Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:50:06 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 2  (Đọc 5336 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #80 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2021, 11:25:20 am »

Đúng đêm 30 Tết Kỷ Dậu (25-1-1789), thời điểm tướng sĩ quân Thanh còn ngây ngất đón tiết xuân mới trong không khí “chiến thắng”, thì đạo quân chủ lực của Tây Sơn bắt đầu vượt sông Gián Khẩu, mở màn cuộc đại phá quân Thanh. Bị đánh đòn bất ngờ với sức mạnh áp đảo, quân địch ở đồn Gián Khẩu nhanh chóng bị tiêu diệt, số sống sót bỏ chạy tán loạn. Trên đà thắng lợi, quân Tây Sơn diệt đồn bắc sông Nguyệt Quyết, Nhật Tảo và chuyển sang truy kích tàn quân địch tháo chạy. Cơ động đến Phú Xuyên (cách Thăng Long khoảng 30 km), sau khi tóm gọn toàn bộ tàn quân địch, Quang Trung ban bố quân lệnh triệt để phong tỏa tin tức, giấu kín kế hoạch tiến công để tiếp tục phát huy yếu tố thời cơ và tận dụng yếu tố bất ngờ. Do vậy, mặc dù quân Tây Sơn đã phá tung 2/3 tuyến phòng thủ vòng ngoài, vào cửa ngõ đồn Hà Hồi mà quân Thanh hầu như chưa biết gì.


Hà Hồi là một đồn quan trọng của quân Thanh, đóng trên một khu đất cao ở phía nam làng Hà Hồi - kề cận đường Thiên Lý (con đường giao thông cổ cách Quốc lộ số 1 ngày nay khoảng 200-300m). Tại đây, quân Thanh không xây đắp chiến lũy, công sự, mà chủ yếu là dựa vào thế địa hình, làng mạc để lập doanh trại đóng quân.


Nửa đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu (28-1-1789), Quang Trung cho quân sĩ bí mật vào vây chặt đồn trại của địch, rồi bắc loa gọi hàng. Bị bất ngờ, quân Thanh “ai nấy rụng rời, sợ hãi, liền xin ra hàng”1 (Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, t.2, tr. 363). Chỉ trong thời gian ngắn, quân Tây Sơn đã chiếm được đồn Hà Hồi mà không tốn một mũi tên, một binh sĩ nào, đồng thời thu được nhiều binh khí bổ sung cho đạo quân chủ lực chuyển sang tiến công đồn Ngọc Hồi.


Ngọc Hồi là một thôn thuộc xã Vĩnh Trung, tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín dưới thời hậu Lê, đầu thời Nguyễn1 (Theo Đồng Khánh địa dư chí lược, Q.5, tỉnh Hà Nội); nay là thôn Ngọc Hồi, xã Ngọc Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội. Lực lượng địch ở đồn Ngọc Hồi có khoảng 3 vạn chủ lực tinh nhuệ, gồm cả bộ binh và kỵ binh. Về vũ khí, ngoài gươm, đao, mác, giáo, mộc, cung nỏ..., quân Thanh còn có hỏa khí: địa lôi, súng tay, đại bác và ống phun hoả mù. Đặc biệt, quân sĩ địch còn được trang bị lá chắn bằng da trâu sống để chống lại hỏa hổ của quân Tây Sơn. Bên ngoài đồn có nhiều bãi chướng ngại, chông sắt, cạm bẫy và địa lôi. Trong lòng lũy là hệ thống doanh trại và sở chỉ huy của Đề đốc Hứa Thế Hanh.


Mặc dù vậy, đến sáng mồng 4 Tết Kỷ Dậu (29-1-1789), được tin cấp báo “Quan quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. Ở đấy cách đồn Ngọc Hồi không xa, sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới”2 (Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, tr. 365), tinh thần của cả Tôn Sỹ Nghị và đám quân Thanh ở Thăng Long bắt đầu dao động. Ngay lập tức, Tôn Sỹ Nghị lệnh cho Lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp cùng tướng Phan Khải Đức (tướng Tây Sơn quy hàng) của Lê Chiêu Thống khẩn cấp mang một bộ phận lực lượng xuống tăng viện cho đồn Ngọc Hồi.


Sau khi đã xem xét, tính toán kỹ lưỡng các mặt, Bộ thống soái quân Tây Sơn quyết định trận tiến công đồn Ngọc Hồi bắt đầu vào mờ sáng ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu (30-1-1789), cùng lúc với trận tiến công đồn Đống Đa của đạo quân do Đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy.


Đúng như dự định, mờ sáng mồng 5 Tết, quân Tây Sơn bất ngờ tiến công vào mặt nam đồn Ngọc Hồi. Để huy động được toàn tâm, toàn lực của quân sĩ, bên cạnh việc động viên, khích lệ tinh thần, Quang Trung ra lệnh “bao nhiêu lương quân bỏ lại hết” nhằm biểu thị quyết tâm chiến đấu đến cùng - tức là thực hiện lời thề “Trận này phải thắng và chỉ được thắng mà thôi”. Quang Trung buộc khăn vàng lên cổ rồi cưỡi voi ra trận trực tiếp chỉ huy, còn với quân sĩ thì đầu chít khăn đỏ biểu thị khí thế quyết chiến quyết thắng, nhanh chóng tràn qua đồn tiền tiêu Bình Vọng, xông thẳng đến đồn Ngọc Hồi.
Mở đầu, Quang Trung sử dụng tượng binh vào trận (ngoài quản tượng, trên mình voi còn chở được 12 đến 13 binh sĩ, hoặc mang đại bác thần công). Mặc dù đã được dày công huấn luyện cách chống đỡ, nhưng trước một đội hơn 100 voi chiến dàn hàng ngang, hùng hổ xông vào như “quả núi di động”, quân Thanh bắt đầu dao động tinh thần. Để nhanh chóng “trấn an” quân sĩ, Hứa Thế Hanh lệnh cho đội kỵ binh thiện chiến - thành phần tinh nhuệ nhất của quân Thanh xuất trận. Song, vừa ra khỏi cửa chiến lũy, thấy đội voi chiến hùng mạnh của quân Tây Sơn, ngựa chiến của quân Thanh sợ hãi, hí vang rồi lồng lộn quay lại, chà đạp lẫn nhau. Ngay lập tức, đội voi chiến Tây Sơn nhanh chóng chia thành hai cánh đánh vòng ra hai phía tả, hữu, mở đường cho đội quân xung kích xông lên.


Được tượng binh “dọn đường”, bộ binh nhanh chóng tràn vào, tiêu diệt sở chỉ huy của Hứa Thế Hanh và các mục tiêu khác của quân Thanh. Một bộ phận quan trọng quân Thanh hoặc bị tiêu diệt tại trận, hoặc “giày xéo lên nhau mà chết”. Mô tả trận Ngọc Hồi, sách Hoàng Lê nhất thống chí chép rằng: “Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết... Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”1 (Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, t.2, tr. 364). Hai tướng chỉ huy quân Thanh là Hứa Thế Hanh và Thượng Duy Thăng đều bỏ mạng tạị trận.


Ngọc Hồi thất thủ, nhưng còn đến vài vạn quân Thanh may mắn thoát vây, dưới sự chỉ huy của Tổng binh Trương Triều Long vội vàng lội qua sông Tô Lịch (lúc này là mùa khô nên nước sông cạn) rồi theo đường Thiên Lý và đường đê sông Nhị chạy về hướng doanh trại của chủ tướng đóng tại cung Tây Long. Nhưng, ngay sau đó chúng lại bị một mũi vu hồi ở phía đông bắc Ngọc Hồi của quân Tây Sơn chặn lại, dồn ép vào khu vực đầm Mực. Và tại đây, “quân Tây Sơn cho lùa voi giày đạp”2 (Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, t.2, tr. 364). Đoàn voi chiến Tây Sơn vừa bao vây chặn đường, vừa xông vào giày xéo quân địch. Phối hợp với voi chiến, bộ binh và kỵ binh Tây Sơn cũng thả sức tung hoành, chém giết quân Thanh. Toàn bộ tàn quân địch ở đồn Ngọc Hồi đều bị tiêu diệt trong đó có cả Tổng binh Trương Triều Long. Đến đây, quân Tây Sơn đã xoá sổ cứ điểm then chốt nhất của quân Thanh, đập tan hệ thống phòng thủ, mỏ toang cửa ngõ phía nam đưa đại quân tiến vào Thăng Long, tiêu diệt đại bản doanh của Tôn Sỹ Nghị đóng tại cung Tây Long.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #81 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2021, 11:26:04 am »

Cũng ngày mồng 5 Tết, đạo quân của Đô đốc Đặng Tiến Đông mở trận tiến công đánh đồn Đống Đa - cửa ngõ tây nam thành Thăng Long.


Để đảm bảo chắc thắng, ngay tối mồng 4 Tết, Đô đốc Đặng Tiến Đông đã dẫn quân tiến vào đến Nhân Mục (Nhân Chính, Từ Liêm, Hà Nội), sáng mồng 5, vượt qua sông Tô Lịch, bí mật áp sát đồn Đống Đa, hình thành thế trận bao vây tiến công. Vào khoảng cuối canh tư (3 giờ sáng), với khí thế áp đảo, quân Tây Sơn đánh thẳng vào đồn trại quân Thanh, đốt phá các doanh trại phía ngoài rồi thọc vào sở chỉ huy địch, Sầm Nghi Đống đốc thúc quân sĩ chống trả quyết liệt, nhưng không thành công. Chỉ sau thời gian ngắn, quân Thanh đã thương vong đến 5.000 tên. Sầm Nghi Đống buộc phải vội thu quân tập trung giữ sở chỉ huy Loa Sơn và cấp báo về đại bản doanh xin Tôn Sỹ Nghị cho lực lượng đến ứng cứu. Nhưng khi quân viện chưa kịp đến nơi thì xung quanh đồn trại địch xuất hiện hàng rào lửa - “Rồng lửa” vây kín. Hoàn toàn tuyệt vọng trước đòn tiến công mãnh liệt của quân Tây Sơn, quân Thanh vỡ trận “đang lúc đêm tối, tự xéo lên nhau mà chạy”, còn Sầm Nghi Đông cùng đám thân binh trung tín đã lần lượt tự sát. Đạo quân của Đô đốc Đặng Tiến Đông hoàn toàn làm chủ đồn Đống Đa khi trời còn chưa sáng. Tiếp đà thắng lợi, Đô đốc Đặng Tiến Đông dẫn quân hạ luôn hai đồn Yên Quyết và Nam Đồng, rồi thẳng tiến vào cửa ô phía tây nam thành Thăng Long, xông đến cung Tây Long.


Mất hai đồn trọng yếu cùng hàng vạn quân sĩ, Tôn Sỹ Nghị vô cùng kinh hoàng. Tuy vẫn còn nguyên một đạo quân chủ lực, nhưng Tôn Sỹ Nghị đã “ngựa không kịp thắng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy”1 (Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, t.2, tr. 365). Thậm chí, Tôn Sỹ Nghị còn vứt bỏ cả sắc thư, kỳ bài, quân ấn chủ soái để cốt sao thoát thân cho nhanh nhất. Và thế là, như rắn mất đầu, quân sĩ các doanh còn lại nghe tin đều hoảng hồn, mạnh ai nấy chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, “cầu gãy, người bị chết vô kể”2 (Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, t.2, tr. 365). Sô" thoát chết đuôi phần lớn bị quân Tây Sơn truy kích tiêu diệt, hoặc bị bắt làm tù binh.


Đối với đám quân Thanh đóng ở bờ bắc sông Nhị cùng với đám quân của Tôn Sỹ Nghị qua được cầu, khi chạy được đến Phượng Nhãn đã bị đạo quân của Đô đốc Nguyễn Văn Lộc mai phục chặn đánh; do vậy, chúng không dám chạy theo đường cái mà phải luồn rừng, lội suối, trèo đèo suốt “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”3 (Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, t.2, tr. 366). Theo sách An Nam quân doanh kỷ yếu của Trần Nguyên Nhiếp, đám bại binh này phải đi suốt bảy ngày bảy đêm mới đến trấn Nam Quan. Tất thảy số tướng sĩ thoát chết về được Quảng Châu chỉ còn khoảng 5.000 người.


Cùng chung số phận với đám tướng sĩ ở Hà Hồi, Ngọc Hồi và đạo quân chủ lực của Tôn Sỹ Nghị ở Thăng Long, đạo quân ở Hải Dương cũng nhanh chóng bị đánh tan. Riêng đối với đạo quân Vân Nam do Đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy, mãi đến ngày 21 tháng chạp năm Mậu Thân (16-1-1789) mới đến Tuyên Quang và cuối năm đó mới đến được Sơn Tây. Hạ trại được vài ngày, được tin Tôn Sỹ Nghị đại bại ở Thăng Long, Ô Đại Kinh vội vã thúc quân rút về nước. Và, trên đường rút chạy, chúng bị dân binh người Tày của Ma Doãn Đảo chặn đánh, đội hình tan vỡ. Quân lính xô nhau chạy tán loạn vào rừng để tìm đường về nước. Đến đây, trận quyết chiến chiến lược quyết định Ngọc Hồi - Đống Đa đã kết thúc thắng lợi. Hai mươi chín vạn quân Thanh cùng hàng vạn quân “cần vương” Lê Chiêu Thống đã bị đánh tan tành và đuổi ra khỏi biên cương của đất nước.


Như vậy, chỉ trong năm ngày đêm đầu tiên của năm Kỷ Dậu (1789), được nhân dân hết lòng ủng hộ, quân đội Tây Sơn đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh. Và mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789) đã đi vào lịch sử dân tộc và lòng người dân Đại Việt như một trong những mùa xuân kỳ diệu nhất, tiêu biểu nhất cho sức sống phi thường, ý chí kiên cường, năng lực sáng tạo của dân tộc. Và một lần nữa, tư tưởng tập trung sức mạnh ưu thế, đánh nhanh, quyết thắng bằng một trận quyết chiến chiến lược của Bộ thống soái quân đội Tây Sơn mà đứng đầu là vua Quang Trung được tiếp tục khẳng định. Chính cố Tổng Bí thư Trường Chinh cũng cho rằng “ưu điểm trội nhất của cuộc kháng chiến đời Nguyễn Huệ - Quang Trung là tiến công nhanh chóng và mãnh liệt”1 (Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1955, tr. 6). Đây chính là một trong những đóng góp rất quan trọng của triều đại Tây Sơn - Nguyễn Huệ cho việc kế thừa và phát triển không ngừng của tư tưởng quân sự Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #82 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2021, 11:29:32 am »

5. Mềm dẻo, khéo léo nhưng cương quyết trong bang giao láng giềng - một quan điểm tư tưởng quan trọng về quốc phòng triều Tây Sơn - Nguyễn Huệ


Thấu hiểu được tầm quan trọng chiến lược của quan hệ bang giao láng giềng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, đặc biệt là với phương Bắc; bởi: “Từ xưa đến giờ, Trung Hoa chưa bao giờ đắc chí ở cõi Nam cả”2 (Dẫn theo Hoa Bằng: Quang Trung - anh hùng dân tộc (1788-1792) (In lần thứ ba), Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 220); do vậy, để tránh xảy ra những cuộc “đụng chạm” binh đao tiếp theo với nhà Thanh sau trận quyết chiến mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) ở Ngọc Hồi - Đống Đa, duy trì một nền hoà bình, ổn định phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng, về đối ngoại, trong tư tưởng của mình, Tây Sơn - Nguyễn Huệ đã sớm suy tính đến việc “hàn gắn” quan hệ với các quốc gia láng giềng, mà trước nhất là với nhà Thanh.


Nhưng, trên thực tế không phải đến khi kết thúc thắng lợi trận chiến mới xuất hiện quan điểm tư tưởng này, mà điều chắc chắn là nó đã được chuẩn bị từ rất sớm. Minh chứng là ngay từ khi vừa dẫn đại binh từ Phú Xuân ra Tam Điệp - Biện Sơn hội quân, chuẩn bị đánh trận quyết định đối với quân xâm lược Mãn Thanh, giải phóng Thăng Long, giành lại chủ quyền đất Bắc Hà, Quang Trung tuyên bố: Đến ngày mồng 7 Tết Kỷ Dậu sẽ vào Thăng Long ăn mừng thắng lợi; nhưng đồng thời ông đã bí mật giao cho Ngô Thì Nhậm suy nghĩ chuẩn bị sẵn lý lẽ để thực hiện một cuộc đấu tranh với triều Thanh ngay sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến. Quang Trung đã luận về quan điểm tư tưởng này với Ngô Thì Nhậm như sau: “Nay ta đến đây tự đốc việc quân, đánh hay giữ đã có kế cả rồi, chỉ trong mười ngày thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh. Nhưng nước Thanh lớn hơn nước ta đến mười lần. Bị thua tất Thanh lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa liên miên, thật không phải là phúc của nhân dân, lòng ta sao nỡ. Vì vậy, sau khi thắng trận phải khéo dùng từ lệnh thì mới dập tắt được binh lửa...”1 (Nguyễn Phan Quang: Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung, Sđd, tr. 199).


Nhưng, quan hệ đối ngoại nói chung, bang giao với các quốc gia láng giềng nói riêng, thế và lực của đất nước luôn là một nhân tố giữ vai trò quyết định. Đây thực sự là một quy luật trong quan hệ quốc tế, mà ngay cả những nước lớn cũng không bao giờ xem nhẹ. Cũng vì vậy, sau thất bại mùa Xuân năm Kỷ Dậu, nhà Thanh không còn có thể xem thường sức mạnh của Đại Việt. Điều này được thể hiện qua lời nói của vua nhà Thanh là Càn Long trước triều thần, rằng: "... Nếu đem quân sang lấy được cả nước thì lại phải phái nhiều binh lính sang phòng giữ. Dân tình An Nam lại hay phản phúc (!), những triều đại trước đã đặt làm quận, huyện nhưng không được bao lâu họ lại sinh biến, hiện có những gương tày liếp. Bây giờ ta lấy đất đai của họ, biết đâu một vài chục năm nữa họ lại chẳng sinh sự”. Và, "Tóm lại bây giờ ta không nên đánh thì chi bằng hãy nên khoan hồng một chút để bọn Nguyễn Huệ thành tâm quy thuận. Thế là không phải dùng đến binh lực mà được việc là hay hơn cả”1 (Nguyễn Phan Quang: Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung, Sđd, tr. 199). Và tất nhiên, những ý đồ này đã nhanh chóng được Tây Sơn - Nguyễn Huệ nắm bắt.


Với tư tưởng chủ động nối lại quan hệ bang giao với triều Thanh sớm được hình thành như vậy, nên khi nhận được thư của nhà Thanh “chấp nhận” nối lại mối giao hảo, triều Tây Sơn - Nguyễn Huệ liền cử người trực tiếp sang thương thảo, sẵn sàng trao trả tù binh và triều cống. Tuy vậy, về tư tưởng chỉ đạo, triều Tây Sơn một mặt tỏ ra mềm dẻo, cầu thị muốn sớm giảng hoà, nối lại quan hệ bang giao; song mặt khác cũng vẫn giữ thái độ cứng rắn, sẵn sàng đối phó với những âm mưu, hành động xâm lược mới của nhà Thanh. Trước nhất trong biểu thư gửi vua nhà Thanh “xin làm” An Nam Quốc vương, Nguyễn Huệ viết:

“Cúi nghĩ Đại Hoàng đế đặt mình vào địa vị trời thi hành giáo hoá, thuận lẽ tự nhiên, tha thứ cho thần cái tội đón đánh Tôn Sỹ Nghị, lượng xét cho thần đã lắm lần gõ cửa quan trần tấu, cho thần làm An Nam Quốc vương để có sự nắm giữ toàn cõi. Thần kính cẩn sai sứ đến triều khuyết vâng lịnh làm phiên thần nộp cống cùng đem những người hiện còn lại cho về giao nộp để tỏ lòng chí thành.

Nay, đường đường là Triều đình Thiên tử lại đi so hơn thua với nước rợ nhỏ thì ắt là muốn cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham lam tàn bạo thì thật cái lòng của Thánh thượng không nhẫn.

Trong muôn một nếu can qua nối tiếp không dứt, tình thế đến nỗi nào thì thật không phải do thần muốn mà thần cũng không dám biết đến nữa”1 (Tài liệu về Tây Sơn - Nguyễn Huệ: Xây dựng đất nước, Sở Văn hóa - Thông tin Bình Định, 1995, t.IV, tr. 85-86).


Tiếp đến, trong thư gửi cho viên tướng nhà Thanh trấn ở Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp của Quang Trung có đoạn: “(...) Còn như quân lính thì cốt hoà thuận không cốt đông, cốt tinh nhuệ không cốt nhiều. Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo, chứ không phải lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít. Ví bằng chút tình trước đây không được bày tỏ, thiên triều không chịu khoan dung một chút, cứ muốn động binh để tranh chiến, thế là làm cho nước nhỏ không được phục sự thờ nước lớn, thì bấy giờ Đại quốc (nhà Thanh) có dạy bảo gì, tôi cũng chỉ xin theo thôi (ý nói: có muốn đánh nhau thì sẽ đánh cho mà coi...)”1 (Nguyễn Phan Quang: Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung, Sđd, tr. 200). Sở dĩ Tây Sơn - Nguyễn Huệ đưa ra được quan điểm tư tưởng mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết như vậy là chính bởi thế và lực về quân sự nói riêng, chế độ nói chung của Đại Việt rất vững chắc. Đó là chưa kể tiếp đến việc sau khi hoà hiếu với triều Thanh, Quang Trung còn viết thư gửi Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An yêu cầu trả lại phần đất 7 châu thuộc Hưng Hoá mà nhà Thanh đã xâm lấn trước đó. Nhưng rồi sau nhiều lần cử sứ bộ sang thương lượng không thành công, càng làm cho Tây Sơn - Nguyễn Huệ kiên định tư tưởng củng cố quốc phòng, xây dựng một quân đội mạnh để tạo áp lực, quyết giành lại chủ quyền phần đất đã mất - đó là “Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng”2 (Nguyễn Phan Quang: Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung, Sđd, tr. 201). Trong Tạp chí Thế giới mới, số 301, phát hành ngày 31-8-1998, tác giả Bá Phùng nhận định: Lịch sử quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Hoa cho đến giai đoạn ấy (Tây Sơn) chưa có triều đại phong kiến Việt Nam nào có được vị trí cao, có tư thế vững chắc, tự chủ mạnh như Tây Sơn. Tư tưởng chỉ đạo ngoại giao quân sự của vương triều Tây Sơn rất khéo léo nhưng cương quyết giữ vững lập trường của mình.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #83 vào lúc: 22 Tháng Ba, 2021, 11:30:39 am »

Chiến thắng vang dội quân đội Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút năm Giáp Thìn (1784), rồi tiếp đến là cuộc đại phá quân Thanh ở Ngọc Hồi, Đống Đa mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789) đã làm cho thanh thế của Đại Việt lan ra khắp các quốc gia láng giềng. Đây cũng thực sự là cơ hội để Tây Sơn - Nguyễn Huệ thực hiện tư tưởng hoà hiếu trong bang giao, giữ yên biên cương, tạo ổn định cho công cuộc xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng. Do vậy, ngoài nhà Thanh, trong quan hệ vói Miến Điện, triều Tây Sơn - Nguyễn Huệ đã chấp nhận quốc thư giao hiếu đầy thiện chí và cầu thị của vua Miến Điện, đó là: "... Bên mặt trời lặn, bên mặt trời mọc, cũng là một trời, chẳng lấy gì làm xa lắm. Từ nay bắc cầu vàng, cầu bạc đi lại với nhau thì càng thêm bền chặt, tươi đẹp”1 (Phan Huy Ích: Dụ Am thi tập, dẫn theo Phan Huy Lê: Tác động và ảnh hưởng của phong trào Tây Sơn trong bối cảnh khu vực cuối thế kỷ XVIII, Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Phú Xuân - Thuận Hóa thời Tây Sơn", Huế, 2001, tr. 21). Vậy là, quan hệ giữa Đại Việt với Miến Điện được giải quyết tốt đẹp.


Riêng trong quan hệ với Vạn Tượng thì gặp phải những khó khăn nhất định. Đó là, vào năm Canh Tuất  (1790), Tây Sơn - Nguyễn Huệ cử sứ giả sang Viêng Chăn thông hiếu nhưng đã bị thế lực thân Xiêm của triều đình Vạn Tượng bắt giữ và giải sang Xiêm (phong kiến Xiêm thống trị Vạn Tượng và lập nên vương triều Chậu Nan (1782-1792)). Trước tình thế này, năm Tân Hợi (1791), Tây Sơn đã đưa quân sang đánh đuổi quân Xiêm ra khỏi Viêng Chăn và truy kích chúng đến tận biên giới. Hành động cứng rắn của Tây Sơn đã được nhân dân và nhiều tù trưởng yêu nước Vạn Tượng hết lòng đồng tình, hưởng ứng cùng chống lại quân Xiêm. Điều này được ghi rõ trong Lịch sử Lào từ thượng cổ đến giữa thế kỷ XIX, như: Chậu Mường Xiêng Khoảng đã đem 3.000 quân phối hợp chiến đấu với quân Tây Sơn. Những năm sau đó, nhiều chúa Lào yêu nước vẫn giữ mối liên hệ với chính quyền Tây Sơn qua đồn Quỳ Hợp và Đốc trấn Nghệ An để thông báo tình hình và mong quân Tây Sơn sang giúp Lào đánh đuổi quân Xiêm.


Tóm lại, trong suốt quá trình chỉ đạo khởi nghĩa và chiến tranh cũng như xây dựng đất nước, việc giao hảo với các quốc gia láng giềng lân bang đã được Tây Sơn sớm chăm lo, giải quyết. Trên cơ sở xem xét, đánh giá thận trọng thế và lực cụ thể của mỗi quốc gia láng giềng, Tây Sơn có những đổi sách khác nhau; song tư tưởng chỉ đạo nhất quán xuyên suất là mềm dẻo, khéo léo nhưng cũng rất cương quyết, nhằm tạo ra sự ổn định trong nội bộ, trong quốc gia để tập trung cho nhiệm vụ chủ yếu. Quan điểm tư tưởng ngoại giao này đã giúp Tây Sơn thành công trong khởi nghĩa, chiến tranh và xây dựng nền quốc phòng bảo vệ Tổ quốc nói riêng, xây dựng đất nước nói chung.


Như vậy, cùng với quá trình khởi nghĩa đánh dẹp các thế lực phong kiến phản động cát cứ, thống nhất đất nước và tiến hành chiến tranh đánh bại các thế lực xâm lược ngoại bang, triều đại Tây Sơn - mà nòng cốt là Tây Sơn - Nguyễn Huệ đã xây dựng nên hệ thống những quan điểm tư tưởng quân sự mới. Đây chính là yếu tố có tính quyết định sự thành công của khởi nghĩa, chiến tranh và sự ra đời, tồn tại, phát triển của triều đại Tây Sơn.


Điều khẳng định là những nội dung tư tưởng quân sự Tây Sơn được kế thừa một cách sáng tạo hệ tư tưởng quân sự của tổ tiên được đúc kết từ lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước từ khởi nguồn đến bấy giờ. Nhưng, điểm sâu sắc nhất ở đây là “tư tưởng quân sự Việt Nam (triều Tây Sơn) đã có sự đánh giá đúng đắn, sâu sắc những tiềm năng cực lớn của quần chúng chiến binh, vốn là những nông nô đã giành được địa vị nông dân tự do: kết hợp tinh thần bất khuất của dân tộc và tinh thần quật khởi của dân chúng lao khổ; tầm quan trọng của hỏa lực, của hậu cần quân sự, đã xác định về cơ bản những hình thức tổ chức các binh chủng của lục quân và thủy quân và đã xác định rõ ràng những phương pháp sử dụng chúng trong chiến tranh”1 (Phạm Ngọc Phụng: Nghệ thuật đánh thắng trong trận đại phá quân Thanh, Kỷ yếu khoa học "Quang Trung - Nguyễn Huệ với chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa", Hà Nội, 1992, tr. 59).


Tư tưởng quân sự Việt Nam triều Tây Sơn đã được minh chứng trong thực tiễn ưu thế của nó đấi với những tư tưởng quân sự của các thế lực xâm lược ngoại bang thời bấy giờ, mà tập trung nhất, điển hình nhất là tư tưởng quân sự của Càn Long dưới triều Mãn Thanh. Tư tưởng quân sự của Càn Long là đánh chiếm đất đai, chứ không phải đánh tiêu diệt quân đội đối phương; là tiến hành những cuộc cơ động khéo léo để đẩy lùi đối phương, buộc đối phương rút lui, đồng thời lại cắt đứt đường rút lui của đối phương, dồn ép đấi phương vào thế bất lợi, nhưng không tiến hành những trận đánh quyết định. Một tư tưởng chỉ đạo như vậy không đòi hỏi phải thắng nhanh. Điều này được minh chứng qua chỉ dụ của Càn Long cho Tôn Sỹ Nghị, rằng: “Cứ từ từ, không gấp vội... Nếu như người trong nước, một nửa theo về Huệ và Huệ không chịu rút quân, thì phải chờ thủy quân Mãn, Quảng vượt biển tiến vào Thuận, Quảng trước, sau đó lục quân mới tiến quân, cả hai mặt, đằng trước đằng sau, Nguyễn Huệ đều bị đánh, tất phải quy phục. Ta nhân đó giữ cả hai”1 (Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, tr. 370). Tư tưởng không tiến hành những trận đánh quyết định - “không đánh mà thắng” của Càn Long là sự vận dụng tư tưởng quân sự của Tôn Tử vào điều kiện mới: "... Trăm trận đánh trăm trận được, không phải là người giỏi trong những người giỏi. Không đánh mà khuất phục được quân của người, ấy là người giỏi trong những người giỏi”2 (Tôn Tử binh pháp, bản dịch của Ngô Văn Triện, Trúc Khê văn xã, Hà Nội, 1953, tr. 49), “cho nên người giỏi dùng binh, đuổi quân của người mà không phải chiến, hạ thành của người mà không phải đánh, hủy nước của người mà không phải lâu”3 (Tôn Tử binh pháp, bản dịch của Ngô Văn Triện, Trúc Khê văn xã, Hà Nội, 1953, tr. 54-55).


Nắm bắt được tư tưởng quân sự của Càn Long, Nguyễn Huệ đã chỉ rõ: “Nhà Thanh từ vua Càn Long lên ngôi đến nay (1788) luôn mưu toan mở rộng bờ cõi, đã chiếm được phía tây, lại toan lấn phía nam. Sự mất còn của nước ta là quyết định ở trận này”1 (Theo Minh đô sử: Tài liệu của Lê Trọng Hàm, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 46). Do vậy, Đại Việt phải giành được toàn thắng, để phương Bắc “từ nay về sau không còn nuôi ý tưởng điên cuồng muốn chiếm lấy đất nước ta làm quận, huyện của chúng nữa”2 (Theo Minh đô sử: Tài liệu của Lê Trọng Hàm, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 46). Và để đối lại với quan điểm tư tưởng quân sự “không đánh mà thắng" của Càn Long, Tây Sơn - Nguyễn Huệ trước sau kiên định quan điểm tư tưởng “tận suất vi binh” - chiến tranh toàn dân và “chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”3 (Ngô gia văn phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Sđd, tr. 359). Một trong những điểm mạnh nhất của tư tưởng quân sự Tây Sơn - Nguyễn Huệ so với tư tưởng quân sự Càn Long là sắc sảo trong nhận định tầm quan trọng và sự cần thiết của việc phân tích nghiêm túc, rất tỉnh táo về tương quan so sánh lực lượng giữa hai bên và tình hình quân sự - chính trị để tuỳ cơ ứng biến. Theo cách nói của Nguyễn Huệ, đó là: Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm dẻo, chứ không phải lấy mạnh đè yếu, lấy nhiều hiếp ít.


Với những quan điểm tư tưởng quân sự toàn diện, sâu sắc, hết sức phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và con người Đại Việt ở vào thời gian nửa cuối thế kỷ XVIII, triều đại Tây Sơn không chỉ làm nên những thắng lợi to lớn trong đánh dẹp thù trong, tạo tiền đề cho thống nhất đất nước, đánh bại các thế lực xâm lược ngoại bang, giành lại chủ quyền cho quốc gia, dân tộc, mà còn góp phần to lớn vào việc bổ sung và phát triển tư tưởng quân sự Việt Nam lên một đỉnh cao mới; thiết thực phục vụ sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ đất nước trong những giai đoạn tiếp sau.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #84 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 09:53:30 am »

Chương IV
TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1858


I- SỰ RA ĐỜI CỦA TRIỀU NGUYỄN VÀ TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Quá trình hình thành triều Nguyễn

Trong suốt thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, tình hình thế giới có những chuyển biến sâu sắc. Tại châu Âu, giai cấp tư sản lần lượt nắm chính quyền ở các nước. Vào những năm 60-70 của thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở Anh, mở đầu thành tựu to lớn của khoa học công nghệ đạt được trong thế kỷ ánh sáng. Trong khi đó, ở Bắc Mỹ, sau thắng lợi của cuộc chiến tranh giành độc lập, chế độ thống trị của giai cấp tư sản được thiết lập ở Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (Mỹ). Hàng hóa các nước tư bản phương Tây và Mỹ tràn sang nước ngoài ngày càng nhiều; ngược lại vàng, bạc, nguyên liệu và nhiều sản vật từ các nước khác cũng tới tấp chuyển về các nước tư bản. Phương Đông là nơi đông dân và tài nguyên phong phú đã trở thành hướng chủ yếu của các nước tư bản phương Tây, đua nhau tràn sang không chỉ tìm thị trường tiêu thụ hàng hóa, mà còn là nơi để đầu tư và khai thác nguồn nguyên liệu cho nền công nghiệp "chính quốc”, vì mục đích phát triển siêu lợi nhuận của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.


Vận mệnh các nước phương Đông đứng trước nguy cơ bị chủ nghĩa tư bản thực dân phương Tây đe dọa, chiếm đoạt thị trường, ở châu Á, trước mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến và giai cấp nông dân ngày càng trở nên sâu sắc, không thể dung hòa, chế độ phong kiến thống trị ở nhiều nước bị lung lay, thậm chí tan rã. Trước tình hình các nước tư bản phường Tây tràn sang, mỗi nước ở khu vực châu Á đều chịu tác động, ảnh hưởng nhiều mặt, trong đó có vấn đề quân sự và tư tưởng quân sự ở mức độ khác nhau.


Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam từ lâu đã là một quốc gia độc lập, thống nhất. Những cơ sở tạo dựng sự tồn tại và sức sống mãnh liệt của dân tộc chính là nền tảng tư tưởng, trong đó có tư tưởng quân sự của khối đoàn kết thống nhất và ý chí quyết tâm bảo vệ vững chắc nền độc lập của toàn thể dân tộc Việt Nam. Quán triệt quan điểm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia thống nhất, các nhà nước phong kiến Việt Nam vì quyền lợi, nguyện vọng, ý chí thiêng liêng của dân tộc đã đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn, trong đó có các vấn đề về quan điểm, tư tưởng quân sự và tổ chức lãnh đạo quân đội và nhân dân quyết tâm giữ gìn và phát huy mạnh mẽ truyền thấng quân sự dân tộc, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển cơ bản của xã hội, phù hợp với lợi ích tối cao của dân tộc, theo kịp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại.


Bước vào thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, sâu sắc. Ở Đàng Ngoài (từ sông Gianh, Quảng Bình trở ra Bắc), dưới chế độ thống trị họ Trịnh, đời sống của nhân dân, nhất là nông dân hết sức khó khăn, nghèo khổ, đói kém, dẫn đến phong trào nông dân khởi nghĩa diễn ra mạnh mẽ ở nhiều vùng, suốt từ miền đồng bằng, trung du lên miền núi. Mặc dù phong trào đấu tranh của nhân dân, chủ yếu là nông dân chưa giành được thắng lợi, nhưng nó đã tác động mạnh, rung chuyển cả xã hội, làm lung lay nền thống trị của tập đoàn phong kiến họ Trịnh.


Trong khi đó, ở Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam), dưới chế độ thống trị họ Nguyễn, nhân dân từ lâu đã bất bình trước các chính sách, không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Đời sống của các tầng lớp nhân dân vô cùng khổ cực. Phong trào khởi nghĩa của nhân dân Đàng Trong nổ ra chậm hơn so với Đàng Ngoài, nhưng mạnh mẽ, quyết liệt, báo hiệu bước chuẩn bị cho phong trào đấu tranh sẽ diễn ra với quy mô to lớn chống chế độ thống trị họ Nguyễn.


Mùa xuân năm Tân Mão (1771), một cuộc khởi nghĩa nông dân, do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo, bùng nổ ở ấp Tây Sơn thuộc phủ Quy Nhơn (vùng giáp giới giữa hai tĩnh Bình Định và Kon Tum ngày nay). Cuối năm Quý Tỵ (1773), thanh thế nghĩa quân Tây Sơn ngày càng lan rộng, thu hút các tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân tham gia, trở thành phong trào cách mạng nông dân rộng lớn, kiểm soát từ Quảng Nam tới Bình Thuận, ngăn đôi địa phận thống trị của tập đoàn phong kiến họ Nguyễn ở Đàng Trong.


Từ đây, các cuộc xung đột quân sự diễn ra mạnh mẽ ở Đàng Trong. Lợi dụng sự suy yếu của tập đoàn phong kiến họ Nguyễn, quân Trịnh mở cuộc tiến công vào Đàng Trong. Cuối năm Giáp Ngọ (1774), ba vạn quân Trịnh vượt sông Gianh, đánh chiếm hệ thấng đồn lũy quân Nguyễn, rồi tiến vào chiếm Phú Xuân (Huế), buộc tập đoàn phong kiến thống trị họ Nguyễn rút chạy vào Quảng Nam, sau đó dùng thuyền vượt biển vào vùng Gia Định để củng cố, tập hợp lực lượng chờ thời cơ phản công.


Đầu năm Ẫt Mùi (1775), quân Trịnh bắt đầu tiến công vào các vùng kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn. Trong khi đó, quân Nguyễn sau khi củng cố lực lượng ở Gia Định, cũng ra sức phản công chiếm lại các vùng bị mất từ Bình Thuận ra Phú Yên. Nhằm tránh thế bị hai lực lượng: quân Nguyễn từ phía Nam đánh ra và quân Trịnh từ ngoài Bắc đánh vào, nghĩa quân Tây Sơn thực hiện sách lược tạm hòa hoãn vói quân Trịnh để tập trung lực lượng đánh quân Nguyễn trước.


Sau khi tạm thời hòa hoãn với quân Trịnh ở phía Bắc, từ năm Bính Thân (1776) đến năm Quý Mão (1783), nghĩa quân Tây Sơn tập trung lực lượng năm lần tiến công vào Gia Định (1776, 1777, 1778, 1782 và 1783), đánh thiệt hại nặng quân Nguyễn, buộc Nguyễn Ánh cùng một bộ phận lực lượng phải lánh ra đảo Phú Quốc. Sau đó, Nguyễn Ánh đem quân trở lại đánh Gia Định, bị quân Tây Sơn tiến công dồn dập nên tan rã, buộc phải rút sang Xiêm (Thái Lan). Chế độ thống trị của tập đoàn phong kiến họ Nguyễn được thiết lập hai năm bị đánh đổ. Nghĩa quân Tây Sơn đã lập nên những chiến công hiển hách, thể hiện sức mạnh quân sự của dân tộc, đánh đổ tập đoàn phong kiến họ Nguyễn; tiếp đó, đánh đổ chế độ thống trị tập đoàn phong kiến họ Trịnh; đặc biệt là tiêu diệt quân Xiêm, quân Thanh xâm lược, giành lại chủ quyền dân tộc, thống nhất đất nước và đề ra những cải cách tiến bộ, trong đó có cải cách thể hiện trên lĩnh vực tư tưởng quân sự. Nhưng triều Tây Sơn bắt đầu lâm nguy sau khi vua Quang Trung đột ngột từ trần năm Nhâm Tý (1792).


Lợi dụng triều Tây Sơn đang tập trung lực lượng đối phó với kẻ thù ở phía Bắc, tháng 7 năm Giáp Thìn (1784), được quân Xiêm giúp sức, Nguyễn Ánh đưa quân về chiếm Gia Định, hòng xây dựng lực lượng, tạo bàn đạp để tiến hành đánh đổ triều Tây Sơn. Tuy nhiên, do lực lượng còn hạn chế và triều Tây Sơn còn mạnh, nên Nguyễn Ánh chưa thể thực hiện được mưu đồ đó.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #85 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 09:54:29 am »

Cuối thế kỷ XVIII, đại diện các công ty tư bản và giáo hội ở một số nước phương Tây (như Pháp, Anh, Bồ Đào Nha, Hà Lan...) đã mở rộng các hoạt động sang phương Đông, trong đó Việt Nam là một trọng điểm. Chúng tìm cách liên lạc và viện trợ cho tập đoàn phong kiến họ Nguyễn ở Gia Định. Cuối cùng, được giám mục Bá Đa Lộc1 (Bá Đa Lộc là một người Pháp mang tên Pierre Joseph Georges Pigneau, sinh ngày 2-9-1741 ở Béhaine, quận Aisne, Pháp) dẫn dắt, Nguyễn Ánh đề quyết định dựa vào tư bản Pháp để đánh dẹp Tây Sơn, xây dựng cơ đồ. Cuối năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh nhờ Bá Đa Lộc làm đại diện, dẫn đầu một phái đoàn sang cầu cứu chính phủ Pháp. Kết quả, ngày 28 tháng 11 năm Đinh Mùi (1787), tại Vécxây (Pháp), Bá Đa Lộc đại diện cho Nguyễn Ánh và bá tước Môngmôrin (Comte de Montmorin), đại diện vua nước Pháp Lui XVI ký một bản Hiệp ước "Tương trợ tiến công và phòng thủ" (còn gọi là Hiệp ước Vécxây), gồm 10 điều khoản, nội dung chủ yếu là:

1. Nguyễn Ánh nhượng hẳn cho Pháp đảo Côn Lôn, cửa biển Hội An và cam kết cho tư bản Pháp nắm độc quyền tự do buôn bán trên cả nước; được xuất khẩu, nhập khẩu mọi hàng hóa. Đồng thời, cung cấp binh lính, lương thực cho Pháp khi có chiến tranh giữa Pháp với một nước ở phương Đông.

2. Chính phủ Pháp nhận giúp Nguyễn Ánh 4 tàu chiến và một đội quân gồm 1.650 người, 200 pháo binh cùng vũ khí, quân trang.


Vậy là, Nguyễn Ánh đã tự mở cửa đất nước, tạo cơ hội cho các nước tư bản phương Tây, trước nhất là Pháp từng bước thâm nhập, can thiệp nhiều mặt, trong đó tập trung giúp tập đoàn phong kiến họ Nguyễn tăng cường sức mạnh quân sự, hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia thống nhất của nhân dân Việt Nam. Thế nhưng, nước Pháp lúc đó đang trong giai đoạn khủng hoảng chính trị nghiêm trọng, dẫn đến cuộc cách mạng tư sản năm 1789, vì thế, Hiệp ước Vécxây không thực hiện được. Mặc dù vậy, Bá Đa Lộc vẫn không bỏ lỡ cơ hội vì các cam kết của Hiệp ước Vécxây rất có lợi cho tư bản Pháp. Bá Đa Lộc tự đứng ra vận động tư bản các nước thuộc địa của Pháp ở phương Đông, bỏ tiền mua sắm một số vũ khí và tuyển mộ quân sang giúp Nguyễn Ánh. Trong hai năm 1788 và 1791, các tàu của tư bản phương Tây, trong đó có cả người Pháp, Anh, Bồ Đào Nha lần lượt cập bến Gia Định, góp phần tăng thêm lực lượng và phương tiện quân sự cho tập đoàn phong kiến Nguyễn Ánh. Mặc dù số người và vũ khí tư bản phương Tây đưa đến không nhiều, nhưng cũng có tác dụng nhất định trong việc tăng cường thêm một bước sức mạnh quân sự cho quân Nguyễn.


Sau một thời gian củng cố, tăng cường lực lượng nhân cơ hội triều Tây Sơn đang lo đối phó với nguy cơ xâm lược của nhà Thanh ở phía Bắc, Nguyễn Ánh tập trung lực lượng đánh chiếm một số địa bàn ở đồng bằng sông cửu Long. Tháng 8 năm Mậu Thân (1788), quân Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây Sơn ở Gia Định và một số vùng lân cận. Ngay sau đó, được sự ủng hộ của giai cấp địa chủ, Nguyễn Ánh đã tập trung củng cố, xây dựng Gia Định thành một căn cứ vững chắc, tạo bàn đạp chuẩn bị cho các cuộc tiến công tiêu diệt quân Tây Sơn.


Về tổ chức hành chính, đầu năm Kỷ Dậu (1789), Nguyễn Ánh lệnh duyệt lại bản đồ các dinh, phân chia địa giới ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ để dễ quản lý. Đồng thời, đổi đạo Trường Đồn (nằm ở nơi xung yếu ba dinh) làm dinh Trường Đồn (tức Định Tường sau này), gồm một huyện (Kiến An), ba tổng (Kiến Đăng, Kiến Hưng, Kiến Hòa) và đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục cai trị. Mặt khác, Nguyễn Ánh còn đặt quan công đường ở hai dinh Phiên Trấn, Trấn Biên. Tiếp đó, đặt thêm các đạo, các đồn ở những nơi xung yếu và cử người giữ chức thủ ngự trông coi, kiêm cả thu thuế.


Sau khi chấn chỉnh về mặt hành chính, Nguyễn Ánh chủ trương xây dựng Gia Định theo quy mô, tổ chức như một quốc gia thu nhỏ, đặt sứ quán gồm hai tòa nhà, làm nơi cư trú cho sứ giả các nước láng giềng đến. Một đội lính vệ gồm 20 người, được cử thường xuyên canh giữ thành Gia Định. Tháng 3 năm Canh Tuất (1790), Nguyễn Ánh ra lệnh xây thành Gia Định quy mô lớn theo kiểu bát giác, gồm có 8 cửa ngang dọc với 8 lối đi; các mặt đông tây, nam bắc mỗi mặt dài 131 trượng 8 thưóc. Bên ngoài thành đào hệ thống hào sâu bao quanh, phía ngoài hào là đường phố, nơi cư trú của nhân dân, bên phải và bên trái có trục đường thẳng trồng cây xanh, gọi là đường thiên lý. Phía bên trong, dựng nhà Thái Miếu, kho chứa, cục chế tạo, điện Kiến Phương, điện Kim An, điện Kim Hoa và gác Triệu Dương. Mặt đằng sau xây dựng một hậu điện để Quốc mẫu ở. Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn lệnh xây dựng một số doanh trại cho quân túc vệ đóng giữ, bảo vệ thành, ở khu vực giữa sân của thành cho xây dựng kỳ đài, gồm ba tầng, trong đó tầng trên cùng là tòa bát giác vọng đẩu, ban ngày treo cờ, ban đêm đốt đèn làm hiệu lệnh, kịp thời báo động khi cần. 


Sau khi thành Gia Định xây dựng xong, Nguyễn Ánh đổi tên gọi là kinh Gia Định. Để có thêm lực lượng trấn giữ, Nguyễn Ánh lệnh cho các dinh phải chiêu mộ dân lưu tán đến dinh Gia Định để sắp xếp công việc làm ăn, sinh sống. Đồng thời, định ra các lệnh bắt trộm, quy định nơi nào xảy ra trộm cướp, không bắt được kẻ gian thì quan sở tại phải bỏ tiền ra đền người bị mất tài sản và ban bố lệnh cấm đánh bạc dưới mọi hình thức. Những chủ trương, biện pháp này, cùng một số chính sách khác đã góp phần tạo cơ sở cho Nguyễn Ánh giữ gìn trật tự, ổn định tình hình Gia Định để tiếp tục xây dựng, củng cố lực lượng quân sự.


Về quân sự, nhờ gây dựng được cơ sở và dựa vào một số địa chủ chiêu mộ quân sĩ, khi từ Xiêm trở về Gia Định, Nguyễn Ánh đã tập hợp được khoảng 300 quân với hơn 20 chiến thuyền. Tiếp đó, Nguyễn Ánh cử Nguyễn Văn Tồn đứng ra chiêu mộ dân ở vùng dân tộc thiểu số, lập ra đồn lính Chiêm (sau Gia Long đổi tên là đồn Uy Viễn) và đặt hai vệ Vũ Cự, chiêu mộ dân hai thôn An Hòa và Tân Hòa thuộc huyện An Xuyên, tỉnh An Giang. Sau một thời gian xây dựng, phát triển lực lượng, đến năm Canh Tuất (1790), Nguyễn Ánh có đội quân đông tới 3 vạn, được tổ chức tương đối thống nhất.


Nguyễn Ánh rất chú trọng đến việc đắp thành lũy phòng thủ ở các dinh và trấn, đặc biệt là huy động lực lượng xây dựng hai thành Giác Ngư và Thảo Câu ở bên ngoài, để bảo vệ thành Gia Định. Tháng 10 năm Kỷ Dậu (1789), Nguyễn Ánh định lệ cho quân sĩ làm nhiệm vụ canh giữ, chia làm ba phiên, cứ một phiên ứng trực thì hai phiên được nghỉ ngơi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #86 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 09:56:10 am »

Về kinh tế, Nguyễn Ánh chú ý phát triển nông nghiệp nhằm tạo nguồn lương thực dự trữ cho các cuộc xung đột quân sự chống triều Tây Sơn. Năm 1789, Nguyễn Ánh ra lệnh chiêu mộ dân các nơi lưu tán tập trung sản xuất nông nghiệp. Tiếp đó đặt chức điền tuấn, cử Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Chu Minh Khánh, Ngô Tòng Chu và 20 người kiêm công việc canh nông, luân phiên nhau đến 4 dinh, khuyến khích dân làm ruộng. Năm 1790, Nguyễn Ánh ra dụ đốc thúc nhân dân tích cực làm ruộng và quy định các quan địa phương, quan điền tuấn phải thường xuyên kiểm tra, xem xét sản lượng thu hoạch từng mùa, từng năm, lập sổ sách trình lên để có chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp phù hợp, nhằm cung cấp lương thực cho chính quyền họ Nguyễn, trong đó một phần dành cho quân đội.


Nguyễn Ánh cũng quan tâm phát triển công nghiệp. Ngoài xưởng đóng thuyền, năm 1789 Nguyễn Ánh ra lệnh đóng 40 chiến thuyền lớn, 100 thuyền đi biển, ở 4 dinh đều có cục đóng thuyền. Nguyễn Ánh quy định các loại thuyền nước ngoài được mang một số hàng hóa cập bến buôn bán. Năm Tân Hợi (1791), Nguyễn Ánh ra lệnh giảm một nửa thuế thuyền buôn nước ngoài đến buôn bán ở Long Xuyên.


Về văn hóa - xã hội, Nguyễn Ánh chủ trương tuyên truyền, tập hợp lực lượng và gây ảnh hưởng, thu hút sự ủng hộ của nhân dân. Năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Ánh ra dụ “mở rộng đường ngôn luận”, mong người dân đóng góp ý kiến vào chính sự, “lời nói đúng sẽ dùng ngay và sẽ có ban tước thưởng, lời nói không hợp lý cũng bỏ đi, không bắt buộc”1 (Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1960, t.III, tr.866). Đồng thời, chăm lo đào tạo đội ngũ quan lại, sĩ phu trung thành với họ Nguyễn. Tháng 9-1788, Nguyễn Ánh cho thành lập Viện Hàn lâm, cử Phạm Như Đăng, Trần Đại Luật, Trịnh Hoài Đức, Hoàng Minh Khánh, Lê Quang Định, Ngô Tòng Chu tham gia chuyên trách các công việc của viện. Năm 1791, mở khoa thi đầu tiên ở Gia Định, có hai hệ đệ nhất và đệ nhị, tuyển những người thi đỗ vào học, trong đó có một số sau này được chuyển vào phục vụ trong quân đội họ Nguyễn.


Trong thời gian củng cố, xây dựng lực lượng quân sự ở Gia Định, Nguyễn Ánh cử người bí mật đến một số nơi do triều Tây Sơn quản lý, nhất là từ Thuận Hóa trở ra, điều tra nắm tình hình, chiêu dụ nhân dân ủng hộ họ Nguyễn. Năm 1790, cai cơ Nguyễn Đình Đắc được cử ra Bắc Hà thăm dò tin tức vua Lê và chiêu dụ tầng lớp địa chủ, quan lại ngoài Bắc. Đầu năm 1791, Lê Đại Nghĩa, Nguyễn Đàn nắm tình hình Thuận Hóa báo với Nguyễn Ánh. Sau một thời gian ngắn khẩn trương xây dựng lực lượng, đặc biệt là lực lượng quân sự, Gia Định đã trở thành căn cứ tương đối vững chắc để Nguyễn Ánh làm bàn đạp mở các cuộc tiến công quân Tây Sơn.


Theo dõi chặt chẽ mọi hoạt động quân sự của Nguyễn Ánh và nhận rõ nguy cơ đe dọa đến sự an nguy của vương triều Tây Sơn, năm Nhâm Tý (1792), Quang Trung chuẩn bị mở một cuộc tiến công lớn tiêu diệt quân Nguyễn ở Gia Định. Tiếc rằng, kế hoạch đã không thực hiện được, do Quang Trung đột ngột từ trần ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (ngày 16-9-1792). Đây là tổn thất lớn đối với triều Tây Sơn và dân tộc ta cuối thế kỷ XVIII. Nguyễn Quang Toản nối ngôi nhưng còn ít tuổi, chưa đủ năng lực và uy tín nối nghiệp cha. Nội bộ triều Tây Sơn phân hóa do tranh giành quyền lực, làm cho chính quyền mới bị suy yếu, trong đó về quân sự không còn mạnh như những năm trước đó.


Nhân cơ hội này, Nguyễn Ánh tập trung lực lượng phản công vào các vùng địa bàn do triều Tây Sơn quản lý. Sau hai lần tiến công ra Phan Rí, Bình Thuận vào các năm Canh Tuất (1790), và Nhâm Tý (1792) thất bại, tháng 4 năm Quý Sửu (1793), Nguyễn Ánh huy động hai cánh quân thủy, bộ tiến đánh thành Quy Nhơn lần thứ nhất. Trước đây, các sử gia Pháp khi đề cập đến quân Nguyễn, thường đánh giá cao vai trò giúp đỡ của Bá Đa Lộc đối với Nguyễn Ánh, coi đó là nhân tố quan trọng bảo đảm cho thắng lợi của quân Nguyễn. Thực tế trận đánh thành Quy Nhơn, trong bộ binh có khoảng 40 người châu Âu thì có một người chỉ huy cả một đạo quân 600 người; còn thủy quân có 2 tàu phương Tây, trang bị đầy đủ vũ khí. Trong tổng số quân và khí giới đó, không phải chỉ có Bá Đa Lộc giúp, mà Nguyễn Ánh cũng chiêu mộ được một số người Anh, Bồ Đào Nha tham gia và nhờ họ mua sắm thêm vũ khí. Nhờ sự giúp đỡ của tư bản Pháp và một số người Anh, Bồ Đào Nha, Nguyễn Ánh đã có thêm vũ khí trang bị tăng cường cho quân đội. Song nguồn sức mạnh quân sự chủ yếu chính là nỗ lực của Nguyễn Ánh và sự giúp sức của giai cấp địa chủ, một bộ phận nhân dân Gia Định và vùng lân cận. Tuy nhiên, thực lực sức mạnh của quân Nguyễn còn hạn chế, thêm vào đó là nạn bão lũ, Nguyễn Ánh buộc phải dừng cuộc tiến công, chỉ để lại một bộ phận lực lượng trấn giữ Phú Yên, Bình Thuận, thành Diên Khánh, còn đại bộ phận lực lượng rút về Gia Định, chờ thời cơ thuận lợi để tiến công.


Sau một thời gian củng cố lực lượng, tháng 5 năm Đinh Tỵ (1797), Nguyễn Ánh tập trung quân tiến công thành Quy Nhơn lần thứ hai và tháng 5 năm Kỷ Mùi (1799) đánh lần thứ ba. Trước sức tiến công của quân Nguyễn, quân Tây Sơn do Lê Văn Thanh - Tổng binh trấn thủ Quy Nhơn chỉ huy không thấy viện binh đến ứng cứu liền viết thư cho Nguyễn Ánh xin trao thành ra hàng. Nguyễn Anh chiếm thành Quỵ Nhơn, chiêu dụ dân chúng ban thưởng cho những quan lại ủng hộ quân Nguyễn là 5.000 quan tiền và đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định. Sau đó, Nguyễn Ánh cử một bộ phận lực lượng ở lại trấn giữ Bình Định, còn phần lớn lực lượng chuyển vào Gia Định.


Như vậy, ranh giới lãnh thổ kiểm soát của tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn được mở rộng và củng cố, từ Gia Định đến Diên Khánh. Đặc biệt, hậu phương của tập đoàn phong kiến họ Nguyễn không hề bị quấy phá, Gia Định ngày càng ổn định về chính trị và phát triển về kinh tế.


Họ Nguyễn không những có đủ lương thực nuôi quân, sắm sửa vũ khí, mà còn tạo được người tích trữ, bảo đảm cho binh lính chiến đấu dài ngày. Đại Nam thực lục chính biên ghi: Năm Nhâm Tý (1792), nhà Nguyễn đặt những nhà trạm và kho chứa gạo, từ Gia Định đến Bình Thuận, mỗi nơi chứa từ 500 đến 1.000 phương gạo. Cuối năm Đinh Tỵ (1797), Nguyễn Ánh lệnh chuyển 1.000 phương gạo từ Gia Định ra chứa ở đồn Ma Ly, miền núi gần Phan Rang. Tháng 6 năm Mậu Ngọ (1798), vận tải từ Gia Định lên trữ ở Diên Khánh với 12.100 phương gạo, 55.500 hộc thóc. Tháng 2 năm Kỷ Mùi (1799), đặt 3 kho tạm ở Cù Huân để tích trữ 169.000 phương gạo, chuyển từ Gia Định tới. Cuối năm Kỷ Mùi (1799), chuyển 3.000 phương gạo và 7.0000 quan từ Gia Định ra trữ ở đảo Hưng Phúc1 (Xem Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Sđd, t.III, tr. 373). Sự ổn định về chính trị và phát triển về kinh tế đã tạo thuận lợi cho Nguyễn Ánh tập trung lực lượng quân sự, uy hiếp nghiêm trọng triều Tây Sơn. Đầu năm Canh Thân (1800), tương quan lực lượng quân sự đã có sự thay đổi ngày càng có lợi cho tập đoàn phong kiến họ Nguyễn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #87 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 09:56:51 am »

Tháng 2 năm cành Thân (1800), quân Tây Sơn tiến công chiếm lại Bình Định. Nguyễn Ánh chuyển quân vể Cù Mông, đóng thêm 50 chiến thuyền và 20 thuyền hỏa công, chuẩn bị cuộc tiến công mới. Tháng 2 năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Ánh huy động 1.200 quân, đánh vào cửa biển Thị Nại gây thiệt hại nặng cho quân Tây Sơn, buộc Vũ Văn Dũng phải rút bộ phận còn lại vào hợp sức cùng Trần Quang Diệu, giữ thành Quy Nhơn (Bình Định). Đây là trận thắng quan trọng của quân Nguyễn, mở đầu giai đoạn chuyển sang tiến công quân Tây Sơn.


Phát huy thế thắng, từ tháng 3 đến tháng 4 năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Ánh cử Nguyễn Văn Trương dẫn quân đánh chiếm Quảng Ngãi và Quảng Nam; sau đó, tập trung 1.0000 quân và 300 chiến thuyền đóng giữ, nhằm chặn đường rút của quân Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng. Quân của Võ Tánh ở trong thành Quy Nhơn bị bao vây, gặp khó khăn do thiếu lương thực, thực phẩm. Nhân cơ hội đó, Nguyễn Ánh cử người vào thành khuyên Võ Tánh đầu hàng. Võ Tánh quy hàng và hiến kế cho Nguyễn Ánh nên nhân cơ hội quân Tây Sơn đang tập trung ở Quy Nhơn đem quân đánh Phú Xuân.


Theo kế của Võ Tánh, Nguyễn Ánh để một bộ phận lực lượng, do Nguyễn Văn Thành chỉ huy đối phó với Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng ở Quy Nhơn, còn đại bộ phận lực lượng nhanh chóng cơ động ra đánh thành Phú Xuân. Tháng 6 năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Ánh tiến công thành Phú Xuân. Bị tiến công bất ngờ với sức mạnh áp đảo của quân Nguyễn, sau nửa ngày chiến đấu, quân Tây Sơn vỡ trận, tan rã. Nguyễn Quang Toản cùng một bộ phận quân Tây Sơn bỏ thành chạy ra Bắc. Quân Nguyễn Ánh tràn vào chiếm thành Phú Xuân.


Tháng 7 năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Ánh quyết định đánh thành Quy Nhơn (Bình Định). Quân Nguyễn chia làm ba cánh: một cánh do Lê Văn Duyệt, Lê Văn Chất chỉ huy, từ phía Quảng Ngãi đánh vào; một cánh do Nguyễn Văn Thành chỉ huy, từ cửa Thị Nại đánh lên và một cánh do Nguyễn Văn Tính chỉ huy, từ phía Phú Yên đánh ra. Bị bao vây cô lập nhiều ngày, nên trước sức tiến công mãnh liệt của quân Nguyễn từ nhiểu phía, tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802), quân Tây Sơn bỏ thành rút vào rừng, sau đó sang Lào rồi chuyển ra vùng Nghệ An. Nguyễn Ánh cử Nguyễn Văn Thành chỉ huy một bộ phận lực lượng ở lại trấn giữ Bình Định, còn đại bộ phận lực lượng chuyển về Phú Xuân.


Sau khi ổn định tình hình Phú Xuân, Nguyễn Ánh phân công các tướng chỉ huy quân phụ trách từng địa bàn. Nguyễn Văn Trương, Đặng Trần Thường đóng giữ vùng sông Gianh, Lê Chất bố trí quân đóng giữ từ Đồng Hới trở vào. Tiếp đó, Nguyễn Ánh định lệ cho 4 vạn quân đóng từ Bến Đá (Thạch Tân) đến sông Gianh, 3 vạn quân đóng ở Quy Nhơn (Bình Định); đồng thời cử Trương Công Vỹ (người Bắc Hà) đem mật chỉ dụ tầng lớp địa chủ ngoài Bắc và dân chúng các vùng Nghệ An, Thanh Hóa ủng hộ khi quân Nguyễn tiến ra đánh quân Tây Sơn.


Vua Quang Toản rút ra đến Thăng Long, đổi lại niên hiệu là Bảo Hưng và truyền hịch, kêu gọi nhân dân gia nhập quân Tây Sơn, chuẩn bị phản công quân Nguyễn.


Trước khi tiến quân ra Bắc, ngày 1 tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh) lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long và định đô ở Phú Xuân (Huế), khai sinh ra triều Nguyễn.


Sau khi lên ngôi vua, mở đầu triều Nguyễn, ngày 1-6-1802 (Nhâm Tuất), Gia Long cử Nguyễn Văn Trương làm đại tướng quân, chỉ huy thủy quân và Lê Văn Duyệt làm đại tướng quân, chỉ huy bộ binh, từ Phú Xuân tiến ra Bắc. Ngày 26 tháng 6, đạo quân thủy đánh tan quân Tây Sơn ở Hoành Sơn và ngày 27 tháng 6, chiếm Hà Trung. Ngày 28 tháng 6, đạo quân bộ tiến công tiêu diệt quân Tây Sơn ở Đại Nại. Ngày 30 tháng 6, thủy quân tiến vào Cửa Hội, đánh tan quân Tây Sơn, chiếm Vĩnh Dinh, bắt Nguyễn Lân (con Nguyễn Nhạc). Tiếp đó, quân Nguyễn lần lượt đánh chiếm Nghệ An (2-7), Thanh Hóa (4-7), Ninh Bình, Phủ Lý, Nam Định (8-7), bắt một số tướng quân Tây Sơn như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Vũ Văn Dũng, Từ Văn Chiêu... Ngày 20-7-1802, quân Nguyễn mở cuộc tổng tiến công đánh bại hoàn toàn quân Tây Sơn, chiếm thành Thăng Long. Bộ phận quân Tây Sơn còn lại gồm Nguyễn Quang Toản, Quang Thùy, Quang Dung, Quang Thiệu cùng với tư mã Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ, đô đốc Tú rút chạy lên vùng Xương Giang (Bắc Giang) cũng bị bắt. Đến đây, triều Tây Sơn bị sụp đổ hoàn toàn.


Như vậy, sau hơn 20 năm gây dựng lực lượng quân sự, cuộc chiến tranh giữa tập đoàn phong kiến họ Nguyễn, do Nguyễn Ánh đứng đầu chống lại triều Tây Sơn, cuối cùng đã kết thúc. Thắng lợi của Nguyễn Ánh do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân liên quan đến sức mạnh quân sự và lĩnh vực tư tưởng quân sự. Đó là tư tưởng dựa vào giai cấp địa chủ trong nước, nhất là tầng lớp đại địa chủ ở Gia Định, làm lực lượng hậu thuẫn quan trọng trong cuộc chiến tranh chống lại triều Tây Sơn. Nguyễn Ánh đã nhanh chóng xây dựng Gia Định thành một căn cứ vững chắc để từ đó phản công, tiến công làm chủ vùng lãnh thổ phía Nam và khi tiến ra Bắc, đến đâu, quân Nguyễn đều được phần lớn địa chủ ở các địa phương đó hậu thuẫn. Bên cạnh việc tuyên truyền, lôi kéo được đông đảo giai cấp địa chủ hưởng ứng, Nguyễn Ánh còn gây được ảnh hưởng nhất định, thu hút được một bộ phận nhân dân ủng hộ trong lúc triều Tây Sơn đang suy yếu.


Bên cạnh đó là tư tưởng dựa vào bên ngoài. Sự giúp đỡ của tư bản phương Tây, chủ yếu là Pháp về người, tàu chiến, vũ khí trang bị cũng cố tác dụng nhất định đến sự phát triển lực lượng quân đội Nguyễn Ánh. Mặc dù sự giúp đỡ về kỹ thuật đóng tàu, đúc súng, chế đạn, xây dựng thành lũy của tư bản Pháp và một số nước tư bản khác còn ít, nhưng cũng ít nhiều ảnh hưởng đến việc nâng cao kỹ thuật quân sự, sức mạnh chiến đấu của quân Nguyễn.


Những yếu tố về tư tưởng quân sự trên đây, cùng một số quan điểm tư tưởng quân sự khác được Nguyễn Ánh vận dụng để củng cố, phát triển lực lượng quân đội đã tạo nên sức mạnh quân sự để giành thắng lợi. Từ đây, triều Tây Sơn, triều đại tiến bộ trong lịch sử dân tộc được thay bằng một vương triều mới - triều Nguyễn1 (Theo tài liệu nghiên cứu của Nguyễn Đắc Xuân, triều Nguyễn kéo dài 143 năm (từ năm 1802 đến năm 1945), với 13 đời vua: Gia Long (1802-1819), Minh Mạng (1802-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883), Dục Đức (17-7 - 29-7-1883), Hiệp Hòa (6-1883 - 11-1883), Kiến Phúc (12-1883 - 6-1884), Hàm Nghi (8-1884 - 7-1885), Đồng Khánh (1885-1888), Thành Thái (1889-1907), Duy Tân (1907-1916), Khải Định (1916-1935), Bảo Đại (1926-1945)). Đây cũng là triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #88 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 10:05:30 am »

2. Tình hình chính trị - xã hội và kinh tế, văn hóa

a) Về chính trị - xã hội

Triều Nguyễn được lập ra, nhờ dựa chủ yếu vào giai cấp địa chủ, cùng sự giúp sức ở chừng mực nhất định của thế lực tư bản phương Tây, trong đó có tư bản Pháp để củng cố, phát triển lực lượng quân sự, tiến hành phản công, tiến công, lật đổ triều Tây Sơn, thiết lập nền thống trị trong cả nước.


Nước Việt Nam, quốc hiệu đặt năm Giáp Tý (1804) và Đại Nam năm Nhâm Tuất (1838), là một quốc gia thống nhất trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ. Trong hoàn cảnh mới rộng dài về cương vực lãnh thổ, những tập đoàn phong kiến cát cứ không còn, mâu thuẫn trong nội bộ vương triều đã được hóa giải, nền độc lập được bảo toàn, vương triều Nguyễn từ năm Nhâm Tuất (1802), bước vào củng cố nền độc lập thống nhất, sau mấy trăm năm phân quyền cát cứ và chiến tranh loạn ly. “Trên lãnh thổ thống nhất đó, triều Nguyễn xây dựng một cơ chế quân chủ, tập quyền mạnh mẽ với một bộ máy hành chính và một thiết chế vận hành quy củ, chặt chẽ”1 (Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội Sử học Việt Nam: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Sđd, tr. 19).


Trong giai đoạn đầu triều Nguyễn, bộ máy hành chính các cấp còn nặng về tính chất quân sự, đứng đầu thường là các võ tướng có công đối với họ Nguyễn. Lãnh thổ đất nước trải dài, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, được chia thành ba khu vực. Từ Thanh Hóa trở vào đến Bình Thuận, với trung tâm là Phú Xuân, do triều đình trực tiếp quản lý. Từ Sơn Nam trở ra Bắc, gồm 11 trấn gọi là Bắc thành. Từ Trấn Biên trở vào Nam, gồm 5 dinh gọi là Gia Định thành1 (Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự Việt Nam: Hoạt động quân sự từ năm 1802 đến năm 1896, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.9, tr. 23).


Đứng đầu Bắc thành và Gia Định thành là một võ quan đại thần, được toàn quyền xử lý mọi công việc và thường xuyên phải báo cáo tình hinh về triều đình. Sau gần 30 năm tồn tại (1802-1831), các chức tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành bị xem là cản trở đến quyền lực điều hành của chính quyền trung ương. Đáng lưu ý là thời gian Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc thành và Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định thành, triều đình Trung ương hầu như không kiểm soát nổi hai vùng này, bởi công lao và uy tín của hai Tổng trấn này có công khai quốc triều Nguyễn quá lớn. Vì thế, trong 2 năm Tân Mão - Nhâm Thìn (1831-1832), thực hiện việc cải cách hành chính trong cả nước, vua Minh Mạng đã ra lệnh bãi bỏ hai đơn vị hành chính Bắc thành và Gia Định thành; đồng thời xóa bỏ hai chức tổng trấn, cùng các chức trấn thủ, hiệp trấn và tham hiệp đứng đầu các trấn, nhằm tăng quyền lực vào chính quyền trung ương. Lúc này, cả nước chia thành 30 tỉnh (10 tỉnh lớn, 10 tỉnh vừa và 10 tỉnh nhỏ) và phủ Thừa Thiên trực thuộc trung ương. Hệ thống chính quyền trong cả nước gồm bốn cấp: triều đình trung ương; tỉnh; phủ, huyện, châu và tổng, xã được duy trì hết thời Nguyễn.


Bộ máy chính quyền trung ương được tổ chức khá hoàn chỉnh. Đứng đầu triều đình là vua (Hoàng để), có quyền lực tối cao, nắm mọi quyền hành trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước; đồng thời là người thống lĩnh quân đội. Nhà vua có quyền quyết định việc tổ chức, động viên, xây dựng, huấn luyện quân đội, bố trí lực lượng phòng thủ ở Kinh đô, các tỉnh và những địa bàn trọng yếu trong cả nước.


Dưới vua là triều đình tổ chức gồm 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) với các chức thượng thư, tả, hữu tham tri, tả, hữu thị lang; 6 khoa (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Tiếp đó là 6 tự (thái thường, đại lý, quang lộc, hồng lô, thái lộc...) với chức tự khanh chuyên trách từng công việc, chịu trách nhiệm trước vua. Dưới các bộ, khoa, tự như trên còn có các cơ quan chuyên trách: Đô sát viện, Hàn lâm viện, Thái y viện, Quốc tử giám, Khâm thiên giám, Tài chính ty, Thương bạc ty, Nội vụ phủ.


Triều Minh Mạng đổi Nội các thay cho Thị thư viện, chuyên thảo chiếu, chế, sắc, dụ và công việc văn thư, tuyển các quan từ tam phẩm có tài về văn học sung vào; đồng thời đặt thêm Viện cơ mật, gồm 4 quan đại thần ở các bộ sung vào để bàn bạc việc nước, việc quân.


Về ban võ, trên có 5 phủ đô thống trông coi 5 quân (Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu), đứng đầu mỗi phủ là đô thống chưởng phủ sự, rồi thống chế, chưởng vệ. Đây là những quan có thực quyền trong triều đình, nhưng đều đặt dưới quyền thống lĩnh của vua. Trong đạo luật Gia Long, về Bộ Lại, Điều 48 ghi: "Quan văn không được phong công hầu, trừ người lúc sống có công lớn, ngoài ra làm tướng võ đánh dẹp, vào triều đình làm tướng văn, tận trung báo nước, lúc chết được truy phong"1 (Dưới triều Nguyễn chỉ có Trương Đăng Quế được truy phong quân công. Tiếp đó, còn có Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải được phong, nhưng do thực dân Pháp phong).


Đối với chính quyền ở các địa phương, đứng đầu tỉnh là chức tổng đốc (tỉnh lớn), hoặc tuần phủ (tỉnh nhỏ), giúp việc có các chức bố chánh, án sát, lãnh binh. Dưới tỉnh, đứng đầu phủ, huyện, châu là tri phủ, tri huyện, tri châu. Ngoài ra còn có quan giữ chức quản phụ và các quan giữ chức chuyên môn như doanh điền sứ, hà đê sứ... Hầu hết quan lại các cấp ở tỉnh, phủ, châu, huyện đều thi cử đỗ đạt và được triều đình bổ nhiệm (trừ chức tổng đốc, do quan võ có quân công đảm nhiệm).


Trên địa bàn vùng miền núi xa triều đình, triều Nguyễn vẫn theo lệ cũ, dùng các tù trưởng thiểu số làm tri phủ, tri châu, tri huyện, huyện thừa, ở những vùng sâu, vùng xa đặt thêm chức phòng ngự sứ, giao cho một tù trưởng có thế lực nắm giữ như: Phòng ngự sứ Chiều Nội (Trấn Ninh), phòng ngự sứ Nguyễn Văn Vinh (Bình Thuận, Bình Định); đồng thời triều đình cử một quan lên làm chiêu thảo sứ. Ở những vùng đồng bào các dân tộc hay nổi dậy, triều đình đặt một quan phủ man sứ phụ trách đánh dẹp, phủ dụ. Ngoài ra, triều Nguyễn thực hiện chế độ lưu quan. Triều đình thường cử một sế quan lên các phủ, châu, huyện miền núi để trực tiếp nắm, quản lý, kiểm soát, hạn chế quyền lực của các tù trưởng, lang đạo, thổ ty và đặt các ty tuần trưng thu thuế, hàng hóa, nắm các sản vật và quản lý kinh tế các địa phương miền núi.


Bộ máy chính quyền thấp nhất là ở tổng và xã. Tổng (gồm một số xã gần nhau hợp lại), có chánh tổng, phó tổng làm cấp trung gian giữa huyện và xã. Chánh tổng, phó tổng đều là những hào trưởng địa phương được các lý trưởng, phó lý các xã cử ra, hoặc là một lý trưởng lâu năm được quan tỉnh đặc cách bổ nhiệm. Những chánh tổng làm việc lâu năm, được sắc phong từ bát phẩm trở lên có thể được cử lên tỉnh làm hậu bộ, hoặc phái đi làm quan ở địa phương khác trong tỉnh. Chánh tổng, phó tổng còn có quyền xét xử việc kiện tụng nhỏ trong tổng, nên còn gọi là chánh tổng dân quan. Cấp xã có lý trưởng, phó lý, do kỳ lão và chức sắc trong xã bầu ra, được quan phủ, huyện công nhận và quan tỉnh phê chuẩn. Các hương chức khác trong xã, do xã cử ra, được quan phủ phê chuẩn. Hương lý có trách nhiệm giữ gìn trật tự, an ninh và định đoạt mọi công việc trong xã.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #89 vào lúc: 26 Tháng Ba, 2021, 10:06:20 am »

Với việc cải cách, sắp xếp lại đơn vị hành chính ở các địa phương gồm tỉnh, phủ, châu, huyện, tổng, xã, triều Nguyễn đã hoàn chỉnh bộ máy chính quyền thống nhất, từ trung ương đến tổng, xã trong cả nước. Hệ thống chính quyền triều Nguyễn được tổ chức, xây dựng chặt chẽ theo khuynh hướng giảm bớt quyền lực quan lại địa phương, tập trung quyền lực vào chính quyền trung ương, mà vua là đại diện tối cao, nắm và quyết định mọi công việc, trong đó có quyền tối hậu điều động quân đội khi cần thiết. Trong lịch sử dân tộc chưa có triều đại nào quyền lực lại tập trung cao độ vào vua như nhà nước quân chủ thời Nguyễn. Từ thời Minh Mạng đã đặt ra lệ “tứ bất” (bốn không): không đặt tể tướng, không lấy đỗ trạng nguyên, không lập hoàng hậu, không phong tước vương cho người ngoại tộc (nếu phong cũng chỉ phong tước danh dự), nhằm ngăn cản việc lấn át quyền hành đối với vua. Riêng chức nguyên phi, khi con làm vua, mới được tôn là hoàng thái hậu.


Để củng cố, xây dựng chính quyền của nhà nước quân chủ chuyên chế, triều Nguyễn hết sức quan tâm đến việc xây dựng luật pháp để giữ vững quyền quản lý toàn bộ đất nước. Năm Tâọ Mùi (1811), vua Gia Long ra lệnh biên soạn bộ Hoàng triều luật lệ, đến năm Ất Hợi (1815), hoàn thành được ban hành, thường được gọi là Bộ luật Gia Long, hay Hoàng Việt luật lệ, gồm 398 điều, trong đó luật hình có 166 điều, luật binh có 58 điều, luật hộ có 66 điều. Riêng về thuế, tạp dịch, kho là những công việc của nhà nước có 38 điều, còn về dân luật có 28 điều (điền trạch, hồn nhân) và luật công chỉ có 10 điều.


Trong quá trình thực hiện, triều Nguyễn bổ sung một số điều, song nội dung chủ yếu vẫn dựa vào bộ luật nhà Thanh.


Như vậy, cả luật và lệ dưới triều Nguyễn được xây dựng và ban hành chỉ nhằm củng cố, bảo vệ chế độ chuyên chế dòng họ Nguyễn và tăng cường đàn áp nhân dân nổi dậy. Tư tưởng đó của triều Nguyễn đã làm tổn hại yếu tố đoàn kết thống nhất của dân tộc, hạn chế sự phát triển mọi mặt của đất nước, trong đó có hạn chế cả tư tưởng quân sự và sức mạnh quân sự của dân tộc.


Đối với đội ngũ quan lại các cấp đều được cấp lương bổng, bằng tiền và gạo hằng tháng. Phần lương bổng triều đình cấp không nhiều lắm, nhưng đời sống của quan lại rất cao so với nhân dân nhờ số tiền tham ô, hối lộ gấp nhiều số lương được hưởng. Tầng lớp quan lại lợi dụng mọi cơ hội như thu tô thuế, xử án, bắt lính, đắp đê, làm đường... để vơ vét tiền của của nhân dân. Tệ nạn quan lại tham nhũng phổ biển ở các cấp. Tại nông thôn, bọn cường hào, địa chủ nắm mọi quyền bính, bóc lột nhân dân rất nặng nề, làm cho đời sống của người dân, nhất là nông dân vô cùng thiếu thốn, cùng cực. Đây chính là yếu tố làm cho tình hình xã hội thường xuyên mất ổn định, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân bùng nổ mạnh mẽ và rộng khắp ngay trong những năm đầu thế kỷ XIX. Dưới các triều từ Gia Long, Minh Mạng, đến Thiệu Trị và Tự Đức, trong 10 năm (1848-1858), có hơn 300 cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra1 (Xem Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, t.I, tr. 382-383).


Phong trào của nông dân miền xuôi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành. Cuộc khởi nghĩa này kéo dài 6 năm (1821-1827), thu hút đông đảo nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ và một số nho sĩ, thổ hào các địa phương tham gia. Nghĩa quân lập căn cứ ở Trà Lũ (Nam Định), nhanh chóng mở rộng địa bàn hoạt động ra các tỉnh ven biển, từ Thái Bình, Nam Định đến Quảng Yên, có lúc lan sang cả Sơn Tây, Hòa Bình và Thanh Hóa. Nghĩa quân tiến công các đồn lũy, bao vây huyện lỵ, phủ lỵ và nhiều lần đánh bại các cuộc càn quét của quân triều đình, lấy của nhà giàu phân phát cho người nghèo. Trước thanh thế của nghĩa quân, triều Nguyễn phải huy động quân đội ở Bắc Thành (Bắc Bộ), Thanh Hóa, Nghệ An và một phần lực lượng vệ quân ở Kinh đô Huế tới đàn áp. Cuộc khởi nghĩa thất bại, nhưng dân gian vẫn lưu truyền một bài vè ca ngợi Phan Bá Vành và cuộc chiến đấu bền bỉ của nghĩa quân.


Bên cạnh đó, ở miền núi có các cuộc khởi nghĩa của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở vùng miền núi phía Bắc, dân tộc Mường ở Thanh Hóa, Nghệ An, các dân tộc Tây Nguyên, dân tộc Chăm ở Nam Bộ. Tiêu biểu trong số này là cuộc khởi nghĩa ở Cao Bằng, do Nông Văn Vân lãnh đạo diễn ra trong 2 năm (1833-1835), thu hút đông đảo các dân tộc thiểu số tham gia; trong đó, có lần đánh chiếm các tỉnh thành Tuyên Quang, Cao Bằng, uy hiếp các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên... Nghĩa quân Nông Văn Vân còn liên kết với nghĩa quân ở Sơn Tây tiến đánh Hà Nội, Bắc Ninh. Triều đình phải điều quân ở các tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ đến đàn áp mới dập tắt được.


Trong giai cấp phong kiến, một số quan lại, thổ hào địa phương, nhất là một số nho sĩ có khí tiết, vì quyền lợi của nhân dân đã đứng lên cùng nhân dân đấu tranh chống lại những bất công do triều Nguyễn gây ra. Trong số đó có Cao Bá Quát quê ở Gia Lâm (ngoại thành Hà Nội). Dưới danh nghĩa “phù Lê”, tháng 9-1854, Cao Bá Quát suy tôn Lê Duy Cự (hậu duệ nhà Lê), tự xưng quốc sư, kêu gọi nhân dân nổi dậy, được nhiều tù trưởng các dân tộc vùng Sơn Tây, Hòa Bình tham gia. Nghĩa quân dự định đánh chiếm Hà Nội để từ đó phát triển sang các tỉnh khác, nhưng kế hoạch bị lộ, cuộc khởi nghĩa chỉ diễn ra ở các vùng Mỹ Đức, Ứng Hòa, Thanh Oai (Hà Tây), Tam Dương (Phú Thọ), Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc). Bị triều đình tập trung quân đến đàn áp, Cao Bá Quát hy sinh (1855), quân khởi nghĩa tiếp tục hoạt động đến năm 1856 thì tan rã.


Đặc biệt, trong phong trào nổi dậy chống triều Nguyễn còn có cả những người thuộc hàng ngũ thân thuộc của quan lại cao cấp, trụ cột triều đình. Đó là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833-1835) xuất phát từ mâu thuẫn giữa các phe phái trong triều đình (cha nuôi Lê Văn Khôi là Lê Văn Duyệt, tổng trấn Gia Định, có mưu đồ chống đối, sau khi bị vua Minh Mạng trị tội cả gia đình). Tháng 6 năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi cùng những người đồng mưu phát động binh lính nổi dậy, phá nhà lao, rồi trang bị khí giới cho tù nhân, đánh chiếm thành Phiên An (thành Gia Định), tự xưng Bình Nam đại nguyên soái, phát hịch kêu gọi nhân dân tham gia khởi nghĩa.


Trong một tháng, nghĩa quân mở rộng địa bàn hoạt động chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ, chủ trương lập chính quyền riêng, được giáo dân và giáo sĩ phương Tây ủng hộ. Triều đình phải huy động các đạo quân lớn đến đàn áp mới chiếm lại được các tỉnh bị mất. Đầu năm Giáp Ngọ (1834), Lê Văn Khôi ốm chết, nghĩa quân hoạt động đến tháng 7 năm At Mùi (1835) thì tan rã.


Như vậy, trong nửa đầu thế kỷ XIX, hầu như năm nào cũng có các cuộc nổi dậy của nhân dân chống chính quyền nhà Nguyễn. Để ổn định trật tự xã hội, triều Nguyễn không thực hiện thay đổi những chính sách tiến bộ có lợi cho dân, cho nước, mà chỉ dùng biện pháp chính là sức mạnh quân sự để trấn áp. Có những lúc lực lượng quân sự phải huy động cả quân ở Kinh đô, quân ở các địa phương đến mức tối đa để đàn áp nhân dân nổi dậy. Việc làm đó của triều Nguyễn không những ảnh hưởng đến việc củng cố quốc gia thống nhất, mà còn làm tổn hại sức mạnh đoàn kết thống nhất của dân tộc, trong đó có sức mạnh quân sự, hạn chế đến tư tưởng quân sự, không thể tăng cường được khả năng bảo vệ đất nước trước họa ngoại xâm đang đến gần1 (Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống chính quyền và triều Nguyễn tập trung lực lượng quân sự để đàn áp cũng là một trong những hoạt động quân sự lớn nửa đầu thế kỷ XIX, nhưng trong phần nghiên cứu về tư tưởng quân sự Việt Nam thời kỳ này, chúng tôi không đề cập).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM