Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:16:37 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 2  (Đọc 5337 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #90 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 10:07:40 am »

b) Khôi phục và phát triển kinh tế

Sau khi thiết lập được vương triều của mình, triều Nguyễn bắt đầu chú ý đến việc củng cố, xây dựng nền kinh tế đất nước. Thế nhưng, cơ sở kinh tế sau nhiều năm xung đột quân sự cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, vốn đã nghèo nàn, lạc hậu vẫn chưa được triều Nguyễn chăm lo xây dựng và phát triển, mà có mặt còn bị hạn chế, thậm chí thụt lùi hơn so với các triều đại trước đây. Dưới triều Nguyễn, mọi thành quả về kinh tế mà nhân dân đấu tranh giành được ở triều Tây Sơn đều bị tước đoạt. Chính quyền nhà Nguyễn chỉ lo khôi phục và củng cố quyền lợi giai cấp địa chủ, tăng cường áp bức, bóc lột bằng các chế độ thu tô thuế, lao dịch, binh dịch... đối với mọi tầng lớp nhân dân, nhất là nông dân.


Về tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp: Gia Long ra lệnh tịch thu toàn bộ ruộng đất của những người theo Tây Sơn, kể cả số ruộng đất trước đây triều Tây Sơn đã chia cho dân nghèo và cấp lại cho chủ cũ. Đây chính là hành động tước đoạt thành quả đấu tranh của nông dân và chỉ đem lại hiệu quả phục hồi, củng cố chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, chỗ dựa chủ yếu của triều Nguyễn. Vì thế, triều Nguyễn ra sức củng cố chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước, dưới hình thức ruộng đất công của làng xã và chế độ quân điền.


Năm 1804, triều Nguyễn ban hành chế độ quân điền, trong đó quy định thời hạn chia ruộng đất, rút xuống 3 năm và đối tượng được chia ruộng đất ưu đãi quan lại và quân đội. Theo điều lệ quân điền, quan trên nhất phẩm được chia 118 phần, đến cửu phẩm được chia 8 phần, quân lính được chia từ 7 đến 9 phần và dân thường được chia từ 3 đến 6 phần. Nhà Nguyễn còn ban hành ruộng khẩu phần của làng xã, thay thế chế độ lộc điền trước đây. Đối với quân đội, ngoài ruộng khẩu phần còn được cấp lương điền từ 7 sào đến 1 mẫu.


Dưới triều Nguyễn, tình trạng địa chủ, cường hào chiếm đoạt ruộng đất ngày càng phổ biến. Nông dân là nạn nhân bị cướp đoạt ruộng đất nhiều nhất. Ngoài ra, ruộng đất công của làng xã cũng bị xâm lấn. Người nông dân chỉ còn lại một số ít ruộng đất kém màu mỡ, năng suất canh tác thấp. Trước tình hình đó, triều Nguyễn có lúc phải đề ra một số biện pháp, nhằm hạn chế tình trạng địa chủ, cường hào chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, nhưng rốt cuộc đều không hiệu quả.


Về chính sách tô thuế, triều Nguyễn chia cả nước ra những khu vực đánh thuế khác nhau và duy trì sự khác biệt giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Mặc dù thuế ruộng tư gần như nhau, nhưng tô thuế ruộng đất công các địa phương thuộc Đàng Ngoài cũ phải nộp nhiều hơn Đàng Trong cũ khoảng 2 lần. Những người có ruộng tư chủ yếu là giai cấp địa chủ, cường hào được hưởng chế độ thuế tương đối thống nhất, còn người cày ruộng đất công phải nộp mức độ khác nhau.


Triều Nguyễn duy trì chế độ lao dịch, bóc lột sức lao động của nhân dân rất nặng nề. Hằng năm, người dân phải đi lao dịch bắt buộc 60 ngày không công, những lúc cần thiết mức huy động số ngày lao dịch tăng gấp đôi. Để tăng cường bảo vệ và liên lạc giữa các khu vực trọng yếu, triều Nguyễn chủ trương xây dựng thành lũy ở các tỉnh và mở rộng hệ thống đường sá giao thông thủy, bộ giữa các địa phương. Đồng thời, huy động lực lượng xây dựng cung điện, lăng tẩm của vua và dinh thự cho quan lại.


Nửa đầu thế kỷ XIX, kinh tế nông nghiệp nước ta không phát triển và ngày càng sa sút, do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu nhất là do giai cấp địa chủ chiếm đoạt ruộng đất của nông dân ngày càng tăng và chính sách bóc lột của triều Nguyễn đối với nhân dân rất nặng nề. Mặt khác, nhà Nguyễn không chú ý đến việc bảo vệ đê điều và xây dựng các công trình thủy lợi, trong khi nạn lũ lụt, hạn hán liên tiếp xảy ra, gây hậu quả nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Riêng đê sông Hồng, đoạn ở huyện Khoái Châu (Hưng Yên), dưới triều Tự Đức bị vỡ 10 năm liền. Cả một vùng đồng ruộng rộng lớn, cư dân trù mật biến thành bãi lầy hoang vu... Ruộng đồng bỏ hoang, nhân dân phiêu bạt, xóm làng hoang vắng diễn ra ở nhiều vùng nông thôn kể cả phía Bắc và phía Nam.


Trước tình hình đó, triều Nguyễn đề ra chính sách khẩn hoang với nhiều hình thức, trong đó đáng lưu ý là đồn điền và doanh điền. Chính sách khẩn hoang được thực hiện từ triều Gia Long và được đẩy mạnh dưới triều Minh Mạng. Nhà nước chiêu mộ nhiều dân nghèo và sử dụng một số tội phạm tổ chức thành những đội, đến các đồn điền để khai hoang, sản xuất, từng bước ổn định đời sấng. Sau khoảng 6-10 năm xây dựng, hình thức đồn điền được xóa bỏ, cư dân được lập thành thôn ấp trực thuộc khu vực hành chính ở địa phương đó.


Cùng với việc xây dựng đồn điền, triều Nguyễn thực hiện chế độ doanh điền. Đây là hình thức khẩn hoang theo lối di dân lập ấp, tạo điều kiện cho nhân dân có nơi cư trú, làm ăn để ổn định đời sống. Người đề ra và thực hiện hiệu quả chính sách này là Nguyễn Công Trứ. Với cương vị là doanh điền sứ, trong hai năm 1828 và 1829, Nguyễn Công Trứ đã chiêu mộ dân nghèo đến khai hoang vùng đất ven biển rộng lớn được 40.990 mẫu, lập thành hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) và hai tổng Hoành Thu, Ninh Nhất (Nam Hà) với 4.190 người. Những kinh nghiệm về khai hoang hiệu quả theo hình thức doanh điền của Nguyễn Công Trứ được triều Nguyễn vận dụng ở nhiều nơi, trong đó tập trung nhất là ở Nam Kỳ.


Nhờ sức lao động cần cù của nông dân và những cố gắng của chính quyền nhà Nguyễn, chính sách khẩn hoang theo hình thức đồn điền và doanh điền đã đạt được một số kết quả qụan trọng, góp phần giải quyết cho một bộ phận nông dân có nơi cư trú để xây dựng cuộc sống. Tuy nhiên, những kết quả này, cùng với một số thành tựu khác đạt được, vẫn chưa thể làm chuyển biến căn bản nền kinh tế của đất nước.


Đối với nền kinh tế hàng hóa và các nghề thủ công có bước phát triển nhất định. Thế nhưng, một số chính sách triều Nguyễn đề ra đã gây khó khăn và cản trở việc phát triển, lưu thông, mở rộng thị trường hàng hóa trong nước, và cả với một số nước trong khu vực và trên thế giới.


Về thủ công nghiệp, triều Nguyễn duy trì thuế rất nặng đối với nhiều sản phẩm của các nghề thủ công. Triều Nguyễn thường tập trung thợ lành nghề vào sản xuất trong các xưởng thủ công, do nhà nước quản lý. Ngoài ra, những quy định khắt khe của triều Nguyễn về trang phục, đồ dùng, nhà ở1 (Triều Nguyễn nghiêm cấm dân thường không được làm nhà kiểu chữ "công”, chữ "môn", không được chọn hình long, ly, quy, phượng; không được mang những đồ gấm vóc, không dùng các màu vàng, tía; không được dùng các loại gỗ quý...) để phân biệt các đẳng cấp trong xã hội, cũng là yếu tố gây hạn chế sự phát triển của các nghể thủ công, nhất là một số nghề thủ công truyền thống ở các địa phương.


Nghề khai mỏ tiếp tục phát triển, nhưng chủ yếu là ở miền núi. Nhằm thâu tóm nguồn lợi ngành khai mở trong tổng số 139 mỏ, triều Nguyễn giành quyền khai thác những mỏ kim loại quý, trữ lượng lớn. Nhà nước thường huy động hàng trăm, thậm chí hàng nghìn nhân công gồm binh lính và dân phu tham gia khai thác; đồng thời nắm độc quyền mua bán các kim loại quý như vàng, bạc, chì, thiếc... với giá thu mua quá thấp so với giá thị trường. Vì thế, có lúc một số mỏ do tư nhân khai thác phải đóng cửa, ảnh hướng đến sản lượng nghề khai mỏ của cả nước.


Trước yêu cầu mở rộng lưu thông hàng hóa trong nước, nhất là về hành chính và quân sự, triều Nguyễn nâng cấp và xây dựng hệ thống đường giao thông thủy, bộ từ Huế đi tới các tỉnh trong cả nước. Thế nhưng, chính một số chính sách của triều Nguyễn thực thi đã cản trở việc mở rộng thị trường trong nước, kìm hãm sự phát triển của kinh tế hàng hóa; trong đó điển hình nhất là chế độ thu thuế gây ra rất nhiều phiền nhiễu. Chẳng hạn, gạo vận chuyển trên đường từ Nam Định vào Nghệ An phải 9 lần nộp thuế. Có lúc, triều Nguyễn sợ dân tụ họp đông nổi dậy, cũng ra lệnh cấm họp chợ. Nhiều thành thị và thương cảng không còn là những nơi đông đúc, buôn bán hàng hóa, nên thương mại không phát triển1 (Theo báo cáo của Bộ Hộ, năm 1838, tổng số thuế quan thu được là 851.323 quan, đến năm 1852 còn 387.243 quan (giảm 54% so với năm 1838)).


Về quan hệ buôn bán với nước ngoài, hầu như các nước phương Tây đến đặt quan hệ thương mại, đều bị triều Nguyễn khước từ, nhưng lại tổ chức một số thuyền buôn sang các nước Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Inđônêxỉa... mua các hàng hóa xa xỉ và một số vũ khí phục vụ đời sống sa hoa của đội ngũ quan lại triều đình Huế, không có tác dụng phát triển kinh tế hàng hóa của đất nước.


Nhìn chung, kinh tế thời Nguyễn đã đạt "một số thành tựu khai hoang, thủy lợi phát triển nông nghiệp..., nhất là vùng đồng bằng Nam Bộ và vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ. Hệ thống giao thông thủy, bộ phát triển mạnh, nhất là hệ thống kênh đào ở Nam Độ và hệ thống đường dịch trạm, nối liền Kinh đô Huế với các trấn, tỉnh trong cả nước"1 (Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội Sử học Việt Nam: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Tlđd, tr. 19-20). Các nghề thủ công nghiệp, khai mỏ, kinh tế hàng hóa, ngoại thương có một số mặt được khôi phục, phát triển. Tuy nhiên, vể thực chất, dưới triều Nguyễn nền kinh tế nước ta thuộc loại nghèo nàn, kém phát triển. Triều Nguyễn chỉ lo khôi phục quyền lợi dòng họ, tăng cường áp bức, bóc lột nhân dân bằng các chế độ thu tô thuế, lao dịch, binh dịch, đời sống của các tầng lớp nhân dân rất khổ cực, tiềm lực kinh tế đất nước không phát triển được. Vì thế, lượng dự trữ hậu cần quốc gia hạn chế, không đủ sức bảo đảm cho quân đội, nhất là nguồn dự trữ để đương đầu trước cuộc tiến công xâm lược từ bên ngoài.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #91 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 10:08:43 am »

c) Phát triển văn hóa, giáo dục

Nhằm phát triển văn hóa, triều Nguyễn chú trọng đến việc học hành và thi cử. Hệ thống trường học được thiết lập trong cả nước. Năm 1820, vua Gia Long đặt trường Quốc Tử Giám ở Huế, trường học lớn nhất để tuyển chọn con cháu quan lại và những người giỏi ở các địa phương, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Tập Thiện Đường là nơi dành cho hoàng tử, Tôn Học Đường (lập dưới thời Tự Đức) là nơi các hoàng thân và con cháu dòng họ Nguyễn theo học. Ở các tỉnh đặt quan đốc học phụ trách việc học, còn mỗi phủ đặt một quan giáo thụ, mỗi huyện đặt một quan huấn đạo. Đốc học, giáo thụ, huấn đạo được tuyển chọn từ các cựu thần, cùng những người từng thi đỗ trong các kỳ thi hương, thi hội và tiến sĩ triều Nguyễn.


Cùng tồn tại với hệ thống trường của nhà nước, còn có một số lớp học tư mở ở các làng, xã, do những hưu quan, những người đỗ đạt, nhưng không ra làm quan, đảm nhiệm dạy học.

Chế độ thi cử dưới triều Nguyễn tổ chức gồm có: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Năm Đinh Mão (1807), vua Gia Long mở kỳ thi Hương đầu tiên. Đến năm Nhâm Ngọ (1822), vua Minh Mạng mở kỳ thi Hội, thi Đình đầu tiên. Thời kỳ đầu, triều Nguyễn dùng chữ Nôm, đến thời vua Minh Mạng, việc học tập, thi cử và trong văn thư hành chính đều dùng chữ Nho. Tuy nhiên, nội dung đào tạo và hình thức thi cử không có cải cách gì nhiều so với các triều đại trước đó. Ngoài những trường do nhà nước mở, bất kỳ người nào có học lực khá, cũng có thể mở trường tư dạy học, hoặc dạy tại nhà thầy. Nhờ vậy, việc học hành được mở rộng, góp phần phát triển nền giáo dục của đất nước.


Đồng thời với trường dạy văn, triều Nguyễn còn mở một số trường dạy võ. Nội dung học gồm: tập xách nặng, nhảy, côn, đao, quyền, khiên, tập bắn và cả cách xem ngày giờ về thiên văn. Cũng như bên văn, thi võ được tổ chức theo hai bậc gồm: thi Hương và thi Hội. Khi bàn đến việc đặt khoa thi võ và dựng bia võ công, năm Bính Thân (1836), vua Minh Mạng ra dụ "Điều cốt yếu trong việc trị nước là phải làm cả văn, lẫn võ". Đến năm Đinh Dậu (1837), vua Minh Mạng ra lệnh mở kỳ thi Hương và thi Hội về võ, định lệ mở kỳ thi Hương võ vào các năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi và thi Hội võ vào các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu.


Dưới triều Nguyễn, chế độ học hành và thi cử được tổ chức khá quy củ, chặt chẽ theo một hệ thống, từ trung ương đến các địa phương trong cả nước, nhưng về nội dung không có gì mới so với các thời trước. Vì thế, nền giáo dục khoa cử dưới triều Nguyễn không đạt được thành tựu như các triều đại trước. Nhân tài thực sự cống hiến cho đất nước, trong đó cả nhân tài về tư tưởng quân sự là rất hạn chế. Đội ngũ quan lại, trong đó quan võ dưới triều Nguyễn, từ trung ương xuống địa phương không đáp ứng được yêu cầu xây dựng quân đội mạnh, chỉ huy tài giỏi để đối phó với các thế lực thù địch trong nước và thủ đoạn phá hoại của các nước tư bản phương Tây, nhất là Pháp đang âm mưu xâm lược khi có thời cơ.


Để củng cố địa vị thống trị, triều Nguyễn tuyên truyền tư tưởng Nho giáo, dưới danh nghĩa khôi phục “thuần phong mỹ tục”. Hằng năm, vào dịp đầu xuân, hay dịp thượng thọ, các vua triều Nguyễn đều ban ân chiếu, huấn dụ nhân dân cả nước giữ gìn “thuần phong mỹ tục”. Đặc biệt, Minh Mạng soạn Mười điều huấn dụ1 ("Mười điều huấn dụ" gồm: 1-Đôn nhân luân (trọng tam cương ngũ thường); 2-Chính tâm thuật (giữ cho bụng dạ ngay thẳng); 3-Vụ bản nghiệp (chăm lo nghề nghiệp của mình); 4-Thượng tiết kiệm (chuộng giữ tiết kiệm); 5-Hậu phong tục (giữ phong tục cho thuần); 6-Huấn tử đệ (phải dạy bảo con em); 7-Sùng chính học (tôn học đạo chính); 8-Giới dâm thắc (răn tránh những sự gian tà, dâm dục); 9-Thận pháp thủ (cẩn thận giữ pháp luật); 10-Quang thiện thành (phải làm lành cho nhiều và rộng)), đồng thời cử đình thần soạn bộ Khâm định nhân sự kim giám, nhằm dạy dân chăm giữ "luân thường đạo lý” của dân tộc. Tiếp đó, vua Tự Đức diễn “Mười điều huấn dụ” đó ra âm văn Nôm, gọi là “Thập điều diễn ca” để truyền bá rộng rãi tư tưởng Nho giáo trong nhân dân. Mặt khác, triều Nguyễn đặt lệ thưởng, biểu dương các địa phương thực hiện đúng những điều răn dạy của triều đình. Vua Minh Mạng ban biểu “Nghĩa dân” cho 37 xã, thôn ở tỉnh Cao Bằng không theo Nông Văn Vân khởi nghĩa chống triều đình. Vua Tự Đức ban sắc "Thiên tục khả phong'’ cho hai làng An Nghiệp, Mậu Tài ở Phúc Yên, bởi trong làng “yên ấm, phong tục thuần hậu”.


Triều Nguyễn chú trọng đến việc sưu tầm, biên soạn một số tác phẩm lịch sử, địa lý. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long sai quan các địa phương sưu tầm dã sử về triều Lê và triều Tây Sơn để sửa lại quốc sử. Đến thời Minh Mạng, đặt Quốc sử quán, cử các quan văn nhất, nhị phẩm làm tổng tài, phó tổng tài và một số quan khác sưu tầm, tổng hợp các chuyện làm quốc sử. Những tác phẩm lớn của Quốc sử quán biên soạn về lịch sử dân tộc, cũng như lịch sử triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục (52 quyển) ghi lại lịch sử dân tộc, từ thời Hồng Bàng đến triều Tây Sơn; Đại Nam thực lục chính biên (453 quyển) ghi lịch sử triều Nguyễn từ vua Gia Long đến vua Tự Đức; Đại Nam liệt truyện chép về chuyện cá nhân các nhân yật lịch sử từ thời chúa Nguyễn đến thời các vua triều Ngụyễn... Ngoài ra, các nhà sử học đương thời còn nghiên cứu, biên soạn nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu là Phan Huy Chú có Lịch triều hiến chương loại chí (49 quyển)... và một số công trình nghiên cứu giá trị khác.


Về địa lý, năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long cử binh bộ thượng thư Lê Quang Định thống kê về sông, suối, núi, đường sá, cầu, chợ, phong tục, thổ sản khắp các trấn, các doanh từ Lạng Sơn đến Hà Tiên thành sách Nhất thống dư địa chí, đến năm Bính Dần (1806) thì soạn xong, gồm 10 quyển. Năm Tân Mão (1811), vua Gia Long cử tham tri bộ công Nguyễn Đức Huyền và tả tham tri Đoàn Viết Nguyên soạn Duyên hải lục (hai quyển), ghi chép tất cả 4 doanh, 15 trấn ven biển, từ Móng Cái đến Hà Tiên và 143 cửa biển. Bên cạnh những tác phẩm nghiên cứu của cả nước như Phương Đình dư đia chí của Nguyễn Văn Siêu, Hoàng Việt dư địa chí của Phan Huy Chú... còn có các tác phẩm nghiên cứu có giá trị về từng địa phương (địa phương chí) như Nghệ An kỷ của Bùi Dương Lịch, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức... Triều Nguyễn ban thưởng cho một số tác giả đã soạn ra những tác phẩm có giá trị như: Phan Huy Chú với bộ Lịch triều hiến chương loại chí, Trịnh Hoài Đức với Gia Định thành thống chí, Minh bột di hoàn văn thảo..., đánh dấu bước phát triển về lĩnh vực lịch sử, địa lý.


Nền văn học dân tộc dưới triều Nguyễn cũng có bước phát triển quan trọng. Những tác phẩm bằng tiếng Nôm xuất hiện, tiêu biểu là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngoài ra còn có nhiều tác giả nổi tiếng như: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... Sự phát triển của thơ văn Nôm, cùng thơ văn Hán với những tác phẩm thơ và văn học thời Nguyễn đánh dấu bước phát triển của nền văn học dân tộc. Nhìn chung, văn hóa thời Nguyễn là sự tiếp tục nền văn hóa Việt Nam và có đóng góp đáng kể làm phong phú, đa dạng nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, do hạn chế về điều kiện lịch sử và giai cấp, nền văn học thời Nguyễn chưa thể hiện rõ được sự vươn lên mạnh mẽ của con người, tinh thần dân tộc, trong đó có tư tưởng quân sự.


Như vậy, "trong hoàn cảnh mới rộng dài về cương vực lãnh thổ, những tập đoàn phong kiến cát cứ không còn, mâu thuẫn nội bộ vương triều đã được hòa giải, nền độc lập được bảo toàn, vương triều Nguyễn bước vào củng cố nền độc lập thống nhất... Nhà Nguyễn từ thời vua Gia Long trở đi đã chú trọng ở cả Nam lẫn Bắc, ở tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội"1 (Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội Sử học Việt Nam: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Tlđd, tr. 53). Triều Nguyễn đã có những tư tưởng tiến bộ trong việc củng cố chế độ chính trị, xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội, góp phần củng cố, đảm bảo quốc gia thống nhất. Song nhìn chung, những quan điểm, tư tưởng của triều Nguyễn không đáp ứng yêu cầu của xã hội, kìm hãm đất nước phát triển. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp trong xã hội, trong đó chủ yếu là giữa nông dân với tập đoàn phong kiến thống trị họ Nguyễn ngày càng sâu sắc, dẫn đến phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân diễn ra liên tục, quyết liệt. Thế nhưng, “cũng như nông dân thời Tây Sơn, xã hội Việt Nam chưa có một giai cấp mới ra đời, do đó, các phong trào nông dân không đủ điều kiện để xóa bỏ chế độ phong kiến”1 (Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, t.II, tr. 27).


Trong bối cảnh chung tình hình thời Nguyễn thể hiện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội như trên, thì tư tưởng quân sự cũng chịu ảnh hưởng nhất định, không thể vượt qua được khuôn khổ của chế độ phong kiến để có được tư tưởng quân sự tiến bộ như mong muốn. Song việc hình thành và tồn tại tư tưởng quân sự thời Nguyễn, cũng có một số mặt tác dụng nhất định đối với việc củng cố, xây dựng tiềm lực quân sự, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam thống nhất trong nửa đầu thế kỷ XIX.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #92 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 10:13:28 am »

II- TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ

1. Về độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biên giới trên bộ và biển, đảo của Tổ quốc

- Quan tâm vấn đề độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên bộ

Nhân cơ hội vua Quang Trung - Nguyễn Huệ đột ngột băng hà, nội bộ triều đình Tây Sơn bất hòa, tập đoàn phong kiến Nguyễn Ánh được giai cấp địa chủ trong nước ủng hộ; tư bản Pháp giúp sức đã phản kích lật đổ triều Tây Sơn, lập ra triều Nguyễn, mở đầu thời kỳ đất nước thống nhất, non sông liền một dải.


"Nước Việt Nam, quốc hiệu đặt năm 1804 và Đại Nam năm 1838, là một quốc gia thống nhất trên lãnh thổ rộng lớn gần như tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện nay, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ. Trên lãnh thổ thống nhất đó, triều Nguyễn đã xây dựng một cơ chế quân chủ tập quyền mạnh mẽ với một bộ máy hành chính và một thiết chế vận hành quy củ, chặt chẽ"1 (Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội Sử học Việt Nam: Chúa Nguyên và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, kỷ yếu Hội thảo Thanh Hóa ngày 18 và 19-10-2008, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008, tr. 19), nhất là sau cải cách hành chính của vua Minh Mạng năm 1831-1832. Các công trình nghiên cứu gần đây đều đánh giá cao công lao thống nhất đất nước của triều Nguyễn và hệ thống tổ chức chính quyền với quy chế hoạt động có hiệu lực.


Kế thừa truyền thống của dân tộc về tư tưởng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, triều Nguyễn được thiết lập có điểm khác biệt so với các vương triều tiến bộ trong lịch sử dân tộc. Các vương triều đó đều được hình thành trên cơ sở thắng lợi của một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hoặc sau khi thiết lập, đã cơ bản hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, củng cố quốc gia thống nhất. Còn triều Nguyễn giành thắng lợi bằng một cuộc chiến tranh nhờ dựa vào giai cấp địa chủ trong nước và phần nào nhờ sự giúp sức của tư bản phương Tây. Song sự kiện triều Nguyễn kế tiếp triều Tây Sơn củng cố độc lập dân tộc, thống nhất quốc gia là mốc son lịch sử.


Tình hình trong nước và khu vực, cũng như quốc tế hồi đó đặt đất nước ta và chính quyền nhà Nguyễn trước những khó khăn, thách thức lớn. Độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ quốc gia thống nhất vẫn luôn bị đe dọa từ bên ngoài. Trên cơ sở nền tảng quốc gia thống nhất đã được xây dựng từ triều Tây Sơn và những triều đại trước đó, triều Nguyễn tiếp tục công cuộc xây dựng đất nước, trước hết là quan tâm đến vấn đề củng cố độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia thống nhất.


Dưới các vua triều Nguyễn, vấn đề độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền thống nhất quốc gia được quan tâm, gắn với tình hình đất nước trong từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử của mỗi triều vua nắm quyền. Mặc dù còn có những hạn chế, song với một số quan điểm, chủ trương và các chính sách, trong đó liên quan đến quân sự, quốc phòng được ban hành đã giúp triều Nguyễn tăng cường sức mạnh quân sự, quốc phòng để bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ quốc gia thống nhất của Việt Nam, góp phần vào sự tồn tại và phát triển của đất nước. Vì thế, xác định rõ tư tưởng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thể biên giới trên bộ và chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, cũng là một trong những điểm cần lưu ý khi nghiên cứu về tư tưởng quân sự thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX.


Cũng như các triều đại trước đây, triều Nguyễn nhận thức biên giới trên bộ, nhất là phía Bắc và phía Nam là “phên dậu”, “cổ họng”, là nơi “quan yếu” của đất nước và coi bảo vệ biên giới là nhiệm vụ hàng đầu, mang tính sống còn của đất nước. Trong xây dựng và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, triều Nguyễn hết sức coi trọng chiến lược giữ dân, nắm dân để giữ đất; đồng thời tranh thủ các tù trưởng thiểu số và cử quan lại lên nắm quyền ở một số nơi trọng yếu, nhằm mở rộng ảnh hưởng và quản lý của triều đình đối với các dân tộc thiểu số ở vùng biên giới.


Ngay từ nhũng năm đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn đã có một số chủ trương, biện pháp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia thống nhất. Trước hết là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên bộ. Đối với vùng biên giới phía Bắc, triều Nguyễn hết sức coi trọng vấn đề tiếp tục củng cố sự ổn định tình hình giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc, như những năm trước đây. Ngay sau khi lên ngôi vua, Gia Long cử một đoàn sứ thần gồm Trịnh Hoài Đức làm chánh sứ, Ngô Nhân Tịnh và Hoàng Ngọc Uẩn làm phó sứ sang nhà Thanh. Đây là đoàn sứ thần đầu tiên của triều Nguyễn sang, mở đầu mối bang giao hai nước đầu thế kỷ XIX, trong đó nhằm mục đích duy trì sự ổn định quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc.


Nhằm củng cố ảnh hưởng của triều đình đối với các dân tộc thiểu số trên các vùng biên giới, tháng 8 năm Kỷ Sửu (1829), vua Minh Mạng ra lệnh bãi bỏ quyền thế tập của tù trưởng ở các châu, huyện thuộc Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng và thay thế bằng các chức thổ tri châu, thổ tri huyện và thổ lại mục. Năm Bính Thân (1836), triều Nguyễn lệnh đặt tri phủ ở hai phủ Yên Ninh và Yên Bình thuộc Tuyên Quang. Phủ Yên Ninh kiêm lý huyện Vĩnh Điện và quản lý ba huyện, châu Chiêm Hóa, Vị Xuyên, Để Định. Phủ Yên Bình kiêm lý Thu Châu, thống nhiếp ba châu Hàm Yên, Lục Yên và Vĩnh Tuy.


Để tăng cường lực lượng, vua Minh Mạng ra chỉ dụ cho Tuyên Quang tuyển binh lính; đổi đồn Bắc Kạn thuộc Tuyên Quang làm đồn Tuyên Tĩnh ở xã An Lăng, huyện Để Định. Nhân dân hai huyện Để Định và Vĩnh Điện, cứ 10 đinh đến tuổi trưởng thành (18 tuổi) lấy một; từ Đường Âm đến An Quang 13 xã, có số đinh hơn 260 người, được tuyển 26 người. số giản binh của châu, huyện thuộc hạt trước là 169 người, dồn làm 3 đội Tuyên Quang nhất, nhị, tam, mỗi đội 50 người; số còn lại 19 người hợp với 26 người mới tuyển thành đội tứ. Tháng 9-1844, triều Nguyễn lệnh cho quan tỉnh Cao Bằng tuyển thêm binh lính người địa phương. Số lính tuyển lần này cùng với số lính thừa ra ở cơ Cao Hùng được lập thành cơ Cao Dũng. Như vậy, Cao Bằng có hai cơ Cao Hùng và Cao Dũng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #93 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 10:14:42 am »

Nhằm đáp ứng với nhiệm vụ bảo vệ biên giới ở mỗi địa phương, tháng 6 năm Quý Sửu (1853), triều Nguyễn cho dời bảo Bắc Nam đến xã Hoàng Mông (Quảng Yên) và đặt thêm ba bảo An Lương, Bình Liêu, Kiên Bản (nơi quân phiến loạn nhà Thanh hay đi qua). Mỗi bảo do 50 binh lính địa phương đóng giữ. Cùng thời gian này, vua Tự Đức chuẩn y cho án sát sứ Tuyên Quang là Bùi Duy Kỳ, lập đội hương binh gồm người Dao, Mông để canh phòng vùng biên giới của đất nước; đồng thời lệnh lập các chòi canh gác ở hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, giáp giới với nước Trung Quốc và cấp khí giới cho dân ở các làng xã vùng biên giới, sẵn sàng đối phó với giặc cướp phá từ bên kia tràn sang.


Để tăng cường khả năng phòng giữ vùng biên giới, triều Nguyễn rất chú ý đến việc trang bị vũ khí cho quân lính đóng giữ ở các địa phương trọng yếu biên giới. Năm Nhâm Thìn (1832), vua Minh Mạng ra lệnh tổ chức chế tạo vũ khí và cờ trạm cấp cho các trạm ở Quảng Yên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, mỗi trạm được cấp 10 giáo dài, 5 dao nhọn dài chuôi, một cờ vải vàng dài và rộng 2 thước, viết tên trạm bằng chữ to. Tiếp đó, tháng 8 năm Quý Tỵ (1833), vua Minh Mạng truyền lệnh, chia đặt súng lớn ở các tỉnh Lạng Sơn, Tuyên Quang, mỗi tỉnh đều hai súng đại luân xa bằng đồng, 4 súng tích sơn bằng đồng, 16 súng hồng y bằng gang, tất cả là 22 cỗ súng.


Riêng đối với Hưng Hóa có hai súng đại luân xa thảo nghịch tướng quân bằng đồng; còn các súng khác tương tự có như các tỉnh trên. Các tỉnh Quảng Yên, Cao Bằng, mỗi tỉnh đều hai súng đại luân xa bằng đồng, 4 súng tích sơn bằng đồng, 12 súng hồng y bằng gang, với tổng số 30 khẩu súng. Tiếp đó, tháng 7 năm Giáp Ngọ (1834), triều Nguyễn tổ chức cấp phát súng Thần cơ cho đạo quân thứ Tạ Quang Cự ở Cao Bằng 20 khẩu, mỗi khẩu có 100 phát thuốc đạn.


Đồng thời, điều động hơn 300 binh lính cơ Hậu Kiên thuộc tả quân tỉnh Hải Dương lên trấn giữ ở Cao Bằng.


Những chủ trương, biện pháp và quá trình tổ chức, bố trí lực lượng, bổ sung vũ khí trang bị, xây dựng thế trận phòng thủ ở vùng biên giới phía Bắc chưa được nhiều, song với những cố gắng mức độ khác nhau dưới các vua triều Nguyễn, cũng đã góp phần tạo lực, tạo thế giữ vững sự ổn định chủ quyền lãnh thổ quốc gia thống nhất trong nửa đầu thế kỷ XIX.


Trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia, triều Nguyễn luôn giữ mối quan hệ hòa hiếu, khiêm nhường. Mặc dù nhiều lúc tỏ ra thuần thục nhà Thanh, nhưng các vua triều Nguyễn cũng có lúc tranh biện, kiên quyết giữ đất, giữ dân “không để họ lấn dần... một thước núi, một tấc sông”1 (Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, t.XI, tr. 85) nơi biên giới. Khi biên cương lãnh thổ của đất nước bị kẻ thù bên ngoài xâm nhập, quấy phá, cướp bóc, gây mất ổn định tình hình, triều Nguyễn lệnh cho các địa phương biên giới kiên quyết đánh trả “phải giữ đất, yên dân, đánh chặn giặc ngoài” để “bảo toàn lãnh thổ, yên ủy nhân dân”. Những sự kiện lịch sử tiêu biểu sau đây sẽ góp phần làm sáng tỏ về quan điểm tư tưởng đó của triều Nguyễn và nhân dân ta hồi đó.


Tháng 8 năm Mậu Tý (1828), phủ Khai Quảng, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) cho quân vượt biên giới sang vùng Tuyên Quang tìm bắt Tiệu Ứng Lũng (cầm đầu bọn thổ phỉ chuyên cướp phá vùng Vân Nam), nhưng không hiệu quả phải quay về Trung Quốc. Vua Minh Mạng viết thư gửi nước Thanh thông báo: “Về sau có người nước Thanh trốn sang thì nên báo cho quan biên giới bắt hộ giải sang, không được tự ý vượt qua biên giới sang Việt Nam”1 (Việt Nam - Những sự kiện quân sự thế kỷ XIX, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr. 61). Điều này thể hiện rõ quan điểm của triều Nguyễn về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia. Tháng 7 năm Tân Mão (1831), nhà Thanh huy động hơn 600 quân vượt biên giới đến đóng giữ đồn Phong Thu (tức Phong Thổ) thuộc trấn Hưng Hóa, đòi quân nhà Nguyễn phải rút lui. Vua Minh Mạng ra lệnh điều động hơn 1.000 quân và 10 thớt voi chiến, do Đặng Văn Thiêm chỉ huy, đến trấn Hưng Hóa. Trước khí thế và áp lực mạnh mẽ của quân Nguyễn, quân Thanh thấy không có lợi phải rút lui về nước. Triều Nguyễn sai các tù trưởng địa phương, chỉ huy binh lính quản lý hai đồn Phong Thu và Bình Lư.


Tháng 7 năm Bính Thân (1836), người nước Thanh bí mật vượt vùng biên giới phía Bắc sang tranh chấp đất đai và cướp phá của cải của nhân dân ta ở vùng Hưng Hóa. Triều Nguyễn ra lệnh cho quan châu tổ chức lực lượng canh phòng và đánh đuổi người nước Thanh ra khỏi lãnh thổ của ta. Tiếp đó, tháng 10 năm Bính Thân (1836), quan quân Hưng Hóa đánh bại hơn 300 quân phiến loạn nước Thanh tràn sang xâm lấn vùng Sơn Yên, châu Thủy Vỹ, giữ vững chủ quyền biên cương vùng Tây Bắc của Tổ quốc.


Tháng 9 năm Kỷ Dậu (1849), quân phiến loạn nước Thanh, gồm hơn 2.000 tên tràn sang quấy phá châu Khâm ở Vạn Ninh và đóng đồn ở phố Bắc Luân, Na Lương thuộc xã Bắc Nhan. Vua Tự Đức ra lệnh điều động binh lính đến ngăn chặn kịp thời. Tháng 9 năm Tân Hợi (1851), hơn 3.000 quân nước Thanh (còn gọi là giặc Tam Đường) tràn sang nước ta, cướp phá các bản thuộc xã Hữu Sản thuộc huyện An Bác, tỉnh Lạng Sơn. Triều đình Huế lệnh cho quan tỉnh Lạng Sơn, tập trung lực lượng đánh đuổi quân Thanh về nước.


Nhân lúc đời sống nhân dân trên vùng biên giới phía Bắc gặp nhiều khó khăn, tháng chạp năm Nhâm Tý (tháng 12-1852), quân Thanh tràn sang các vùng Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Yên quấy phá. Trước tình hình đó, vua Tự Đức phải thường xuyên huy động lực lượng và lệnh cho các tỉnh vùng biên giới chấn chỉnh lực lượng trấn giữ các đồn lũy và đốc suất binh lính đánh đuổi quân Thanh về nước. Tiếp đó, quân phiến loạn nhà Thanh tràn vào châu Tiên Yên thuộc tỉnh Quảng Yên quấy phá. Phó quản vệ là Trần Tú tập hợp binh lính đón đánh ở xã Bình Liêu, quân Thanh yếu thế tháo chạy về nước. Tháng 4 năm Giáp Dần (1854), đội quân Hướng Nghĩa, do Lưu Sĩ Anh và thổ hào Đinh Công Hổ chỉ huy, đánh tan quân phiến loạn nhà Thanh, do Hoàng Quốc Trương cầm đầu ở biên giới Lạng Sơn. Sau đó, chúng lại tràn vào vùng Quảng Yên (Cao Bằng) cũng bị quan quân nhà Nguyễn đánh đuổi ra khỏi vùng biên giới phía Bắc.


Tháng 3 năm Bính Thìn (1856), quân phiến loạn nhà Thanh cướp phá các tổng Thông Nông, Quảng Trù (Cao Bằng), vua Tự Đức ra lệnh cho bách hộ Nông Kim Thạch, Nguyễn Sỹ Hinh, tập trung quân chặn đường, bắt đầu bảng Lý Mân đem xử lăng trì. Tháng giêng năm Đinh Tỵ (tháng 1-1857), phủ Thái Bình nước Thanh thông báo cho triều Nguyễn biết bọn phiến loạn Lâm Cửu Đại, Bình Sơn Lôi, chuẩn bị đem quân trốn sang nước ta. Được tin, triều Nguyễn huy động lực lượng và ra lệnh cho quan quân các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn tổ chức phòng giữ lãnh thổ thiêng liêng vùng biên giới phía Bắc của nước ta.


Những chủ trương, biện pháp chỉ đạo hoạt động quân sự trên đây và các hoạt động quân sự khác nửa đầu thế kỷ XIX chứng tỏ, triều Nguyễn quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia ở biên giới phía Bắc, góp phần giữ vững nền độc lập của đất nước Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #94 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 10:15:22 am »

Thư tịch Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX đã dùng từ Nam Chưởng, Vạn Tượng, Bá Sắc (nước Lào chia thành ba vương quốc nhỏ: Nam Chưởng, Vạn Tượng, Bá Sắc) để gọi tên các nước láng giềng phía Tây. Trong nửa đầu thế kỷ XIX, họ đã gây ra những vụ lấn chiếm đất đai của Việt Nam. Trước tình hình đó, tháng chạp năm Canh Ngọ (tháng 12-1810), vua Gia Long ra lệnh cho đô thống chế Lê Văn Phong, phó đô thống chế Nguyễn Văn Trí, chưởng cơ Nguyễn Văn Giám, dẫn quân đi tuần vùng biên giới phía Tây.


Tháng 5 năm Đinh Hợi (1827), xung đột vũ trang giữa Vạn Tượng (Lào) và Xiêm (Thái Lan). Vạn Tượng bị thua, A Nỗ thế cùng chạy ra Ba Động cầu cứu triều Nguyễn.


Vua Minh Mạng cho A Nỗ ở nhờ trên đất Nghệ An và điều động binh lính đến vùng Thanh Hóa, Nghệ An đóng giữ vùng biên giới. Tháng 2 năm Mậu Tý (1828), sau khi được tin Nam Chưởng đem binh, lương chứa ở biên giới vùng Hưng Hóa, vua Minh Mạng ra lệnh cho quan trấn thủ Nghệ An phái hai suất đội Thần Sách, dẫn 100 quân cùng những tù phạm thuộc tỉnh đến Trấn Ninh phòng bị. Tiếp đó, tháng 5 năm Mậu Tý (1828), triều Nguyễn điều động 3.000 quân và 20 thớt voi, do Phan Văn Thuý, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào chỉ huy, đến Trấn Ninh phòng giữ vùng biên giới phía tây; đồng thời bắt đầu đặt chức thổ tri huyện và huyện thừa ở 7 huyện (Quảng, Liêm, Xôi, Khâm, Khang, Cát, Mộc) thuộc phủ Trấn Ninh và chuyển giao cho tù trưởng các dân tộc thiểu số quản lý, điều hành việc giữ gìn trật tự, ổn định vùng biên giới.


Nhằm đối phó với sự xâm lấn của người nước ngoài từ phía tây, cuối năm Mậu Tý (1828), triều đình điều động 800 binh lính chia làm ba đạo và 5 thớt voi vào trấn giữ ở Tầm Bôn. Tháng 5 năm Ất Mùi (1835), quân Xiêm - Ai Lao ở vùng Bá Sắc thuộc Lào, do phong kiến Xiêm La không chế, gồm hơn 1.000 tên, tràn vào cướp phá nhân dân châu Ninh Biên thuộc tỉnh Hưng Hóa. Quan quân địa phương tổ chức lực lượng, đưa súng lớn đến bắn uy hiếp. Trong thế bị bao vây, uy hiếp nhiều phía, quân Xiêm - Lào hoảng sợ rút chạy về nước.


Tháng 11 năm Quý Mão (1843), người Lào Man (người thiểu số nước Lào) tràn xuống hạt Tầm Linh châu Hướng Hóa thuộc tỉnh Quảng Trí cướp phá của cải của nhân dân ta. Quan sở tại huy động binh lính đánh đuổi ra khỏi vùng biên giới, giữ vững an ninh, trật tự địa phương. Tháng chạp năm Giáp Thìn (tháng 12-1844), người thiểu số nước Nam Chưởng (Lào) lấn chiếm vùng đất xứ Trấn Biên thuộc tỉnh Nghệ An, giết tri huyện Man Soạn. Phó vệ úy Diệu Vũ và Nguyễn Văn Ứng chỉ huy 200 binh lính đến phủ Trấn Ninh vây đánh, quân Nam Chưởng bị thua rút chạy về bên kia biên giới.


Trước những hành động xâm lấn, cướp phá của một số vương quốc láng giềng phía tây Nam Chưởng, Vạn Tượng, Bá Sắc, triều Nguyễn một mặt dựa vào nhân dân các địa phương vùng biên giới tự ngăn chặn, bảo vệ địa phương mình; mặt khác cử một bộ phận quân triều đình đến hỗ trợ, giúp các địa phương ngăn chặn kịp thời, hạn chế thiệt hại do bọn giặc cướp phá gây ra. Những chủ trương, biện pháp đó thể hiện tư tưởng của triều Nguyễn về bảo vệ, giữ vững ổn định chủ quyền lãnh thổ quốc gia ở vùng biên giới phía Tây của Tổ quốc.


Đồng thời với việc chăm lo củng cố, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ bịên giới phía Bắc và phía Tây, triều Nguyễn cũng như các vương triều trước đó đều chú ý đến việc xây dựng lực lượng, tổ chức phòng thủ bảo vệ vùng biên giới phía Tây Nam. Tháng 9 năm Giáp Ngọ (1834), Trương Minh Giảng, tổng đốc An - Hà (An Giang, Hà Tiên) tuyển mộ 10 đội lính gọi là cơ Phủ Man, An Giang, ba đội gọi là cơ Bình Hải. Mười đội cơ Phủ Man chia đặt làm lính thuộc hạ, phân chia đóng giữ ở những nơi xung yếu thuộc các tỉnh An Giang, Hà Tiên và đồn An Man.


Tháng 3 năm Mậu Tuất (1838), hơn 1.000 quân Xiêm chia làm hai đạo: Một đạo xuất phát từ đồn Sa Đâu, một đạo từ đồn Viêng Chăn tiến vào xâm lược Trấn Tây đánh đồn Sơn Phủ, bị quân đội Nguyễn đánh chặn thiệt hại. Tại Hải Tây, quân Xiêm ở đồn Sa Đâu đang chuẩn bị tiến công thì bị quân nhà Nguyễn, do Nguyễn Tiến Phúc chỉ huy đánh chặn ở hai núi Cẩm Thạch và Đậu Khấu (giáp bắc Tầm Bôn). Tại Hải Đông, 2.000 quân Xiêm, từ Bò Gò Vật mưu tiến đánh đồn Chi Trinh, triều Nguyễn điều binh lính đến đóng giữ, sẵn sàng đánh ngăn chặn quân Xiêm.


Trước tình hình quân Xiêm gồm 500 quân tiến vào quấy phá địa hạt Trấn Tây, tháng giêng năm Tân Sửu (tháng 1-1841), vua Thiệu Trị ra lệnh cho tổng đốc An - Hà là Nguyễn Tri Phương, tuần phủ Doãn Uẩn, chỉ huy hai vệ lính Kinh đến đóng ở các tỉnh Gia Định, Định Tường và An Giang để phòng giữ các địa phương này. Tháng 7 năm Bính Ngọ (1846), Chất Tri chỉ huy 100 quân Xiêm đến Giang Thành, Xá Ong Giun, dẫn 1.500 quân đến Lò Viên đều thuộc Trấn Tây. Tiếp đó, Chất Tri lại lấy thêm binh lính dẫn 2.000 quân đến Hóa Di, Bát Ca, đóng 2 đồn ở Thuyết Một, mưu đánh đuổi quan quân bảo hộ nhà Nguyễn. Vua Thiệu Trị ra lệnh cho Lê Văn Đức, lãnh binh tỉnh An Giang và đề đốc Nguyễn Hoàng, chỉ huy binh lính thủy, bộ đến Tiền Giang, Hậu Giang tổ chức phòng giữ, sẵn sàng đánh chặn quân Xiêm xâm lược.


Có thể nói, trong nửa đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn đã có những chính sách, biện pháp củng cố các vùng biên giới phía Bắc, phía Tây và Tây Nam, tổ chức lực lượng đánh trả, ngăn chặn các hoạt động xâm lấn, quấy phá, cướp bóc, góp phần giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia trên bộ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #95 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 10:16:26 am »

- Đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Không chỉ tập trung chăm lo xây dựng, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vùng biên giới phía Bắc, phía Tây và phía Tây Nam của đất nước, triều Nguyễn còn đặc biệt rất chú ý đến việc bố trí lực lượng, ngăn chặn mọi hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vùng biển, đảo của Tổ quốc. Tháng 8 năm Quý Hợi (1803), triều Nguyễn cử cai cơ Võ Văn Phú ra làm nhiệm vụ trấn thủ cửa biển Sa Kỳ. Theo lệnh triều đình, Võ Văn Phú tuyển lính ngoại tịch lập đội Hoàng Sa ra vùng đảo Hoàng Sa bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo của Tổ quốc. Tiếp đó, triều Nguyễn ra lệnh chiêu mộ đội đóng thuyền đặt ở Gia Định. Trong năm 1804, xưởng đóng được 50 chiếc thuyền, góp phần phục vụ việc buôn bán và canh giữ vùng biển nước ta.


Tháng 8 năm Ất Sửu (1805), khoảng 50 chiến thuyền của quân Tề Ngôi (người Trung Quốc) đến vùng biển Cửa Lác (Nam Định) và Biện Sơn (Thanh Hóa) cướp phá. Được tin, quan Bắc Thành dẫn quân đi đánh và ra lệnh cho các trấn ven biển của ta tổ chức lực lượng canh phòng, giữ vững an ninh trật tự vùng ven biển của ta. Năm Canh Ngọ (1810), triều Nguyễn ra lệnh cho cai cơ Phạm Văn Tường, Nguyễn Văn Hạnh tổ chức một đội thủy quân, gồm 500 người và 20 chiến thuyền, do Nguyễn Văn Hạnh chỉ huy, đến đóng ở đồn Thủy Nông Giang thuộc Bắc Thành. Tháng 5 năm Giáp Tuất (1814), triều Nguyễn ra lệnh tuyển binh lính ở Gia Định nhằm tăng cường lực lượng phòng giữ vùng biển phía Nam.


Hoạt động đáng lưu ý của triều Nguyễn giai đoạn này là đã có những chủ trương, biện pháp tổ chức lực lượng thăm dò, trấn giữ đối với quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù tư liệu đề cập vấn đề này còn ít, nhưng qua ghi chép ở Dư địa chí trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821), Hoàng Việt dư địa chí (1833) có nhiều điểm tương đồng như trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII, đều cho biết những cố gắng của triều Nguyễn đối với Hoàng Sa. Đại Nam thực lục phần tiền biên, quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844), tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Việt Nam bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và Bắc Hải. Đây là hai đội dân binh khai thác, quản lý các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng phụ cận biển Đông thuộc chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.


Đội Hoàng Sa hoạt động từ chúa Nguyễn Phúc Lan, hay Nguyễn Phúc Tần, đến hết thời các chúa Nguyễn, cả thảy 7 đời chúa (gần một thế kỷ rưỡi)1 (Theo tài liệu nghiên cứu của Nguyễn Đắc Xuân, các chúa Nguyễn gồm: Chúa Tiên, tên thật là Nguyễn Hoàng (1558-1613), Chúa Sãi, tên thật là Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), Chúa Thượng, tên thật là Nguyễn Phước Lan (1635-1648), Chúa Hiền, tên thật là Nguyễn Phước Tần (1648-1687), Chúa Nghĩa, tên thật là Nguyễn Phước Thái (1687-1691), Quốc Chúa, tên thật là Nguyễn Phước Chu (1691-1725), Ninh Vương, tên thật là Nguyễn Phước Chú (1725-1738), Võ Vương, tên thật là Nguyễn Phước Khoát (1738-1765), Định Vương, tên thật là Nguyễn Phước Thuần (1765-1777). Khi phong trào Tây Sơn bùng nổ và lan rộng, chúa Nguyễn rút vào Gia Định, đội Hoàng Sa đặt dưới quyền kiểm soát của Tây Sơn. Năm 1786, dân Cù Lao Ré xin chính quyền Tây Sơn cho đội Hoạng Sa hoạt động trở lại. Những năm cuối triều Tây Sơn, hoạt động đội Hoàng Sa cũng bị ảnh hưởng, đến năm 1803, vua Gia Long mới cho đội Hoàng Sa hoạt động trở lại.


Đội Bắc Hải dưới sự quản lý của đội Hoàng Sa, hoạt động trong khu vực phía nam của biển Đông, tức quần đảo Trường Sa và vùng phụ cận. Phủ biên tạp lục, quyển 2 của Lê Quý Đôn ghi: “Họ Nguyễn còn thiết lập một đội Bắc Hải. Đội này không định trước bao nhiêu suất. Hoặc chọn người thôn Tứ Chính (ở gần bờ biển) thuộc phủ Bình Thuận, hoặc chọn người làng Cảnh Dương lấy những người tình nguyện bổ sung vào đội Bắc Hải. Ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi và chỉ thị sai phái đội ấy đi làm công tác. Những người được bổ sung vào đội Bắc Hải đều được miễn nạp tiền sưu cùng các thứ tiền lặt vặt như tiền đi qua đồn tuần, qua đò.


Những người trong độ đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo thuộc vùng Hà Tiên để tìm kiếm, lượm nhặt những hạng đồi mồi, hải ba, đồn ngư (cá heo lớn như con heo), lục quý ngư, hải sâm (con đỉa biển). Như vậy, về tổ chức, đội Bắc Hải không định trước bao nhiêu suất, số lượng tùy theo tình hình khả năng các thôn Tứ Chính thuộc phủ Bình Thuận, hay làng Cảnh Dương, tình nguyện và được cấp văn bằng và sai phái đi hoạt động. Quyền lợi cũng như đội khác được miễn sưu cùng các thứ tiền lặt vặt như tiền đi qua đồn tuần, qua đò. Không thấy miễn tiền thuế. Cũng dùng thuyền tư nhân, thuyền câu. Phạm vi hoạt động ở phía Nam, ở quần đảo Trường Sa ngày nay và cả Côn Lôn, Hà Tiên”1 (Dẫn theo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Tlđd, tr. 159).


Cùng với việc sử dụng đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải khai thác, quản lý biển Đông, triều Nguyễn sử dụng thủy quân đo đạc thủy triều, vẽ bản đồ, cắm cột mốc, bia chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 3 năm Ất Hợi (1815), triều Nguyễn điều động một đội thủy quân và đội Hoàng Sa, do Phạm Ánh làm Trưởng đoàn, ra vùng đảo Hoàng Sa, khảo sát hải sản và thăm dò đường biển thuộc vùng biển của nước ta. Tiếp đó, đội thủy quân ở vùng Kinh đô cùng đội Hoàng Sa, dẫn binh thuyền ra vùng quần đảo Hoàng Sa tiếp tục khảo sát, nắm tình hình giao thông đường thủy ở khu vực thuộc chủ quyền biển Việt Nam. Tháng 4 năm Giáp Ngọ (1834), vua Minh Mạng ra lệnh cho Trương Sĩ Phúc và 20 thủy quân ra quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi, vẽ bản đồ hoàn chỉnh để phục vụ cho việc nắm địa hình, tài nguyên và bố trí một bộ phận lực lượng, thay phiên nhau phòng giữ vị trí chiến lược quan trọng này.


Tháng 4 năm Ẩt Mùi (1835), vua Minh Mạng lệnh cho Võ Văn Hùng ở đảo Lý Sơn (nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi) tuyển chọn những thanh niên tinh thông võ nghệ, giỏi bơi để sung vào đội thuyền giao cho Đặng Văn Siểm đảm trách, dẫn đường và Võ Văn Công phụ trách lương thảo, ra quần đảo Hoàng Sa. Tiếp đó, tháng 7 năm Ẵt Mùi (1835), vua Minh Mạng cử Phạm Văn Nguyên phụ trách một đội lính thợ giám thành và phu thuyền ở hai tỉnh Quảng Nghĩa và Bình Định chở vật liệu đến quần đảo Hoàng Sa để dựng miếu và lập bia đá trên quần đảo này. Tháng 2 năm Bính Thân (1836), Bộ Binh điều động Phạm Hữu Nhật đưa binh lính đến quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi để đo đạc và đóng 10 cái bài gỗ ở đảo này làm dấu ghi, trên mỗi bài gỗ đề rõ niên hiệu “Minh Mạng thứ 17 năm Bính Thân”. Kể từ năm 1836 trở đi, vào cuối tháng giêng, triều đình nhà Nguyễn đều đưa lính thủy và vệ giám thành ra quần đảo Hoàng Sa khảo sát, vẽ bản đồ; đồng thời quy định cấp thêm tiền cho binh lính, từ mồng 1 tháng giêng đến cuối tháng 3 phải trả lương cho binh lính mỗi tháng, đủ một quan tiền. Mặc dù lực lượng và phương tiện còn hạn chế, nhưng với những cố gắng của mình, triều Nguyễn đã thể hiện tư tưởng về xây dựng lực lượng và củng cố thế trấn bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc ngay trên quân đảo Hoàng Sa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #96 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 10:17:08 am »

Trong khi đó, triều Nguyễn cũng rất chú ý đến việc bố trí lực lượng, tổ chức phòng thủ, ngăn chặn các hoạt động phá hoại vùng ven biển miền Trung và phía Nam. Tháng 10 năm Bính Tý (1816), vua Gia Long lệnh cho quan lại trấn Sơn Nam Hạ tuyển chọn 100 người dân ngoại tịch, lập hai đội lính Kiên Định, Kiên Uy và Quảng Bình tuyển 250 người, lập 5 thuyền binh canh giữ vùng ven biển, do địa phương quản lý.


Tháng 2 năm Ất Dậu (1825), vua Minh Mạng ban bố đạo dụ thứ nhất, quy định: tăng cường hệ thống canh phòng ở các cửa biển và miền duyên hải, không cho các giáo sĩ nước ngoài lọt vào nội địa, đặc biệt là cần kiểm tra các tàu chiến của Pháp đi vào các cửa biển ở vùng Quảng Nam. Tiếp đó, tháng 7 năm Canh Dần (1830), triều Nguyễn điều động Hồ Văn Mạc, Lê Đức Tiến ra Vũng Chùa ở Quảng Bình, Vũng Áng (Ân Áo) ở Nghệ Tĩnh, Vân Sơn (Thanh Hóa) để xem xét tình hình địa hình, địa thế, vẽ bản đồ để bố trí lực lượng phòng thủ bờ biển nước ta. Đến tháng 2 năm Tân Mão (1831), triều Nguyễn ra lệnh cho các trấn vùng ven biển miền Bắc từ Thanh Hóa trở ra, phải thực hiện nhiệm vụ tuần tiễu, phòng giữ, duy trì sự ổn định ở vùng biển thuộc địa bàn của địa phương mình.


Nhằm tăng cường khả năng bảo vệ các vùng ven biển trọng yếu, tháng 6 năm Tân Mão (1831), triều Nguyễn định lệ bắn đại bác ở hai pháo đài Điện Hải và An Hải thuộc cửa biển Đà Năng, trấn Quảng Nam. Khi phát hiện tàu địch vào hải phận, mỗi đài được bắn 3 phát súng. Tiếp đó, triều Nguyễn ra lệnh đặt Thuận An trấn thủ (cơ quan quân sự và thương chính của triều đình) để canh phòng, cai quản cửa biển Thuận An.


Đối với vùng biển phía Nam, vua Minh Mạng cho xây dựng pháo đài, cấp súng đạn, khí giới, thuyền bè phái quân đóng giữ hai đảo Côn Lôn và Phú Quốc, nơi giặc cướp biển thường quấy phá. Tiếp đó, triều Nguyễn lệnh đặt đồn Phú Quốc thuộc Hà Tiên. Trong đồn có 4 khẩu Hồng y cương pháo, 8 khẩu quá sơn đồng pháo và 50 lính, do Nguyễn Văn Sương làm phòng thủ úy cai quản đóng giữ.


Tháng 2 năm Ất Mùi (1835), triều Nguyễn lệnh cho thủy quân đem thuyền hiệu chữ “Bình” số 1, chở 40 binh lính và đạn dược, đồ dẫn lửa, diêm tiêu, lá chắn, dao, tiền, thuốc men đến quân thứ Gia Định đóng giữ; đồng thời đổi đồn An Man ở thành Nam Vang thành Trấn Tây. Một đội pháo thủ và một đội chăn voi, mỗi đội gồm có 50 người được giao nhiệm vụ đóng giữ thành. Tháng 3 năm Bính Thân (1836), triều Nguyễn lệnh xây dựng đồn và pháo đài ở đảo Côn Lôn, gọi là pháo đài Thanh Hải thuộc Gia Định; đồng thời điều động 50 binh lính, do một suất đội phụ trách, dùng thuyền chuyển khí giới đến đóng giữ, mỗi năm thay phiên nhau một lần để canh giữ vùng biển, đảo của ta ở vùng phía Nam.


Để tăng cường lực lượng phòng giữ vùng ven biển, tháng 4 năm Bính Thân (1836), triều Nguyễn ra quy định số quân đóng ở thành Điện Hải và An Hải (Quảng Nam). Thành Điện Hải có nhiều tàu thuyền tụ họp và quan trọng hơn, do 300 binh lính dưới sự chỉ huy của một quản vệ đóng giữ. Thành An Hải do một phó vệ úy, hoặc thành thủ úy chỉ huy 20 binh lính trấn giữ. Cả thành Điện Hải và pháo đài Định Hải, do một lãnh binh phụ trách. Cuối năm 1836, triều Nguyễn đặt quan đề đốc thủy quân và 15 thủy vệ (trước có 4 vệ), do một quan đô thống cai quản. Mỗi vệ có hơn 500 người, chia làm 3 doanh (trung, tả, hữu), mỗi doanh đặt một viên chưởng vệ. Tháng giêng năm Đinh Dậu (tháng 1-1837), triều Nguyễn tổ chức xây dựng pháo đài Ninh Hải ở Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa nhằm ngăn chặn các hoạt động của bọn cướp trên biển và bọn buôn lậu thường trú ở đây.


Nhằm phát huy hiệu quả các hoạt động bảo vệ chủ quyền vùng biển, tháng giêng năm Kỷ Hợi (tháng 1-1839), triều Nguyễn định lệ tuần biển cho các tỉnh ven biển. Nếu phần biển hạt nào có giặc biển xuất hiện, viên quản đồn sở tại nơi đó và quan tỉnh phái đến không biết, hoặc không đánh đuổi thì viên quản phải giáng hai cấp, suất đội giáng một cấp. Tháng 5 năm Canh Tý (1840), người Xiêm tràn vào cướp phá đồn Đà Cần Luật (Hà Tiên). Quan quân địa phương không tích cực tổ chức đánh đuổi. Triều Nguyễn giáng phòng thủ úy Phạm Văn Sỹ hai cấp và án thủ Lê Quang Quyền một cấp. Trước đó, tháng 10 năm Nhâm Thìn (1832), theo lệnh của triều đình, lãnh binh Nguyễn Văn Thành huy động binh thuyền từ Hải Dương đi tuần tiễu trừ giặc biển ở Quảng Yên, khi đến Đồng Mô không dám đánh. Biết tin, vua Minh Mạng liền lệnh cách chức Nguyễn Văn Thành... Những việc làm này của triều Nguyễn thể hiện rõ quan điểm thưởng phạt rất nghiêm minh đối với việc thực hiện mệnh lệnh, bảo vệ chủ quyền vùng biển của Tổ quốc.


Trước tình hình chủ quyền biển, đảo nước ta nhiều lúc bị bọn phiến loạn nước ngoài đến gây rối, cướp phá, triều Nguyễn lệnh cho quân các địa phương ven biển tăng cường lực lượng phòng giữ. Tháng 9 năm Nhâm Dần (1842), vua Thiệu Trị ra lệnh cho thủy binh các tỉnh ven biển, từ Nam ra Bắc phải tổ chức lực lượng tuần phòng, nếu phát hiện phải tổ chức đánh đuổi giặc cướp biển. Tháng 7 năm Quý Mão (1843), tại thành Trấn Hải ở cửa Thuận An, vua Thiệu Tri ra lệnh đặt các loại súng lớn bắn thử, rồi đo khoảng cách đầu đạn rơi. Khi có thuyền chiến địch tiến vào vùng xạ giới của loại súng nào thì súng đó được lệnh bắn để tiêu diệt.


Trong những năm đầu thập kỷ 50 của thế kỷ XIX, trước tình hình vùng ven biển nước ta, nhất là khu vực miền Trung liên tục bị quấy phá, gây xung đột quân sự, đe dọa xâm lược của tư bản phương Tây, nhất là thực dân Pháp, triều Nguyễn đề ra một số chủ trương, biện pháp tăng cường khả năng phòng thủ, bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc. Cuối năm Tân Hợi (1851), vua Tự Đức lệnh cho các tỉnh ven biển, nếu hải phận của tỉnh nào có giặc biển xuất hiện mà không bắt được thì người đứng đầu trấn thủ đồn biển sở tại bị giáng ba cấp lưu nhiệm. Nếu xuất hiện chỗ hai đồn tiếp giáp thì trách nhiệm thuộc về Kinh phái đi tuần thám cùng viên tỉnh sở tại bị giáng cấp.


Như vậy, trong nửa đầu thế kỷ XIX, các vua triều Nguyễn đã có những cố gắng lớn trong việc củng cố, phát triển tiềm lực quân sự; đồng thời thực hiện bố trí lực lượng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biên giới quốc gia trên bộ và chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Các vua thời Nguyễn đã kế thừa và phát huy được một số nhân tố nhất định về tư tưởng quân sự của các triều đại trước, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ biên giới trên bộ và biển, đảo của Tổ quốc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #97 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 09:55:48 pm »

2. Những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xây dựng quân đội

- Xây dựng quân đội với đủ các thành phần lực lượng và vũ khí trang bị.

Cũng như các triều đại trước đó, ngay sau khi nắm quyền thống trị đất nước, triều Nguyễn đã tập trung vào việc xây dựng quân đội mạnh, đủ sức đảm bảo cho việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia thống nhất. Triều Nguyễn đã kế thừa tư tưởng quân sự của dân tộc trong xây dựng quân đội với đủ các thành phần lực lượng gồm: bộ binh, thủy binh, pháo binh và tượng binh, trong đó chủ yếu vẫn là bộ binh và thủy binh. Mục đích xây dựng quân đội Nguyễn là bảo vệ nền độc lập, quốc gia thống nhất, song trước nhất là nhằm đề phòng và đối phó với phong trào nổi dậy của nông dân, một lực lượng đông đảo trong xã hội, bảo đảm cho sự tồn tại của chính quyền họ Nguyễn. Chính vì thế, từ những năm đầu thế kỷ XIX, trong điều kiện đất nước tương đối ổn định, triều Nguyễn đã đề ra và thực hiện một số chủ trương, chính sách nhằm xây dựng quân đội, từ tổ chức biên chế, tuyển mộ đến trang bị, đào tạo, huấn luyện.


Quân đội họ Nguyễn được hình thành ngay từ năm 1558 (khi Nguyễn Hoàng đem quân đến trấn thủ Thuận Hóa) đến đầu năm 1802 (Nguyễn Ánh đánh bại triều Tây Sơn), theo hướng của một quân đội vương triều, phục vụ cho mưu đồ cát cứ của chúa Nguyễn. Cơ cấu tổ chức gồm: bộ binh, thủy binh, đại bác thần công (pháo binh) và tượng binh, trong đó, bộ binh là lực lượng tác chiến chủ yếu. Năm 1790, quân đội Nguyễn Ánh đạt tới 3 vạn, gồm 5 doanh: Trung, Tả, Tiền, Hậu, Tiên phong; mỗi doanh có 5 chi, mỗi chi 5 hiệu, mỗi hiệu 3 đội, mỗi đội 4 thập, mỗi thập 10 người. Riêng Trung quân thủy doanh có 5 thuận chi, mỗi thuận chi 3 hiệu, mỗi hiệu 2 đội, mỗi đội 5 thập, có 5 khuông hiệu, 5 dực hiệu, mỗi hiệu 3 đội, mỗi đội 5 thập. Từ năm 1802, vương triều Nguyễn ra đời, quân đội được kiện toàn, xây dựng lại theo mẫu hình quân đội của nhà nước phong kiến độc lập, có cơ cấu tổ chức khá hoàn chỉnh và tương đối thống nhất.


Về hệ thống bộ máy điều hành quân đội, triều đình có Bộ Binh chịu trách nhiệm quản lý, điều động, thưởng phạt quân sĩ trong toàn quân. Đứng đầu Bộ Binh là một thượng thư, dưới thượng thư là các chức tả, hữu tham tri và tả, hữu thị lang. Dưới quyền các quan trên có các ty Vũ Tuyển, Kinh Kỳ, Khảo Công, Trực Tỉnh, Binh Trực xứ, chia nhau chịu trách nhiệm về các mặt xây dựng, hoạt động của quân đội.


Tổ chức biên chế quân đội nhà Nguyễn tương đối thống nhất, trên có 5 quân: Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu, mỗi quân có một chưởng phủ (chánh nhất phẩm) và một đô thống (tòng nhất phẩm), dưới có các doanh và vệ, đặt chức đô thống, hay thống chế, rồi vệ úy, phó vệ úy, dưới nữa là cai, đội (chánh ngũ) và đội trưởng (chánh thất phẩm). Thủy sư ở Kinh kỳ có đô thống đề đốc (chánh nhị phẩm) và một hiệp ký (quan văn nhị phẩm), ở tỉnh lớn, có một đề đốc, hay lãnh binh và một phó lãnh binh. Dưới có vệ úy, quản cơ, phó quản cơ, cai đội, đội trưởng và ngoại ủy đội trưởng.


Quân đội thời Nguyễn được xây dựng với cơ cấu tổ chức, chỉ huy khá hoàn chỉnh và chia thành hai lực lượng chính quy là vệ binh và cơ binh, lực lượng chiến đấu chính. Ngoài ra còn có lính trạm, lính lệ chủ yếu phục vụ các công việc hành chính, chuyển công văn, giấy tờ. Thời vua Tự Đức còn đặt thêm ngạch lính hương dũng, dân dũng, thổ dũng ở các làng xã.


Vệ binh là lực lượng đóng ở Kinh đô (Phú Xuân) có khoảng 40.000 quân, tổ chức thành doanh (gồm 5 vệ), vệ (gồm 10 đội, do vệ úy chỉ huy), đội (gồm 5 thập, do suất đội chỉ huy), ngũ (5 người, ngũ trưởng chỉ huy). Vệ binh chia thành ba loại: Thân binh, Cấm binh và Tinh binh (còn gọi là Giản binh).


Thân binh là lực lượng chuyên bảo đảm hậu cần nhà vua và bảo vệ cấm thành, gồm doanh Vũ Lâm (10 vệ), các vệ Cẩm Y (20 đội), Tuyển Phong (10 đội), Loan Giá (15 đội), Kim Ngô (10 đội).


Cấm binh là quân cơ động có nhiệm vụ bảo vệ Kinh thành, gồm 6 doanh Thần Cơ, Tuyển Phong, Long Vũ, Hổ Uy, Hùng Nhuệ, Kỳ Vũ (mỗi doanh 5 vệ gồm 50 đội) và lính Kỳ vũ (4 vệ lính mộ), Kinh trượng (2 vệ), Thượng tứ viện (2 vệ khinh kỵ, phi kỵ), vệ Long tuyển (10 đội), viện Võ bị (50 lính mộ), viện Thượng trà (80 lính mộ), đội Tư bác (50 lính mộ), đội Tài thụ (50 lính gác), các đội giáo dưỡng vệ Võng thành (10 đội), đội Thượng thiện (50 lính mộ) và đội Phụng thiện (30 lính mộ). Tinh binh (giản binh) có nhiệm vụ bảo vệ Kinh đô và các tỉnh, gồm ngũ bảo của 5 quân (mỗi bảo 2 vệ), thủy sư kinh kỳ (3 doanh, mỗi doanh 5 vệ), vệ giám thành (5 đội), vệ thủ hộ, 8 đội dực hùng, ty lý thiện (2 ty mỗi ty 2 đội), 2 thự thanh bình, hòa thanh (mỗi thự 3 đội) và các lính thuộc binh của phủ đệ, vệ thự. Vệ binh thường được triều Nguyễn tuyển người ở Đàng Trong (cũ).


Cơ binh là lực lượng đóng giữ ở các tỉnh, trấn (các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh... còn có các vệ thuộc ngạch cấm binh, lệ thuộc vào doanh ở Kinh đô, nhưng do quan tỉnh trực tiếp chỉ huy), tổ chức thành doanh (gồm một số liên cơ, do đề đốc, hay lãnh binh chỉ huy). Các quan võ đứng đầu tỉnh chịu trách nhiệm về việc quân, dưới sự chỉ đạo chung của tổng đốc, hay tuần phủ. Thời vua Gia Long, cơ binh có quân số khá đông (khoảng 150.000 người), đến các vua Thiệu Trị, Minh Mạng và Tự Đức, quân số giảm dần.


Tổng số quân đội thời Nguyễn thay đổi theo từng triều vua. Thời Gia Long có 113.000 bộ binh và 26.000 thủy binh. Thời Minh Mạng có khoảng 250.000 quân. Đến thời Tự Đức, “quân chính quy ở Kinh đô có chừng một vạn, các tỉnh lớn có số quân từ 4.000 đến 5.000 người, còn các tỉnh nhỏ có khoảng 1.000 người, hoặc vài trăm”1 (Nguyễn Phan Quang và các tác giả: Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1995, q.I, t.2, tr. 206).


Căn cứ vào tình hình của đất nước, quân đội Nguyễn được xây dựng đủ các thành phần lực lượng, trong đó phân ra theo chức năng, nhiệm vụ gồm: bộ binh, thủy binh, tương binh, pháo binh, kỵ binh, trong đó bộ binh, thủy binh, tượng binh và pháo binh (đại bác thần công) được xây dựng như những binh chủng chiến đấu.


Bộ binh có quân số đông nhất, được biên chế thành các doanh (dinh), vệ, hoặc cơ, đội, thập, ngũ. Mỗi cơ gồm 10 đội, mỗi đội có 5 thập, mỗi thập có 2 ngũ, mỗi ngũ có 5 người. Đứng đầu cơ là chánh phó cơ và đứng đầu đội là suất đội. Ở các cơ, đội, việc tuyển chọn quản xuất phải theo tiêu chuẩn: sức vóc khỏe mạnh, võ nghệ giỏi, nhanh nhẹn và làm được nhiều việc. Các cơ hợp thành doanh (đạo binh), do chánh lãnh binh (ở tỉnh nhỏ), hoặc đề đốc (tỉnh lớn) chỉ huy. Tùy theo quy mô, vị trí quan trọng của từng thành, đồn, bảo ở mỗi địa phương, lực lượng bộ binh được phân chia ra trấn giữ phù hợp.


Thủy binh là một binh chủng lớn trong quân đội triều Nguyễn. Trong điều kiện địa lý tự nhiên, nước ta có nhiều sông, biển, đảo gần, triều Nguyễn đã nhận thức được tầm quan trọng cần phải xây dựng một lực lượng thủy binh nhất định làm nhiệm vụ canh giữ, tác chiến bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đơn vị tổ chức của thủy binh là doanh (gồm 3 doanh ở Kinh đô), vệ (hoặc cơ), đội, thuyền. Thuyền là đơn vị chiến đấu cơ sở, mỗi thuyền có từ 50-60 người. Chỉ huy toàn bộ lực lượng thủy binh là thủy sư đô thống, đứng đầu doanh là chức trưởng doanh. Thời vua Minh Mạng, thủy quân được chia ra làm 3 doanh, gồm 15 vệ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #98 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 09:56:58 pm »

Nhằm thống nhất quản lý và sử dụng thủy binh làm nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ vùng sông, biển ở các địa phương, triều Nguyễn định lại ngạch thuyền cố định ở Kinh đô và các tỉnh: Kinh sư có 120 chiếc không kể thuyền ngự và thuyền nhỏ theo hầu. Phủ Thừa Thiên: 20 chiếc, Quảng Nam: 44 chiếc, Quảng Ngãi: 18 chiếc, Bình Định: 26 chiếc, Phú Yên: 23 chiếc, Khánh Hòa: 25 chiếc, Bình Thuận: 26 chiếc, Biên Hòa: 21 chiếc, Gia Định: 41 chiếc, Vĩnh Long: 45 chiếc, Định Tường: 35 chiếc, An Giang: 42 chiếc, Hà Tiên: 30 chiếc, Trấn Tây: 60 chiếc, Quảng Trị: 14 chiếc, Quảng Bình: 22 chiếc, Hà Tĩnh: 6 chiếc, Nghệ An: 37 chiếc, Thanh Hóa: 32 chiếc, Ninh Bình: 7 chiếc, Hà Nội: 12 chiếc, Nam Định: 48 chiếc, Hải Dương: 43 chiếc, Quảng Yên: 11 chiếc, Sơn Tây: 8 chiếc, Hưng Yên: 6 chiếc, Tuyên Quang: 10 chiếc và Hưng Hóa: 5 chiếc. Thủy binh là lực lượng có nhiệm vụ thường xuyên tuần tra trên các sông và phòng giữ các cửa biển trọng yếu của Tố quốc.


Tượng binh, thời kỳ đầu có tới 500 thớt voi, tổ chức thành 5 vệ (1 doanh) ở Kinh đô và một số cơ sở ở các tỉnh trọng yếu. Thời vua Minh Mạng, tượng binh được chú ý xây dựng. Năm Kỷ Hợi (1839), vua Minh Mạng định lại các điều lệ tượng binh ở Kinh đô và các tỉnh, quy định rõ ngạch voi, số đội và số người chăn. Ở Kinh đô gọi là ba Kinh Tượng nhất, nhị, tam. Quảng Trị gọi là Trị Tượng, Nghệ An là An Tượng... Tượng binh được biên chế thành đội, mỗi đội 40 con. Số voi tập trung nhiều ở Kinh đô (150 con), Quảng Nam (35 con), Bình Định (30 con)... Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, số lượng voi giảm dần, được tổ chức lại thành 2 vệ ở Kinh đô và các đội tượng thuộc cơ binh các tỉnh.


Pháo binh (đại bác thần công) được triều Nguyễn quan tâm xây dựng, tổ chức thành doanh (có danh Thần cơ ở Kinh đô), vệ (hoặc cơ ở các tỉnh) và đội. Mỗi vệ pháo binh gồm 500 người, có 10 khẩu thần công, 200 súng điểu sang và 21 ngọn cờ, dưới quyền chỉ huy của chánh, hoặc phó lãnh binh. Mỗi đội gồm 50 người, có 1 khẩu thần công. Các cơ, đội pháo binh thuộc cơ binh các tỉnh chuyển thuộc doanh Thần cơ, phụ trách huấn luyện và cung cấp súng đạn.


Kỵ binh thời Nguyễn rất ít, chỉ gồm 2 vệ kỵ binh thuộc quân cấm vệ, làm nhiệm vụ bảo vệ hoàng thành.

Trong số các binh chủng kể trên, triều Nguyễn chú trọng đến việc xây dựng, phát triển bộ binh và thủy binh thành lực lượng mạnh làm chỗ dựa để phòng thủ bảo vệ đất nước, song chủ yếu là đối phó với các cuộc nổi dậy của nhân dân, để bảo vệ quyền lợi dòng họ Nguyễn.


Trong quá trình xây dựng quân đội, triều Nguyễn từng bước điều chỉnh về tổ chức biên chế và quân số cho phù hợp tình hình mỗi giai đoạn lịch sử. Tháng 4 năm Bính Dần (1806), Bộ Binh tổ chức lại ngạch lính trong cả nước. Các vệ Thị Trung, mỗi vệ gồm 600 quân, do một vệ úy và một phó vệ úy chỉ huy. Mỗi vệ 5 đội, mỗi đội gồm 120 người, do một cai đội và một phó đội cai quản. Đội được chia ra 8 thập, mỗi thập gồm 15 người, do một đội trưởng và một suất đội phụ trách. Các thuyền Trung Hậu, mỗi thuyền gồm 60 người, do một cai đội chỉ huy. Mỗi đội có 4 thập, mỗi thập gồm 15 người, do một đội trưởng và một suất đội phụ trách. Các dinh quân thủy, bộ đều có một cai án và một tri bạ, mỗi vệ có một cai án.


Thực hiện chủ trương chấn chỉnh về tổ chức biên chế, quy định lại số quân ở một số đơn vị, tháng 11 năm Kỷ Sửu (1829), vua Minh Mạng quyết định đổi lại danh hiệu và số lượng các dinh, vệ, cơ, đội ở Kinh đô và các địa phương, định lại ngạch binh trong và ngoài Kinh đô, chia làm ba bậc: Thân binh, Cấm binh và Tinh binh. Mười vệ dực tả, hữu quân Thị Trung bằng 10 vệ 2 dực tả, hữu dinh Vũ Lâm. Tả dực gồm 5 vệ Trung nhất, Tiền nhất, Tả nhất, Hữu nhất, Hậu nhất. Hữu dực gồm 5 vệ Trung nhi, Tiền nhị, Tả nhị, Hữu nhị, Hậu nhị gộp với hai vệ cẩm Y Loan Giá liệt, gọi là Thân binh. Quan Thị Nội ở 4 dinh Thần Cơ, Tiền Phong, Long Võ, Hổ Oai và các đội Thượng Trà Viện, Kim Thương, Ngân Thương, Giáo Dưỡng, Thương Thiện, Tài Hoa, Thự Hòa Thanh, vệ Nội Thủy, biện Thượng Tứ, các vệ kinh Tượng đều bỏ danh hiệu Thị Nội, gộp với 5 dinh Thần Sách gọi là Cấm binh. Các vệ Ngũ Quân, Thủy Quân, Hộ Lăng, Giám Thành, Võng Thành; các đội Kiên, đội Sai, đội Dực, đội Lý Thiện; các đội của các ty; các đội Tuần Bạc, Tân Sài; các đội thuộc phủ đệ, thuộc binh các nha ở Kinh, Thự Thanh Bình, Ngư Hộ các vệ cơ đội các trấn thành, lính kho, lính trạm thuộc binh các nha ở ngoài gọi là Tinh binh.


Về trang bị vũ khí quân đội dưới triều Nguyễn tuy có sự chuyển biến đáng kể, song chủ yếu vẫn là gươm, giáo, ống phun lửa, quả nổ, súng điểu thương (thần cơ điểu thương, thạc cơ điểu thương, bắc cơ điểu thương), pháo (súng thần cơ, thần công thiết bác...). Thời vua Gia Long quy định cho các loại quân: Mỗi vệ quân ở Kinh đô, thân binh có 250 súng trường, 250 súng chim bắn đá. Mỗi vệ ở các bảo có 150 súng trường, 150 súng chim bắn đá, mỗi vệ ở ngoài có 200 súng trường, 200 súng chim bắn đá, mỗi khẩu có 20 viên đạn chì, cứ 3 khẩu có 1 cân thuốc nổ (hỏa dược). Ngoài ra, còn có các loại gươm, dao, giáo. Quân lính ở phủ, huyện thì có 20 mũi mác, 10 dao ngắn, 10 dao dài. Ở các phủ, huyện quan trọng và nơi biên giới thì có thêm một số kiếm, súng chim, súng kíp. Ở các bến sông, cửa biển tùy theo nơi quan trọng, ngoài số dao, gươm, giáo còn có 2 đến 50 súng trước, 2 đến 50 súng chim. Các vệ trở lên đều có cờ hiệu, bằng cờ vuông, cờ ngũ hành với dấu hiệu riêng từng vệ thuộc doanh nào, bảo nào. Doanh, bảo lại có cờ hiệu riêng. Ngoài ra, mỗi vệ có một số trống, thanh la, chiêng.


Nhằm tăng cường thêm trang bị cho quân đội, đầu năm Ất Dậu (1825), vua Minh Mạng lệnh cho xây dựng 6 xưởng đúc súng ở các đài Chính Nam, Đông Thái, Nam Minh, Tây Thành, Định Bắc và Bắc Trung, nhằm sửa chữa, đúc một số súng trang bị cho quân đội. Tiếp đó, tháng giêng năm Kỷ Sửu (tháng 1-1829), quy định lại lệ cấp binh khí cho các vệ, cơ, đội từ Quảng Nam đến Bình Định và từ Quảng Trị đến Ninh Bình, vũ khí chủ yếu vẫn là súng máy đá, súng máy tay và giáo. Mỗi đội trong các vệ, ban trực quân Thần Sách thuộc kinh binh được cấp súng tay và giáo dài, 20 cây cờ đuôi nheo. Mỗi vệ, cơ được cấp một cờ vuông to ghi tên hiệu vệ, cơ ấy.


Thời các vua Minh Mạng, Tự Đức cũng chú ý đến việc sản xuất súng đạn. Tháng 5 năm Quý Mùi (1823), vua Minh Mạng ra lệnh cho Ty Vũ khố tập trung sản xuất các loại súng tay có thuốc nổ mạnh theo kiểu súng của phương Tây. Tiếp đó; tháng 8 năm Tân Mão (1831), ra lệnh cho pháo thủ Nguyễn Cửu Nghị chế tạo được các loại hỏa cầu gồm hỏa cầu nghìn hạt châu, hỏa cầu sấm sét, hỏa cầu đạn lửa. Tháng 7 năm Canh Dần (1830), vua Minh Mạng ra lệnh đúc thêm súng gang hồng y 400 cỗ (hạng lớn là 200 cỗ, hạng trung 200 cỗ), trong đó ở Kinh đô đúc 200 cỗ và Bắc Thành đúc 200 cỗ. Đồng thời, tổ chức cấp súng điểu thương cho dinh vệ các quân. Hai vệ Cẩm Y được cấp 400 súng; dinh Vũ lâm 2.000 súng; ba dinh Tiền phong, Long vũ, Hổ Oai: 1.600 súng; quân Thần sách Nghệ An: 2.800 súng, quân Thần sách Thanh Hóa: 1.300 súng và năm quân ở Bắc Thành (Bắc Bộ): 2.000 súng.


Tháng 3 năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng ra lệnh cho Ty Vũ khố đúc súng lớn bằng đồng và đặt tên là phá địch thượng tướng quân và phá địch đại tướng quân, mỗi loại hai cỗ, nặng khoảng một tấn. Tiếp đó, triều Nguyễn ra lệnh chế tạo “Thang bay” (Phi Thê) dùng để đánh thành, làm bằng gỗ dài 2-3 trượng (8-9 mét), chia làm nhiều bậc như thang gỗ thường, đầu 2 thanh có bánh xe. Khi trèo lên thì đặt bánh xe sát vào thành, rồi đẩy dần tiến lên phía trên thành. Tháng giêng năm Bính Thìn (tháng 1-1856), triều Nguyễn chế tạo thành công phục địa lôi và đốc hỏa chiến. Tháng 2 cùng năm Bính Thìn (1856), Vua Tự Đức ra lệnh tổ chức kiểm tra thử súng đại bác, đạn chấn địa lôi, đốc hỏa chiến. Các thứ vũ khí đó đều bảo đảm đúng mẫu sản xuất.


Dưới thời Nguyễn, thủy binh là một binh chủng được trang bị vũ khí mạnh so với một số triều đại trước. Thủy binh được trang bị nhiều loại tàu thuyền để có thể đảm nhiệm việc phòng thủ các miền duyên hải. Thời vua Gia Long, thủy binh có 26.800 người, 200 chiến hạm được trang bị từ 16 đến 20 khẩu đại bác (một số chiến thuyền kiểu phương Tây được trang bị tới 36 khẩu đại bác); 500 chiến thuyền, mỗi chiếc có từ 40 đến 44 mái chèo được trang bị nhiều súng bắn đá; 100 chiến thuyền lớn, mỗi chiếc từ 50 đến 70 mái chèo, có đại bác và cự thạch pháo.


Triều Nguyễn quy định việc đóng thuyền chiến, song cũng có loại giao cho các tỉnh đảm nhiệm với số lượng theo quy định của nhà nước. Tháng 9 năm Đinh Mùi (1847), vua Tự Đức quy định “Phàm những thuyền bọc đồng kể bắt đầu từ năm mới đóng thì 5 năm một lần tu bổ, thuyền không bọc đồng thì 3 năm một lần tu bổ1 (Đại Nam thực lục chính biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973, t.28, tr. 305). Với trang bị vũ khí như vậy, triều Nguyễn có lực lượng thủy binh đảm nhiệm tuần tra phòng thủ, bảo vệ chủ quyền vùng biển, hải đảo của Tổ quốc. Song trước những tàu chiến to lớn, được trang bị vũ khí hiện đại của các nước tư bản phương Tây, chủ yếu là Pháp thì những thuyền chiến triều Nguyễn vẫn không thể đối phó nổi. Trước tình hình đó, triều Nguyễn nhiều lần giao cho Ty Vũ khố đúc các loại súng đạn, đem cấp phát cho các tỉnh, hoặc giao cho một số tỉnh tự chế tạo vũ khí để dự trữ, nhưng chưa được nhiều, hiệu quả chưa cao.


Như vậy, xây dựng quân đội luôn là vấn đề quan tâm của triều Nguyễn. Với kinh nghiệm đã có trong thời kỳ xây dựng lực lượng quân sự chống phong trào Tây Sơn và trong nửa đầu thế kỷ XIX, đất nước không có chiến tranh, quân đội triều Nguyễn được xây dựng “tương đối hoàn chỉnh và thống nhất, có quân triều đình cơ động ứng chiến khắp nơi, quân các tỉnh phòng thủ trên từng địa phương. Quân đội bao gồm nhiều binh chủng, trong đó bộ binh và thủy binh được đặc biệt chú ý bên cạnh tượng binh và pháo binh. Sự hình thành các binh chủng vừa đảm bảo sức đột kích, bảo đảm cơ động và bảo đảm phòng ngự”1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hoạt động quân sự từ năm 1802 đến năm 1896, Sđd, t.8, tr. 65).


Về vũ khí trang bị, quân đội thời Gia Long được trang bị khá mạnh, nhưng đến các thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức thì giảm sút dần, do kinh tế, tài chính đất nước sút kém và triều Nguyễn ít mở rộng quan hệ trao đổi với các nước, nên vũ khí trang bị cho quân đội hầu như không thay đổi, chủ yếu vẫn là bạch khí. Phần lớn các loại vũ khí trang bị trong quân đội triều Nguyễn còn rất lạc hậu, thiếu thốn. Một số vũ khí khi đem ra sử dụng ít hiệu quả, uy lực không cao.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #99 vào lúc: 28 Tháng Ba, 2021, 09:58:07 pm »

- Chế độ tuyển quân, huấn luyện và kỷ luật của quân đội.

Đối với chế độ tuyển mộ vào quân đội, cũng như lệ cũ của các triều đại trước, trên cơ sở kiểm tra nhân đinh và phân loại đinh tráng trong cả nước, triều Nguyễn tiến hành tuyển đinh tráng sung vào quân đội. Thời vua Gia Long, quy định chế độ tuyển quân tùy theo từng địa phương, trong đó từ Quảng Bình đến Bình Thuận cứ ba suất đinh lấy một suất lính; từ phía nam Bình Thuận trở vào, ba suất đinh lấy một suất lính và từ Hà Tĩnh trở ra đến năm trấn Bắc thành, bảy suất đinh lấy một suất lính. Các tỉnh ngoại trấn Bắc thành (gồm Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Hưng Hóa, Quảng Yên, Lạng Sơn), cứ 10 suất đinh lấy một suất lính. Đối với gia đình 5 con trở lên mới lấy một người sung vào quân đội. Tiếp đó, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức vẫn thực hiện theo phép tuyển binh này.


Tháng 2 năm Bính Thân (1836), vua Minh Mạng quy định tuyển binh lính ở 4 tỉnh (Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long và Định Tường) phải tuyển đủ quân, cứ 5 đinh tuyển lấy một lính, khi tuyển xong, lập thành các quân hiệu. Gia Định giản binh mới và cũ (6.140 người) đặt làm 10 cơ (Gia trung, Gia tả, Gia hữu, Gia tiền, Gia hậu, Định trung, Định tả, Định hữu, Định tiền, Định hậu). Hai thủy cơ gồm Gia Định tả, Gia Định hữu. Biên Hòa gồm 1.810 người, đặt làm hai cơ: Biên Hòa tả, Biên Hòa hữu. Vĩnh Long 5.400 người đặt làm 8 cơ (Vĩnh tả, Vĩnh hữu, Vĩnh tiền, Vĩnh hậu, Long tả, Long hữu, Long tiền, Long hậu). Tiếp đó, tháng 6 năm Bính Thân (1836), vua Minh Mạng ra chỉ dụ cho Tuyên Quang tuyển binh lính. Dân hai huyện Để Định và Vĩnh Điện, cứ 10 đinh đến tuổi trưởng thành (18 tuổi) lấy một suất lính; từ Đường Âm đến An Quang gồm 13 xã có số đinh trên 260 người tuyển được 26 người.


Đồng thời, tuyển binh lính từ Quảng Bình đến Bình Định, cứ ba suất đinh lấy một suất lính, người miền núi tuyển làm bộ binh, người miền biển tuyển làm thủy binh. Riêng Thanh Hóa tuyển chọn 100 người khỏe mạnh ở huyện Tống Sơn làm lính hai đội nhất, nhị trấn giữ đồn bảo Trấn Nam.


Đối với các tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra Bắc, cuối năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị chuẩn y cho tỉnh Nam Định tuyển lính, cứ 7 đinh lấy 1 lính, lập thành 2 đội Định Uy Nhị và Định Uy. Bên cạnh việc thực hiện chế độ tuyển lính theo quy định hằng năm, triều Nguyễn có thể ra lệnh hoãn đối với những địa phương gặp khó khăn về kinh tế, đời sống. Tháng 4 năm Canh Tuất (1850), vua Tự Đức ra lệnh hoãn việc tuyển binh lính ở bốn tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Ninh Bình đến năm Ất Mùi (1855), do các tỉnh này bị thiên tai, thiệt hại lớn, phải sau một thời gian dài mới có thể khắc phục được hậu quả do bão lụt gây ra, từng bước ổn định đời sống của nhân dân.


Thời hạn tại ngũ của binh lính tuyển ở Nam Kỳ và các tỉnh từ Hà Tình trở ra Bắc là 10 năm, tuyển ở các tỉnh Trung Kỳ là 15 năm. Hạn tuổi phục vụ trong quân ngũ là 50 tuổi. Binh lính nào hết hạn quân ngũ đăng ký xin ở lại thêm vài năm cũng được chấp nhận. Những binh sĩ từ 50 tuổi trở lên, khi giải ngũ được miễn trừ tất cả lao dịch. Đối với nhũng người mãn hạn quân ngũ, nếu trong thời gian tại ngũ phẩm hạnh tốt, không đào ngũ, khi trở về quê được miễn trừ một nửa sưu thuế và miễn tạp sai, tạp dịch.


Thời Nguyễn cũng thực hiện chính sách “Ngụ binh ư nông”, phân chia binh lính theo ban, thay thế nhau về quê tham gia sản xuất. Vua Gia Long chia binh lính làm ba ban thay phiên nhau, hai ban về quê sản xuất, một ban ở lại quân ngũ huấn luyện, lo phòng thủ. Hằng năm, mỗi người lính có 8 tháng ở nhà sản xuất và 4 tháng tại quân ngũ. Đến thời vua Tự Đức, binh lính chia làm hai phiên, một nửa tại ngũ, một nửa ở quê, đến hết kỳ đổi phiên, tất cả phải có mặt lúc cần thiết. Cùng với lính tuyển, thời các vua Minh Mạng, Tự Đức còn có lính mộ. “Minh Mạng năm thứ hai định rằng: các vệ, các đội có mộ lính, chuẩn cho vệ lấy 10 đội, đội lấy 50 tên làm định hạn”1 (Đại Nam điển lệ toát yếu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 449). Thời vua Tự Đức quy định: người nào mộ được 500 lính trở lên sẽ thưởng chức quản cơ (chánh tứ phẩm), mộ được 300 lính thưởng chức cấm binh chánh đội...; mộ được 20 lính thưởng chức tòng thất phẩm. Những người tuyển mộ lính phải chịu trách nhiệm, nếu quân lính bỏ trốn, người chỉ huy bị phạt nặng hay nhẹ theo mức độ số lượng người bỏ trốn. Việc thực hiện chế độ tuyển lính được thực hiện theo quy định của triều Nguyễn như vậy, góp phần bảo đảm cho quân đội duy trì quân số ở mức cần thiết.


Về trang phục quân đội triều Nguyễn, tuy sử sách và tư liệu hiện thời thấy được đề cập rất hạn chế, nhưng qua đó cũng đủ cho thấy trang phục của các võ quan, binh lính nhà Nguyễn khá thống nhất, càng về sau càng được quy định rõ ràng theo phẩm hàm, chức tước. Các cấp khi chỉ huy, binh lính mặc khi xuất trận, thao diễn, hay dịp đại lễ, tùy theo thứ bậc.


Binh lính có một áo vải đen trong lót vải vàng, tay chẽn, một dây lưng (gọi là khố) bằng lụa đều thắt cuốn ngang lưng, đầu đội nón tròn sơn đỏ có chóp gọi là nón dấu, chân cuốn xà cạp. Loại quân phục này, cứ 5 năm cấp một lần (đến vua Tự Đức kéo dài 6 năm cấp một lần). Đối với loại quần áo thường, mỗi năm cấp 2 bộ.


Tháng 2 năm Bính Thân (1836), triều đình quy định tổ chức cấp quân phục cho các cơ binh Bắc Hà. Mỗi cơ 500 người, áo quần mỗi thứ 360 chiếc (áo dùng vải đen, lót trong vải đỏ, cổ và tay áo đều viền đỏ, quần vải màu vàng), cứ ba năm được cấp quân phục một lần. Các đội chánh phó quản cơ mặc áo chẽn bằng nỉ, dạ màu đỏ hoặc màu thiên thanh, ngực thêu hoa và chữ để phân biệt với cơ đội và các đạo tinh binh. Từ lãnh binh trở lên được mặc áo chẽn, năm thân bằng gấm và đội mũ hình đầu hổ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM