Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 08:39:01 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 2  (Đọc 5464 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« vào lúc: 12 Tháng Hai, 2021, 09:55:17 am »

- Tên sách: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 2
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia - Sự thật
- Năm xuất bản: 2015
- Người thực hiện: giangtvx, quansuvn


CHỈ ĐẠO NỘI DUNG
   Thiếu tướng, PGS. TS. VŨ QUANG ĐẠO
   Đại tá, PGS. TS. TRẦN NGỌC LONG
   Đại tá, PGS. TS. HỒ KHANG

CHỦ BIÊN
   Đại tá, TS. NGUYỄN HUY THỤC

TÁC GIẢ
   Đại tá, ThS. HOÀNG THỊ THẢO
   PGS. TS. TẠ NGỌC LIỄN
   Đại tá, TS. NGUYỄN HUY THỤC
   Đại tá, TS. DƯƠNG ĐÌNH LẬP

HOÀN THIỆN BẢN THẢO
   Đại tá, TS. NGUYỄN HUY THỤC
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #1 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2021, 09:56:31 am »

LỜI NHÀ XUẤT BẢN


Cuốn sách Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, tập II - từ năm 1428 đến năm 1858 trình bày tư tưởng quân sự từ thời Lê Sơ đến thời Nguyễn.

Kế thừa truyền thống của các vương triều trước, tư tưởng quân sự thời Lê Sơ được bổ sung, mở rộng những luận điểm mới trong bối cảnh đất nước có nhiều thay đổi. Trước hết, đó là tư tưởng kết hợp “kiến quốc” với "vệ quốc” (kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc); tư tưởng xây dựng quân đội tập trung thống nhất, hùng mạnh; tư tưởng quân sự thời Lê Sơ vẫn là “Biên phòng hảo vị trù phương lược”, đối ngoại quân sự mềm dẻo nhưng cương quyết trong quan hệ với các nước láng giềng nhằm giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.


Sau thời Lê Sơ, lịch sử Việt Nam diễn ra nhiều biến động, bối cảnh xã hội vô cùng phức tạp, những mâu thuẫn chính trị, xã hội có xu hướng giải quyết bằng xung đột quân sự, cho nên xuất hiện nhiều thế lực như triều Mạc (Bắc triều), Lê - Trịnh (Nam triều và Đàng Ngoài), họ Nguyễn (Đàng Trong). Đặc điểm chung nhất và nổi bật về tư tưởng quân sự thời kỳ này của các thế lực phong kiến là xây dựng lực lượng quân đội mạnh làm công cụ để tranh giành quyền lực, làm chỗ dựa cho sự tồn tại của mình; xây dựng và sử dụng thành lũy trong chiến đấu, bảo vệ vùng lãnh thổ cát cứ...


Từ thế kỷ XVII, cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn đã đẩy cuộc sống của nhân dân đến chỗ vô cùng bi thương, khổ cực. Nhà Tây Sơn với sự nghiệp của Quang Trung - Nguyễn Huệ đã thực hiện được một nhiệm vụ lớn lao đối với dân tộc, đó là xóa bỏ cục diện Trịnh - Nguyễn phân tranh, thống nhất đất nước; đánh bại quân Xiêm ở phía Nam, quân Thanh ở phía Bắc. Dưới triều đại Tây Sơn - Nguyễn Huệ, tư duy quân sự là diệt thù trong, đánh giặc ngoài, giữ yến bờ cõi, nâng cao vị thế của đất nước, nổi bật là nghệ thuật dùng binh thần tốc, xây dựng quân đội “cốt tinh không cốt đông”, dựa vào dân để xây dựng quân đội và tạo dựng sức mạnh ưu thế cho khởi nghĩa và chiến tranh trong những thời điểm quyết định,...


Tư tưởng quân sự của các triều đại trước đã được các vua triều Nguyễn tiếp tục kế thừa và phát huy, nhất là trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở vùng biên giới và vùng biển, đảo của Tổ quốc, tuy có nhiều hạn chế so với các triều đại trước.


Với sự phân tích sâu sắc nhằm nêu bật những nội dung cơ bản về tư tưởng quân sự từ năm 1428 đến năm 1858, cuốn sách thực sự có giá trị để nghiên cứu, phục vụ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tuy nhiên, đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với nhiều sự kiện liên tục diễn ra, nên cuốn sách khó tránh khỏi còn có những nội dung chưa được đề cập một cách đầy đủ. Nhà xuất bản và các tác giả rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc để cuốn sách hoàn thiện hơn ở lần xuất bản sau.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.


Tháng 7 năm 2015
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #2 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2021, 09:57:39 am »

MỞ ĐẦU


Lịch sử Việt Nam từ năm 1428 (Lê Lợi lên ngôi vua, khôi phục tên nước là Đại Việt) đến năm 1858 (thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta) được gắn liền với sự tồn tại của các thể chế phong kiến cầm quyền kế tiếp nhau, gồm: Lê Sơ, Mạc, chúa Nguyễn, vua Lê - chúa Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn. Đây là thời kỳ Đại Việt xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong hòa bình, ổn định xen với những thời kỳ nội chiến, tranh giành quyền lực “sinh tử” giữa các tập đoàn phong kiến, gây nên bao cảnh đau thương tang tóc, hao người, tốn của cho nhân dân (nội chiến Nam - Bắc triều, phân tranh Trịnh - Nguyễn); kèm theo đó là những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh nông dân dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh địa phương nổi dậy chống lại các thế lực phong kiến thống trị phản động, mưu cầu bình yên, thống nhất đất nước, ổn định đời sống cho nhân dân liên tiếp diễn ra trên nhiều địa bàn lãnh thổ của đất nước. Trong đó, đỉnh cao nhất của phong trào nông dân diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XVIII do các thủ lĩnh Tây Sơn tổ chức và lãnh đạo đã nhanh chóng phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc quy mô rộng lớn, không chỉ đánh dẹp các tập đoàn phong kiến cát cứ Nguyễn, Lê - Trịnh, lập nên triều Tây Sơn, mà còn lần lượt đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của quân Xiêm (Thái Lan) ở phía Nam, quân- Thanh ở phía Bắc, giành lại chủ quyền dân tộc, tạo tiền đề trực tiếp cho công cuộc thống nhất đất nước. Nhưng do những bất đồng của nội bộ anh em nhà Tây Sơn, đặc biệt nhất là khi Quang Trung - Nguyễn Huệ đột ngột qua đời, tập đoàn phong kiến Nguyễn đứng đầu là Nguyễn Ánh đã cầu cứu tư bản Pháp và được Pháp giúp sức lật đổ triều Tây Sơn, lập nên triều Nguyễn - triều đại phong kiến chuyên chế cuối cùng ở Việt Nam.


Với tiến trình lịch sử như vậy, dưới góc độ chuyên ngành lịch sử tư tưởng quân sự, chúng tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu về một số nội dung liên quan đến tư tưởng quân sự - “hệ thống quan điểm, luận điểm của cá nhân, giai cấp, chính đảng về quân sự và các vấn đề liên quan đến quân sự như: quan hệ giữa chiến tranh và quân sự, chiến tranh và hòa bình, chính trị với quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quốc phòng và tiến hành chiến tranh, nghệ thuật quân sự"1 (Bộ Quốc phòng - Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.1145) - của các triều đại phong kiến (có khi là của các tập đoàn phong kiẹn thống trị trên một vùng lãnh thổ nhất định, trong khoảng thời gian nhất định). Nói một cách khác, đây là những quan điểm tư tưởng quân sự mang tính định hướng, chỉ đạo có tính chiến lược cơ bản, nhất quán về xây dựng quân đội, khởi nghĩa và chiến tranh, xây dựng quốc phòng bảo vệ Tổ quốc... của các triều đình phong kiến (trong đó có những nhà tư tưởng quân sự tiêu biểu đại diện cho mỗi triều đại), nhằm xây dựng, bảo vệ quyền lợi cho chính cá nhân, giai cấp cầm quyền, tiếp đến là lợi ích quốc gia, dân tộc... Đây cũng chính là những nội dung được làm rõ trong tập II (1428- 1858) bộ Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam.


Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam từ năm 1428 đến năm 1858 là thời đoạn lịch sử đã lùi xa vào quá khứ, nguồn tư liệu là vô cùng hạn chế, nhất là các tư liệu thành văn - vấn đề rất trọng yếu của việc thực hiện các công trình nghiên cứu về tư tưởng quân sự nói chung và lịch sử tư tưởng quân sự nói riêng; do vậy, khi biên soạn, chúng tôi phải dựa trên cơ sở phương pháp quy nạp - tức là phải thông qua thực tế diễn biến lịch sử để khái quát nên những quan điểm, luận điểm tư tưởng quân sự cho từng triều đại phong kiến gắn với từng thời kỳ lịch sử. Theo đó, trên cơ sở những tư liệu, sự kiện có được từ triều Lê (thường gọi là Lê Sơ) đến triều Nguyễn, tập II sẽ khái quát nên những quan điểm tư tưởng quân sự cốt yếu của các triều đại phong kiến về xây dựng quân đội, tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh, xây dựng quốc phòng bảo vệ Tổ quốc... Mục đích và yêu cầu đặt ra là như vậy, song do những hạn chế rất cơ bản nêu trên, chúng tôi chỉ hy vọng đóng góp được một số nội dung cơ bản ban đầu - với ý nghĩa như một hướng mở cho một lĩnh vực nghiên cứu chuyên ngành còn rất mới mẻ này. Thực hiện được như vậy, tập II sẽ đóng góp một phần trong việc tìm hiểu, nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam trong tiến trình lịch sử xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.


Theo phân kỳ tiến trình lịch sử Việt Nam, nội dung của tập II được bố cục thành 4 chương. Tuy nhiên, trên thực tế, về thời gian ấn định cho một số chương có chỗ không tương thích với sự tồn tại của các triều đại (hay thế lực) phong kiến cầm quyền (ví dụ: chương III đề cập về Tây Sơn được bắt đầu từ năm 1771, nhưng mãi đến năm 1778 triều đình Tây Sơn mới ra đời;...); do vậy, để đảm bảo tính thống nhất, chúng tôi quyết định lấy chính thời gian ấn định cho từng chương làm thành phần chính cho tên chương.


Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, song đây là một chuyên ngành mới, nguồn tư liệu cũng như năng lực và kinh nghiệm chuyên môn của đội ngũ cán bộ biên soạn còn hạn chế, nên cuốn sách khó tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định trên cả phương diện nội dung cũng như phương pháp thể hiện.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #3 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2021, 09:58:45 am »

Chương I
TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ TỪ NĂM 1428 ĐẾN NĂM 1527


I- TÌNH HÌNH ĐẠI VIỆT THỜI LÊ SƠ

1. Vương triều Lê Sơ thành lập

Cuối năm Đinh Hợi (1407), sau gần một năm dồn sức chiến đấu trong mối tương quan lực lượng không cân sức, cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhà Hồ thất bại. Từ đây, phong kiến nhà Minh trực tiếp đô hộ nước ta. Với bản chất hung bạo và thâm độc, chúng không chỉ duy trì ách thống trị tàn bạo, cướp bóc tài nguyên, nhân tài mà còn thực thi chính sách hủy diệt và đồng hóa dân tộc Việt. Không cam chịu mất nước, nhân dân ta trên khắp mọi miền đã vùng lên chống lại chính quyền đô hộ. Từ trong bão lửa của phong trào đấu tranh yêu nước, cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi khỏi phát ở đất Lam Sơn nhanh chóng phát triển thành phong trào giải phóng dân tộc lan rộng trên quy mô khắp cả nước. Sau 10 năm anh dũng chiến đấu (1418-1427), nghĩa quân Lam Sơn đã đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại chủ quyền đất nước, khôi phục nền độc lập dân tộc.


Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), tại thành Đông Đô (Thăng Long), Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng đế với niên hiệu Thuận Thiên, khôi phục quốc hiệu Đại Việt. Từ đây, quyền trị vì đất nước thuộc về nhà Lê, thường gọi là Hậu Lê để phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009). Nhà Hậu Lê cầm quyền 360 năm (1428-1788), là vương triều tồn tại lâu nhất trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Vương triều Lê Sơ (1428-1527) là thời kỳ đầu của nhà Lê với các đời vua: Lê Thái Tổ (1428-1433); Lê Thái Tông (1433- 1442); Lê Nhân Tông (1442-1459); Lê Nghi Dân (1459- 1460); Lê Thánh Tông (1460-1497); Lê Hiến Tông (1498- 1504); Lê Túc Tông (1504-1505); Lê Uy Mục (1505-1509); Lê Tương Dực (1510-1516); Lê Chiêu Tông (1516-1522); Lê Cung Hoàng (1522-1527).


Trong thời kỳ hình thành và bước đầu phát triển của vương triều, với ánh hào quang của chiến công đánh thắng quân xâm lược nhà Minh, giành lai nền độc lập dân tộc, Lê Thái Tổ sau khi lên ngôi nhanh chóng xác lập được quyền lực và thu phục nhân tâm tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân trong công cuộc khôi phục và dựng xây đất nước sau chiến tranh. Trong 6 năm cầm quyền (1428- 1433), ông đã đặt nền móng và củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc; xây dựng chính quyền, lập lại trật tự kỷ cương, an ninh xã hội; thực hiện nhiều chính sách tích cực nhằm khôi phục nền kinh tế, khắc phục những hậu quả của thời thuộc Minh, đặt những viên đá tảng đầu tiên cho sự phát triển của vương triều mới trên mọi lĩnh vực. Các đời vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông tiếp tục giữ vững thành quả và từng bước đưa đất nước đi lên. Trong 44 năm tiếp theo dưới sự trị vì của vua Lê Thánh Tông (1460-1497) và Lê Hiến Tông (1498-1504), trên nền tảng vững chắc được xây dựng từ các triều vua trước, Đại Việt có bước phát triển vượt bậc về mọi mặt. Nhưng sang thế kỷ XVI, từ đời vua Lê Uy Mục trở đi, triều Lê Sơ dần suy yếu, đến năm Đinh Hợi (1527) thì bị nhà Mạc giành quyền thống trị.


Một thế kỷ xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện khu vực Đông Nam Á vẫn xảy ra những cuộc chiến tranh, lại thường xuyên phải chịu những áp lực chính trị từ đế chế phong kiến Trung Hoa ở phương Bắc, các cuộc cướp phá, xâm lấn của Chămpa ở phía Nam và của Ai Lao ở phía Tây, nhưng Đại Việt vẫn vững vàng phát triển. Với khí thế quật khởi của một dân tộc tự cường, với tầm nhìn chiến lược, tư duy năng động, sáng tạo và nhiều chủ trương, phương lược đúng đắn của vương triều Lê Sơ, quốc gia Đại Việt không chỉ nhanh chóng phục hồi mà còn có những bước phát triển mới với nhiều thành tựu rực rỡ trong phát triển kinh tế, văn hóa, ổn định xã hội và trở thành một quốc gia cường thịnh bậc nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ, có ảnh hưởng lớn đối với các nước trong khu vực.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #4 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2021, 10:01:01 am »

2. Khái quát tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội

a. Chính trị - xã hội

Trên cơ sở lãnh thổ quốc gia thống nhất bao gồm toàn bộ vùng Bắc Bộ đến bắc đèo Hải Vân, những người sáng lập vương triều Lê Sơ và các thế hệ nối tiếp luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường nhằm bảo vệ và xây dựng một quốc gia thống nhất và ngày càng vững mạnh.

Về thể chế chính trị:

Lê Sơ là một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ngày càng phát triển với một bộ máy hành chính thống nhất, chặt chẽ từ trung ương đến tận làng xã.

Sau khi lên ngôi năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi chia đất nước thành 5 đạo: Đông đạo, Bắc đạo, Nam đạo, Tây đạo và Hải Đông đạo. Dưới đạo là các trấn, lộ, phủ, huyện, châu, xã. Đứng đầu mỗi đạo là chức hành khiển trông coi mọi việc quân, dân chính và tư pháp; đứng đầu trấn là chức trấn phủ sứ; an phủ sứ đứng đầu lộ; ở phủ có chức tri phủ; huyện có chức chuyển vận sứ; đứng đầu xã là chức xã quan. Số xã quan tùy theo, số lượng dân từng xã: Đại xã (từ 100 người trở lên) có 3 xã quan; Trung xã (từ 50 người trở lên) có 2 xã quan; Tiểu xã (từ 10 người trở lên) có 1 xã quan1 (Xem Trương Hữu Quýnh (Chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1 - Từ thời nguyên thủy đến năm 1858, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 320).


Đến đời vua Lê Thánh Tông, năm Bính Tuất (1466), cả nước được chia thành 12 đạo Thừa tuyên: Thuận Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa, Thiên Trường, Quốc Oai, Hưng Hóa, Nam Sách, Bắc Giang, An Bang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và một phủ Trung đô (khu vực Kinh đô Thăng Long). Năm Tân Mão (1471), sau cuộc tiến đánh Chămpa, lãnh thổ Đại Việt mở rộng, có thêm đạo Thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam (vùng đất từ phía nam đèo Hải Vân đến đèo Đại Lãnh).


Nhằm đơn giản bớt hệ thống tổ chức chính quyền và tăng cường quyền chi phối của triều đình trung ương, Lê Thánh Tông cho bãi bở một số đơn vị hành chính trung gian như trấn, lộ. Đơn vị xã được quy định lại với quy mô lớn hơn: Từ 500 hộ trở lên là Đại xã; Trung xã từ 300 hộ; Tiểu xã từ 100 hộ1 (Xem Trương Hữu Quýnh (Chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1 - Từ thời nguyên thủy đến năm 1858, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 320). Quyền hành ở đạo trước tập trung vào chức Hành khiển nay thuộc về 3 ty: Đô ty cai quản việc quân; Thừa ty phụ trách công việc hành chính, tài chính và tư pháp; Hiến ty phụ trách việc thanh tra quan lại, xử án và thi hành pháp luật. Sự phân lập quyền hành này nhằm ngăn ngừa khuynh hướng cát cứ ở địa phương và tăng cường quyền lực cho chính quyền trung ương. Đứng đầu phủ là chức tri phủ; đứng đầu các huyện, châu là chức tri huyện, tri châu; ở xã chức xã quan được đổi gọi là xã trưởng.


Đối với vùng thượng du, về cơ bản, quyền cai quản vẫn được giao cho các tù trưởng địa phương. Triều đình đặt ra các chức đoàn luyện, thủ ngự, tri châu, đại tri châu để bổ nhiệm cho các tù trưởng nhằm tranh thủ, ràng buộc và kiềm chế họ. Lê Thánh Tông chủ trương đảm bảo sự thống nhất trong chính quyền từ trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương: "Các chức lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng gìn giữ nhau, lẽ phải của nước không bị chuyện riêng, việc lớn của nước không đến lung lay, khiến có thói tốt làm hợp đạo đúng phép"1 ("Hiệu định quan chế", Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, t.II, tr.453-456).


Không chỉ thống nhất về mặt hành chính, bộ máy chính quyền các cấp cũng được xây dựng thành một hệ thống chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến địa phương và dần dần được cải tổ theo hướng tăng cường sự chi phối của triều đình trung ương và hạn chế quyền lực địa phương.


Cơ quan quyền lực tối cao là triều đình, đứng đầu là vua. Thời Lê Thái Tổ, dưới vua là các chức tả hữu tướng quốc Kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự; sau đó là các chức: tam thiếu, tam thái, tam tư. Tiếp đến là ban văn và ban võ. Đứng đầu ban văn là chức đại hành khiển, rồi đến thượng thư và các cơ quan chuyên trách như Nội mật viện, Hàn lâm viện, Ngự sử đài. Đứng đầu ban võ là các chức đại tổng quản, đại đô đốc, đô tổng quản. Trải qua các đời vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Lê Nghi Dân, chính quyền ngày càng được củng cố, hoàn thiện. Năm Canh Thìn (1460), vua Lê Nghi Dân củng cố lại triều đình trung ương, đặt thêm 4 bộ: Hộ, Binh, Hình, Công cùng với hai bộ là Bộ Lại, Bộ Lễ do Lê Lợi đặt từ trước thành 6 bộ. Sáu khoa gồm có: Trung thư khoa, Hải khoa, Đông khoa, Tây khoa, Nam khoa và Bắc khoa. Các quan chức ở phủ, huyện, châu trong thời Lê Nghi Dân (1459-1460) cũng có sắp xếp lại nhưng các tài liệu cũ không ghi chép cụ thể.


Đến thời Lê Thánh Tông (1460-1497) bắt đầu tiến hành một cuộc chỉnh đốn, sắp xếp lại đơn vị hành chính và bộ máy chính quyền các cấp. Sau một thời gian tiến hành, tổ chức chính quyền thời Lê Sơ đã đạt đến đỉnh cao của chế độ phong kiến. Chính quyền trung ương gồm có 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công do các thượng thư đứng đầu, bên cạnh bộ là 6 khoa có nhiệm vụ kiểm soát công việc các bộ. Ngoài ra còn có 6 tự và một số cơ quan chuyên trách như Ngự sử đài kiểm soát quan lại; Hàn lâm viện khởi thảo văn kiện; Quốc tử giám trông nom giáo dục; Quốc sử quán biên soạn chính sử.


Năm Hồng Đức thứ 2 Tân Mão (1471), Lê Thánh Tông cho cải tổ lại bộ máy chính quyền trung ương nhằm tập trung mọi quyền vào tay hoàng đế và kiểm soát chặt chẽ các cấp địa phương. Theo đó, chức Tể tướng bị bãi bỏ, triều đình được đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua. Vua trực tiếp nắm quyền chỉ đạo mọi công việc quan trọng của nhà nước cũng như mối liên hệ với các cơ quan thừa hành. Mọi công việc trong triều đình phải được trình báo với vua và phải được vua đưa ra quyết định. Vua trực tiếp chỉ đạo 6 bộ, đồng thời là người chỉ huy tối cao về mặt quân sự. Trong dụ “Hiệu định quan chế”, Lê Thánh Tông khẳng định: "Ngày nay đất đai, bản chương so với thời trước khác xa nhau lắm, không thể không tự mình cầm lấy quyền chế tác, hết sức theo cái đạo biến thông"1 (("Hiệu định quan chế", Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, t.II, tr.453-456). Nhà vua cũng ra lệnh ngăn cấm các quý tộc, quan lại tổ chức quân đội riêng. Vua được coi là "con trời", là hiện thân của "sức mạnh" và "chân lý". Uy quyền của vua là tuyệt đối.


Nhằm xây dựng và củng cố một bộ máy quan liêu trung thành, triều đình ban cho quan lại nhiều quyền lợi: ruộng đất, bổng lộc, chức tước. Những quan lại trong bộ máy nhà nước phong kiến Lê Sơ giai đoạn đầu chủ yếu là những tướng sĩ có công trong cuộc khởi nghĩa. Ở các giai đoạn sau là những người trúng tuyển trong các kỳ thi do triều đình tổ chức; ngoài ra còn là những con em tầng lớp quý tộc được tuyển lựa hoặc là do các quan lại địa phương tiến cử theo yêu cầu của triều đình. Chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm, lương bổng, phẩm tước của quan lại đều có quy chế rõ ràng, thống nhất. Những quan lại thời Lê Sơ tuy không được ban cấp thái ấp, điền trang như các vương hầu quý tộc thời Lý - Trần, nhưng nhà nước vẫn có chế độ ban cấp ruộng đất bảo đảm cho họ được quyền sở hữu (ban cấp vĩnh viễn) và chiếm hữu (ban cấp tạm thời) một số ruộng đất khá lớn khiến hầu hết những người đã gia nhập vào bộ máy nhà nước đệu trở thành địa chủ phong kiến. Ngoài ruộng đất được ban cấp theo phẩm tước, các quan lại còn được cấp một số tiền hằng năm gọi là tuế bổng. Ví dụ: Chánh nhất phẩm được cấp 82 quan tuế bổng; Chánh cửu phẩm được cấp 16 quan; những quan lại ở các địa phương khi thừa hành công việc còn được cấp tiền chức vụ; khi đến nhậm chức được thu tiền gạo cung mừng, v.v...


Nhằm ngăn ngừa khuynh hướng cát cứ, triều đình Lê Sơ thi hành một số biện pháp hạn chế quyền lực của tầng lớp quý tộc quan liêu như không được phân phong đi trấn trị các nơi và rất ít người được tham dự triều chính, không được lập điền trang, thái ấp và tổ chức lực lượng vũ trang riêng như ở thời Lý - Trần. Nhà Lê còn quy định nhiều điều luật nghiêm ngặt và hình thức nghi lễ nhằm bảo đảm sự trung, thành của tầng lớp quý tộc quan liêu đối với triều đình trung ương.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #5 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2021, 10:02:32 am »

Sự phát triển ngày càng cao của chế độ phong kiến trung ương tập quyền đặt ra yêu cầu phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị và ổn định trật tự xã hội. Dưới thời Lê Lợi, việc đặt luật pháp đã được tiến hành. Ông lệnh cho các quan Tư Không, Tư Đồ, Tư Mã, Thiếu úy, Hành Khiển bàn định pháp lệnh cái trị quân dân vì theo ông: “Từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa đặt ra pháp luật là để dạy các tướng hiệu quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác, điều thiện thì làm, điều chẳng lành thì tránh. Chớ để đến nỗi phạm pháp”1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.291). Lê Thái Tổ cũng định ra một số luật lệ về kiện tụng và phân chia ruộng đất công của các thôn, xã. Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông ban hành thêm một số điều luật về xét xử kiện tụng, sở hữu tài sản. Đến Lê Thánh Tông lại ban bố nhiều điều lệ về kế thừa hương hỏa; về bảo vệ tôn ty trật tự và đạo đức phong kiến; việc trấn áp các hành vi chống đối hay làm nguy hại đến quyền thống trị của giai cấp phong kiến. Năm Quý Mão (1483), Lê Thánh Tông sai các đình thần sưu tập tất cả các điều luật, các pháp lệnh đã ban bố và thi hành từ các triều vua trước rồi bổ sung, biên soạn thành một bộ pháp điển hoàn chỉnh với tên thường gọi là Luật Hồng Đức. Bộ luật Hồng Đức trở thành pháp luật của triều Lê, gồm có 721 điều, chia làm 6 quyển, 16 chương với nội dung cơ bản là bảo vệ lợi ích và đặc quyền của giai cấp thống trị, củng cố chế độ quân chủ chuyên chế. Bộ luật cũng phản ánh và tôn trọng một số phong tục tập quán của nhân dân, đề cao ý thức bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bênh vực quyền lợi của người phụ nữ. Luật Hồng Đức là bộ luật hoàn chỉnh đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam, cũng là bộ luật xưa nhất mà hiện nay chúng ta còn biết được nội dung tương đối đầy đủ. Về cơ bản, Bộ luật Hồng Đức là bộ luật hình, nhưng về thực chất, đây là bộ luật tổng hợp bao gồm cả luật hình, luật hành chính, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân và gia đình. Luật Hồng Đức đã phản ánh được một cách tương đối toàn diện các mặt đời sống và tập quán của nhân dân ta ở thế kỷ XV. Bộ luật Hồng Đức được các đời vua kế tiếp bổ sung, sửa đổi và sử dụng trong suốt hơn ba thế kỷ trị vì của nhà Lê với tên gọi "Lê triều hình luật".

Tình hình xã hội:

Trong xã hội thời Lê Sơ có hai giai cấp cơ bản là địa chủ phong kiến và nông dân, bên cạnh đó còn có các tầng lớp thương nhân, thợ thủ công và nô tỳ.

Địa chủ là giai cấp thống trị, giai cấp nắm chính quyền, bao gồm địa chủ thường, địa chủ quan liêu và một số quý tộc nhà Lê. Đó là nhũng người có ruộng đất tư hữu, lấy quyền sở hữu tư nhân làm cơ sở tồn tại và tiến hành bóc lột địa tô đối với nông dân. Ngoài ruộng đất tư hữu, tầng lớp địa chủ quan liêu còn được nhà nước ban cấp cho nhiều ruộng đất theo chế độ vĩnh viễn hoặc tạm thời. Hầu hết các địa chủ thời Lê Sơ đều bóc lột nông dân theo phương thức phát canh thu tô.


Giai cấp nông dân gồm nhiều tầng lớp khác nhau: nông dân tự canh, nông dân tá điền, nông dân phá sản phải đi làm thuê. Trong đó, nông dân tá điền chiếm số lượng đông nhất. Nông dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, là lực lượng lao động sản xuất chủ yếu, làm ra hầu hết của cải trong xã hội thời bấy giờ, nhưng cũng là tầng lớp bị áp bức bóc lột nặng nề nhất.


Quan hệ giữa địa chủ và nông dân là quan hệ giữa chủ sở hữu ruộng đất với người lao động sản xuất, quan hệ giữa kẻ bóc lột với người bị bóc lột.


Thời Lê Sơ vẫn còn tồn tại một số lượng đáng kể tầng lớp nô tỳ, mặc dù vào cuối thời Trần và qua cuộc chiến tranh đầu thế kỷ XV, một số lượng lớn tầng lớp này đã được giải phóng. Trong xã hội, nô tỳ là tầng lớp thấp kém nhất, bị bóc lột và phân biệt đối xử tàn nhẫn nhất. Nô tỳ không được xem là thần dân của nhà vua, không được ghi vào sổ hộ, không được cấp ruộng khẩu phần. Tuy vậy, trong một chừng mực nhất định, pháp luật nhà Lê cũng quy định một số quyền hạn của chủ đối với nô tỳ, coi việc chủ giết nô tỳ là một hành động phạm pháp.


Do sự phát triển của công, thưởng nghiệp và kinh tế hàng hóa, tầng lớp thương nhân và thợ thủ công trong xã hội Lê Sơ có đông đảo hơn trước nhưng bởi chính sách không chú trọng đến sự phát triển của kinh tế hàng hóa của triều Lê và quan niệm xem thường thương nhân, coi họ là những kẻ "bỏ gốc theo ngọn" không phù hợp với tinh thần độc tôn nông nghiệp và chính sách "ức thương" của chế độ phong kiến nên tầng lớp này chỉ chiếm một phần nhở trong xã hội.


Lê Sơ là thời kỳ phát triển cường thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam. Các sử gia phong kiến ca tụng đây là thời thái bình thịnh trị; kinh tế nông nghiệp được nhà nước quan tâm, chú ý phát triển nhưng nông dân, tầng lớp chiếm tuyệt đại đa số lúc bấy giờ cũng vẫn phải chịu những hình thức áp bức nặng nề. Ngoài tô thuế ruộng đất là hình thức bóc lột chính, họ còn bị uy hiếp thường xuyên bởi nạn kiêm tinh ruộng đất, nạn cho vay nặng lãi và nạn ức hiếp tham nhũng của tầng lớp cường hào. Thêm vào đó là nạn thiên tai bão lụt, hạn hán, mất mùa đói kém vẫn luôn xảy ra khiến người nông dân càng thêm cùng cực.


Tuy nhiên, xét về phạm vi tổng thể chế độ phong kiến Việt Nam thì đời sống của người nông dân thời Lê Sơ nhìn chung tương đối được bảo đảm và ổn định hơn các thời khác. Các chính sách triệt bỏ căn bản chế độ điền trang, giải phóng tầng lớp nô tỳ; thực thi chính sách quân điền... của nhà nước đã tạo điều kiện cho sức sản xuất phát triển, kinh tế nông nghiệp nhanh chóng phục hồi. Triều đình cũng đề ra được một số chính sách, biện pháp cứu tế xã hội chăm lo đến đời sống của nhân dân như: lập nhà tế sinh để nuôi dưỡng những người đau yếu, bắt các xã trưởng, các quan lại địa phương phải thu dưỡng những người tàn phế, tật bệnh không có thân thuộc trông nom. Lê Lợi - người lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng từng nhận được sự giúp đỡ và đồng cam cộng khổ với nhân dân, khi lên làm vua thường khuyên bảo triều thần và dặn dò con cái nên “khoan dân”, không nên phí sức dân, không nên xây dựng cung đài và phung phí tiền của, để cho dân nghỉ ngơi. Điều này được các triều vua sau chú ý và noi theo. Những việc làm trên góp phần tạo nên sự "thái bình, thịnh trị" tương đối của xã hội thời Lê Sơ trong thế kỷ XV.


Trong xã hội phong kiến, mâu thuẫn giữa địa chủ phong kiến với nông dân luôn tồn tại. Khi mâu thuẫn giai cấp quyết liệt sẽ dẫn đến sự bùng nổ các cuộc đấu tranh. Trong thế kỷ XV không thấy sử cũ ghi chép về khởi nghĩa nông dân ở miền xuôi. Nguồn tư liệu chỉ cho biết về một số cuộc nổi dậy của đồng bào thiểu số ở vùng núi phía Bắc do các tù trưởng của họ cầm đầu nhằm chống lại sự áp bức bóc lột, sự chi phối của triều đình trung ương và có khuynh hướng cát cứ địa phương. Ít có nông dân nổi dậy chống đối triều đình là một biểu hiện của tình trạng ổn định tạm thời của xã hội thời Lê Sơ, của sự thịnh trị tương đối của chế độ phong kiến đang trong thời kỳ phát triển. Sự ổn định này chiếm hơn hai phần ba thời gian tồn tại của vương triều (từ năm 1504 trở đi, dưới các đời vua Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, thời thái bình, thịnh trị không còn nữa).


Trên cơ sở quốc gia thống nhất, chế độ chính trị và tình hình xã hội tương đối ổn định trong một thời gian dài, vị thế vương triều được nhiều quốc gia trong khu vực vị nể, nhà nước Lê Sơ có điều kiện tập trung vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #6 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2021, 10:04:03 am »

b) Khôi phục và phát triển kinh tế

Sau nhiều năm tháng chiến tranh, nền kinh tế Đại Việt bị tàn phá nghiêm trọng: đồng ruộng bỏ hoang, đê điều hư hỏng, làng xóm tiêu điều, nông dân phiêu tán hàng loạt; thương nghiệp đình trệ, nhiều ngành nghề bị phá sản. Nhiệm vụ cấp bách đặt ra đối với vương triều Lê Sơ là phải thúc đẩy sản xuất, khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định đời sống cư dân, nhất là nông dân nhằm thực hiện “quốc phú binh cường”. Nhiệm vụ này được thực hiện dần từng bước, các biện pháp tích cực của nhà nước cùng sự lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân đã mang lại hiệu quả thiết thực trong các ngành kinh tế.

- Kinh tế nông nghiệp.

Nông nghiệp là ngành kinh tế cơ bản của quốc gia, là cơ sở của chế độ phong kiến. Cũng như các triều đại phong kiến trước, triều Lê Sơ rất coi trọng nghề nông, nông nghiệp được xem là nghề gốc, nhà nước có nhiều chính sách tích cực nhằm phục hồi và phát triển ngành kinh tế chủ đạo này.


Trước tiên là nhanh chóng phục hồi diện tích canh tác: Sau những năm chiến tranh, tình trạng nông dân bỏ làng đi phiêu tán và bỏ hoang đồng ruộng diễn ra ở nhiều nơi trong nước. Trước thực trạng đó, năm Đinh Mùi (1427), khi còn bao vây giặc ở Đông Đô, Lê Lợi đã ra lệnh bắt dân phiêu tán phải trở về nguyên quán nhận ruộng cày cấy. Năm Ất Tỵ (1485), Lê Thánh Tông ra lệnh cho các phủ, huyện nếu có ruộng đất bỏ hoang chưa khai khẩn hết thì phải khám xét cẩn thận và đôn đốc nhân dân canh khẩn. Do những biện pháp tích cực của nhà nước, chỉ trong thời gian ngắn, ruộng đất bỏ hoang đã được khai thác hết và nền sản xuất nông nghiệp căn bản được phục hồi.


Phân chia lại ruộng đất công làng xã: Trước hiện trạng "Người đi đánh giặc thì nghèo, kẻ rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một thước một tấc đất mà ở còn những kẻ du thủ du thực, không có ích gì cho nước lại có quá thừa ruộng đất"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.299), năm Kỷ Dậu (1429), Lê Thái Tổ lệnh cho các quan văn võ đại thần bàn định việc phân cấp ruộng đất cho quan lại, binh lính và dân chúng từ đại thần trở xuống đến người già yếu, phụ nữ, trẻ mồ côi. Đây là sự mở đầu cho việc ban hành và thực thi “Chính sách quân điền” của nhà nước Lê Sơ - một chính sách có tác động rất lớn đối với sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp thời bấy giờ. Tuy nhiên, dưới thời Lê Thái Tổ, chính sách quân điền mới chỉ được bàn định và "phép còn chưa đủ", sang thời Lê Nhân Tông, được bổ sung thêm một số điều và đến thời Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 8 (Đinh Dậu - 1477), quy chế về quân điền mới được hoàn chỉnh và được thực hiện rộng khắp. Chính sách quân điền của triều Lê Sơ được thực hiện theo nguyên tắc:

+ Tất cả mọi người dân trong xã đều được chia ruộng, nhưng tùy theo phẩm hàm, chức tước và thứ bậc trong xã hội.

+ Ruộng xã nào chia cho dân xã ấy. Nhưng đầu thời Lê Sơ, do hậu quả của 20 năm đô hộ của quân Minh, có nhiều xã cư dân phiêu tán, đồng ruộng bỏ hoang, nên nhà nước quy định thêm những xã nào dân ít, ruộng công nhiều thì có thể chia bớt cho dân xã bên cạnh thiếu ruộng.

+ Thời gian quân cấp là 6 năm 1 lần. Mỗi lần đến kỳ quân cấp, quan phủ huyện phải xuống đo đạc lại ruộng đất và định việc phân cấp. Việc đo đạc và phân cấp này phải được tiến hành vào lúc đồng ruộng đã thu hoạch xong để không trở ngại đến sản xuất nông nghiệp.

+ Những người cày ruộng có nghĩa vụ nộp tô thuế cho nhà nước. Riêng quan viên từ tứ phẩm trở lên nếu được cấp thêm ruộng công ở xã thì phần ruộng cấp thêm này không phải nộp tô. Vì vậy, thực tế phần ruộng cấp thêm ấy có tính chất như lộc điền và có thể coi như là phần bổ sung lộc điền...


Với những nội dung trên, chính sách quân điền ít nhiều đã mang lại ruộng đất cho mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là nông dân, bảo đảm cho họ có một mảnh ruộng để cày cấy sinh sống. Trên cơ sở đó người nông dân yên tâm sản xuất, nền kinh tế tiểu nông được tạo điều kiện để xây dựng và phát triển. Đồng thời cũng mang lại cho nhà nước một nguồn thu đáng kể từ kinh tế làng xã. Chính sách quân điền đã có tác dụng tích cực trong việc phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp.


Ngoài ra, nhà Lê còn thực thi các chính sách: lập đồn điền, khẩn hoang,... để mở rộng diện tích canh tác. Cùng với sự hình thành các sở đồn điền của nhà nước, nhiều công trình khẩn hoang của nhân dân cũng được đẩy mạnh ở vùng đất bồi ven biển và đất hoang vùng trung du, lập nên nhiều làng xóm mới. Năm Bính Ngọ (1486), Lê Thánh Tông ra lệnh cho các phủ huyện nào có đất bồi ven biển phải cho người ít ruộng tình nguyện bồi đắp, khai khẩn nộp thuế. Theo chú thích của sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì miền duyên hải Bắc Bộ ngày nay từ thời Lê Sơ đã có những con đê ngăn nước mặn đắp bằng đá hay bằng đất để bảo vệ đồng ruộng; riêng miền ven biển Ninh Bình còn có một con đê ngăn nước mặn gọi là đê Hồng Đức.


Để khai khẩn những vùng đất hoang rộng lớn ở miền trung du, năm Kỷ Mùi (1499) triều đình sai Thừa ty Thanh Hóa cho phép những người lương thiện đưa gia đình lên khai khẩn. Những vùng đất hoang lại được khai thác thêm một phần.


Khuyến khích và tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển: Nhằm tăng cường nhân lực cho sản xuất nông nghiệp, ngay sau khi kết thúc chiến tranh, Lê Lợi chỉ giữ lại 10 vạn quân thường trực, còn 25 vạn quân sĩ cho về sản xuất. Số quân giải ngũ này góp phần đáng kể vào việc tăng cường sức sản xuất cho nông nghiệp.


Sức kéo đóng một vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Ý thức được điều đó nên triều Lê Sơ chú trọng đến việc bảo vệ trâu, bò. Pháp luật triều Lê có những điều khoản quy định bảo vệ sức kéo; tội ăn trộm trâu, bò bị trừng trị nặng hơn các tội trộm cắp khác; việc mua bán, di chuyển trâu, bò, đến cả việc trâu, bò bị chết, giết trâu, bò làm thịt đều bị kiểm soát chặt chẽ để tránh tình trạng gian lận hay giết mổ bừa bãi. Năm Kỷ Dậu (1489), vua Lê Thánh Tông còn xuống chỉ cấm giết trâu, bò vào lúc ban đêm và chỉ có trâu bò chết được khám nghiệm rồi mới cho mổ làm thịt.


Các vua Lê nhiều lần ban hành chiếu khuyến nông, đồng thời khôi phục lại “lễ tịch điền”: Hằng năm, vào đầu mùa xuân, nhà vua đích thân ra cày mấy đường ở thửa ruộng đặc biệt gọi là “tịch điền” để mở đầu mùa cày cấy cho nông dân. Triều đình ban hành nhiều chính sách rất cụ thể quan tâm đến nông nghiệp như: không huy động sức dân vào những lúc đang mùa vụ; chỉ được phép chuộc ruộng vào những tháng rỗi rãi của đồng ruộng. Năm Ất Mão (1435), triều đình ra lệnh cho các quan địa phương nếu việc công dịch mà có hại đến nghề nông thì "không được khinh động sức dân".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #7 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2021, 10:06:08 am »

Triều Lê Sơ cũng rất chú trọng đến xây dựng, bảo vệ đê điều và các công trình thủy lợi. Trong hệ thống quan lại triều đình có chức Hà đê quan - quan chuyên trông coi đê điều. Chức quan này đặt đến cấp phủ, huyện. Công việc kiểm tra, sửa sang đê điều được tiến hành thường xuyên trong năm với quy chế chặt chẽ. Những lúc việc đắp đê điều cấp thiết, nhà nước huy động nhân dân, quân lính cho đến cả học sinh Quốc Tử Giám. Học sinh Quốc Tử Giám là “sinh viên đại học” của chế độ phong kiến hầu hết là con em của tầng lớp quý tộc quan liêu, được miễn trừ mọi thứ công dịch, chỉ phải huy động trong hai trường hợp tối quan trọng là khi có giặc uy hiếp kinh thành và khi đê điều cấp thiết. Vừa quản lý tu sửa, bảo vệ tốt các công trình đê điều được xây dựng ở các triều trước, nhà Lê Sơ còn cho xây dựng một hệ thống đê ngăn nước mặn ở vùng ven biển, nhiều sông, kênh ở các địa phương được nạo vét, khơi dòng để tưới tiêu đồng ruộng và phục vụ nhu cầu vận chuyển. Năm Mậu Ngọ (1438), Lê Thái Tông sai khơi lại các kênh ở Trường An, Thanh Hóa, Nghệ An. Năm Đinh Hợi (1467), vua Lê Thánh Tông sai khơi lại các kênh ở Thanh Hóa, Nghệ An.


Mọi biện pháp tích cực của triều đình cùng sức lao động sáng tạo của quần chúng nhân dân đã đưa nền sản xuất nông nghiệp thời Lê Sơ dần phục hồi và nhanh chóng phát triển. Thành quả của nền kinh tế nông nghiệp thời ấy còn lưu lại trong ký ức dân gian:
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng muốn ăn”.

- Công thương nghiệp.

Công thương nghiệp tuy không được chú trọng như nông nghiệp nhưng vẫn có những chuyển biến đáng kể so với giai đoạn trước.


Do nhu cầu của xã hội, sau khi đất nước hòa bình, các ngành nghề thủ công nhanh chóng được phục hồi và có những bước phát triển mới. Nhiều làng nghề thủ công truyền thống ở các làng xã được hồi sinh như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn sắt... Trong đó có những làng làm ra các sản phẩm nổi tiếng như: làng Bát Tràng (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội) chuyên làm đồ gốm sứ, làng Huê Cầu (nay thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) nhuộm thâm, làng Bình Vọng (nay thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội) có nghề sơn, làng chạm khắc đá Kính Chủ (nay thuộc huyện Kinh Môn, Hải Dương), làng Đại Bái đúc đồng (thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), làng Vân Chàng rèn sắt... Tại Kinh thành Thăng Long, những người làm nghề thủ công tổ chức thành 36 phường chuyên môn như: phường Yên Thái làm giấy, phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Nghi Tàm dệt lụa...


Bên cạnh các nghề thủ công trong nhân dân, nhà nước cũng thành lập các công xưởng để sản xuất những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu của triều đinh và quan lại như: đúc tiền, sản xuất vũ khí và các đồ dùng của vua quan. Những người sản xuất trong các công xưởng gọi là công tượng, họ là những thợ thủ công giỏi trong dân gian bị nhà nước trưng tập vào đây làm việc theo chế độ lao dịch, cưỡng bức.


Do mạng lưới, giao thông được mở rộng, việc giao lưu hàng hóa và tiền tệ giữa các địa phương thuận tiện hơn trước. Hệ thống chợ làng - những trung tâm buôn bán của các địa phương mọc lên ngày càng nhiều và được nhà nước khuyến khích tạo điều kiện khi có nhu cầu. Năm Đinh Dậu (1477), nhà nước quy định thể lệ chia mở chợ mới để tiện cho việc trao đổi, mua bán của nhân dân: "Sinh dân các huyện, châu, xã ở các xứ trong nước mỗi ngày một đông, nếu muốn mở thêm chợ mới để tiện mua bán thì quan phủ, huyện, châu phải khám xét thực tế, nếu quả là tiện cho dân thì làm bản tâu lên, cho theo tiện lợi mà họp chợ"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.469). Sự ra đời ngày càng nhiều của các chợ chứng tỏ thị trường địa phương phát triển. Để tiện lợi cho việc buôn bán, trao đổi và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng hóa, triều Lê bỏ tiền giấy thời Hồ, khôi phục việc tiêu tiền đồng. Đến năm Bính Tý (1456), số tiền đồng đúc ra đã tương đối đủ lưu thông trong nước.


Đơn vị tiền tệ và đo lường được quy định thống nhất: năm Mậu Thân (1428), định 50 đồng là 1 tiền; năm Kỷ Mùi (1439), định 60 đồng là 1 tiền. Cùng năm Kỷ Mùi (1439), vua Lê Thái Tông quy định kích thước của một số hàng hóa chính như vải, lụa, giấy. Năm Ất Mùi (1475), vua Lê Thánh Tông ban hành mẫu thống nhất các đơn vị đo diện tích ruộng đất và đong lường thóc gạo.


Thương nghiệp cũng có những bước phát triển nhất định. Kinh sư (Thăng Long) - một trung tâm kinh tế lớn của Đại Việt là nơi tập trung nhiều thợ thủ công và thương nhân trong cả nước. Dân các nơi tụ tập về đây làm ăn ngày càng đông đúc, việc buôn bán có phát đạt hơn các vùng khác, nhưng nhà nước không chủ trương khuyến khích thương mại ở các thành thị, sợ rằng việc buôn bán sẽ ảnh hưởng xấu đến quan lại, làm cho họ chểnh mảng "việc nước". Xuất phát từ quan niệm đó, năm Tân Sửu (1481), viên quan phủ Phụng Thiên đề nghị triều đình đuổi tất cả những người tạp cư phải trở về quê quán làm ăn. Kiến nghị này không được thực thi vì làm như vậy "sợ rằng việc buôn bán ở đất Kinh sư sẽ giảm sút, không giữ được vẻ phồn thịnh, không những kẻ buôn bán sẽ bị thất nghiệp, mà chợ búa, phố xá rồi sẽ vắng vẻ, thuế ngạch sẽ thiếu hụt, thật là bất tiện"1 (Lời can gián của Phó đô ngự sử Quách Đình Bảo, Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.485).


Ngoại thương dưới thời Lê Sơ có phần kém phát triển hơn thời Lý - Trần do triều đình hạn chế, kiểm soát khắt khe thuyền buôn và thương nhân nước ngoài nhằm giữ vững an ninh quốc gia. Các cơ quan kiểm soát ngoại thương được đặt khắp các cửa ải vùng biên giới và các cửa biển dọc theo miền duyên hải. Nhà nước quy định những người nước ngoài và các thuyền buôn không được vào nội trấn, chỉ được buôn bán ở một số địa điểm nhất định như: Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh); Càn Hải, Hội Thông (Nghệ An); Thông Lãnh (Lạng Sơn); cửa Triều (Thanh Hóa). Nhân dân dọc biên giới và miền ven biển nếu tự ý mua bán hàng hóa hoặc đón tiếp thuyền buôn ngoại quốc đều bị nghiêm trị. Năm Quang Thuận thứ 8 (Đinh Hợi - 1467), tàu buôn nước Xiêm La đến Vân Đồn, dâng tờ biểu làm bằng vàng lá và hiến phương vật để được buôn bán nhưng bị vua Lê Thánh Tông từ chối. Do có những quy định như vậy nên ngoại thương thời Lê Sơ kém phát triển. Thuyền buôn các nước ra vào thưa dần. Tuy nhiên, những quy định nghiêm ngặt của nhà nước chỉ hạn chế chứ không thủ tiêu được xu hướng phát triển của kinh tế hàng hóa, việc buôn bán với người nước ngoài vẫn diễn ra. Sử cũ ghi lại khá nhiều sự kiện các sứ thần nước ta cũng như Trung Quốc mỗi lần đi sứ đều đem theo hàng hóa khi về nước. Mặc dù triều đình đã đặt ra lệ hễ sứ thần nào mua hàng hóa về đều bị tạm thu rồi đem bày ra giữa sân điện cho mọi người biết, sau đó mới cho lấy về nhưng vẫn không thể cấm được việc mang hàng hóa của những viên quan đi sứ.


Chính sách kiểm soát chặt chẽ quan hệ buôn bán với nước ngoài của nhà nước Lê Sơ đã hạn chế sự phát triển kinh tế hàng hóa và là nguyên nhân của tình trạng sa sút ngoại thương ở thế kỷ XV.


Đất nước độc lập, lãnh thổ ngày càng được mở mang, đó là những điều kiện thuận lợi để kinh tế Đại Việt thời Lê Sơ phục hồi và phát triển trong những năm sau chiến tranh. Nhà nước đã có những chính sách tích cực trong sản xuất nông nghiệp, mở mang nội thương nên nền kinh tế nước ta ở thế kỷ XV có những chuyển biến căn bản, góp phần vào công cuộc ổn định đời sống nhân dân và tăng cường sức mạnh phòng thủ quốc gia.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #8 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2021, 10:07:52 am »

c) Phát triển giáo dục - văn hóa

Ngay sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám ở Kinh thành Thăng Long và mỏ trường học ở các lộ, mở khoa thi cho phép những người có học đều được tham gia dự thi. Quốc Tử Giám không chỉ dành cho con em tầng lớp quý tộc, một số ít con em của tầng lớp bình dân học hành ưu tú cũng được lựa chọn vào học. Trường ở các lộ dành cho tất cả mọi người có điều kiện học tập. Những người giảng dạy ở các trường đều do nhà nước tuyển chọn và bổ nhiệm gọi là giáo quan. Các giáo quan yếu kém sẽ bị sa thải. Ngoài hệ thống trường công do nhà nước tổ chức còn có những lớp học tư tại các địa phương do nhũng nho sĩ không đỗ đạt, lỡ vận hoặc các quan lại về hưu mỏ,, thu nạp khá nhiều người đến học.


Dưới triều Lê Thánh Tông, sự nghiệp giáo dục càng được coi trọng hơn nữa. Hệ thống các trường được mở rộng và có quy củ hơn. Năm Quý Mão (1483), nhà vua cho xây dựng lại Văn Miếu, mở rộng Thái học viện. Các tài liệu học tập đều lấy từ Tứ thư, Ngũ kinh. Đề thi trong các kỳ thi Hội đều lấy trong các sách Luận ngữ, Mạnh tử, Xuân thu, Trung dung, Đại học. Năm Đinh Hợi (1467), vua Lê Thánh Tông đặt ra chức Bác sĩ dạy ngũ kinh (Dịch, Thi, Thư, Lễ, Xuân thu), mỗi người chuyên nghiên cứu một kinh để giảng dạy cho giám sinh Quốc Tử Giám. Chế độ thi cử được tổ chức thường xuyên và có quy định rõ ràng. Khoa thi đầu tiên của thời Lê Sơ được tổ chức vào năm Đinh Mùi (1427), khi Lê Lợi còn bao vây giặc Minh ở thành Đông Quan, kỳ thi này đã chọn 36 người trúng tuyển bổ nhiệm làm An phủ sứ các lộ và Viên ngoại lang ở các bộ. Năm Kỷ Dậu (1429), Lê Thái Tổ mở khoa thi thứ hai gọi là khoa Minh kinh ở thành Đông Kinh để khảo xét lại các quan văn võ từ tứ phẩm trở xuống và tuyển lựa thêm nhân tài bổ sung vào bộ máy nhà nước. Năm Tân Hợi (1431), Lê Thái Tổ mở khoa thi Hoành từ ở Bồ Đề. Như vậy, ngay trong nhũng năm đầu, nhà Lê Sơ đã mở các khoa thi để tuyển dụng quan lại nhưng việc thi cử chưa thành quy chế rõ ràng, chỉ khi nào cần người thì nhà nước mới mở khoa thi. Đến thời vua Lê Thái Tông (1433-1442), việc thi cử được chú trọng. Với quan điểm: “Muốn có nhân tài, trước hết phải lựa chọn kẻ sĩ, mà phép chọn lựa kẻ sĩ phải lấy thi cử làm đầu”1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.319), Lê Thái Tông đã quy định các thể lệ thi cử rất quy củ: cứ 3 năm mở một khoa thi Hương. Năm trước thi Hương ở các đạo, năm sau thi Hội ở Kinh đô. Kỳ thi Hương ở các đạo bắt đầu được mở vào năm Thiệu Bình thứ 5 (Mậu Ngọ - 1438). Khoa thi Hội đầu tiên được mở vào năm Nhâm Tuất (1422). Trong kỳ thi này có 450 thí sinh ứng thi và có 33 người trúng tuyển, trong đó có những tài năng xuất chúng như Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Như Đổ. Dưới các triều vua nối tiếp, số người tham gia thi Hội ngày càng đông. Có những kỳ thi số thí sinh tham dự có tới hàng ngàn người như kỳ thi năm Ất Mùi (1475). Dưới thời vua Lê Thánh Tông, thể lệ thi cử được bổ sung thêm nhiều quy định, mọi thiết chế về giáo dục được hoàn chỉnh. Năm Quý Mùi (1463), định rõ: cứ cách 3 năm mở một kỳ thi Hội vào những năm Sửu, Thìn, Tỵ và Tuất. Nội dung thi Hội cũng được định lại với 4 kỳ thi và người thi được lựa chọn trong một số đầu đề thi nhất định. Kỳ thi Hương vẫn được tổ chức ở các đạo, giám quan do triều đình cử. Các sĩ tử muốn dự thi Hội đều phải trúng tuyển các kỳ thi Hương. Vua Lê Thánh Tông đặt ra lệ "bảo kết hương thí" và lệ "cung khai tam đại" tức là bắt các xã phải bảo đảm người ứng thi phải là người có đức hạnh (trung thành với chế độ phong kiến), phải khai lý lịch ba đời, nếu là con cháu nhà xướng ca, con cháu những kẻ chống đối lại triều đình thì nhất thiết không cho tham gia dự thi.


Từ năm Mậu Thân (1428) đến năm Đinh Hợi (1527), nhà nước Lê Sơ đã tổ chức được 31 khoa thi Hội, tuyển được 1.007 tiến sĩ, riêng thời Lê Thánh Tông có 12 khoa thi Hội lấy 501 tiến sĩ. So với tổng số 2.335 tiến sĩ từ thời nhà Lý đến thời Khải Định cho thấy giáo dục khoa cử thời Lê Sơ rất thịnh đạt, nhất là triều Lê Thánh Tông.


Có được kết quả trên là do nhà nước rất chú trọng đến việc giáo dục đào tạo và sử dụng nhân tài. Triều đình đề ra nhiều chính sách ưu đãi đối với kẻ sĩ. Năm Giáp Dần (1434), định lệnh tuyển lính, các giám sinh Quốc Tử Giám đều được miễn. Năm Hồng Đức thứ 19 (Mậu Thân - 1488), vua Lê Thánh Tông xuống chiếu: "Từ nay trở đi, phàm học trò đã từng đọc sách, biết làm văn mà có hạnh kiểm đã thi đỗ và được miễn tuyển thì miễn cho nửa phần thuế và sai dịch, để mở rộng đức ý nuôi dưỡng nhân tài của triều đình"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.504).


Các tiến sĩ được nhà nước trọng vọng, tôn vinh và ban cho nhiều ân điển như: Vua ban yến tiệc, mũ áo, làm bảng vàng treo ở cửa Đông Hoa; cấp cho ngựa tốt về quê vinh quy bái tổ... Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, vua Lê Thái Tông là người khởi xướng việc dựng bia tiến sĩ, sang đời vua Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 15 (Giáp Thìn - 1484) việc dựng bia bắt đầu được thực hiện và trở thành định lệ. Trong tấm bia ghi tên tiến sĩ khoa thi Nhâm Tuất (1442) - năm Đại Bảo thứ ba do Thân Nhân Trung soạn, ghi rõ: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên"1 (Tuyển tập văn bia Hà Nội, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, t.1, tr. 65). Điều này càng cho thấy "việc học" được triều Lê Sơ rất chú trọng.


Chế độ giáo dục thi cử thời Lê Sơ đã đào tạo ra một đội ngũ quan lại đông đảo đáp ứng yêu cầu của bộ máy hành chính nhà nước quân chủ phong kiến, đồng thời cũng sản sinh ra nhiều tài năng trên các lĩnh vực văn học, sử học, toán học làm rạng danh nền văn hiến nước nhà.


Văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế. Lực lượng sáng tác văn học chủ yếu vẫn là các nho sĩ, quan lại. Nội dung các tác phẩm có nhiều xu hướng khác nhau nhưng nhìn chung đều phản ánh khí thế vươn lên của tầng lớp nho sĩ, bộc lộ ý thức tự cường quốc gia mạnh mẽ, đồng thời phản ánh địa vị thống trị của Nho giáo. Có nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng ra đời trong thời kỳ này như: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Quỳnh uyển cửu ca, Phú núi Chí Linh, Phú Xương giang, Phú Lam Sơn....


Bên cạnh văn học chữ Hán chiếm ưu thế, văn học chữ Nôm thời Lê Sơ cũng có một vị trí quan trọng trên văn đàn với nhiều tác phẩm có giá trị. Tiêu biểu là bộ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi gồm 254 bài thơ ca ngợi cảnh đẹp của đất nước, phản ánh lòng tự hào dân tộc hoặc bất mãn, căm ghét bọn quan lại tham nhũng. Ngoài ra, còn có Hồng Đức quốc âm thi tập gồm 300 bài xướng họa của vua tôi đòi Lê Thánh Tông.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #9 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2021, 10:08:41 am »

Về sử học, xuất hiện hai nhà sử học lớn là Phan Phu Tiên và Ngô Sĩ Liên. Năm Ất Hợi (1455), vua Lê Nhân Tông lệnh cho Phan Phu Tiên soạn bộ Đại Việt sử ký tục biên, chép tiếp bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu từ đầu thời Trần (1225) cho đến khi quân Minh rút về nước (Đinh Mùi - 1427). Năm Kỷ Hợi (1479), nhà sử học Ngô Sĩ Liên theo lệnh của vua Lê Thánh Tông biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Đây là bộ sử biên niên gồm 15 quyển chia làm hai phần là Ngoại kỷ và Bản kỷ, là một trong những bộ sử xưa nhất còn lại cho đến ngày nay. Một tác phẩm nữa có giá trị về mặt lịch sử là bộ Lam Sơn thực lục do Nguyễn Trãi viết, Lê Lợi đề tựa. Đây là một tập lịch sử ký sự ghi lại một cách súc tích quá trình phát triển của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ lúc bắt đầu cho đến khi giành thắng lợi hoàn toàn...


Bên cạnh những công trình văn học, sử học, thế kỷ XV còn có một số tác phẩm phản ánh những thành tựu nghiên cứu về địa lý, y học và toán học.


Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi là tác phẩm địa lý học lịch sử đầu tiên của nước ta, kể rõ những khu vực hành chính, đặc điểm về địa thế, sản vật nghề nghiệp của từng vùng, đặc biệt là những hoạt động kinh tế hàng hóa đương thời. Ngoài ra còn có Tùng hiên văn tập của Vũ Cán, một tác phẩm đề cập nhiều về lịch sử, địa lý, sinh hoạt xã hội và An Nam bình thắng đồ của Đàm Văn Lễ, cũng là một cuốn sách có giá trị về mặt địa lý.


Về y học, có cuốn Bản thảo thực vật toản yếu của Phan Phu Tiên, nghiên cứu về thuốc nam và nhấn mạnh vấn đề phòng bệnh; cuốn Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực dạy cách giữ gìn sức khoẻ của trẻ em.

Về toán học: có hai nhà toán học nổi tiếng là Lương Thế Vinh và Vũ Hữu.

Về nghệ thuật: Âm nhạc tương đối phát triển, nhất là nhạc cung đình. Năm Đinh Tỵ (1437), Lương Đăng được triều đình cử chế định nhã nhạc (âm nhạc dùng trong các nghi lễ của triều đình). Tháng 6 năm Đinh Tỵ (1437), Lương Đăng định xong nhã nhạc, quy định các loại nhạc và các thứ nhạc khí dùng trong các nghi lễ của triều đình.


Sang thời Lê Thánh Tông, nhà vua sai Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh nghiên cứu âm nhạc của Trung Quốc để chế định lại lễ nhạc trong triều và lập ra bộ đồng văn để luyện tập nhạc khí và bộ Nhã nhạc để dạy ca hát bằng lời. Bấy giờ nổi tiếng nhất là bản nhạc Bình Ngô phá trận, ca ngợi cuộc kháng chiến trường kỳ chống Minh thắng lợi.


Bên cạnh nhạc cung đình có tính chất nghi lễ trong dân gian còn có cả một nền âm nhạc phong phú, độc đáo do nhân dân sáng tạo phản ánh cuộc sống tình cảm, tinh thần đấu tranh và công cuộc lao động sản xuất của những người dân lao động.


Nghệ thuật sân khấu, các lối hát tuồng và hát chèo là những hình thức biểu đạt tình cảm phổ biến của nhân dân. Năm Tân Dậu (1501), Lương Thế Vinh cho in cuốn Hý phường phả lục, đây là một tác phẩm lý luận đầu tiên của nghệ thuật chèo, trong đó những quy tắc về nghệ thuật diễn viên, về biểu diễn, múa hát trống chầu đã được tác giả tổng kết.


Nghệ thuật kiến trúc điêu khắc thời Lê Sơ không còn lại nhiều. Tiêu biểu cho nền nghệ thuật và kiến trúc thời này là những di tích của điện Lam Kinh và những tấm bia đá ở Lam Sơn. Điện Lam Kinh ngày nay chỉ còn lại một số ít di tích đã bị hư hỏng nhưng vẫn cho chúng ta biết được cung điện được xây trên một khu đất hình chữ nhật dài 314m, rộng 254m, có tường thành bao bọc dày 1m. Trong số những tấm bia đá ở Lam Sơn, nổi bật nhất là bia Vinh Lăng cao 2,79m, rộng 1,92m, dày 0,29m, dựng trên một con rùa đá dài 3,46m, rộng 1,94m. Nội dung bài văn bia do Nguyễn Trãi viết ghi lại sự tích và công đức của Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.


Nghệ thuật điêu khắc ở nửa đầu thế kỷ XV có phần sa sút hơn thời Lý - Trần. Nhưng đến nửa sau thế kỷ, điêu khắc đã chuyển sang một phong cách mới, kỹ thuật điêu luyện, hình khối đồ sộ, chịu ảnh hưởng rõ rệt của nghệ thuật đời Minh (ví dụ, hình rồng trang trí trong cung điện gần giống hình rồng đời Minh: đầu to có sừng, râu, lông gáy dựng đứng).


Như vậy, vương triều Lê Sơ trong 100 năm tồn tại (1428-1527) với những định hướng và giải pháp đáp ứng được yêu cầu của lịch sử, dân tộc, đất nước và xu thế thời đại đã nhanh chóng khắc phục những hậu quả của hơn hai mươi năm dưới ách đô hộ của phong kiến ngoại bang; thiết lập và củng cố vững chắc thể chế chính trị mới; từng bước đem lại nhiều thành tựu trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục. Đại Việt dưới thời Lê Sơ được hồi sinh và vươn lên trở thành quốc gia cường thịnh trong khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ.


Trên nền tảng chế độ phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, nền kinh tế có những bước phát triển mới cùng những thành tựu của văn hóa, giáo dục và xã hội tương đối ổn định, những tư tưởng quân sự của thời Lê Sơ được hình thành theo xu hướng tích cực nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra là bảo vệ nền độc lập tự chủ và chủ quyền lãnh thổ quốc gia cùng những thành quả của công cuộc dựng xây đất nước trong bối cảnh khu vực vẫn luôn có những cuộc xung đột giữa các quốc gia.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM