng dần thay đổi trong quan hệ với Vạn Tượng và Miên.


Bên cạnh việc giữ mối quan hệ thân thiện như trên, có những thời điểm, triều Nguyễn lại thực hiện chính sách lấn át đối với các nước Miên, Ai Lao. Nhân lúc hai nước Miên và Ai Lao suy yếu, triều Nguyễn dùng lực lượng quân sự để mở rộng ảnh hưởng, đồng thời cũng để gây uy thế với nhân dân trong nước. Quá trình can thiệp của triều Nguyễn vào hai nước Miên, Ai Lao được thực hiện từ thời vua Gia Long đến thời vua Thiệu Trị, làm hao tổn nhiều sức của của nhân dân ta. Quá trình mở rộng ảnh hưởng quân sự đến hai nước này, triều Nguyễn đã vấp phải sự phản đối của phong kiến Xiêm.


Từ những năm cuối thế kỷ XVIII, vua Miên đã thần phục chúa Nguyễn. Khi phong trào Tây Sơn làm chủ vùng đất Đàng Trong, chúa Nguyễn thua chạy, vua Miên chịu sự chi phối của triều đình Xiêm. Năm 1807, Nặc Ông Chân là vua Cao Miên bỏ Xiêm, quay sang thần phục nhà Nguyễn, chịu lễ cống 3 năm một lần. Lúc này, trong nội bộ triều đình Miên bất hòa, các em của Nặc Ông Chân cầu cứu vua Xiêm, đòi anh phải chia phần đất về mình. Trước tình hình đó, vua Nặc Ông Chân nhờ triều Nguyễn giúp đỡ. Theo yêu cầu của vua Miên, triều Nguyễn đưa quân đội sang, dẫn đến cuộc xung đột giữa quân đội hai nước Việt - Miên trên đất Cao Miên. Do so sánh lực lượng yếu thế, cuối cùng quân Xiêm phải rút lui. Tiếp đó, triều Nguyễn cho quân đóng trên đất Miên dưới danh nghĩa “bảo hộ” vua Miên.


Trong những năm ở đất Miên, một số quân lính nhà Nguyễn có hành động quấy nhiễu, ức hiếp nhân dân, khiến người Miên bất bình, oán ghét đấu tranh. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Miên diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Sư Kế và một số quan đại thần yêu nước người Miên lãnh đạo. Năm Quý Tỵ (1833), vua Xiêm lại đưa quân sang Cao Miên đánh quân Nguyễn đồn trú tại Miên, nhằm giành lại quyền “bảo hộ”, nhưng thất bại. Cuộc tranh giành đất Cao Miên giữa hai thế lực phong kiến Việt Nam và Xiêm, kéo dài hơn chục năm. Đến năm Đinh Mão (1847), sau khi vua Miên chấp nhận cống nạp cho cả triều Xiêm và triều Nguyễn, thì vua Tự Đức cho rút quân ở Cao Miên về nước. Thực tế thì cả hai tập đoàn phong kiến Việt Nam và Xiêm gặp khó khăn, không còn đủ sức để đối phó với phong trào đấu tranh liên tiếp của nhân dân Cao Miên. Quá trình mở rộng ảnh hưởng thế lực của triều Nguyễn sang đất Miên kết thúc.


Cuộc mở rộng phạm vi ảnh hưởng sang hai nước Cao Miên, Ai Lao và các cuộc xung đột quân sự với Xiêm trên đất Miên, sau đó là Ai Lao kéo dài trong nhiều năm đã làm hao tổn nhân tài, vật lực quốc gia; đồng thời gây tổn hại đến quan hệ giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân hai nước láng giềng.


Triều Nguyễn thực hiện chính sách bang giao sai lầm đối với các nước láng giềng đã làm cho tiềm lực mọi mặt đất nước suy kiệt, trong đó có tiềm lực quân sự, quốc phòng đúng vào lúc cần phải tăng cường để đối phó với nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây, nhất là thực dân Pháp đang đến gần. Trong khi ba dân tộc Việt, Miên, Lào cần phải đoàn kết đối phó với nguy cơ xâm lược của kẻ thù chung từ phương Tây tới thì triều Nguyễn lại đi ngược lại yêu cầu lịch sử, làm tổn hại đến quan hệ láng giềng và sức mạnh phòng thủ của cả ba nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #105 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 10:04:38 pm »

- Chính sách đối với các nước tư bản phương Tây.

Đối với các nước tư bản phương Tây, triều Nguyễn thực hiện chính sách “đóng cửa”, hạn chế quan hệ. Từ đầu thế kỷ XIX, các nước phương Tây, đặc biệt là Anh, Pháp, Mỹ trên con đường phát triển mạnh, đua nhau bành trướng thế lực tìm kiếm thị trường sang phương Đông, từng bước xâm chiếm các nước làm thuộc địa. Đối với Việt Nam, các nước tư bản phương Tây, nhất là Pháp đã dòm ngó từ lâu và ngày càng xúc tiến các hoạt động khiêu khích rất trắng trợn. Trước tình hình đó, triều Nguyễn đã thi hành chính sách hạn chế quan hệ với các nước. Mặc dù vậy, trong những năm đầu thế kỷ XIX, vừa mới lên ngôi, Gia Long phải trả ơn công giúp sức của tư bản Pháp, bằng cách cho tàu Pháp ra vào các cửa biển và các giáo sĩ Pháp được quyền vào đất liền truyền giáo. Bên cạnh đó, do nhu cầu sinh hoạt, triều Nguyễn phải cử một số người sang các nước, chủ yếu mua sắm hàng hóa tiêu dùng phục vụ quyền lợi họ Nguyễn.


Thế nhưng, chính sách bế quan tỏa cảng vẫn là tư tưởng xuyên suốt từ các vua Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị và Tự Đức. Năm 1803, khi người Hồng Mao (Anh) đến Sơn Trà (Quảng Nam), xin dâng lễ vật được mở cửa hàng, Gia Long sai trả lại lễ vật, từ chối việc thông thương, bởi không muốn người phương xa đến buôn bán. Chính sách này được các vua triều Nguyễn, đặc biệt quyết liệt là vua Minh Mạng tiếp tục thực hiện. Thương nhân của các nước Anh, Mỹ, Đức, Italia đến đặt vấn đề xin buôn bán, đều bị các vua triều Nguyễn khước từ không tiếp, hoặc trả lại lễ vật. Triều Nguyễn không muốn cho người nước ngoài vào nước ta mở cửa hiệu buôn bán và tự do đi lại, sợ họ do thám tình hình, điều tra mọi mặt của đất nước, xúi dân “làm loạn” chống lại triều đình.


Trước những hành động của tư bản phương Tây, triều Nguyễn từ chỗ cấu kết, dựa vào chủ nghĩa tư bản phương Tây, chủ yếu là Pháp những năm trước đây đã lo sợ, chuyển sang chủ trương khước từ mọi quan hệ thông thương với các nước. Mục đích việc bế quan tỏa cảng của triều Nguyễn, nhằm giữ cho bờ cõi đất nước được bảo toàn, nhưng thực chất chính sách này chỉ kéo dài thêm thời gian chứ không ngăn cản được tham vọng bành trướng xâm lược của các nước tư bản phương Tây.


Đối với thực dân Pháp, cùng một lúc chúng thực hiện nhiều thủ đoạn thâm độc để cuối cùng dùng hành động quân sự. Trong hai năm Nhâm Ngọ (1822) và Ất Dậu (1825), thực dân Pháp cho tàu chiến vào Đà Năng, đòi triều đình Huế thả các giáo sĩ đang bị giam giữ và đòi được tự do buôn bán. Tiếp đó, năm Đinh Mão (1847), tàu chiến Pháp liên tiếp vào Đà Năng khiêu khích. Đặc biệt là ngày 15-4-1847, tàu chiến Pháp bắn phá chiến thuyền của triều Nguyễn ở vùng biển Đà Nằng. Tháng giêng năm Nhâm Tý (tháng 1-1952), một chiến hạm Pháp mang tên Caprixiơ (Capricieuse), đến vùng biển vịnh Bắc Bộ và lần lượt vào các cửa biển Phú Yên, Cam Ranh, Ô Cấp. Trước tình hình vùng biển tiếp tục có những diễn biến phức tạp, do các hoạt động uy hiếp, phá hoại của tàu nước ngoài, tháng 2 năm Giáp Dần (1854), vua Tự Đức hạ lệnh cho các tỉnh ven biển tổ chức lực lượng tuần tra nghiêm ngặt để phòng giữ các cửa biển ở từng địa phương và cấm không cho các tàu chiến phương Tây vào cửa biển của ta.


Chủ trương nghiêm khắc của triều Nguyễn không ngăn cản và hạn chế được các thủ đoạn và hành động quân sự ngày càng trắng trợn của Pháp. Cuối tháng 10 năm Bính Thìn (1856), tàu chiến Pháp nổ súng bắn phá các đồn lũy ở khu vực Sơn Trà, Đà Năng rồi đổ bộ lên bò, phá hủy tất cả số đại bác của nhà Nguyễn bố trí ở đây. Quan quân triều Nguyễn không kịp ứng phó, rút chạy. Tàu chiến Pháp rút ra đậu ở vùng ngoài khơi, chờ cơ hội hành động tiếp. Trước tình hình đó, vua Tự Đức ra lệnh cho quan quân tỉnh Thừa Thiên tổ chức đắp lũy vùng bãi cát ở phía bắc cửa biển Thuận An, bố trí hai cỗ quá sơn và 8 cỗ Võ Công hai bên lũy; đồng thời ra lệnh cho Đào Trí, Nguyễn Duy, tổng đốc Trần Hoàng, bố chánh Thân Văn Nhiếp, Lê Văn Phả đến các thành, pháo đài, đồn bảo ở cửa biển Đà Năng nắm tình hình, tổ chức lực lượng phòng thủ vùng ven biển trọng yếu này. Tháng 6 năm Đinh Tỵ (1857), triều đình Huế lệnh cho pháo thủ doanh Thần Cơ và lính thủy sư đến cửa Thuận An diễn tập, bắn thử các loại súng, sẵn sàng đối phó với quân Pháp, nếu chúng gây hấn.


Sau một số lần yêu cầu gặp không được triều đình Huế chấp nhận, thực dân Pháp đe dọa sẽ dùng sức mạnh quân sự can thiệp khi cần thiết. Những ngày cuối tháng 8 năm Mậu Ngọ (1858), tình hình trên vùng biển Đà Năng hết sức căng thẳng, do quân Pháp và quân Tây Ban Nha tăng cường lực lượng kéo đến ngày càng đông (hơn 2.000 quân và 14 tàu chiến). Nguy cơ thực dân Pháp mở cuộc chiến tranh xâm lược đối với Việt Nam đang đến gần. Triều Nguyễn và dân tộc Việt Nam đứng trước thử thách lớn, nguy cơ phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược từ bên ngoài là khó tránh khỏi.


Như vậy, trong quan hệ với các nước, tùy vào sự mạnh yếu của từng nước, triều Nguyễn đã thực hiện chính sách đối ngoại, trong đó thể hiện tư tưởng bang giao quân sự khác nhau. Đối với nhà Thanh, chủ yếu là thần phục, với các nước nhỏ như Miên, Ai Lao, Xiêm thì hầu như lấn át và đối với các nước tư bản phương Tây thì “đóng cửa”. Việc “đóng cửa”, không thông thương với nước ngoài càng khiến cho kinh tế đất nước, nhất là nông, công, thương nghiệp không phát triển, tiềm lực kinh tế bị suy giảm, nhận thức đối với quốc tế bị hạn hẹp, lạc hậu so với các nước. Cùng với chính sách đàn áp giáo sĩ, giáo dân, chủ trương “đóng cửa” của triều Nguyễn càng tạo cho chủ nghĩa tư bản phương Tây, đặc biệt là Pháp xúc tiến âm mưu, hành động tạo cớ để can thiệp ngày càng sâu, tiến tới xâm lược nước ta.


Có thể nói, lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam thời kỳ 1802-1858 gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của triều Nguyễn dưới 4 đời vua, từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị và Tự Đức. Trong hơn 50 năm trị vì đất nước trong điều kiện hòa bình, các vua triều Nguyễn có những cố gắng trong việc đề ra các chủ trương, chính sách nhằm xây dựng, phát triển đất nước và đã đạt được những thành tựu nhất định trên các lĩnh vực. Đó là việc hoàn thành thống nhất quốc gia, tập trung xây dựng bộ máy chính quyền tương đối quy củ và hoàn chỉnh từ trung ương xuống đến thôn, xã; coi trọng phát triển kinh tế, mở rộng mạng lưới giao thông thủy, bộ, chú ý đến văn hóa, giáo dục, để lại một số công trình văn hóa mang dấu ấn thời đại... Trên lĩnh vực quân sự có nhiều mặt hoạt động phản ánh rõ nội dung cơ bản về tư tưởng quân sự mang đặc trưng của triều Nguyễn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #106 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 10:05:32 pm »

Trên cơ sở quốc gia thống nhất đã được triều Tây Sơn tạo dựng tiền đề, triều Nguyễn nhanh chóng thu non sông đất nước thành một mối, tiếp tục củng cố, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Cũng như các triều đại trước đây, tư tưởng của triều Nguyễn về xây dựng tiềm lực quân sự, quốc phòng để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở các vùng biên giới là tranh thủ các tù trưởng thiểu số; đồng thời cử một số quan lại, binh lính đến đóng giữ ở những nơi hiểm yếu. Triều Nguyễn chú trọng đến xây dựng lực lượng thủy quân, nâng cấp vũ khí trang bị cho thuyền chiến làm nhiệm vụ canh giữ vùng sông biển; phái các đội thủy binh đến một số đảo, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để canh giữ, bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc. Mặc dù đã có những cố gắng nhất định, song triều Nguyễn không phát huy được sức mạnh của dân tộc, do các vương triều trước đó gây dựng, mà chỉ lo củng cố quyền lợi dòng họ. Mặt khác, do nhận thức của triều Nguyễn về độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia còn nhiều hạn chế, nên không phát huy được sức mạnh toàn dân để giữ thế ổn định xây dựng đất nước, tạo điều kiện bảo vệ nền độc lập quốc gia trước mưu đồ xâm lược của các nước tư bản phương Tây, nhất là tư bản Pháp.   


Trong điều kiện đất nước không có chiến tranh, các vua triều Nguyễn đã chú ý xây dựng quân đội có tổ chức tương đối hoàn chỉnh và thốíng nhất, có quân triều đình cơ động trên các địa bàn quan trọng và quân các tỉnh, trấn, phủ, huyện tiến hành phòng thủ trên từng địa phương. Quân đội gồm đủ các thành phần lực lượng, quân số khá đông, nhưng mục đích xây dựng chủ yếu xuất phát từ lợi ích dòng họ và giai cấp thống trị. Quân đội triều đình đối lập với nhân dân, bởi triều Nguyễn thường sử dụng quân đội làm nhiệm vụ đàn áp quần chúng nhân dân nổi dậy, lại chính là những người thân của mình. Chính vì thế, quân đội không thể dựa vào dân và triều Nguyễn không tìm được nguồn sức mạnh trong dân, không thể thực hiện được “toàn dân vi binh” như các triều đại trước khi đất nước bị giặc ngoại xâm.


Dựa trên cơ sở lãnh thổ quốc gia thống nhất, triều Nguyễn có điều kiện để củng cố, xây dựng tiềm lực quốc phòng vững chắc. Triều Nguyễn đã kế thừa truyền thống xây dựng thành lũy trong các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến chống ngoại xâm của các triều đại trước đó, để xây dựng thế trận phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Trên thực tế, triều Nguyễn đã huy động một lực lượng lớn binh lính và dân chúng tham gia xây dựng, mở rộng Kinh thành Huế, tăng cường lực lượng, bổ sung vũ khí trang bị, định lệ binh lính canh giữ, nhằm tăng thế phòng thủ của Kinh đô. Đồng thời, triều Nguyễn tiến hành củng cố, xây dựng một số thành, pháo đài, tăng cường lực lượng đồn trú canh gác ở những nơi trọng yếu, nhất là các tỉnh biên giới, vùng ven biển và tổ chức lực lượng trấn giữ ở các địa phương trong cả nước. Triều Nguyễn đã xây dựng được một hệ thống phòng thủ bao gồm thành lũy, pháo đài, đồn bảo kiên cố ở nhiều nơi, từ đồng bằng lên miền núi, từ biên giới đến hải đảo, bô' trí một lực lượng phù hợp trấn giữ thể hiện tư tưởng về tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng đất nước. Thế nhưng, do còn hạn chế giai cấp, triều Nguyễn không có được những tư tưởng tiến bộ về xây dựng và phát huy hiệu quả sức mạnh của tiềm lực quân sự, quốc phòng để phòng giữ đất nước.


Trong quan hệ vổi các nước, tùy vào sự mạnh yếu của từng nước, triều Nguyễn có những chính sách đối ngoại, trong đó về quân sự với mức độ khác nhau. Đối với triều Mãn Thanh, các vua triều Nguyễn luôn kiên định tư tưởng thần phục, lệ thuộc. Với các nước láng giềng phía Tây và Tây Nam, triều Nguyễn lại thực hiện chính sách lấn át, thậm chí dùng lực lượng quân sự, gây xung đột vũ trang để mở rộng ảnh hưởng, làm tổn hại đến quan hệ, quyền lợi giữa nhân dân ta với nhân dân các nước láng giềng. Trước âm mưu và hành động mở rộng thị trường của các nước phương Tây, nhất là Pháp xúc tiến âm mưu chuẩn bị xâm lược, triều Nguyễn nhất mực tư tưởng “đóng cửa”, khước từ mọi quan hệ với các nước, làm cho tiềm lực quân sự, quốc phòng của nước ta không phát triển, lạc hậu so với các nước.


Như vậy là, những hoạt động trên lĩnh vực quân sự thời kỳ 1802-1858 đã bước đầu phản ánh một số quan điểm tư tưởng quân sự triều Nguyễn, về: bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên bộ và chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; thực hiện việc xây dưng quân đội, xây dựng hệ thống thành lũy, pháo đài, đồn trú; tổ chức lực lượng vũ trang phòng thủ ở Kinh đô và các địa phương trong cả nước, nhất là ở các vùng biên giới, ven biển, hải đảo; thực hiện chính sách bang giao quân sự. So với các triều đại trong lịch sử, các vua triều Nguyễn đã kế thừa và phát huy được một số nội dung nhất định về tư tưởng quân sự, nhằm tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng đất nước trong công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở vùng biên giới và vùng biển, đảo của Tổ quốc. Tuy nhiên, do yếu tố lợi ích dòng họ và những chính sách hạn chế, thậm chí sai lầm trong đối nội và đối ngoại nên triều Nguyễn không phát huy được sức mạnh toàn dân tộc nói chung, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước nói riêng như các triều đại trước. Điều đó thể hiện sự khủng hoảng sâu sắc về quan điểm tư tưởng, trong đó có tư tưởng quân sự và một số lĩnh vực khác liên quan đến quân sự triều Nguyễn. Chính bởi vậy, khi tư bản phương Tây, trực tiếp là tư bản Pháp tiến hành khiêu khích và tiến hành xâm lược bằng vũ lực, triều đình nhà Nguyễn đã từng bước đầu hàng, đưa đất nước ta vào tình cảnh phải chịu ách đô hộ của thực dân Pháp gần một thế kỷ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #107 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 10:07:25 pm »

KẾT LUẬN


1. Tư tưởng quân sự Việt Nam từ năm 1428 đến năm 1858 được gắn liền với quá trình thăng trầm của các triều đại phong kiến kế tiếp nhau. Tư tưởng quân sự có mối quan hệ hữu cơ, tương hỗ với bối cảnh thực tế của đất nước trong những thòi đoạn lịch sử nhất định mà một triều đại nào đó trị vì đất nước. Điểm tương đối thống nhất trong lịch sử chế độ phong kiến nói chung, lịch sử tư tưởng quân sự thời phong kiến nói riêng là tên gọi của các triều đại thường được gắn trực tiếp với những dòng họ nổi lên cầm quyền, ví như: triều Lê, triều Mạc, triều Nguyễn... Bên cạnh đó, tương ứng với tư tưởng quân sự của từng triều đại đều có những nhà tư tưởng quân sự đại diện tiêu biểu; mà thông thường trước nhất chính là những người khai mồ ra triều đại đó hoặc trong đội ngũ những quân sư, võ tướng thân cận. Triều Lê Sơ có Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông; chúa Nguyễn (thời Trịnh - Nguyễn phân tranh) có Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật; triều Tây Sơn có Nguyễn Huệ - Quang Trung, Nguyễn Thiếp; triều Nguyễn có Gia Long, Minh Mạng...


2. Trên bình diện tổng quát thì nội dung lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam thời phong kiến có tính thống nhất tương đối, đó là: Tư tường về xây dựng quân đội; Tư tưởng về xây dựng căn cứ, hậu phương, hậu cần đảm bảo cho hoạt động quân sự; Tư tường về chỉ đạo tác chiến trong khởi nghĩa và chiến tranh; Tư tưởng về xây dựng quốc phòng; Tư tưởng đối ngoại quân sự...


Nhưng mặt khác, ở từng triều đại lại có những nét đặc trưng cụ thể riêng. Đó là, với những triều đại được hình thành từ phong trào khởi nghĩa hoặc phải liên tiếp tiến hành những cuộc chiến tranh chống xâm lược, thì tư tưởng về xây dựng quân đội, tư tưởng về chỉ đạo tác chiến... thường nổi trội hơn cả. Điển hình nhất trong đó là: thời nội chiến Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn phân tranh, thời Tây Sơn; song, đối với những triều đại tồn tại và phát triển trong điều kiện hòa bình, ổn định thì tư tưởng về xây dựng nền quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc lại có vị trí thường xuyên và hàng đầu. Tiêu biểu là triều Lê Sơ, triều Nguyễn. Tựu trung lại, những vấn đề thuộc về nội dung tư tưởng quân sự Việt Nam trong thời phong kiến là tương đối rõ ràng và thống nhất; song, vị trí và tính cấp thiết của từng quan điểm tư tưởng lại có sự thay đổi tùy theo diễn biến tình hình đất nước.


3. Thực tế lịch sử đất nước từ năm 1428 đến nảm 1858 cho thấy rằng, gắn với thời gian cầm quyền của những thể chế phong kiến tuy dài ngắn khác nhau, nhưng điều quan trọng là mỗi một triều đại đều có những đóng góp rất đáng kể cho lịch sử phát triển của tư tưởng quân sự Việt Nam. Điển hình như: triều Lê (Lê Sơ) với tư tưởng kết hợp “kiến quốc” với “vệ quốc” (kết hợp xây dựng và bảo vệ đất nước), triều Tây Sơn với tư tưởng tập trung sức mạnh ưu thế, giải quyết kết cục khởi nghĩa và chiến tranh bằng những trận quyết chiến chiến lược, triều Mạc và chúa Nguyễn (Đàng Trong) với tư tưởng xây dựng và sử dụng thành lũy trong chiến đấu (phòng thủ) bảo vệ vùng lãnh thổ cát cứ... Song, điều khẳng định chắc chắn là tất cả những quan điểm tư tưởng quân sự của các triều đại đều có môi liên quan trực tiếp, hữu cơ với nhau.


4. Mỗi triều đại hoặc thế lực phong kiến cầm quyền đều được gắn liền với những bối cảnh lịch sử cụ thể khác nhau. Những triều đại trước có thể bị triều đại kế tiếp phủ định thậm chí là tiêu diệt, nhưng những quan điểm tư tưởng quân sự thì nhất định là có sự kế thừa, tiếp nôi và phát triển lên những thang bậc mới... Bởi, tư tưởng nói chung, tư tưởng quân sự của dân tộc Việt Nam nói riêng là “tài sản” chung, cái bất biến; tuy nhiên, việc kế thừa và phát triển nó như thế nào lại tùy thuộc vào tình hình cụ thể của đất nước, chất lượng của bộ máy cầm quyền và năng lực tư duy của những nhà tư tưởng đại diện cho triều đại đó.


Theo đó, một phần nội dung rất quan trọng của tư tưởng quân sự Việt Nam từ năm 1428 đến năm 1858 là sự kế thừa, tiếp nối và phát triển tư tưởng quân sự của các thời kỳ trước đó. Cụ thể là, tư tưởng kết hợp “kiến quốc” với “vệ quốc” (kết hợp xây dựng và bảo vệ đất nước) của triều Lê Sơ; xây dựng căn cứ và điểm tựa chiến lược tạo dựng chỗ đứng chân và làm bàn đạp xuất phát tiến công cho khởi nghĩa và chiến tranh (thời Lê Trung hưng, triều Mạc, triều Tây Sơn); xây dựng quân đội “cốt tinh không cốt đông” có đầy đủ các thành phần lực lượng (triều Tây Sơn); bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước (triều Nguyễn); mềm dẻo, khéo léo nhưng cương quyết trong bang giao láng giềng (triều Mạc, Lê - Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn)...


Đồng thời, với sự kế thừa và phát triển những quan điểm tư tưởng quân sự của những triều đại trước đó, mỗi triều đại cũng đều đã có những quan điểm tư tưởng quân sự mới đóng góp cho lịch sử quân sự. Tiêu biểu là:


Dưới triều Lê Sơ có tư tưởng xây dựng quân đội tập trung, thống nhất và hùng mạnh để giữ nước. Đây là một trong những quan điểm mới, tiến bộ hơn so với những triều đại trước đó. Ví dụ như, dưới triều Lý, Trần... quân đội được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: ngoài quân triều đình, các quý tộc, vương hầu cũng tổ chức quân đội riêng. Tính không thống nhất này đã trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng lộng hành, nhũng nhiễu của các vương hầu, quý tộc - một đặc trưng của thể chế nhà nước phong kiến phân quyền. Rút kinh nghiệm từ thực tế lịch sử này, với tư tưởng xây dựng quân đội tập trung, thõng nhất, triều Lê Sơ không chỉ tạo được sức mạnh ưu thế cho nền quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, mà còn là bước ngoặt đánh dấu sự phát triển thể chế phong kiến Việt Nam từ phân quyền sang tập quyền.


Cũng dưới triều Lê Sơ, tư tưởng tích cực, chủ động phòng giữ biên cương, thực hiện “biên phòng hảo vị trù phương lược” là một nội dung mới. Tính mới của quan điểm tư tưởng này chính là được khởi nguồn từ nhận thức về chủ quyền lãnh thổ đất đai, bờ cõi; được thể hiện rõ nét ở những chính sách, biện pháp cụ thể của nhà nước trong quá trình quản lý và bảo vệ lãnh thổ biên giới. Đó là, ngay từ buổi đầu thiết lập triều đại Lê Sơ, Lê Thái Tổ đã nhắn nhủ quần thần, con cháu rằng: “Biên phòng tất khéo mưu phương lược. Xã tắc nên trù kế cửu an" - nghĩa là, cần phải xây dựng phương lược, kế sách đối với việc giữ gìn cương giới, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, phải đảm bảo cho đất nước luôn ở trong, một thế trận có sẵn để phòng chống ngoại xâm. Làm được như vậy mới giữ chắc được bờ cõi. Kế thừa tư tưởng trên của các vua tiền nhiệm, khi lên cầm quyền, Lê Thánh Tông càng thấu hiểu giá trị của từng tấc đất, ngọn núi, con sông của tổ tiên để lại và càng kiên định tư tưởng và ý chí gìn giữ biên cương và lãnh thổ quốc gia. Một sự kiện còn được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư (tập II), rằng: Năm Quý Tỵ (1473), trong Chỉ dụ cho quan Thái bảo Lê Cảnh Huy trước khi đi giải quyết vấn đề biên giới, Lê Thánh Tông nhắc nhở:... Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay gian. Nếu ngươi dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di thực sự là một trong những minh chứng. Vậy là, từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông - từ “biên phòng hảo vị trù phương lược” đến “không được tự tiện vứt bỏ một thước núi, một tấc sông” đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho việc ban hành các chính sách, biện pháp của nhà nước đối với việc giữ gìn biên cương lãnh thổ đất nước. Đây là một quan điểm tư tưởng quân sự mới của triều đại Lê Sơ đóng góp cho lịch sử tư tưởng quân sự dân tộc. Song, điều quan trọng nhất là ở chỗ, cho đến hiện nay tính thời sự thực tiễn của nó vẫn còn vẹn nguyên. Và, đây vẫn là vấn đề cần được nghiên cứu để vận dụng vào công cuộc gìn giữ biên giới, lãnh thổ, lãnh hải của chúng ta hiện nay.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #108 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 10:07:52 pm »

Tiếp đến triều Mạc và tập đoàn phong kiến cát cứ chúa Nguyễn (thời Trịnh - Nguyễn phân tranh), xây dựng và sử dụng hệ thống thành lũy trong chiến đấu (phòng ngự - phòng thủ) để bảo vệ vùng lãnh thổ cát cứ cũng chính là một quan điểm thuộc về tư tưởng quân sự mới.


Để ngăn chặn các cuộc tấn công của quân Nam triều (quân Lê - Trịnh), bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của mình, bên cạnh việc "... phải nghiêm hiệu lệnh, đặt tướng tá trong các doanh, phải chọn bậc anh hùng; quân sĩ phải tuyển hạng tinh nhuệ; sắm thuyền bè, duyệt thủy quân, luyện voi ngựa, chuẩn bị khí giới súng ống và cung nỏ để làm kế sách đánh địch”, triều Mạc còn xác định: về phương tây nam, những chỗ xung yếu giáp giới bên địch, thì nên đắp lũy cao, đào hào sâu, đặt bẫy nỏ, nghiêm phòng bị và đặt thêm đồn trại, chia quân giữ nơi hiểm yếu. Theo đó, thành Đại La, từ cửa Nam, Ông Mạc đến Nhật Chiêu, những lũy đất nên đắp cao thêm và khai sâu thêm những con hào ở đấy. Trên mặt Hoàng thành, từ cửa Nam đến cửa Bắc, nên tu sửa những bức tường thấp ở trên mặt thành cho thật cao để bảo hiểm trong thành; đồng thời, huy động dân hai xứ Tây và Nam dồn sức đắp lũy đất, trên lũy trồng tre gai suốt từ sông Hát xuống đến sông Hoa Đình thuộc huyện Sơn Minh, kéo dài đến vài trăm dặm, tạo thành các bức lũy vững chắc phòng ngừa quân Trịnh kéo ra. Tiếp đó, triều Mạc còn cho đắp thêm 3 lớp lũy ngoài thành Đại La, bắt đầu từ Nhật Chiêu, qua hồ Tây, cầu Dừa, cầu Dền đến Thanh Trì, cao hơn thành Thăng Long đến vài trượng, rộng 25 trượng, có 3 lớp hào, trên lũy trồng- tre ken dày hết sức kiên cố. Với những bức lũy kiên cố này chính là thành tựu hiện thực lớn nhất của tư tưởng xây dựng và sử dụng thành lũy trong chiến đấu phòng ngự - phòng thủ bảo vệ vùng lãnh thổ cát cứ của triều Mạc trong suốt gần 70 năm. Rồi sau cuộc đại bại năm 1592 trước quân Lê - Trịnh, họ Mạc rút lên Cao Bằng và xây dựng ở đây một hệ thống thành lũy - “lá chắn” để ngăn chặn hiệu quạ các trận tấn công của quân Lê - Trịnh. Và cũng từ hệ thống thành lũy - bàn đạp này, quân Mạc đã có lần bất ngờ tiến xuống đánh chiếm và làm chủ Đông Kinh một thời gian, buộc quân Lê - Trịnh phải tạm lánh vào Thanh Hóa. Vậy là, với hệ thống thành lũy được xây dựng ở vùng rừng núi Đông Bắc, họ Mạc đã duy trì được phần lãnh địa cát cứ của mình thêm hơn 30 năm nữa (1592-1623).


Cũng như nhà Mạc, ngay từ buổi đầu vào dựng nghiệp tại đất Thuận Hóa - Quảng Nam, chúa Nguyễn Phúc Nguyên, người kế tục sự nghiệp của Đoan quận công Nguyễn Hoàng đã chiêu nạp Đào Duy Từ làm quân sư. Và, Đào Duy Từ cũng chính là người khai mở tư tưởng xây dựng và sử dụng thành lũy phục vụ công cuộc chiến đấu phòng thủ nhằm duy trì lãnh địa cát cứ cho chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong. Đào Duy Từ tâu với Nguyễn Phúc Nguyên rằng: Thần xin hiến một kế, theo kế ấy thì không phải nộp thuế cho triều đình Lê - Trịnh, mà lại giữ vững được đất đai và có thể dựng nên nghiệp lớn - đó chính là kế sách xây dựng thành lũy, nhân thế đất đặt lũy hiểm cho vững chắc nhằm phòng bị ngoài biên, quân giặc dẫu đến cũng không làm gì được. Theo tư tưởng chỉ đạo như vậy, chúa Nguyễn đã huy động dân chúng và quân sĩ xây đắp nên lũy Trường Dục (trên từ núi Trường Dục dưới đến bãi cát Hạc Hải), ngăn chặn hẳn hai miền Nam - Bắc. Tiếp sau đó, chúa Nguyễn lại cho xây đắp lũy Thầy - Định Bắc trường thành, rồi lũy Trấn Ninh (Đồng Hới - Quảng Bình)... Với hệ thống chiến lũy vững chắc được dựng xây ở những vị trí hiểm yếu này, quân Nguyễn đã chặn đứng và đánh bại hoàn toàn các cuộc tiến công của quân Lê - Trịnh, buộc chúa Trịnh phải chấp nhận lấy sông Gianh làm ranh giới phân chia hai miền Nam - Bắc và hình thành nên lãnh địa cát cứ ở Đàng Trong và Đàng Ngoài.


Như vậy, xây dựng và sử dụng thành lũy phục vụ cho công cuộc chiến đấu phòng ngự và phòng thủ là một quan điểm tư tưởng quân sự được hình thành một cách hoàn chỉnh và phát huy rất hiệu quả dưới triều Mạc và thời chúa Nguyễn cát cứ đất Đàng Trong. Tuy khoảng cách thời gian đã lùi rất xa so với ngày nay, nhưng nội dung của tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị để chúng ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào việc xây dựng hệ thống khu vực phòng thủ trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc hôm nay và tiếp sau.


5. Từ những nội dung tương đối cụ thể về tư tưởng quân sự Việt Nam từ năm 1428 đến năm 1858 thuộc triều Lê Sơ, triều Mạc, họ Trịnh, họ Nguyễn, triều Tây Sơn và triều Nguyễn bước đầu được nghiên cứu và thể hiện như trên đã cho phép nhận định rằng: đây thực sự là những cơ sở tiền đề cho những tổ chức và các nhà yêu nước tiến bộ, cách mạng chọn lọc, tiếp thu, phát triển, vận dụng một cách phù hợp và sáng tạo vào sự nghiệp giải phóng đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới - mà tiêu biểu nhất trong đó chính là sự ra đời tư tưởng quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh... Đây chính là những kiệt tác, là phần tinh tuý nhất và cao nhất của hệ tư tưởng quân sự Việt Nam, mà cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975), rồi tiếp đến là công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm qua, công cuộc xây dựng nền quốc phòng và nhất là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay là những minh chứng rất khách quan, cụ thể, hùng hồn và nhất định sẽ trường tồn, phát triển cùng thời gian.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #109 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 10:12:25 pm »

TÀI LIỆU THAM KHẢO


I- TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Ph.Ăngghen: Tuyển tập luận văn quăn sự của Ph.Ăngghen, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1978, t.1.

2. Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, I.V.Stalin: Bàn về chiến tranh nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990.

3. Võ Nguyễn Giáp: Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lương vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1968.

4. Võ Nguyên Giáp: Vũ trang quần chúng cách mạng xây dưng Quân đội nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1973.

5. Dương Văn An: Ô châu cận lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.

6. Đào Duy Anh: Lich sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX (quyển thượng), Chuyên san Đại học Sư phạm, Hà Nội, 1956.

7. Đào Duy Anh: Lich sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX (quyển hạ), Chuyên san Đại học Sư phạm, Hà Nội, 1956.

8. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.

9. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1995.

10. Nguyễn Thế Anh: Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Lửa thiêng, Sài Gòn, 1971.

11. Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa: Chúa Trịnh - vị trí và vai trò lịch sử, Thanh Hóa, 1998.

12. Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa: Tài liệu tham khảo Lịch sử cận đại Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983.

13. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang: Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, tháng 12-1984.
   14. Đỗ Bang: Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, Sở Văn hóa - Thông tin Nghĩa Bình, 1988.

15. Đỗ Bang: Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, Huế, 1994.

16. Đỗ Bang (Chủ biên): Tổ chức bộ máy nhà nước dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1997.

17. Đỗ Bang và Nguyễn Minh Tường: Chân dung các vua Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1996, t.I.

18. Đỗ Bang - Hoàng Phủ Ngọc Tường: Nguyễn Huệ - Phú Xuân, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1986.

19. Đặng Xuân Bảng: Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.

20. Hoa Bằng: Quang Trung - anh hùng dân tộc (1788-1792) (In lần thứ ba), Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998.

21. Nguyễn Lương Bích: Quang Trung - Nguyễn Huệ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1989.

22. Nguyễn Lương Bích - Phạm Ngọc Phụng: Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1977.

23. Binh thư yếu lược (phụ: Hổ trướng khu cơ), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.

24. C. Borri: Xứ Đàng Trong 1621, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.

25. Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái: Đại Nam quốc sử diễn ca, Sống mới xuất bản, 1972.

26. Phan Bội Châu: Việt Nam quốc sử khảo, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1962.

27. Nguyễn Đức Châu, Nguyễn Tuấn Chung: Ông cha ta bảo vệ biên giới (từ thời Hùng Vương đến nhà Nguyễn), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994.

28. Nguyễn Khoa Chiêm: Nam triều công nghiệp diễn chí, bản dịch của Hoàng Xuân Hãn, Tạp chí sử Địa, số 27-28, Sài Gòn, 1974.

29. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học, Hà Nội, t.1, t.2, t.4, 1960.

30. Nguyễn Hồng Dương, Phan Đại Doãn: Sơ thảo lịch sử bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự xã hội Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1990.

31. Đại Nam điển lệ toát yếu (Nguyễn Sĩ Giác dịch), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.

32. Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976.

33. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, t.2, t.3.

34. Đại Việt sử ký tục biên, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2011.

35. Đại Nam thực lục chính biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973, t.28.

36. Đặc khảo về Quang Trung, Sử Địa số 9-10, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1968.

37. Địa chí Thanh Hóa, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000.

38. Bùi Xuân Đính: Những kế sách xây dựng đất nước của cha ông ta, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004.

39. Trinh Hoài Đức: Gừi Định thành thông chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999.

40. Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân: Tư liệu về phong trào Tây Sơn trên đất Thanh Hóa, Ty Văn hóa Thông tin Thanh Hóa, 1980, t.4.

41. Trần Văn Giàu: Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước năm 1858, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958.

42. Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tường ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973, t.1.

43. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Mạc Đường (Đồng chủ biên): Lịch sử Việt Nam, Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, t.1.

44. Góp phần tìm hiểu phong trào nông dân Tây Sơn - Nguyễn Huệ, Sở Văn hóa - Thông tin Nghĩa Bình, 1983.

45. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hội Sử học Hải Phòng: Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Hà Nội, 1996.

46. Hồng Đức thiện chính thư, Sài Gòn, 1963.

47. Nguyễn Bá Huân: Tây Sơn - danh tướng anh hùng truyện, Sở Văn hóa - Thông tin Nghĩa Bình, 1978.

48. Phạm Xuân Huyên: Sự nghiệp các chúa Trịnh trong lịch sử Đại Việt, Nxb. Thanh Hóa, 1996.

49. Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2001.

50. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1971.

51. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t.2.

52. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên): Lịch sử quân sự Việt Nam (Hoạt động quân sự từ năm 1802 đến năm 1896), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.8.

53. Ngô Cao Lãng: Lịch triều tạp kỷ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, t.1.

54. Lê Lợi và Thanh Hóa trong khởi nghĩa Lam Sơn (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb. Thanh Hóa, 1988.

55. Lê Quý Đôn: Toàn tập, tập 2: Phủ biên tạp lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.

56. Lê Quý Đôn: Toàn tập, tập 3: Đại Việt thông sử (Ngô Thế Long dịch, Văn Tân hiệu đính và giới thiệu), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.

57. Lê triều chiếu lệnh thiện chính, Sài Gòn, 1961.

58. Lê triều quan chế, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1977.

59. Phan Huy Lê: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1959, t.2.

60. Phan Huy Lê: Quang Trung - Nguyễn Huệ - Con người và sự nghiệp, sỏ Văn hóa - Thông tin Nghĩa Bình, 1986,

61. Phan Huy Lê: Tác động và ảnh hưởng của phong trào Tây Sơn trong bối cảnh khu vực cuối thế kỷ XVIII, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Phú Xuân - Thuận Hóa thời Tây Sơn”, Huế, 2001.

62. Phan Huy Lê: Tìm về cội nguồn, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1998, t.1.

63. Phan Huy Lê: Tìm về cội nguồn, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1999, t.2.

64. Phan Huy Lê (Chủ biên): Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976.

65. Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1960, t.3.

66. Phan Huy Lê, Đinh Xuân Lâm: Một bài hịch của Quang Trung, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 79, tháng 10-1965.

67. Bùi Dương Lịch: Lê quý dật sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987.

68. Bùi Dương Lịch: Nghệ An ký, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.

69. Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, t.1.

70. Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, t.2.

71. Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1995, quyển 1, t.2.

72. Tạ Ngọc Liễn: Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995.

73. Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002.

74. Minh đô sử, Bản chũ Hán, lưu tại Thư viện Viện sử học, Hà Nội, số HV 285.

75. Minh đô sử, Tài liệu của Lê Trọng Hàm, Tạp chí Nghiên cứu lich sử, số 46.

76. Một số văn bản điền chế và pháp luật Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006, t.I.

77. Lê Kim Ngân: Tổ chức chính quyền trung ương dưới triều Lê Thánh Tông (1460-1497), Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1962.

78. Lê Kim Ngân: Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ XVII- XVIII, Sài Gòn, 1973.

79. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên): Cơ cấu xã hội Việt Nam trong quá trình lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

80. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên): Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000.

81. Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964.

82. Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1984, t.2.

83. Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1987, t.2.

84. Nguyễn Huệ - Phú Xuân, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1986.

85. Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976.

86. Nguyễn cảnh Thị: Hoan châu ký, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004.

87. Nhiều tác giả: Những vấn đề lich sử Việt Nam, Bán nguyệt san Xưa và Nay, Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.

88. Nhiều tác giả: Những vấn đề tích sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, Tạp chí Xưa và Nay, 2002.

89. Đỗ Văn Ninh: Thành cổ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983.

90. Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, t.1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11,12,13,14,15.

91. Alexandre de Rhodes: Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Ủy ban đoàn kết công giáo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.

92. Alexandre de Rhodes: Hành trình và truyền giáo, Ủy ban đoàn kết công giáo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.

93. Pierre Poivre: Lược khảo về xứ Đàng Trong, 1834, t.3.

94. Phạm Ngọc Phụng: Nghệ thuật đánh thắng trong trận đại phá quân Thanh, Kỷ yếu khoa học “Quang Trung - Nguyễn Huệ với chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa”, Hà Nội, 1992.

95. Nguyễn Phương: Tây Sơn lấy Nam Hà, Tạp chí Đại học, Viện Đại học Huế, số 3, 1962.

96. Nguyễn Phương: Việt Nam thời bành trướng Tây Sơn, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1968.

97. Nguyễn Phan Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh: Lịch sử Việt Nam (1428-1858), Nxb. Giao dục, Hà Nội, 1980.

98. Nguyễn Phan Quang: Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986.

99. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 1884, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000.

100. Nguyễn Phan Quang: Phong trào Tây Sơn và anh hừng dân tộc Quang Trung, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.

101. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1997, t.1, 2, 3, 4.

102. Quốc sử quán triều Nguyễn: Quốc triều chính biên toát yếu, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998.

103. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t.1, 2.

104. Quốc sử quán triều Nguyễn: Minh Mệnh chính yếu, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1994, t.1, 2, 3, 4.

105. Quốc triều hình luật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

106. Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất Việt Nam thế kỷ XI - XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, t.2.

107. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên): Phong trào nông dân Tây Sơn dưới con mắt người nước ngoài, Nxb. Tổng hợp Nghĩa Bình, 1988.

108. Quang Trung - Nguyễn Huệ với chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992.

109. Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, bản dịch Viện Đại học Huế, Huế, 1963.

110. Vũ Tuấn Sán: về hai cuộc hành quân của Nguyễn Huệ ra Thăng Long, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 119 (tháng 2-1969).

111. Momoki Shiro: Đại Việt và thương mại ờ biển Đông từ thế kỷ X đến XV, Kỷ yếu hội nghị khoa học “Đông Á, Đông Nam Á - những vấn đề lịch sử và hiện tại", Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004.

112. Lê Văn Siêu: Việt Nam văn minh sử lược khảo: Văn minh đời Hồng Đức đến đời Nguyễn, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2004.

138. Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân (Sưu tầm, biên soạn, chú giải): Tư liệu về Tây Sơn - Nguyễn Huê, tập IV: Xây dựng đất nước, Sở Văn hóa - Thông tin, Bình Định, 1995.

139.   Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996.

140.   Đào Trí Úc (Chủ biên): Nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

141.   Đào Trí Úc: Các văn bản pháp luật Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

142.   Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Quang Trung - Nguyễn Huệ với chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, Hà Nội, 1992.

143.   Viện Sử học Vỉệt Nam: Việt Nam - những sự kiện lich sử (từ khởi thủy đến 1858), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.

144.   Viện Sử học: Vương triều Mạc (1527-1592), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.

145. Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng: Quân thủy trong lich sử chống ngoại xâm, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1983.

146. Trần Quốc Vượng: Tìm hiểu truyền thống thượng võ của dân tộc, Nxb. Y học và Thể dục thể thao, Hà Nội, 1969.

147. Yoshiharu Tsuboi: Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Hội Sử học, Hà Nội, 1993.
   

II- TÀI LIỆU HÁN NÔM (VĂN BẢN GỐC VÀ BẢN DỊCH)

148. Bùi thị gia phả, tài liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hồ sơ số A.1002.

149. Hoan Châu ký, tài liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hồ sơ số VHv.4200.

150.   Hồng Đức thiện chính thư, tài liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hồ sơ số VHv.1278.

151. Minh Mệnh chính yếu, tài liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hồ sơ số Vhv. 1254/1-2.

152. Nam triều trung hưng công nghiệp thực lục, tài liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hồ sơ số A.24.

153. Quốc triều hình luật (phần Quân chính), tài liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hồ sơ số A.340.

154.   Thiên Nam dư hạ tập (chương Quan chế), tài liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hồ sơ số A.334/1.

155.   Việt sử cương mục tiết yếu, tài liệu lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hồ sơ số A. 1592/1-2.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM