ĐỔ BỘ LÊN ĐẢO CÁT BÀ
Trung tá Trần Minh Thái
Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh - Tỉnh Quảng Ninh
Tháng 6-1951, Ban nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu nhân lệnh cử đại bộ phận Đội Thuỷ quân 71 vừa đi học ở Trung Quốc về để tăng cường chiến đấu cho các tỉnh ở miền duyên hải Đông Bắc.
Đội chia thành nhiều bộ phận quân, trong đó có một bộ phận được điều động ra đảo Cát Bà. Bộ phận này vẫn mang bí danh là Đội 71, do đồng chí Dương Đình Ấu làm đội trưởng, tôi (Trần Minh Thái) làm chính trị viên kiêm bí thư chi bộ, gồm trên dưới 50 cán bộ từ cấp tiểu đội đến cấp đại đội, trong đó có nhiều người là dân vùng biển thạo nghề sông nước. Nhiệm vụ của đội là đổ bộ an toàn, bí mật lên đảo Cát Bà làm nòng cốt xây dựng và chiến đấu cho phong trào đánh du kích trên biển. Đội thuộc quyền chỉ huy của tỉnh đội Quảng Yên. Sau gần một tuần hành quân, chúng tôi đã từ Đoan Hùng về tới căn cứ của tỉnh Quảng Yên.
Tỉnh đội giao nhiệm vụ trước mắt cho Đội 71 khi tới Cát Bà là tham gia phong trào chiến tranh du kích ở địa phương và sẵn sàng thực hiện lệnh của Bộ. Trên đường hành quân Đội phải tránh giao chiến với địch để tới Cát Bà an toàn và bí mật. Trung đội trưởng Đàm Nguyệt, nguyên là học viên Thuỷ quân sông Lô khoá 1 là người thông thạo địa hình Quảng Yên nhận nhiệm vụ dẫn đường cho Đội.
Một ngày cuối tháng 6/1951, chúng tôi lên đường. Chúng tôi ngủ ở rừng Thùng một đêm, ở Thượng Yên Công, căn cứ của huyện Yên Hưng một đêm rồi qua Lán Tháp đi Yên Lập. Vùng chúng tôi đi qua thường có thổ phỉ và biệt kích của Pháp lùng sục, phục bắt cán bộ. Đến đêm thứ ba, chúng tôi tới chân chùa Lô cách đường 18 hơn 2000 mét, cách vị trí Pháp ở Yên Lập 4km.
Đêm đến, chúng tôi vượt đường 18 và tới Yên Cư thuộc Yên Hưng. Đây là một làng có hội tề, nhưng là "tề đồng chí". Sau khi nắm tình hình ta và địch ở đây, Đội 71 được đưa vào trú quân ở hang đá Yên Cư - Đại Đán. Vùng này cách các vị trí Pháp ở Yên Lập, tỉnh lỵ Quảng Yên, thị xã Hồng Gai, Bãi Cháy từ 5 đến 15 km theo đường chim bay. Như vậy, Đội 71 lọt vào giữa hai phòng tuyến đường 18 và ven biển, mỗi phía cách Đại Yên (Yên Cư - Đại Đán) 1,5 - 2km, và bốn phía đều gần nhiều vị trí của Pháp.
Vì hang Yên Cư nằm trong cụm núi đá giữa một vùng trống trải, lại thường có biệt kích lùng bắt cán bộ qua lại, do đó đến sớm hôm sau chúng tôi chuyển ra cách rừng ở phía Đông đến Đại Đán để giấu quân. Ở đây nếu không may bị địch phát hiện, chúng tôi có thể dựa vào rừng và đồi để tác chiến, và chờ đến đêm lại rút về phía Bắc đường 18. Còn nếu thuận lợi thì đêm nay chúng tôi có thể vượt qua cụm đảo Đầu Đá ở phía Nam, và hành quân trên biển khoảng 20km nữa là tới Gia Luận, xã địa đầu của đảo Cát Bà.
Sau bữa cơm trưa trong rừng, trên một đồi cây rậm, đơn vị cử cảnh giới và nghỉ trưa thì anh Đàm Nguyệt đã ra bến Đại Đán. Anh đi về phía bến và xuống một số thuyền đậu trên bến. Khoảng 4 giờ thì anh về và xin Đội cử hai người mặc quần áo thường phục đi theo anh xuống thuyền để kèm sát chủ một chiếc thuyền buồm lớn. Anh cho biết là phải dùng cách vừa thuyết phục, vừa bắt buộc họ phải đưa quân ta xuống Cát Bà đêm nay.
Cưỡng chế nhân dân là một việc làm bất đắc dĩ, nhưng nếu ở lại đây thêm một ngày nữa thì rất có thể địch tới càn, ta khó có thể bảo toàn lực lượng cũng như hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Hơn nữa nếu phải tác chiến ở đây thì sẽ ảnh hưởng đến đường đi lại từ Cát Hải vào đất liền, gây bất lợi cho bàn đạp để ém quân và nơi thâm nhập vào vùng địch của bộ đội, du kích, cán bộ cơ sở của huyện Yên Hưng.
Khi trời chạng vạng tối, chúng tôi xuống thuyền. Đây là chiếc thuyền đinh lớn có thể chở 50 - 60 người. Gia đình người chủ thuyền là người Trà Cổ làm nghề đi buôn giữa các tỉnh ven biển. Trông thấy quân ta ăn mặc nghiêm chỉnh, anh em rất vui vẻ và lễ phép, ông cụ chủ thuyền đã thấy yên tâm hơn. Tuy nhiên chúng tôi cũng thấy lo ngại không kém gì gia đình chủ thuyền vì Đàm Nguyệt cho biết: ban đêm hải quân Pháp đi tuần mà gặp bất cứ tàu thuyền nào đi vào vùng Đầu Đá - tuyến giao thông từ Đại Đán ra Cát Hải là chúng có thể nổ súng ngay.
Trước giờ hành quân, chúng tôi phổ biến kế hoạch hành quân sẵn sàng chiến đấu trên biển cho cả Đội. Trừ những người điều khiển thuyền, số còn lại sẽ bố trí theo thế mai phục hai bên mạn, súng và lựu đạn đặt sẵn sàng bên người. Nếu gặp tàu địch thì mọi người trong Đội phải nấp kín, còn mấy người mặc thường phục giả làm người nhà thuyền đưa phương tiện vào gần theo lệnh của bọn giặc. Khi hai bên áp sát thì cử người buộc tàu với thuyền lại để giả như đón Pháp sang khám tàu. Khi có hiệu lệnh, toán xung kích đồng loạt ném lựu đạn vào tàu giặc và nhảy sang chiếm phương tiện của chúng.
Đàm Nguyệt sẽ điều khiển số anh em giả làm nhà thuyền, có trách nhiệm giao dịch với Pháp và buộc thuyền vào tàu. Anh Ấu chỉ huy chung và trực tiếp hạ lệnh rồi cùng xung kích đánh tàu chiến. Tôi chỉ huy hai khẩu trung liên để khống chế hoả lực của tàu địch. Thấy anh em ta điều khiển thuyền thành thạo, ông cụ chủ thuyền có vẻ yên tâm hơn. Lúc này những điều đã học tập được ở đảo Điều Thuận - Trung Quốc đã được vận dụng khá thành thạo. Lần đầu tiên được hành quân trên vùng biển của Tổ quốc trong khung cảnh sẵn sàng chiến đấu cao, ai cũng thấy trong lòng nao nao và hồi hộp. Thuyền luồn qua các đảo trong không khí êm mát của đêm thu. Những hòn núi cao sừng sững toả bóng che cho con thuyền; tạo hình tượng như bao lớp cửa đồ sộ khi đóng, khi mở, đưa đón chúng tôi luồn qua, theo các lạch quanh co.
Gió thổi hiu hiu làm tài công dễ buồn ngủ, nếu không có bầy dĩn liên tục táp vào mặt mũi, chân tay. Quãng nửa đêm, thần kinh chúng tôi căng lên khi nghe trên biển có tiếng máy tàu vọng tới. Thuyền phải đi dạt vào chân núi để được che khuất. Mười lăm phút trôi qua, tiếng động cơ nghe nhỏ dần. Chúng tôi nhanh chóng vượt qua luồng tàu và đi sâu vào vùng biển Cát Hải. Trước mắt chúng tôi đảo Cát Bà ngày càng gần lại. Nhiều lúc tưởng như sát chạm vào chân núi đá mà hoa ra còn ở xa lắc.
Khoảng 3 giờ sáng, thuyền vào gần bờ, nhưng còn phải lội bãi một chặng khá xa nữa. Thay mặt đơn vị, chúng tôi cảm ơn gia đình cụ chủ thuyền và biếu các cụ một số tiền và gạo. Các cụ vui vẻ nhận và xin ủng hộ lại bộ đội để đánh giặc. Những bàn chân thư sinh đạp vào bùn cát mà liêu xiêu bước nhanh về phía trước. Có cậu vác súng và đeo ba lô nặng, vừa bị cắm mảnh sò ở chân này, vội đưa chân kia xuống đỡ thì lại bị cắm nốt vào chân kia, vừa suýt xoa lại vừa buồn cười và cứ dấn bước với hai bàn chân đau.
Thế là qua 5 ngày đêm hành quân qua rừng, qua biển, giữa vòng vây của các phòng tuyến và các vị trí của Pháp, chúng tôi đã đổ bộ thành công lên đảo Cát Bà.
Cát Bà là một đảo có chiều dài hơn 16km, chiều rộng 12km, là đảo đá lớn nhất của huyện Cát Hải. Phía Đông đảo là Vịnh Hạ Long. Trên đảo có vị trí pháo bờ biển và hải quân của Pháp đóng ở phố Cát Bà. Đồ Sơn và Cát Bà là hai cứ điểm lợi hại về pháo binh án ngữ hai bên cửa Nam Triệu, cửa ngõ của Bắc Bộ. Thế mà hòn đảo này lại là căn cứ du kích của ta, trong đó xã Châu Châu, chỉ cách cứ điểm Cát Bà hơn 4km. Đảo bị khống chế bốn bề bởi các tàu chiến của hải quân Pháp. Nguồn lương thực chính trên đảo là bắp ngô, một năm mới có vài lần được ăn gạo do một số thuyền buôn không quản ngại nguy hiểm, luồn qua vòng vây của địch để vào đảo bán hàng. Số bắp do cơ quan huyện đội tăng gia cùng số bắp do nhân dân đóng góp chỉ đủ cho quân và dân trên đảo sinh sống hàng ngày, không có dự trữ dài ngày.
Vũ khí, đạn dược và trang bị của đại đội 919 của huyện cùng du kích cũng chỉ đủ cho việc chiến đấu với quy mô nhỏ và phân tán. Thực hiện chỉ thị của Tỉnh uỷ Quảng Yên, huyện Cát Hải chỉ được chống càn với quy mô từ tiểu đội trở xuống còn không được dùng từ trung đội trờ lên, nhằm bảo vệ đảo và giao thông liên lạc với đất liền.
Sau khi Đội 71 đổ bộ lên đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, theo quyết định của Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Yên, anh Dương Đình Ấu, đội trưởng đội 71 được bổ nhiệm chức vụ: huyện đội phó, kiêm đại đội phó đại đội 919 thuộc huyện đội Cát Hải và tôi là chính trị viên Đội 71 được bổ nhiệm giữ chức chính trị viên phó huyện đội, kiêm chính trị viên phó đại đội 919 là phó bí thư huyện uỷ; và huyện đội trưởng kiêm đại đội trưởng đại đội 919 là anh Võ Hiệp Cương, nguyên là đại đội trưởng khung khoá 1 của trường Thuỷ quân sông Lô đã được điều động ra đây công tác trước Đội 71 chúng tôi.
Anh Ấu và tôi cùng các anh chỉ huy huyện đội thống nhất với nhau về kế hoạch sử dụng Đội 71, trong khi chờ lệnh chính thức của Tỉnh đội, các cán bộ Đội 71 thâm nhập đại đội 919 để giúp đơn vị này trong huấn luyện và xây dựng. Một số cán bộ, chiến sĩ Đội 71 và đại đội 919 được phân tán về một số xã để đẩy mạnh phong trào dân quân du kích trên đảo.
Lúc này căn cứ Hà Sen - cũng như hầu hết đảo Cát Bà đều là vùng tự do của huyện Cát Hải, chỉ trừ phố Cát Bà, nơi có sở chỉ huy tiểu khu của hải quân Pháp ở phía Nam của đảo.
Chúng tôi cũng tìm ra cách đánh bảo vệ căn cứ có hiệu quả mà vẫn phù hợp với phương châm chiến đấu trong hậu địch do huyện đề ra. Ở các hướng mà Pháp có thể tiến vào, các tổ du kích sẽ đánh tỉa và đeo bám địch từ bên ngoài. Bên trong là các tổ và tiểu đội bộ đội có trang bị súng trường, lựu đạn sẽ thay nhau đánh úp để diệt từng toán địch tiến quân trên các đường độc đạo, nằm giữa hai vách đá đựng đứng. Các bẫy đá là vũ khí giặc rất khiếp sợ. Ngày 2 - 9 - 1951, chúng tôi vô cùng phấn khởi trước thắng lợi của một cuộc chống càn nhỏ. Chỉ có một tổ du kích với một tay súng và bẫy đá, mà ta bắt sống một tên địch, thu một súng trường trong trận đánh chặn một tiểu đội địch từ phố Cát Bà vào.
Năm 1952, quân và dân Hà Sen, trong đó có cán bộ Đội 71 đã đánh thắng nhiều trận càn của quân Pháp vào căn cứ. Từ cuối năm 1952 cho đến hết chiến tranh, giặc không dám càn vào căn cứ của ta nữa.
Trong một trận chiến đấu, anh Tuấn Chi - một cán bộ của Đội 71 đã anh dũng hy sinh. Tôi không thể nào quên người cán bộ quê Thừa Thiên, với vóc dáng thư sinh, tính tình điềm đạm, rất yêu thơ, đã ngã xuống ở một hòn đảo trong vùng địch kề bên Vịnh Hạ Long. Lúc ấy anh Tuấn Chi đang là chính trị viên trung đội thuộc đại đội 919.
Từ cuối năm 1951 đến 1952, nhiều cán bộ của Đội 71 được điều về các đơn vị bộ đội địa phương của tỉnh Quảng Yên. Anh Ấu và tôi được điều về làm cán bộ thuộc tiểu đoàn Bạch Đằng. Các anh Tràng, Mộc, Đua được điều về đại đội 908 cùng với tôi. Các đồng đội của tôi trong Đội 71 đã hy sinh là anh Dương Đình Ấu, Tuấn Chi, Tràng, Đàm Nguyệt...
Kỷ niệm về cuộc đổ bộ lên đảo Cát Bà và những gì Đội 71 đã làm được, trên một căn cứ du kích rất đặc biệt ngay trên đảo Cát Bà, thuộc vùng địch hậu giữa miền biển Đông Bắc, không bao giờ phai mờ trong ký ức tôi.
Ngày 25 tháng 7 năm 1998
TMT