Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:42:39 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thuỷ quân Sông Lô thời chống Pháp xâm lược (1949-1954)  (Đọc 4102 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #10 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2021, 01:24:20 pm »

Vào đầu tháng 3/1951, chúng tôi từ biệt Quân đoàn 43, rời đảo Điếu Thuận, vẫn trở lại theo lộ trình cũ: Tsékham - Nam Ninh - Bằng Tường, vượt ải Nam quan (sau này đổi thành Hữu Nghị quan), qua Đồng Đăng về Lạng Sơn đã được giải phóng từ tháng 10/1950 trong chiến dịch Biên giới lịch sử. Từ Lạng Sơn đơn vị bám theo trục đường 1A, rẽ vào Bố Hạ sang Thái Nguyên, vượt đèo Khế, bến Bình Ca sông Lô, xuôi về Đoan Hùng tới căn cứ Thuỷ quân Sông Lô vào khoảng đầu tháng 4/1951; lúc này đã ngược dòng sông Chảy đóng tại khu vực làng Cỏ. Gặp lại anh em ở nhà, hàn huyên trò chuyện, biết bao thay đổi:

- Chiến thắng lịch sử trong chiến dịch Biên giới tháng 10/1950 phá thế bao vây của địch, nối liền nước ta với phe xã hội chủ nghĩa, đồng thời chấm dứt "câu chuyện Tổng phản công" nhiều mắc mứu, bình luận.... 

- Đại hội Đảng lần thứ II tháng 2/1951 (Đại hội kháng chiến, Đại hội xây dựng Đảng lao động Việt Nam; Đại hội khẳng định và phát triển hoàn chính đường lối cách mạng dân tộc dân chủ, đường lối toàn dân kháng chiến của Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân...)

- Đẩy mạnh vận động chiến, thực hành từng chiến dịch trên từng chiến trường. Ở Bắc Bộ, sau chiến dịch biên giới là chiến dịch Trung du (12/1950), chiến dịch Hoàng Hoa Thám (cuối tháng 3 và đầu tháng 4/1951).

- Địch tăng cường đối phó, gấp rút tập trung quân cơ động xây dựng phòng tuyến boong - ke, vành đai trắng bao quanh trung du - đồng bằng Bắc Bộ, tiến hành chiến tranh tổng lực, bình định ác liệt vùng địch hậu, tăng cường phá hoại vùng tự do bằng máy bay oanh tạc, thả biệt kích, thổ phỉ, gián điệp... đã có tác động trực tiếp đến cơ quan nghiên cứu cùng các lớp học thuỷ quân, phải luôn luôn cơ động phòng địch oanh tạc (từ phố Giàn rời lên làng Cỏ).

- Riêng tình hình nội bộ lực lượng thuỷ quân, lớp học khoá 2 đã mở, vài trăm học viên từ khu 3, Liên khu 4 kéo ra và Trung du đổ về. Anh Khương là trưởng ban, các anh Lưu Phương, Khổng Hiệu, Quế, Vỵ, Thăng... bộ môn cơ quan và các anh Đa, Vinh.... ở lớp học đều khoẻ mạnh, tuy có gầy đi ít nhiều do công tác quá bận rộn, lại ăn uống kém. Anh Trần Trọng Trung mói về đảm nhận chính trị viên thay tôi từ Thu Đông 1950.


Đến hạ tuần tháng 4/1951, trong lúc chúng tôi đang trao đổi thống nhất công việc giữa lực lượng ở nhà với lực lượng mới về, chuẩn bị phái lực lượng đi xây dựng cơ sở du kích biển Đông Bắc, cử cán bộ đi nghiên cứu xây dựng các thuỷ đội trên sông hoặc ven biển Liên khu 4 và ở Việt Bắc... theo phương án đã được xác định từ năm 1950, thì có chỉ thị của Bộ giải tán lực lượng thuỷ quân (cùng với không quân). Chúng tôi có đề đạt ý kiến với cơ quan Bộ, chưa thật thông suốt chủ trương này, vì thấy cũng tiếc công, tiếc của đã xây dựng nên ngành trong vài năm qua; nhưng quyết tâm của Bộ vẫn không thay đổi với lý do đanh thép là để xây dựng một số sư đoàn chủ lực, buộc phải giảm quân số ở những đơn vị chưa thật cần thiết....


Chấp hành nghiêm túc chỉ thị của Bộ, chúng tôi triển khai nhanh chóng công việc cụ thể :

- Trước hết chọn lọc một lực lượng để đi xây dựng du kích biển Đông Bắc theo kế hoạch cũ đã xác định, chủ yếu lấy cán bộ, chiến sĩ thuộc Đội 71 mới đi Trung Quốc về. Đa số anh em quê hương vùng biển đã xin trở lại Đông Bắc, trong đó có anh Trác Vinh Nam đã được Bộ điều động về tỉnh đội Hải Ninh. Lực lượng này đều đã tham gia chiến đấu kiên định ở vùng duyên hải, xứng danh là những chiến binh kiên cường của Thuỷ đội 71. Nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh trên chiến trường vùng biển thân yêu như các đồng chí Vỹ, Phượng, Mai... ở Hải Ninh; Dương Đình Ấu, Trần Kỳ, Đàm Nguyệt, Tuấn Chi, Tràng, Tiếu... ở Quảng Yên... hoặc có những đồng chí bị địch bắt nhưng giữ vững được khí tiết cách mạng của người du kích biển như Nguyễn Phú Đạt và Nguyễn Quang Tiếp...

- Tiếp đó, tuyển lựa một số cán bộ, chiến sĩ học viên khoá 1, khoá 2 đưa đi xây dựng sư đoàn công pháo 351, do anh Lê Ngọc Quang trực tiếp tổ chức dẫn về đơn vị mới để chuẩn bị đi Trung Quốc huấn luyện.
Còn lại một số anh chị em chuyển về cơ quan hoặc các đơn vị đóng quân trên đất khu 10 (Yên Bái - Phú Thọ) hoặc về cơ quan Bộ ở Thái Nguyên. Tôi được gọi về Bộ Tổng Tham mưu và chuyển về Cục Quân báo từ tháng 5/1951, đảm nhiệm chính uỷ một đơn vị trinh sát của Bộ. Anh Khương và anh Trung ở lại giải quyết toàn bộ công việc giải thể còn tồn đọng, bao gồm việc điều động nhân sự, thanh toán bàn giao cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và sau đó cũng về Bộ nhận công tác mới.


Trong buổi chia tay mỗi người một ngả, anh chị em cán bộ, chiến sĩ học viên, công nhân viên mới cũ, khoá 1 cũng như khoá 2, tất cả đều thể hiện tình cảm lưu luyến sau một thời gian không dài đã cùng nhau công tác, chiến đấu và học tập với bao kỷ niệm thân thương của một thời thuỷ quân sông Lô... Nhớ mãi những ngày gian khó, chia nhau từng củ sắn, miếng măng phố Giàn - làng Cỏ, những buổi luyện tập bơi lặn, chèo xuồng, đánh moóc, buộc nơ nút bên ngã ba sông Lô - sông Chảy luôn ì ầm tiếng máy bay địch bất thần xuất hiện, dai dẳng bắn phá nhiều lần... Cũng như không thể quên "Hạm đội 71 thuyền buồm" với sóng gió Điều Thuận - Tsékham thắm tình quốc tế vô sản trong sáng, vô tư thuở gặp gỡ ban đầu ngay sau những ngày Trung Hoa lục địa mới được giải phóng....


Thôi xin tạm biệt!... Hẹn gặp lại không xa dưới lá cờ hiệu Quân chủng Hải quân hùng mạnh của Tổ quốc, mà chúng ta có vinh dự được đặt một trong những "viên gạch" nhỏ bé đầu tiên xây dựng nên từ những ngày gian khó của chiến tranh chống Pháp xâm lược.


Xuân Hè 1993
NV
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #11 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2021, 01:31:27 pm »

NGÀY ẤY - Ở MỘT VÙNG NGÃ BA SÔNG


Đại tá Trần Trọng Trung
Nguyên chính trị viên khoá II - Ban nghiên cứu Thuỷ quân - Bộ Tổng Tham mưu
- Nhà nghiên cứu lịch sử quân sự


Hàng năm cứ đến ngày 8 tháng 3, chúng tôi - những chiến sĩ Thuỷ quân sông Lô năm xưa lại họp mặt kỷ niệm ngày Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Thuỷ quân. Mặc dù đã trên dưới nấc thang "thất thập cổ lai hy" (có người như anh Ngô Hương đã ngoài 80), nhưng xem ra số đông vẫn giữ được phong thái thời lính trẻ, nhất là mấy nhân vật đã vang tiếng nghịch ngợm một thời như Lê Quang Loát, Đỗ Sâm, Nguyễn Thọ Sơn... Cứ mỗi lần họp mặt là một lần Chúng tôi cùng nhau ôn lại những giai thoại về những chàng "lính thuỷ nước ngọt" 50 năm trước, cùng nhau hát lại những bài hát của thời trai trẻ và trao đổi tâm tình vể cuộc sống đời thường của tuổi già bên cạnh con cháu. Thấm thoắt đã nửa thế kỷ trôi qua.


Khoảng giữa năm 1950, vừa học xong khoá 2 trường Nguyễn Ái Quốc trở về công tác ở Bộ Tổng Tham mưu không lâu, tôi được điều về làm chính trị viên Ban nghiên cứu Thuỷ quân. Từ chợ Chu, tôi qua ngã ba Phú Minh, vượt đèo Khế sang Bình Ca rồi theo đường số 2 xuống Đoan Hùng. Nhân dân ở huyện lỵ đã sơ tán hết, vắng vẻ, chỉ còn lác đác vài cái quán nép mình dưới mấy cây to ven đường. Cuộc hành quân Pô-mô-nơ mùa hè năm trước của quân Pháp khiến cho vùng ngã ba Đoan Hùng chưa lấy lại được cảnh nhộn nhịp của một điểm nút giao thông từ đồng bằng trung du lên chiến khu.


Đang hỏi thăm đường đến chợ Giàn, xã Hùng Quan thì gặp một cán bộ cũng vừa vào quán nghỉ chân. Nhìn nhau, hai chúng tồi cùng ngờ ngợ như đã từng gặp ở đâu. Cuối cùng, rồi cũng nhận ra, đó chính là một cán bộ đã từng công tác ở Hải đoàn bộ, cùng trong khu nhà 18 Nguyễn Du, trụ sở Bộ Tổng Tham mưu hồi trước kháng chiến toàn quốc. Nhận ra nhau rồi, được biết anh đang công tác ở Ban Nghiên cứu Thuý quân "May sao, tôi được anh Quế dẫn đường về cơ quan”.


Dọc đường tôi tranh thủ tìm hiểu tình hình của Ban và của lớp Thuỷ quân khoá 1 vừa kết thúc. Tháng 6 năm đó, gần 100 học viên đã lên đường sang nước bạn bổ túc thêm để có thực tế môi trường ven biển và hải đảo. Một số cán bộ đang đi chiêu sinh, chuẩn bị cho khoá tiếp theo. Khác với khoá 1, đa số học viên khoá này là học sinh trung học vừa nhập ngũ. Cán bộ phụ trách hiện nay là hai anh Nguyễn Văn Khương và Trần Đình Vọng, trưởng và phó ban. Anh Nguyễn Việt, chính trị viên đã lên đường sang Trung Quốc cùng với anh em học viên khoá 1. Tôi thầm nghĩ: như vậy là về mặt công tác Đảng, công tác chính trị, tôi sẽ nhận nhiệm vụ mà không có sự bàn giao giữa cấp uỷ khoá 1 và ban cán sự Đảng khoá 2.


Anh Quế dẫn tôi đến căn nhà tranh ở sườn đồi phía sau làng Cỏ. Ban chỉ huy không có chỗ ở riêng mà ở chung với đồng bào địa phương. Tuy không quen nhưng đã từng gặp trong một vài hội nghị ở Bộ Tổng Tham mưu nên anh Khương, anh Vọng và tôi nhận ra nhau ngay. Sau một buổi trao đổi sơ bộ trong nội bộ Ban phụ trách và gặp gỡ thăm hỏi anh em giáo viên, chúng tôi bàn việc chuẩn bị khai giảng khoá học sắp tới.


Đội ngũ giáo viên được chia thành ba ban chuyên môn: hàng hải, thông tin, điện cơ do anh Nguyễn Văn Quế làm tổ trưởng huấn luyện. Các anh đã có kinh nghiệm khoá 1. Qua những buổi đầu tiếp xúc và được anh Khương, anh Vọng cho biết, điều đáng quý trong đội ngũ giáo viên không chỉ là kiến thức về chuyên môn mà cái chính là nhiệt tình trách nhiệm trong công tác giảng dạy. Ngay từ khoá trước, các anh đã góp công sức đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng ngành thuỷ quân từ buổi đầu trứng nước. Chính với tinh thần trách nhiệm và lòng say mê nghề nghiệp, các anh đã tìm mọi biện pháp khắc phục khó khăn thiếu thốn để có những phương tiện huấn luyện tối thiểu trước ngày khai giảng lớp học. Với trí nhớ và sự hiểu biết về tàu chiến của Pháp các anh đã làm được những mô hình tàu tuần dương, khu trục, hàng không mẫu hạm; đã tự đóng xuồng để học sinh chèo lái; tự làm ra những phương tiện thông tin thô sơ (cờ, đèn....) để dạy cách liên lạc trên biển. Có những thứ (ví dụ như máy nổ) có thể đi nhờ sự giúp đỡ của các cơ quan bạn, cũng có nhưng thứ đành phải giới thiệu bằng hình vẽ, như la bàn đi biển hay những phương tiện thông tin hiện đại về hàng hải.


Một trong những công việc đầu tiên của tôi chuẩn bị khai giảng khoá học là nghiên cứu phương án triển khai công tác Đảng, công tác chính trị. Điều đáng quan tâm là lực lượng đảng viên trong đội ngũ giáo viên và học viên quá mỏng. Trong số anh em giáo viên chỉ có một vài đảng viên và một số trợ giáo (mới tốt nghiệp khoá trước) là trong diện cảm tình Đảng.


Khi bàn về công tác đảng, công tác chính trị, Ban cán sự chúng tôi chú ý nghiên cứu tìm hiểu về anh em giáo viên chuyên môn, những người đóng vai trò rất quan trọng đối với kết quả khoá học. Qua đôi lần tiếp xúc, được biết các anh đã từng trải qua cuộc sống của những chuyên viên kỹ thuật hàng hải trên các tàu biển của Pháp, đã từng đặt chân tới những thành phố cảng lớn như Mác-xây, Tu-lông, Niu-Oóc, Hồng Kông... Cách mạng tháng Tám thành công, các anh đem kiến thức chuyên môn phục vụ hoạt động của lực lượng vũ trang trên chiến trường sông biển, từ Thuỷ đội Bạch Đằng ở Khu 5 đến vùng duyên hải Đông Bắc và cơ quan Hải đoàn bộ thuộc Bộ Tổng Tham mưu từ những ngày trước kháng chiến toàn quốc. Khi Ban nghiên cứu thuỷ quân thành lập, các anh là những người đầu tiên đem hiểu biết truyền đạt lại cho lớp trẻ, từ khoá trước đến khoá 2 này. Ban cán sự đánh giá cao sự hiểu biết và sự đóng góp của các anh, đồng thời xác định phương hướng giúp đỡ các anh về mặt chính trị, một lĩnh vực các anh còn ít quan tâm.


Bên cạnh giáo viên chuyên môn là đội ngũ cán bộ làm công tác huấn luyện quân sự cấp trung đội và đại đội. Các anh đều đã tốt nghiệp trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, từ khoá 2 đến khoá 4. Một số người là đảng viên. Từ khoá 1, không mấy ai là không biết tiếng ông Lê Trường Đa, được mệnh danh là "ông Đa đi đều bước". Anh là một cán bộ rất thương yêu bộ đội nhưng cũng rất nghiêm khắc trong chấp hành điều lệnh. Còn cán bộ trung đội, xuất thân từ "lò luyện quân" khoá 4 ở vùng núi Guộc - Phúc Trìu, Thái Nguyên, nổi tiếng về rèn luyện quân phong quân kỷ.


Đối tượng thứ ba - được coi là trung tâm - đó là học viên. Anh Phương và anh Hiệu đã ít nhiều có kinh nghiệm lãnh đạo anh em thanh niên học sinh trung học từ khoá trước. Hôm từ ngã ba Đoan Hùng về cơ quan, tôi đã có dịp trao đổi với anh Quế về những thanh niên mà anh đang chiêu sinh chuẩn bị cho khoá 2. Mấy ngày theo dõi anh em tề tựu tập trung về lớp, một đặc điểm rất đáng ghi nhận là, tuổi trẻ và ý thức giác ngộ chính trị đã giúp cho anh em nhanh chóng hoà quyện với nhau, đoàn kết tương thân tương ái trong công tác và sinh hoạt ngay từ những ngày đầu tựu trường. Hơn 100 thanh niên mới rời ghế nhà trường để "nhập ngũ vào lính thuỷ, có một nét rất chung là thông minh, tháo vát, một số khá nghịch ngợm. Sau này nhiều anh em nhớ lại, không ít người đăng ký nhập ngũ với những suy nghĩ mơ mộng rất trẻ và rất lãng mạn: "giầy trắng, quần áo trắng, mũ trắng có chóp bông đỏ, đứng tựa lan can tàu sạch bóng, nhìn mây, ngắm nước...".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #12 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2021, 01:32:46 pm »

So với cuộc sống kháng chiến hồi đó (1950 - 1951) ước mơ trên đây được coi là tiểu tư sản. Nhưng rồi thực tế những ngày lao động xây dựng trường sở, bộ quần áo Vệ quốc đoàn nhuộm bằng lá cơi, doanh trại bằng tre, nứa lá, những bữa ăn không đủ no đối với cái tuổi bẻ gẫy sừng trâu và nhất là một tháng "cầy vỡ tân binh", tất cả đã đưa những chàng trai đáng yêu ấy thích ứng với cuộc sống của người "lính thuỷ nước ngọt" ở vùng ngã ba sông Lô - sông Chảy.


Ngày lên đường đi nhận nhiệm vụ, cơ quan chính trị Bộ Tổng Tham mưu trao cho tôi quyết định thành lập Ban cán sự Đảng Ban nghiên cứu Thuỷ quân và lớp Thuỷ quân, trực thuộc Đảng bộ Bộ Tổng Tham mưu. Ban cán sự gồm có ba người: Trần Lưu Phương và Nguyễn Khổng Hiệu (tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn học viên) và tôi (bí thư Ban cán sự kiêm chính trị viên Ban nghiên cứu và lớp Thuỷ quân).


Theo phương hướng chỉ đạo của trên, công tác giáo dục chính trị lãnh đạo tư tưởng trong thời kỳ này tập trung vào việc quán triệt đường lối kháng chiến của Đảng và bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân. Trước mắt cần nhanh chóng tạo điều kiện cho anh em học viên thích ứng với môi trường mới, nhất là trong thời kỳ rèn luyện tân binh, những ngày thử thách đầu tiên mà các anh sắp phải trải qua. Về lâu dài, mặc dù cuộc kháng chiến phát triển thuận lợi, nhưng khó khăn không ít. Cần giáo dục khắc phục mọi tư tưởng ngại gian khổ hy sinh, tư tưởng ỷ lại vào nước ngoài. Phương hướng phát triển Đảng nhằm vào số cán bộ sơ cấp và các trợ giáo, đặc biệt là những anh em trong diện cảm tình Đảng...


Sau một tháng rèn luyện tân binh, chương trình chuyên môn hàng hải bắt đầu, xen kẽ với chương trình học tập chính trị chính khoá. Điều mà cán bộ đảng viên quan tâm là vận dụng công tác quân sự bộ binh sao cho phù hợp yêu cầu chiến đấu trên sông biển, như: bắn súng bộ binh trên tàu thuyền, ca nô, tiếp cận bờ, bám mục tiêu triển khai đội hình chiến đấu... Bên cạnh đó là những nội dung về hàng hải do giáo viên chuyên môn trực tiếp huấn luyện, từ tập bơi lặn, chèo xuồng, ca nô, đến sử dụng hải đồ, vận dụng kinh nghiệm dân gian để tìm phương hướng trên biển, sử dụng phương tiện thông tin hàng hải...


Tài liệu giáo dục chính trị cơ bản là cuốn “Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, kết hợp với những buổi sinh hoạt tập trung nghe thời sự hoặc nghiên cứu một số tài liệu ngoại khoá, như "Thanh niên tính, Giai cấp tính" và các bài viết của các đồng chí lãnh đạo trên tờ Sự thật, Cứu quốc...


Qua hoạt động thực tế, dần dần chúng tôi cảm thấy: ngoài những buổi lên lớp chính trị, phát động phong trào thi đuạ, các buổi liên hoan văn nghệ hay thi đấu thể thao... hình như công tác chính trị còn cần có một hình thức nào đó, quy mô có thể nhỏ hơn nhưng nội dung linh hoạt và phong phú hơn nhằm đáp ứng yêu cầu văn hoá tinh thần của một số anh em học sinh mười tám, đôi mươi thông minh, hiếu động, ham hiểu biết. Cần nói thêm rằng tôi chỉ hơn anh em chừng 10 tuổi, "chất học sinh" còn đậm lắm nên cũng dễ thông cảm với nhu cầu sinh hoạt của những đối tượng đặc biệt này.


Tôi còn nhớ, sau buổi giới thiệu tài liệu Thanh niên tính (xin được của anh Lý Ban, nhân một buổi lên Bộ họp), tôi hỏi ý kiến một số học viên: Làm thế nào, dùng hình thức gì để cải thiện sinh hoạt văn hoá tinh thần cho phù hợp với tâm tư tình cảm của tuổi trẻ? Anh em cho biết: thỉnh thoảng, sau bữa cơm chiều (trước giờ sinh hoạt tối), nhiều anh em thường ra ngồi trên bãi cỏ bên bờ sông Chảy với cây đàn ghi ta, cùng nhau hát những bài mà anh em ưa thích, như: Thiên Thai, Suối Mơ, Đàn chim Việt... và trao đổi với nhau về những vấn đề mang tính văn hoá lành mạnh. Tôi quyết định tham gia cùng anh em với hy vọng tìm thêm hình thức hoạt động công tác chính trị cho phù hợp với điều kiện lớp học.


Lúc đầu, có anh em dè dặt (vì có sự có mặt của chính trị viên). Nhưng rồi chúng tôi nhanh chóng hoà quyện với nhau, cùng nhau nói chuyện về thơ, về Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm... Chỉ một vài buổi đầu tiên cũng đủ nhận thấy nhiều anh em có năng khiếu văn học và hiểu biết khá sâu ngay từ những ngày ngồi trên ghế nhà trường trung học. Có anh thích đọc và nhớ khá nhiều bài thơ của Vích-to Huy-gô, trong đó có bài Sau trận đánh chan chứa tình người và đặc biệt là một bài thơ rất hợp với những suy nghĩ lãng mạn của những chàng thuỷ thủ tương lai, bài Đêm trên đại dương, trong đó có câu:

   "Ôi biết bao thuyền viên, thuyền trưởng
   Vui ra đi những chuyến viễn dương..."

Cũng có anh thích bình những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, rồi đặt ra những câu hỏi rất khó trả lời, ví như: Vì sao Xuân Diệu thích Ranh-bô và Véc-len (hai chàng thi sĩ choáng hơi men)?.

Điều đáng trân trọng là anh em rất có ý thức, chỉ dừng lại ở mức sinh hoạt văn hoá mang tính thư giãn lành mạnh sau một ngày học tập căng thẳng. Cứ như thế, nhóm anh em yêu thơ nhạc này trở thành hạt nhân văn hoá văn nghệ của lớp, một câu lạc bộ nhỏ, không chính thức, sinh hoạt không định kỳ, ngoài giờ. Tôi thường tranh thủ họp mặt với anh em. Tôi gọi là "hạt nhân văn hoá vãn nghệ" vì ngoài những buổi sinh hoạt nhóm nhỏ mang tính thư giãn ra, anh em còn đóng vai trò nòng cốt trong các cuộc liên hoan văn nghệ nội bộ. Cũng chính do đề nghị của anh em mà lớp học có thêm những buổi nói chuyện chung về nhiều đề tài khác nhau, từ các chiến dịch Xta-lin-grát, Béc-lin, cuộc Vạn lý trường chinh, đến các nhân vật nổi tiếng trong chiến tranh Xô-Đức như Xtalin, Giucốp...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #13 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2021, 01:34:12 pm »

Một trong những buổi nói chuyện đáng ghi nhớ là buổi nói về chiến thắng biên giới. Khoảng cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1950, tôi được đi dự Hội nghị tổng kết chiến dịch Lê Hồng Phong II (chiến dịch giải phóng Biên giới Đông Bắc). Sau hội nghị, cơ quan chính trị Bộ Tổng Tham mưu hướng dẫn mục đích tuyên truyền về chiến thắng có tầm cỡ chiến lược quan trọng này là nhằm làm cho bộ đội và nhân dân thấy được những nội dung chủ yếu sau đây:

- Đây là chiến dịch lớn nhất của quân đội ta sau 5 năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp và đã giành thắng lợi vượt bậc (diệt 8 tiểu đoàn tinh nhuệ của địch).

- Biên giới khai thông, do đó ta có điều kiện mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế, trước hết là với Liên Xô và Trung Quốc.

- Chiến thắng Biên giới đánh dấu một mốc chiến lược quan trọng, tạo nên một bước ngoặt của cuộc kháng chiến.


Nói chuyện với học viên, điều mà anh em thích nhất là những mẩu chuyện về Bác Hồ đi chiến dịch, từ việc Bác theo dõi động viên bộ đội giữ vững quyết tâm khi trận đánh (diệt cứ điểm Đông Khê) gặp khó khăn phải kéo dài thời gian, đến việc Bác hoá trang đi thăm hỏi bộ đội, thương binh, dân công và gặp cả những sĩ quan tù binh Pháp; rồi chuyện La Vãn Cầu chặt cánh tay bị thương cho khỏi vướng để tiếp tục lao vào đồn địch, chuyện đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ bị chảy máu dạ dày, không chịu lui về hậu tuyến, vẫn nằm trên cáng để chỉ huy bộ đội truy kích địch; rồi những mẩu chuyện về tình cảnh hỗn loạn của hai binh đoàn địch trong quá trình bị quân ta chia cắt và tiêu diệt...


Cuộc nói chuyện đã thực sự đem lại cho toàn thể giáo viên và học viên một niềm phấn khởi trước chiến công to lớn của đồng đội.

Nhóm hạt nhân văn hoá văn nghệ hoạt động trong suốt khoá học và điều bất ngờ đã đến với tôi. Năm 1996 một người bạn từ miền Nam ra thăm và tặng tôi một tập thơ gồm 50 bài, do Nhà xuất bản văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản. Tập thơ nhan đề Em ơi- thời gian, tác giả chính là người bạn trẻ đến thăm hôm đó - Trịnh Thế, một thành viên Lính thủy sông Lô năm xưa. Trong tập thơ có bài anh viết từ năm 1946, khi mới ở tuổi 16.


Xin trở lại với khoá học của chúng tôi ở vùng ngã ba sông Lô - sông Chảy. Khoảng giữa tháng 4 năm 1951, khoá 2 vừa kết thúc thì anh em khoá 1 từ Trung Quốc trở về nước. Ngày 29, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái xuống trực tiếp chỉ thị cho cán bộ phụ trách cả hai khoá chuẩn bị chuyển hướng hoạt động của Ban nghiên cứu Thuỷ quân. Điều kiện cụ thể của cuộc kháng chiến lúc này đòi hỏi giảm biên chế cơ quan Bộ để tập trung cán bộ xây dựng các đại đoàn chủ lực và tăng cường cán bộ ra phía trước. Mấy trăm cán bộ của cả hai khoá Thuỷ quân cùng trong diện đó. Bộ chỉ thị cho chúng tôi cùng cơ quan quân lực nghiên cứu cụ thể từng đối tượng hoặc điều ra chiến đấu ở vùng duyên hải Đông Bắc (chủ yếu là anh em bộ đội và du kích vùng biển vừa tham gia lớp huấn luyện khoá 1) hoặc điều về các đại đoàn, trước hết là đại đoàn công pháo 351.


Phải thú nhận rằng việc giải thể Ban nghiên cứu Thuỷ quân trong đó có các cán bộ, học viên đã qua hai khoá huấn luyện là điều bất ngờ đối với chúng tôi. Anh em học viên đang nô nức chờ đợi nhiệm vụ mới, chờ đợi được vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn công tác. Vấn đề đặt ra là phải triển khai công tác tổ chức, công tác chính trị tư tưởng như thế nào để không gây nên sự hẫng hụt trong một số người, nhất là những anh em không được phân công ra chiến đấu ở Đông Bắc. Chúng tôi ghi nhớ lời dặn của anh Thái (cấp uỷ), từng tổ Đảng và đảng viên tự phải xác định nhận thức và tư tưởng rằng chủ trương tạm thời giải thể lúc này là đúng, là phù hợp với yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến. Khi phổ biến nhiệm vụ cho chúng tôi, Tổng Tham mưu trưởng nhấn mạnh: chúng ta không hứa hẹn xuông, nhưng chắc chắn khi điều kiện cho phép tổ chức lực lượng Hải quân, các anh em học sinh này sẽ là những người đầu tiên được Bộ triệu tập về và sẽ trở thành "những hạt giống đỏ" của Hải quân Việt Nam sau này.


Suốt tháng 5, hàng loạt công tác được triển khai dồn dập nhằm nhanh chóng thực hiện chủ trương của Bộ: sinh hoạt chính trị, đả thông tư tưởng, phân bố cán bộ và học viên của cả hai khoá, giải quyết những vấn đề còn lại về quản lý hành chính, cơ sở vật chất...


Trong không khí khẩn trương nhộn nhịp ấy, không khỏi có những biểu hiện tâm lý nuối tiếc và tình cảm bạn bè quyến luyến trước ngày chia tay, nhất là sau khi công bố danh sách theo phân công cụ thể. Kẻ ra Đông Bắc, người xuống đại đoàn, hôm chia tay không ai dự kiến trước ngày gặp lại và tuy không nói ra không ai biết trước cuộc đời binh nghiệp của mình liệu còn có dịp trở lại gắn bó với Hải quân hay không.


Phải hơn bốn mươi năm sau, với sự ra đời của Ban liên lạc cựu chiến binh sông Lô, bài toán mới có lời giải trong cuộc họp mặt đầu Xuân Quý Dậu - 1993. Sau bốn mươi hai năm - mới có dịp báo cho nhau ai còn ai mất, anh nào còn trong quân ngũ, anh nào đã ra ngoài trước ngày nghỉ hưu và đặc biệt là những ai hiện còn là "hạt giống đỏ" trong Quân chủng Hải quân? Được biết, ngay sau hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Bộ đã giữ lời hứa, điều động ngay một số anh em về tham gia chuẩn bị thành lập Cục phòng thủ bờ bể. Trong đó, có nhiều anh em tham gia công tác trong Quân chủng Hải quân cho đến ngày nghỉ hưu. Ai nấy đều vui mừng khi được tin dù xuống đơn vị chiến đấu hay vẻ các cơ quan Bộ hoặc Liên khu, hoàn cảnh môi trường khác nhau, kể cả trước những thử thách ác liệt nhất, tất cả anh em đều hoàn thành nhiệm vụ, có anh ngã xuống trên chiến trường địch hậu Đông Bắc. Và một "mẫu số chung" là mỗi người chúng tôi đều rất tự hào về bản chất "Anh bộ đội Cụ Hồ", cũng như chưa ai quên những kỷ niệm một thời trai trẻ của những chàng "lính thuỷ nước ngọt" trên một vùng ngã ba sông Lô - sông Chảy.

TTT
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #14 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2021, 01:36:36 pm »

NHỮNG NGÀY Ở ĐỘI 71


Đại tá Lê Ngọc Quang
Nguyên chính uỷ Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp


Tháng 5/1950, tôi 29-30 tuổi đến nay tôi đã gần 80, trải qua hai cuộc kháng chiến gian khổ, cộng với những năm đổi mới, biết bao đổi thay, nhiều anh em đã hy sinh trong chiến đấu, những anh em còn lại, gặp được nhau tay bắt mặt mừng, vẫn cảm thấy mình còn trẻ, nhớ lại Đội 71 năm xưa, thật xao xuyến và cảm động...


Tôi nhận lệnh về Đội 71 từ ngày còn ở trường Lục quân, đóng ở Soi Mít (Thái Nguyên), về Bộ Tổng Tham mưu tôi được anh Hoàng Văn Thái, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội quốc gia Việt Nam (sau đổi thành Quân đội nhân dân Việt Nam) thân mật tiếp và giao nhiệm vụ phụ trách Đội 71 sang Trung Quốc học tập, rút kinh nghiệm giải phóng đảo Hải Nam bằng thuyền buồm. Anh đã viết sẵn bức thư bằng chữ Hán trao cho tôi sang gặp đại sứ Trung Quốc để bạn làm thủ tục đón nhận chúng tôi ở vùng Bằng Tường - Long Châu bên kia biên giới.


Tôi đến gặp đại sứ La Quý Ba, đại sứ Trung Quốc đầu tiên ở nước ta, ở trong một khu rừng có nhiều cây cao thoáng mát. Nơi ở và làm việc của đại sứ là một căn nhà gỗ khang trang. Sau khi làm việc xong, hai vợ chồng đại sứ ân cần mời tôi cùng ăn sáng và vui vẻ trò chuyện về mối quan hệ hữu nghị thắm thiết Việt - Trung.


Sau đó, tôi trở về Đội 71 ở Đồng Bẩm (Thái Nguyên), gặp anh Nguyễn Việt và anh Trác Vinh Nam cũng là cán bộ trong Ban chỉ huy đội. Phải lên đường ngay, nên trong quá trình hành quân cũng là quá trình chúng tôi trao đổi công việc. Được anh Việt cho biết tình hình cụ thể về biên chế tổ chức của Đội 71 và thấy công tác chuẩn bị nội vụ cùng kế hoạch hành quân mọi việc đã sẵn sàng, tôi yên tâm cùng lên đường và ngày càng thêm thông cảm hiểu biết nhau hơn: anh Nam hoà nhã, tháo vát và trực tính kiêm cả phiên dịch trong khi Đội chưa gặp được tổ chức của Bạn. Anh rất thạo tiếng Quan Hoả và tiếng Quảng Đông, rất thuận lợi cho viêc giao dịch của Đội trong quá trình hành quân và tiếp xúc với bạn. Anh Việt năng nổ, có đầu óc tổ chức, có trình độ và năng lực công tác nhưng rất khiêm tốn. Lúc này tôi mới biết rõ Đội 71 thuộc Ban nghiên cứu Thủy quân, bao gồm thành phần một số anh em du kích biển Đông Bắc và học sinh có trình độ trung học từ các trường của miền trung du Bắc Bộ và vùng Khu 4, được tuyển vào trường Thuỷ quân khoá 1 và 2 ở Đoan Hùng, bên sông Lô - sông Chảy. Nói chung anh em đều tươi trẻ, khoẻ mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật tốt và nhiệt tình hăng hái.


Vào thời điểm này, đường số 4 biên giới Việt - Trung vẫn chưa được giải phóng, đơn vị phải cử trinh sát bám địch để bí mật vượt qua. Tới Bằng Tường gặp Bạn vẫn chưa có xe, anh em lại phải tiếp tục đi thêm hai ngày đường hành quân bộ tới Long Châu. Tới đây chúng tôi được Bạn tiếp đón và bố trí đi Nam Ninh bằng tàu thuỷ. Theo Bạn cho biết lúc này Hoa Nam mới được giải phóng, nhiều nơi vẫn còn phỉ hoạt động, nên đi bằng đường sông an toàn hơn. Sau nhiều ngày hành quân bộ cực nhọc vất vả đã thấm mệt, đến đây lại được đi bằng tàu khách êm ả, có nơi ăn nghỉ tại chỗ và được thư giãn ngồi ngắm cảnh bên sông, mọi người trong đơn vị đều cảm thấy rất thích thú và thoải mái. Toàn đơn vị được Bạn bố trí đi trên ba chiếc tàu với cự ly cách nhau khoảng 100m, có giải phóng quân mang súng ngồi trên boong yểm hộ, chạy suốt ngày đêm. Khi tối xuống đã ngả về khuya, đoàn tàu vẫn nổ máy lướt trôi và loa phóng thanh trong khoang đang nhè nhẹ vang lên những điệu kèn, tiếng nhị êm ái như muốn ru ngủ khách đi tàu, thì bỗng nhiên hàng tràng súng máy, súng trường từ trên bờ bắn xuống và từ dưới tàu bắn lên vang động cả dòng sông. Một lúc sau mọi việc cũng qua đi, đoàn tàu vẫn an toàn và chiều hôm sau đơn vị chúng tôi vẫn đến được Nam Ninh theo dự định. Từ đây, Bạn đưa chúng tôi hành quân tiếp bằng ô tô. Đến Tsékham, đơn vị chúng tôi được Quân đoàn 43 phụ trách tổ chức tiếp đón, rồi đưa ra đảo Điều Thuận, một đảo nhỏ cách đất liền trên 10km để huấn luyện.


Về luyện tập đi biển, Bạn dùng 6 - 7 chiếc thuyền buồm, từ chỗ ra khơi tập cho quen với sóng gió, đến tập lái thuyền, rồi tập sử dụng thuyền buồm, gồm các động tác lên xuống thuyền buồm, kỹ thuật điều khiển thuyền buồm để lợi dụng được sức đẩy của gió cho thuyền chạy các chiều: xuôi gió, ngược gió, quay mũi đổi chiều khi chạy vát... điều khiển cho thuyền chạy nhanh, chạy chậm hay ngừng chạy, động tác neo đậu, đưa thuyền ra khơi và cho thuyền vào bờ cập bến... Luyện tập để điều khiển được buồm cho thuyền chạy an toàn trong điều kiện sóng to gió lớn là cả một nghệ thuật và mất nhiều công phu mới luyện tập thành thạo. Bạn còn truyền thụ những kinh nghiệm thực tế của những người đi biển để phán đoán thời tiết, chiều gió, để xem con nước thuỷ triều, tìm phương hướng đi giữa biển khơi...


Về kỹ thuật tác chiến, có tập xạ kích trên thuyền, tập đổ bộ bằng thuyền gồm các động tác từ trên bờ lên thuyền xuống nước tiếp cận mục tiêu, chiếm lĩnh trận địa.... Kết hợp với việc luyện tập kỹ thuật tác chiến trên bộ (động tác cá nhân, 3 người, tiểu đội và trung đội), kỹ thuật sử dụng, vận hành máy nổ chạy tàu, thuyền v.v...


Cuối chương trình chúng tôi được nghe Bạn giới thiệu tóm lược về "Chiến dịch đổ bộ đánh chiếm đảo Hải Nam" và cuối khoá có đợt huấn luyện tổng hợp, diễn tập thực binh. Đêm ra khơi sáng sao, gió to sóng lớn cao đến 4 - 5m làm cho thuyền chòng chành nghiêng ngả, hai bên con sóng không nhìn thấy thuyền nhau, nước biển bắn tung toé, trào lên cả mui thuyền làm ướt đẫm cả quần áo của những anh em đi diễn tập. Tiếng hò hét điều khiển của Bạn cộng với tiếng gào rít của sóng gió, tiếng va đập của sóng vào mạn thuyền với những làn nước từng nhịp tung toé ào ạt lên thuyền, làm cho không khí luyện tập rất sôi động, khẩn trương và nghiêm túc. Đêm diễn tập thắng lợi trở về cũng là lúc đã tới thời hạn trở về nước để nhận nhiệm vụ mới, sau 6 tháng khẩn trương huấn luyện, học tập kinh nghiệm trong sự giúp đỡ tận tình của Bạn. Trước khi chia tay, Bạn đánh giá cao tinh thần và kết quả học tập của đơn vị, hoàn thành tốt kế hoạch của trên đề ra, tình hữu nghị thấm đậm nhiều ấn tượng còn in sâu trong tâm khảm mọi người.


Về nước vào tháng 4/1951, thì sang tháng 5/1951 Bộ có chủ trương giải thể Ban nghiên cứu Thuỷ quân do yêu cầu của tình hình lúc bấy giờ, trên dưới đều trăn trở luyến tiếc. Anh em chia tay bịn rịn, người đi chiến đấu ngoài hải đảo ở khu Đông Bắc, người về sư đoàn chủ lực. Trong chiến đấu gian khổ, nhiều anh em chiến đấu dũng cảm lập nhiều thành tích, một số anh em đã hy sinh. Gặp các anh Phạm Vũ Quân, Nguyễn Quang Tiếp kể chuyện hoạt động vùng biển Đông Bắc (Hải Ninh - Hồng Quảng) ác liệt, gian khổ, tôi liên tưởng đến tình hình khi vể nhận nhiệm vụ ở Trung đoàn 2 của Quân khu 3 đóng ở Tiên Yên hồi đầu chiến tranh (1947), thôi thì đủ mọi khó khăn thiếu thốn, lại thêm nạn thổ phỉ hoành hành cướp phá, nên rất thông cảm với anh em Thuỷ quân sông Lô chiến đấu ở ven biển hải đảo, cơ sở địch hậu Đông Bắc, trong hoàn cảnh luôn bị địch càn quét, o ép đủ bề gian truân cực nhọc.


Hoà bình lập lại, tôi gặp anh Ngô Thế Lãng, phụ trách đoàn văn công của Sư đoàn pháo binh 349, cũng như đã gặp nhiều anh em trong Đội 71, Thuỷ quân sông Lô năm xưa, là những đồng chí đã từng chiến đấu với quân thù, nay trở về đời thường lạc quan yêu đời, vẫn vững tin vào tương lai tươi đẹp của đất nước, cảm thấy thật là đáng quý.


Tuy rằng thời kỳ của Đội 71 đã qua đi khá xa, và trí nhớ của tôi cũng có hạn, nhưng để thiết thực góp phần vào xây dựng tập Hồi ký về Ban nghiên cứu Thuỷ quân, cái nôi của Thuỷ quân sông Lô (trong đó có các chiến binh Đội 71), tôi xin ghi lại mấy dòng hồi ký này để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm xưa, động viên nhau giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của "Anh bộ đội Cụ Hồ".


Hà Nội, ngày 11 tháng 9 năm 1998
LNQ
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #15 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2021, 01:40:17 pm »

TÔI VÀO LÍNH THỦY CỤ HỒ


Đại tá Lê Quang Loát
Nguyên Lữ trưởng Lữ đoàn Tên lửa 490 -
Chiến sĩ Thuỷ quân Sông Lô Năm 1949 - 1950


Ngày 23 tháng 1 năm 1994, một số anh em nguyên là Lính Thuỷ sông Lô chuyển sang Trung tâm pháo binh 45, gặp nhau nhân dịp mừng nhà mới của anh Đặng Luyến, anh Đỗ Sâm (bạn Thuỷ quân khoá 1) nhắc tôi: "Này cậu Loát, chưa thấy có bài cho tập san lính thuỷ sông Lô đấy nhé...". Đang dắt xe ra cửa tôi liền đáp "sẵn sàng, có ngay". Thế là suốt dọc đường về, những hình ảnh tươi trẻ của tôi "Anh lính thuỷ Cụ Hồ" cách đây hơn bốn thập kỷ cứ nối nhau tái hiện lại trong tôi như một cuốn phim sinh động và cuốn hút, khiến cho tôi khi vừa đặt chân tới nhà liền bắt tay ngay vào việc ghi nhanh những dòng tự thuật này.

Vào thuỷ quân - Xuôi đò dọc về căn cứ phố Giàn:

Sau khi trúng tuyển, tôi đem việc đăng ký tòng quân ra thưa chuyện, thầy và bầm tôi lặng đi. Tôi đang lúng túng chưa biết trình bày tiếp như thế nào, thì thầy tôi, vốn học nho, hiểu rộng và thường đưa ra ý kiến quyết định, đã chậm rãi nói trước: "Đất nước đang cần thanh niên lên đường chiến đấu, nay con đã mười tám tuổi rồi, còn ờ nhà để học hành cũng không ổn, thầy đồng ý để con vào bộ đội, khi nào đất nước yên lành thì học lại vậy...". Rồi bầm tôi cũng nghẹn ngào tiếp lời: "Anh Quảng con đã thoát ly từ năm 45, sang năm 46 thì bọn Quốc dân Đảng bắn bị thương ở mặt trận Yên Kỳ, ở nhà chỉ có con là lớn, giúp đỡ được nhiều việc, nay con lại đi nốt, ở nhà thầy, bầm thì già và bốn em con còn nhỏ, rất neo bấn, nhưng nay Tổ quốc cần đến con và thầy con cũng đã đồng ý thì bầm cũng không giữ con được. Con đi phải biết giữ gìn sức khoẻ, bầm nhớ con nhiều lắm...". Rồi bầm tôi nghẹn tắc, lau nước mắt, không nói nên lời... Thế là gia đình tôi đã đồng ý, lòng tôi nhẹ đi vì được tòng quân, nhưng lại trào dâng nỗi thương nhớ thầy bầm và các em day dứt  và lại đến lượt lo lắng thắc thỏm là liệu đi lần này không biết tôi có được gặp lại anh Quế để xin được vào Thuỷ quân không?


Ngày 16/1/1950 chúng tôi được nhà trường tổ chức lễ xuất quân cùng với anh chị em của trường trung học kháng chiến. Ai nấy đều cảm thấy vinh dự và xúc động vì cuộc đời lính bắt đầụ từ đây... Chia tay gia đình cùng bạn bè và bà con địa phương, tất cả anh chị em chúng tôi cùng đi bộ lên thị trấn Sơn Dương, theo sự hướng dẫn của đoàn tuyển sinh. Thật là vui, lần đầu tiên ăn tập thể, ngủ tập thể, hát tập thể và đi cũng tập thể, chúng tôi quên cả mệt... Đến Sơn Dương, cả đoàn dừng lại, như có linh tính báo trước: giờ chia tay đã đến, những chàng trai, cô gái thư sinh tươi trẻ như những bông hoa ríu rít như bầy chim non, sao mà quyến luyến nhau đến thế?... Rồi như những buổi lửa trại chia tay trong lớp, trước kỳ nghỉ hè, chúng tôi thân ái nắm tay nhau hát bài tạm biệt... Ban tuyển sinh đã làm việc, nhưng còn nhiều anh chị em vẫn còn rầm rì dở dang câu chuyện hoặc còn tranh thủ ghi nốt cho nhau mấy dòng nhật ký. Đang hồi hộp chờ đợi thì từ Ban tuyển sinh vọng xuống "Lê Quang Loát ! về đoàn Thuỷ quân!". Ôi vui sướng biết bao! đúng nguyện vọng rồi. Lòng tôi như mở cờ, bắt tay vội mấy anh em bên cạnh, xách ba lô đứng lên đi về nơi tập kết của đoàn Thuỷ quân, vừa thầm cảm ơn anh Trần Duy Hợi là người trước cùng học ở trường Vĩnh Chân, rồi trường Hùng Vương, nay cũng tham gia vào Ban Tuyển sinh lần này và đã được tôi rỉ tai đề nghị khi lên đường. Tồi cứ thầm cảm ơn anh Hợi mãi vì tổng số học sinh của cả hai trường Hùng Vương và Kháng chiến chúng tôi ra đi đợt này phải kể đến trên một trăm người cả nam lẫn nữ, nhưng biên chế về trường Thuỷ quân khoá 1 lần này vẻn vẹn chỉ có mười hai anh em chúng tôi thành một tiểu đội, gồm có các anh: Đinh Văn Chí (Chí pheo), Ngô Thế Lãng (Lang bột), Đỗ Sâm (Sâm be), Nguyễn Văn Tiến (Tiến lai), Trần Quang Hậu (Hậu gà), Phan Ngọc Đức (Đức quăn), Thọ Sơn, Lê Văn Vỹ (Vỹ ò), Phạm Quang Tình, Nguyễn Phú Đạt, Nguyễn Phú Quát, Lê Quang Loát (Loát kều).


Thấy anh Quế đến, mừng quá chúng tôi quây lấy anh và hỏi han tíu tít, nào là: Trường ở đâu anh? Còn xa không?... anh Quế chỉ cười và trả lời "cứ đi sẽ biết. Đến Bình Ca sẽ đãi các cậu một chầu, sau đó xuôi về Đoan Hùng. Cứ theo tôi, nhớ bám sát Quế này nhé!... Rồi anh nói tiếp, như ra lệnh: "Từ giờ phút này các "cậu ấm" đã là lính. Lính thì chỉ biết có nghe lệnh. Rõ chưa!...". Chúng tôi đồng thanh: "Rõ". Sau đó, theo lệnh của anh, chúng tôi tập họp rồi lên đường, đi theo hàng 1, cự ly phân tán để đề phòng phi cơ địch oanh tạc. Nhóm chúng tôi nhẹ nhàng nhất, hành trang của tôi chỉ có một nửa chiếc chăn chiên, một ba lô con cóc do tôi tự may ở nhà, với một bộ quần áo kaki do anh trai tôi cho để mặc đi học, đã cũ. Cả tốp có một vật quý giá nhất phải bảo vệ, đó là chiếc đàn ghi ta gỗ của anh Lãng. Chúng tôi ưu tiên cho anh Lãng vác đàn, không phải mang gì cả. Lúc ấy, công cụ "món ăn tinh thần" này sao mà quý thế? Chúng tôi gọi nó là "cần câu cơm", bởi vì có nó chắc chắn là đi làm công tác dân vận sẽ có lợi lắm. Đến Bình Ca, chúng tôi vẫn không thấy mệt, lại được anh Quế chuẩn bị sẵn cho một bữa ăn khá tươi. Anh tuyên bố: "Hôm nay khao các chú một bữa tươi, từ mai trở đi chắc khó mà tái diễn được...". Ôi, lần đầu tiên tôi được ngồi ăn lịch sự như thế này, với tư cách người lớn thực sự như thế này. Vì ở nhà tôi vẫn được liệt vào loại trẻ và chỉ được làm "bồi bếp” cho Bầm tôi thôi. Hầu hết các quán ăn và các hàng tạp hoá ở đây đều được xây dựng dưới các tán cây hoặc trong các hẻm núi để phòng không, nhưng cũng khá bề thế, khang trang và đủ loại mặt hàng cần thiết. Cơm nước xong, trời gần tối, chúng tôi theo anh Quế xuống thuyền xuôi Đoan Hùng (ở địa phương quen gọi là đi đò dọc). Khi xuống thuyền, anh Quế đứng trên bờ, đếm từng người một, rồi xuống sau cùng và bảo: "Các chú sữa (anh gọi bọn trẻ chúng tôi như vậy), hôm nay đi nhiều đã mệt, cứ ngủ đi, để tôi gác cho và sẽ gọi dậy khi đến bến". Lúc này chúng tôi mới được thảnh thơi và thấm mệt, ai nấy vừa đặt lưng là lăn ra ngủ như chết. Đến khi anh Quế đánh thức, chúng tôi tỉnh dậy thì trời đã hửng sáng và thuyền đã cập bến ở bờ phía Bắc sông Chảy, nơi ngã ba tiếp giáp với sông Lô. Sau khi lên bờ, anh Quế lai tâp hợp đơn vị, kiểm tra quân số và ra lệnh: "Tất cả hành quân theo một hàng dọc, đi về doanh trại". Doanh trại! cái từ mới lạ làm sao chứ? Tôi cho là nó cũng đồng nghĩa với từ "đại bản doanh" đã được đọc trong Tam Quốc chí. Ừ mà nếu là "đại bản doanh của Thuỷ quân" thì cũng oai thật đấy! Những suy tưởng ngây ngô trước những sự việc mới lạ cứ diễn ra và đeo đuổi trong tôi khi còn là lính mới là như thế đó. Chúng tôi đi chừng một tiếng thì đến một phố nhỏ ven sông Chảy. Trên bến dưới thuyền, nhà trệt xen lẫn nhà sàn đều bằng tre nứa và lợp lá cọ, dân cư đông đúc. Anh Quế hóm hỉnh giới thiệu "Đây là phố Giàn, thủ đô của chúng ta đó". Ở lại đây nghỉ ngơi một lát, anh Quế đưa chúng tôi vào doanh trại, lúc ấy đã tám giờ sáng. Đây là một vùng khá rộng ở bên phía sau phố Giàn, có 4 khu: - khu Hiệu bộ của trường đồng thời cũng là cơ quan của Ban nghiên cứu Thuỷ quân; khu tiểu đoàn bộ (có cả hội trường và sân tập họp, chào cờ); khu đại đội 1; khu đại đội 2. Nhà cửa đều làm bằng tranh tre, nứa lá, khá đẹp. Mỗi khu đại đội còn có một sân bóng chuyền cùng với các bãi xà đơn, xà kép, dây leo tự tạo. Các khu cách nhau khá xa, từ 300 đến 500 mét và dựng nhà theo ven sườn đồi, bên cạnh nhà ở đều có hầm hào phòng không. Kẻng báo động bằng một vỏ quả bom lớn treo trên đỉnh đồi gần đại đội 1 thường xuyên có người canh gác để báo động phòng không. Nối liền các khu là những con đường nhỏ, phẳng, sạch và đẹp mắt.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #16 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2021, 01:42:16 pm »

Khoá 1 học viên Thuỷ quân chúng tôi có hai đại đội, hình thành một tiểu đoàn do anh Trần Lưu Phương làm tiểu đoàn trưởng và anh Khổng Hiệu làm chính trị viên. Hai đại đội trưởng là các anh Nghiêm Xuân Hùng và Lê Trường Đa. Còn các trung đội trưởng là anh Dương Đình Ấu, Trần Kỳ, Trần Hùng... đều đã tốt nghiệp khoá 4 trường Lục quân Trần Quốc Tuấn... Sau khi làm việc với các thủ trưởng Hiệu bộ và Ban chỉ huy tiểu đoàn học viên, anh Quế tập họp chúng tôi ở sân tiểu đoàn bộ và làm thủ tục bàn giao biên chế số anh em học viên mới chúng tôi về các đơn vị. Tôi được phân công về tiểu đội anh Hà Văn Ngữ (to kều), nằm trong trung đội anh Dương Đình Ấu, thuộc đại đội 2 của anh Lê Trường Đa và mau chóng hoà nhịp với sinh hoạt của đơn vị. Khoảng 10 ngày sau thì khoá học đầu tiên khai giảng: toàn tiểu đoàn tập trung ở hội trường làm lễ khai mạc, ngoài các anh lãnh đạo của cơ quan Hiệu bộ của trường, còn có cán bộ Bộ Tổng Tham mưu về huấn thị và đọc quyết đinh, đại biểu học viên lên phát biểu và hứa hẹn. Buổi lẽ rất trang nghiêm, trọng thể, động viên được khí thế phấn khởi của toàn trường.

Bước "cày vỡ":

Sau đó cuộc đời lính học viên Thuỷ quân khoá 1 của chúng tôi nghiêm túc bước vào học tập. Tháng đầu tiên học về "điều lệnh tác phong" xây dựng quân đội chính quy, sẵn sàng chiến đấu, phải nói là khá "căng", nhất là hầu hết anh em chúng tôi đều là học sinh mới thoát ly gia đình bước vào cuộc sống tập thể với kỷ luật nhà binh. Các anh chỉ huy bảo chúng tôi còn bỡ ngỡ, nhưng sau 1 tháng tân binh, các anh ấy "luộc cho ra bã" thì cũng quen dần. Để rèn luyện tác phong ban đầu, đơn vị đề ra các mục tiêu phấn đấu cho chúng tôi trong từng tuần lễ một để thi đua thực hiện như: tuần lễ kỷ luật; tuần lễ nhanh chóng; tuần lễ báo động; tuần lễ lễ tiết tác phong.... Sau mỗi tuần nội dung học tập đều có sơ kết, tổng kết, nhận xét cá nhân và phân đội, có biểu dương để phát huy các mặt ưu điểm; phân tích, phê phán các mặt khuyết điểm. Đây là tháng học tập đầy gian khó đối với chúng tôi, nếu gọi là "môn học" thì không cao xa gì, nhưng làm được đều khó khăn vất vả. Thật vậy, chúng tôi đang tuổi ăn, tuổi ngủ, quen sinh hoạt tự do mà đưa ngay vào khuôn phép thì thật là khổ sở, luôn bị phạt. Ở đây, nhất nhất mọi cái đều phải đúng quy định, đúng giờ giấc, đúng hiệu lệnh của một tập thể thống nhất, sai là phạt, mà sao lắm cách phạt thế? đủ mọi hình thức: phạt đứng nghiêm, phạt chạy, phạt bò... tuỳ theo nặng nhẹ mà bắt mang cả ba lô, vũ khí hay không. Thế mà anh em chúng tôi chẳng ai kêu ca phàn nàn gì. Mình sai thì mình phải chịu, phạt xong lại chuyện trò nổ như pháo ran. Thời kỳ đầu chúng tôi còn mang súng gỗ, có lần ba sự việc cùng xảy ra: tôi vô ý đánh rơi súng, Quảng "móm" thì khoét súng làm điếu cày, còn Tâm "xổm" lấy súng làm ghế ngồi bị "xê trưởng" bắt gặp, cả ba chúng tôi phải đeo ba lô trườn ba vòng quanh sân, cả "xê" ngồi nhìn cười rúc rích, song chúng tôi đều hiểu rằng phạt là để xây dựng ý thức bảo quản vũ khí cho anh em "súng là vợ, đạn là con". Gay go nhất là ”tuần báo động", có đêm báo động hai, ba lần, rèn luyện cho chúng tôi ngăn nắp gọn gàng, luôn luôn ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Mỗi lần nghe tiếng còi báo động, đứa nào đứa nấy mặc quân phục cho nhanh, tháo và buộc màn cho nhanh, thu xếp đồ dùng, chăn màn và buộc ba lô cho nhanh, rồi đi giày cho nhanh và vác súng đeo ba lô ra tập họp, rồi chạy đều hành quân, nếu để lôi thôi rơi rớt là bị phạt; nhiều lần vừa qua một lần báo động, về mắc màn thiu thiu ngủ thì lại báo động, đêm ngủ nơm nớp không yên, có nhiều anh ngủ không dám bỏ chăn ra đắp, hay màn thì không dám mắc, cứ lồng sẵn bốn góc màn vào bốn đầu chân tay, hễ khi có cán bộ đi kiểm tra ban đêm thì giơ cả bốn vó lên, nhưng rồi bị phát hiện, vẫn cứ phạt. Phần nhiều thiếu ngủ, ban ngày anh em ngồi họp hành cứ gà gật. Chúng tôi thường bảo nhau đây là một tháng "cày vỡ". Câu nói hình tượng này rất đúng nếu ví anh em học sinh chúng tôi như những mảnh đất còn hoang sơ khô rắn ắt phải chịu sự tác động mãnh liệt khi phải cày vỡ nhào luyện cho thuần thục và ví các anh cán bộ nhà trường như những anh thợ cày ắt không khỏi phải tốn bao nhiêu công sức cực nhọc để biến những mảnh đất hoang sơ thành hữu ích. Cho đến hôm nay tôi vẫn còn nhớ mãi anh Lê Trường Đa, thủ trưởng đại đội của tôi, người Liên khu 5, da ngăm ngăm đen, miệng nhỏ, người cao to cân đối, động tác yếu lĩnh rất chuẩn xác mẫu mực, tư thế tác phong nghiêm túc đĩnh đạc. Anh ít nói và có vẻ hơi "khô", làm cho học viên kiêng nể, nhưng rất giàu tình cảm, thương yêu và chăm sóc anh em học viên chu đáo. Đại đội tôi có 3 trung đội, các anh trung đội trưởng đều được qua đào tạo chính quy, làm việc nhiệt tình và mẫu mực, chăm nom thương yêu học viên; mỗi anh một vẻ: anh Dương Đình Ấu người bé nhỏ nhưng hô rất to và động tác cứng rắn gần gũi anh em, tính tình thẳng thắn nhưng hơi nóng, có điều gì không vừa ý là anh đỏ mặt nói ngay; anh Trần Kỳ, người tầm thước điềm đạm, nước da mai mái xanh, tính tình dịu dàng hay cười; anh Trần Hùng dáng thư sinh, đẹp trai, hát hay, tuổi đời còn trẻ, có dáng con nhà khá giả, rất thân với anh ruột tôi là anh Lê Quảng và có lần anh Quảng đã đến thăm tôi và anh Trần Hùng, làm cho giữa tôi và anh Trần Hùng gần gũi nhau hơn. Đến nay cả ba anh trung đội trưởng đều đã hy sinh trong chiến đấu ở chiến trường duyên hải Đông Bắc.


Sau một tháng học tập điều lệnh, tác phong, chúng tôi bắt đầu học tập chuyên môn phân chia làm ba ngành là hàng hải, điện cơ và tín hiệu. Tôi được xếp vào học ngành hàng hải. Lúc đầu lên lớp nghe giảng cũng có nhiều khó khăn bỡ ngỡ khó hiểu, nhưng rồi vừa học vừa hành cũng vỡ dần ra. Các thày dạy chuyên môn theo giờ có chương trình cụ thể, việc học tập chuyên môn xen lẫn với rèn luyện kỷ luật xây dựng chính quy và hoạt động văn nghệ được sắp xếp rất hợp lý. Nội dung chương trình của môn hàng hải gồm có:

- Tín hiệu: bằng còi, đèn, cờ tay do thầy Oanh giảng dạy. Tôi theo học môn này rất hứng thú và đạt kết quả nên đã được trợ giúp thầy giáo trong các giờ luyện tập thực hành.

- Nơ, nút: do thầy Vỵ đảm nhiệm hướng dẫn, tôi học cũng rất nhanh và nắm chắc các thao tác, có thể là do trước đây khi còn ở nhà tôi được thầy tôi dạy đan lát ít nhiều. Khi sát hạch kiểm tra hai môn trên tôi đểu đạt điểm cao.

- Chèo thuyền: theo học môn này tôi được gặp lại thầy Quế, người mà tôi đã từng ngưỡng mộ, nơi luyện tập của chúng tôi là sông Lô và sông Chảy. Tập cả tiểu đội trên một chiếc thuyền, người cầm lái nhìn về phía trước, hai dãy người chèo thuyền về hai bên và quay mặt vào người chỉ huy; đầu tiên là chèo cạn theo động tác thống nhất tám người như một, tạo nên lực đẩy tổng hợp: khi nắm được yếu lĩnh mới chèo dưới nước, thuyền đi rất nhanh và mạnh, có thể đi ngược dòng sông Lô. Khi cần cập bến phải có yếu lĩnh động tác chuẩn bị, quay cho mũi thuyền ngược dòng nước, nếu không thì thuyền sẽ bị dòng nước đẩy đâm vào bờ, hoặc tạo thành lực cản làm lật thuyền như chơi, trong quá trình luyện tập không phải là ít "học sinh thuyền trưởng" đã cho anh em đồng đội uống nước sông Lô. Tôi còn nhớ có một lần học nụ thuyền con, chỉ dùng một dầm ở phía đuôi vừa ngoáy đẩy thuyền đi vừa lái. Trông thì thấy đơn giản nhưng khi thực hành thì không phải là đễ. Khi mọi người lên bờ nghỉ giải lao, anh Quảng "móm" quê Bắc Ninh, học tú tài tưởng bở, hứng lên lẻn xuống bến tháo thuyền ra để nụ thử; nhưng vì sức khoẻ và kỹ thuật chưa tốt, nước lũ tháng 5 của dòng sông Lô đã đưa anh ra giữa sông thì anh em mới phát hiện, cuống quýt lo âu. Thầy Quế không chần chừ lao ngay xuống sông bơi theo dòng lũ ra kịp và leo lên thuyền, rồi bằng động tác thuần thục chỉ 15 phút sau đã đưa được thuyền vào bờ. Ai nấy thở phào nhẹ nhõm, nhưng chúng tôi cũng bị thầy xạc bằng một tràng tiếng Pháp không lấy gì làm nhẹ nhõm cho lắm. Còn "ông Tú móm" thì bước theo sau, mặt còn tái mét cúi xuống nói "Em xin lỗi thầy", đến khi về doanh trại thì không còn tán dóc như mọi hôm nữa. Học hàng hải bằng tàu thuyền trên sông là khoa mục trọng tâm của khoá học nên ai nấy đều chăm chỉ học tập, tuy rằng luyện tập rất mệt và thường ăn đói. Phải nói là thầy Quế rất giỏi về nghề sông nước này và huấn luyện có bài bản, rất nhiệt tình với học viên, làm cho anh em chúng tôi hào hứng học tập và đạt kết quả tốt, không những thế thầy còn để lại cho chúng tôi nhiều ấn tượng tốt về đạo đức tác phong của một người cán bộ phụ trách, người chỉ huy giản dị, khiêm tốn, giàu tính nguyên tắc và quyết tâm khi làm nhiệm vụ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #17 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2021, 01:44:33 pm »

Không những chỉ học chuyên môn mà chúng tôi còn học cách đánh bộ binh nữa. Học từ động tác cá nhân như nghiêm, nghỉ chào, quay, đi đều... mỗi người có một khẩu súng gỗ, chiều dài vừa bằng đúng khẩu súng trường Mỹ (Remington). Sau học xạ kích, ném lựu đạn và cá nhân chiến đấu. Nhiều lần khi học đến các khoa mục chuyên môn thì tiểu đoàn huấn luyện chúng tôi lại được chuyển ra xã Thọ Xuân, đóng quân phân tán trong nhà dân vừa gần thao trường, vừa thực hiện được phân tán phòng không. Luyện tập các khoa mục bộ binh cũng khá vất vả, không những thế, nhà trường lại thường xuyên kết hợp với việc học tập chuyên môn để rèn luyện kỷ luật cho học viên, nên chế độ học tập sinh hoạt hàng ngày rất chặt chẽ, nghiêm ngặt, "lơ mơ" một tý là bị phạt liền. Song nhiều lúc đời lính cũng rất vui, tôi nhớ mãi khi thi bắn súng trường, tôi đã bắn chụm cả ba viên đạn vào vòng 10. Thế rồi cả tiểu đội tôi, rồi cả trung đội tôi reo hò như sấm, phá vỡ cả kỷ luật thao trường, kông kênh tôi lên kỳ đài vì đã giật giải quán quân "Anh hùng xạ kích", không những thế, cộng điểm thì cả trung đội tôi và cả đại đội tôi cũng đứng đầu bảng trong tiểu đoàn. Sao mà vui thế, thế là lần đầu tiên đơn vị tôi vi phạm kỷ luật thao trường mà không bị phạt, ngược lại lại được lên kỳ đài nhận thưởng chuối, dứa của đồng bào địa phương tặng cho những cá nhân và đơn vị lập công xuất sắc trong học tập. Đêm hôm đó mãi đến 11 giờ khuya rồi mà cả sàn ngủ của tiểu đội vần còn tán dóc, liền bị anh Ba trực phát hiện cho tập hợp chạy ra bãi cát ven sông Lô bò 100 mét. Bò xong, nóng quá, chúng tôi rủ nhau xuống sông tắm. Thế nào lúc này lại có anh em reo hò lội sông vì quên mất là đã khuya rồi. Lại một lần nữa tiểu đội tôi bị gọi lên tập hợp và toài thêm 100 mét nữa. Lúc này chừng đã thấm mệt, anh em lặng lẽ rửa chân tay rồi về đơn vị, lên lán nằm rồi mà anh Nguyệt "đen" (lúc này làm tiểu đội trưởng) còn nói nhỏ: "Gớm! ông Ba mới ở lục quân khoá 5 ra mà hắc thế". Mọi người "suỵt" một cái, rồi tiếng "kéo gỗ bắt đầu".


Ngoài thi bắn súng, ném lựu đạn, chúng tôi còn phải thi vác nặng hành quân xa theo đơn vị trung và đại đội. Thời điểm này các đơn vị đã được phát quân trang và vũ khí, nên ai cũng lo nhất là phải vác súng máy 12,7mm, nòng đã nặng mà cái chân 3 càng của nó thật đáng gờm.


Có tuần lễ đóng quân trong làng Chí Đám, đúng vào mùa bưởi chín, mùi thơm cứ ngào ngạt. Kỷ luật của đơn vị rất nghiêm, "chàng vệ" nào mà lơ mơ là hãy coi chừng với kỷ luật. Nhưng đồng bào địa phương thì lại rất thương, rất quý chúng tôi. Sau khi đào công sự xong là chúng tôi lại được các mẹ chiến sĩ mang đến cho ăn thoải mái, đủ các loại bưởi.


Rồi ngày 1/5/1950, nghe chừng "võ nghệ" của lính cũng khấm khá, kỷ luật cũng khá nghiêm túc, lễ tiết tác phong đã đi vào khuôn phép, nhà trường cho cả tiểu đoàn học sinh chúng tôi hành quân đêm về thị xã Phú Thọ dự lễ ngày quốc tế lao động. Đội hình hành quân theo thứ tự đại độị 1, đại đội 2 rồi đến Ban chỉ huy tiểu đoàn, thời kỳ đó quốc lộ 2 có nhiểu đoạn rất xấu, gập ghềnh ổ gà, ổ voi, có những đoạn còn xẻ hào kháng chiến rất khó đi khi hành quân ban đêm, nên cuộc hành quân của chúng tôi phần lớn là đi thường bước, nhưng mỗi khi gặp được những đoạn đường tương đối bằng phẳng là chỉ huy đơn vị lại tranh thủ cho anh em đi đều bước để tập dượt thêm, thiết thực chuẩn bị cho việc diễu hành trong ngày lễ ở thị xã Phú Thọ sắp tới. Trong khi các đơn vị đi thường bước thì hay có “hò lơ" và anh em còn có thể tán dóc được, nhưng đến khi đi đều bước thường có kết hợp hát tập thể hoặc hát luân phiên từng đơn vị để giữ sức. Các trung đội, đại đội thi nhau hát đều, hát to vang động cả núi rừng. Đến gần Châu Mộng (Đường Chè), trung đội tôi đang đều bước ca vang bài "Tiến về Hà Nội" của Văn Cao thì ở phía trước cũng vang lại tiếng hát của đơn vị Đại đoàn 308 làm cho chúng tôi lưu lại được 2 câu để hát theo "Đêm nay trong rừng sâu có bao người mơ thấy về Hà Nội, Ngày mai bao tươi sáng trong súng gươm kéo về đây bao đoàn quân...". Những lời hát trầm hùng của đơn vị bạn cứ vang vọng đến chúng tôi trong đêm hành quân ấy như những lời tự sự quyết tâm giải phóng quê hương, càng động viên thôi thúc chúng tôi hãng say luyện tập sau khi trở về doanh trại...

Ăn mặc lính thuỷ:

Chương trình nhiệm vụ học tập của anh em khoá 1 chúng tôi rất khẩn trương và rất nặng nề; vậy thì cuộc sống vật chất của anh em ra sao? Tôi thiết nghĩ cũng cần nêu lên một vài nét để cùng nhau suy ngẫm tự hào về nghị lực quyết tâm của một thời trai trẻ đã vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.


- Về mặc: lúc lên đường thường mỗi người chỉ mang theo vài bộ quần áo cũ và đôi dép đang dùng; không mấy người có chăn màn, bản thân tôi chỉ có một nửa chiếc chăn chiên và một chiếc ba lô tự khâu lấy (cũng có anh chỉ "toòng teng" cái túi sách tay của trẻ em đi học). Đến đơn vị rồi anh em mới được cấp phát một bộ quân phục vải thô rêu xanh, chiếu cá nhân, chăn màn thì chưa đủ, nhiều anh em phải chung nhau, mà chăn thì hầu hết là chăn chiên, còn màn cá nhân thấp lè tè. Chỉ một mùa luyện tập ở thao trường hay một đợt vào rừng chặt nứa, chặt cây vác về làm lán trại là quần áo bạc phếch, sờn rách, chúng tôi chẳng có thời gian và kim chỉ để khâu vá, hơn nữa chân tay lại lóng ngóng vì khi ở nhà có bầm, chị lo chứ có mấy khi anh em chúng tôi biết làm; nhưng đang ở hiện trường chỗ rách mà không xử lý kịp là toạc thêm ra, nên anh nào anh nấy cứ buộc túm lại là tiện gọn nhất. Kể ra thì chẳng mỹ quan gì, nhưng ai cũng vậy, chúng tôi cũng quen đi và vui vẻ ra nhập làng "vệ túm". Quần áo lúc mới được cấp phát, anh nào cũng hào hứng xúng xính, nhưng chỉ ít thời gian sau thì bạc phếch và sờn rách, túm buộc nhếch nhác, thì chúng tôi lại tân trang bằng cách tự nhuộm, thuốc nhuộm bằng lá cơi (cây cơi mọc vô thiên lủng ở ven rừng và dọc hai bên đường quốc lộ), chỉ cần mượn một cái nồi đem ra bờ suối kê lên mấy cục đá làm bếp, vặt lá cơi cho vào nồi cùng với nước suối rồi nhóm đun bằng củi rừng, chỉ một lúc sau chúng tôi đã có thuốc nhuộm quần áo thành màu nâu xồng, màu đặc trưng của "làng vệ túm thuỷ quân sông Lô" chúng tôi lúc bấy giờ, đồng thời cũng là một màu sắc trang nhã, phù hợp với yêu cầu phòng không nên nhanh chóng lan truyền trong nhân dân địa phương, vì vậy mà anh em lính chúng tôi lúc bấy giờ về trang phục chỉ phân biệt khác với dân quân du kích và thanh niên địa phương ở chỗ còn được cấp phát một huy hiệu đeo trên mũ nền bằng vải đỏ, thêu sao bằng chỉ vàng. Hồi ấy chưa có phù hiệu, cấp bậc của bộ đội, chỉ biểu trưng ở sao trên mũ (ở huy hiệu): binh nhì thì nền trơn, hạ sĩ quan thì có nền chỉ trắng và sĩ quan thì viền chỉ vàng. Trang phục của chúng tôi chỉ đơn giản như vậy, nhưng mọi người đều có ý thức giữ cho sạch đẹp, quần áo giặt khô là xếp phẳng phiu vào ba lô, có anh còn trải dưới chiếu nằm để "là" cho phẳng, ngày chủ nhật đi chợ Ngà cho tươm tất. Sử dụng quần áo cũng phải tiết kiệm, những khi không cần thiết có thể mặc quần đùi và áo "da" như khi xách nước hoặc lúc lao động... nhiều anh chỉ sau một năm "chắt chiu" cũng dành ra được một bộ tương đối lành lặn để làm "lễ phục".


- Về ăn: tới đơn vị mỗi anh em chúng tôi được phát một chiếc ca sắt tây có quai sơn màu xám gio, to gần bằng bát sứ Hải Dương, nông, vừa dùng để uống nước, vừa dùng để ăn cơm. Chỉ có vậy thôi, thìa đũa... ai nấy phải tự lo. Còn dụng cụ của anh nuôi thì chuyên dùng chảo lớn và một số ga men để chia thức ăn cho mỗi mâm, một chiếc to để đựng cơm và một chiếc nhỏ đựng canh. Đại đội tôi có một anh quản lý - anh Tôn béo có một chiếc răng vàng hay đeo xà cột, còn anh nuôi chưa có trong biên chế vì còn thiếu quân, học viên phải luân phiên làm cấp dưỡng. Còn việc tiếp phẩm do tiểu đoàn bộ đảm nhận, cấp thẳng đến quản lý các bếp. Cơm hồi ấy nấu toàn bằng gạo mọt lĩnh ở kho huyện. Khi vo chỉ dấn nước đảo gạo rồi lùa cho mọt và phân mọt trôi đi thôi, nếu cứ gạn kỹ thì gạo cũng trôi đi hết. Hôm tôi mới làm cấp dưỡng lần đầu, cứ ngồi loay hoay gạn mọt, anh Tôn béo trông thấy vội bảo "Này ông tướng ơi! Cấm được gạn đấy! chỉ đuổi mọt đi thôi, chứ chú mà gạn như vậy thì thà cứ đổ ngay gạo đi còn hơn". Rồi đến tôi đang cời than ở bếp ra vì sợ cơm bị khê, thì anh lại ôn tồn trấn an và dạy tôi "Gạo này chú cứ yên chí, thứ nhất là nấu không bao giờ khê, thứ hai là ninh không bao giờ nát", và khi cơm chín, tôi lấy ga men ra định lấy để chia cho các mâm, thì đã thấy anh mang ra một cái nia khá to và bảo tôi phải tãi cơm ra, để một lúc cho hả đỡ mùi mốc và mùi bao tải rồi hãy xới vào ca men. Có lần nhận phải gạo mục, nấu cơm nát chảy nước, khi xới ra cũng phải tãi ra quạt cho xe nước mới đem chia. Cực nhất là khi có anh em ốm, thật là nan giải vì gạo này nấu cháo sao được, lại phải đi 3 - 4 cây số đổi gạo về nấu cho anh em ăn. Còn thức ăn thì cũng không phải xáo xào khó khăn gì vì hầu như chỉ có một "đặc sản độc nhất" là canh rau. Rau nấu với muối rồi nhận một muôi mỡ hoặc tóp mỡ của anh Tôn béo mang từ kho ra cho vào, mỡ thì nổi thành sao, nếu là tóp mỡ thì nổi lèo tèo trống cũng vui mắt đôi chút, nhưng nhiều lần về cuối tháng mà anh Tôn béo thông báo đã hết tiêu chuẩn thì chỉ nấu canh xuông thôi. Về rau thì do tiếp phẩm của tiểu đoàn bộ quyết định, mua được gì thì cấp xuống (lúc thì măng hay bầu, bí, khi thì mướp hoặc sắn, cà chua...). Lượng rau có hạn nên canh nấu ra chỉ lõng bõng toàn nước. Cơm và canh như vậy nhưng bữa nào cũng hết bay, không đủ cho anh em ăn. Thế nhưng vào những ngày lễ hoặc vài ba tuần lễ một lần cũng được một bữa tươi, anh em no nê thoải mái. Trong thời kỳ khó khăn thiếu thốn này, có một sự kiện khá đặc biệt đã xảy ra ở đơn vị tôi là khi ăn phải có trưởng mâm. Mới nghe ai cũng tưởng truyện đùa, nhưng lại có thật; nguyên do là đại đội tôi ăn chung một bếp, anh em nào đến cứ vào ngồi cho đủ mâm là ăn, nhưng vì cơm và thức ăn ít, nên mới có truyện kẻ ăn nhanh thì no, người ăn chậm thì đói (có anh mới chỉ xói được một bát, nhưng mải tán dóc, khi quay lại thì đã hết cơm canh). Thế là trong anh em nảy sinh hiện tượng chọn bạn vào mâm, nhất là số lính học sinh chúng tôi cứ chụm nhau lại thành mâm riêng, làm cho một số cậu ngồi vào mâm cứ chờ mãi vẫn không đủ người ăn. Bực quá, anh Tôn béo quát nạt anh em không xong, phải lên báo cáo đại đội trưởng. Thế là "Thiên lôi" nổi giận. Tiếp sau tiếng còi gấp gáp ở sân trước nhà ăn là một hiệu lệnh: "Toàn đại đội, mang ba lô tập hợp". Thôi thì anh nào anh nấy buông đũa, bỏ ca, chạy về lán khoác ba lô, lao ra sân đứng vào đội ngũ. Sau khi lên lớp về thiếu thốn và khó khăn chung, sự cố gắng của nhân dân và quân đội, tình nghĩa đồng đội, về phong cách và tác phong của lính... "Xê trưởng" quyết  định: "Kể từ nay, vào mâm ăn phải cử ra trưởng mâm. Trưởng mâm có nhiệm vụ gõ bát làm hiệu lệnh xới cơm từng bát một (lần 1, lần 2, lần 3 nếu có). Mỗi lần xới xong anh em phải chờ có lệnh của trưởng mâm mới được ăn, ai ăn xong trước thì đợi đấy khi nào trưởng mâm có hiệu lệnh khác mới được xới tiếp. Kể cả canh cũng phải chia từng muôi. Các đồng chí rõ chưa"? Mọi người rút chân lại đứng nghiêm, hô "Rõ" và tưởng là đã được trở lại nhà ăn ngay, thì "xê trưởng" lại huấn thị tiếp: "Trước mỗi bữa ăn, các trung đội phải tập họp chấn chỉnh thái độ ăn uống xong rồi hát một bài, trung đội nào hát đều và to mới được vào mâm. Rõ chưa!". Một lần nữa anh em chúng tôi lại đứng nghiêm, lần này hô rất to "Rõ", nhưng trong bụng anh em nào đều rõ rằng: thế là từ nay trước mỗi bữa ăn, lại được đại đội trưởng cho mình ăn thêm món "xào" trước khi vào mâm. May cho trung đội tôi có anh Ngô Thế Lãng làm quản ca và anh em chúng tôi cũng biết thân, biết phận, trước bữa ăn nào cũng bảo nhau hát cho thật to để được vào ăn ngay. Khi trở lại nhà ăn, tôi thấy anh Tôn béo tay đang cầm vỉ ruồi, nét mặt tươi tỉnh hẳn lên nói với giọng hiền hậu của người anh: "Mình chỉ sợ "ông Đa" lại thưởng cho các chú một chầu đứng nghiêm thì ruồi nó chén hết cả cơm lẫn canh đấy. Thôi các chú vào mâm mà ăn nốt đi". Cũng từ hôm ấy, việc ăn uống của anh em chúng tôi đi vào nền nếp và mọi người cũng được tương đối tạm ổn về cái "dạ"... Về chuyện cấp dưỡng cũng phải kể thêm là: khi đi hành quân thì mỗi tiểu đội phải mang theo ga men chia ăn của mình và các anh em nào đến phiên nấu ăn thì phải khênh cả chảo cùng với thùng chứa nước. Rồi một lần gặp các cô dân quân hát trêu "Cả đoàn em chẳng yêu ai. Yêu anh bộ đội gánh hai cái thùng"... Thế mà cũng có anh "nhát gan" không dám gánh thùng hành quân ban ngày đấy. Còn củi đun do anh em trong đơn vị lấy về thì cậu nào đến phiên làm bếp mà kiếm được củi cành hay củi nứa là hạnh phúc nhất, nếu chẳng may mà vớ phải củi lau đốt cháy nhuộm nhoạm thì thật là khốn khổ, nhóm bếp khói toét cả mắt mà cũng không chịu cháy cho, chỉ có ngồi mà khóc thôi... 


Thấm thoắt đã 44 năm trong quân ngũ, hôm nay tôi ngồi nhớ lại những ngày sơ khai của cuộc đời lính hăng say, hồn nhiên, tươi trẻ, một lòng một dạ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc; nhớ lại tình bạn, tình đồng chí cao đẹp biết bao; tiếc thương những đồng đội đã đồng cam cộng khổ từ ngày đầu tham gia xây dựng ngành Thuỷ quân, đến nay không còn nữa. Biết bao kỷ niệm tươi đẹp hào hùng xen lẫn thương cảm của khoá Thuỷ quân sông Lô ngày ấy cứ vang vọng mãi trong trái tim tôi....

LQL
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #18 vào lúc: 03 Tháng Hai, 2021, 03:39:22 pm »

NHỮNG KỶ NIỆM Ở THỦY QUÂN

Đại tá Thái Quang Sa
Nguyên Giám đốc Z181- Bộ Quốc phòng


"Cái thủa ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm chưa dễ mấy ai quên..."


Thật vậy, những giây phút lưu luyến ban đầu bao giờ cũng in sâu trong ký ức, chẳng mấy ai có thể quên được. Đối với tôi, đây là những ngày đầu của cuộc đời lính, đó là những ngày cách đây trên bốn mươi năm, hồi tôi còn là lính học viên Thủy quân sông Lô non trẻ.


Khác với nhiều bạn ngày ấy, tôi và anh Phan Phước Mãn đều là những thanh niên học sinh của thành phố Huế trong vùng tạm chiếm, theo tiếng gọi của Tổ quốc, chúng tôi đã ra đi từ tháng 6/1949 bằng một cuộc hành quân dài ngày gian khổ vượt đường 9, dọc theo phía Đông Trường Sơn ra vùng tự do Nghệ Tĩnh. Vào trường Huỳnh Thúc Kháng, học chưa được một năm thì chúng tôi xin vào trường Lục quân ở Thọ Xuân - Thanh Hóa tháng 5/1950. Sau do yêu cầu của quân đội, chúng tôi được chuyển lên Việt Bắc theo học khóa 2 của trường Thủy quân sông Lô ở phố Giàn - Làng cỏ.


Đời sống của lính học viên Thuỷ quân chúng tôi lúc đó rất kham khổ: ăn đói, mặc rét, thiếu thốn đủ thứ, lao động và học tập nặng nề, căng thẳng, kỷ luật và sinh hoạt rất nghiêm, song anh em chúng tôi, ai nấy đều tự giác chấp hành một cách vui vẻ, tạo nên một cuộc sống tươi vui, tương thân tương ái, sâu đậm nghĩa tình, mà cho mãi đến tận hôm nay, mỗi hình ảnh (dù là nhỏ nhặt) đã qua, cũng để lại trong tôi những ấn tượng đẹp đẽ.


Kỷ niệm vui của cuộc sống thuỷ quân trong tôi có lẽ bắt đầu bằng những buổi kể chuyện giới thiệu về ngành đi biển của anh Khương - một cán bộ đã từng tham gia nhiều năm trong thủy quân Pháp và đã được đến nhiêu nơi trên trái đất, với tài kể chuyện hấp dẫn, anh đã kể cho chúng tôi nghe nhiều điều mới lạ, từ chuyện về lịch sử của chiếc mũ hải quân Pháp, mà trên chóp có một bông hoa đỏ, tượng trưng cho hạnh phúc, mà ở Hải quân các nước khác không có, đến những giờ phút say sưa với những cảnh lạ, đường xa, cuộc đời ước mơ của người lính thủy dầy dạn gió sương... làm cho chúng tôi say mê không dứt khi ở bên anh.


Những kỷ niệm vui của chúng tôi còn là bưởi ngọt Chí Đám - Đoan Hùng, trái đu đủ thơm của đồng bào mán Cao Lan, là những buổi cải thiện thịt chó do tài khéo tổ chức của anh Lộc phụ trách đời sống và những bàn tay nấu bếp tuyệt diệu của anh Tùng, anh Thích mà món "dựa mận" ngon đến mức mà mãi cho đến sau này ít có dịp tìm lại được cái cảm giác thích thú như hồi đó; còn là những mẩu chuyện ngộ nghĩnh khó quên, vì hồi đó chúng tôi thường ăn đói và thiếu chất, lại ít có điều kiện ra ngoài để cải thiện. Một ngày nghỉ, tôi đi chợ Ngà, không phải để mua sắm gì nhiều mà là để làm sao đưa được thêm chất ngọt vào cơ thể với số lượng tối đa và bằng số tiền tối thiểu, thế là tôi chẳng mua kẹo, mua đường mà lại mua luôn một bát mật mía ngồi ăn mãi không hết...


Tôi còn nhớ những buổi sáng chạy trên bãi cát ở cạnh sông Chảy do đại đội trưởng Lê Trường Đa chỉ huy. Mệt bở hơi tai mà vẫn vui, vì mọi người đều mến người chỉ huy có tính nóng nẩy, thẳng như ruột ngựa, nhưng tâm hồn lại chan hòa cởi mở, thương mến anh em; nhớ những buổi lửa trại liên hoan ấm tình quân dân, tới khuya không dứt; nhớ những bài hát do anh Trần Minh Thái sáng tác và anh Quách Gia đặt lời, đã phản ánh đúng tâm tư và có sức thuyết phục, cổ vũ động viên anh em chúng tôi vượt qua khó khăn gian khổ mà vẫn tươi vui, như: "... Lính cứ ca, lính cứ cười, lính cứ tươi, lính phớt đều, lòng phơi phới...".


Tuy tôi đã chuyển sang hoạt động kỹ thuật trong Quân đội, nhưng dù năm tháng qua đi, tôi vẫn mãi còn giữ lại những hình ảnh đẹp của những ngày đầu vào Quân đội, khó khăn, gian khổ, thiếu thốn mà vẫn lạc quan yêu đời, thắm đượm nghĩa tình đồng chí đồng đội... Hình ảnh các anh không hề phai mờ trong tôi như anh Đa, anh Phương, anh Khương, anh Tuynh và đặc biệt gần gũi là các anh ở trung đội: anh Triết, anh Thái, anh Cánh, anh Ba, anh Ngoạn. Trước khi chia tay, anh Ngoạn còn tặng tôi mấy bức ảnh Bác Hồ mà đã theo tôi đi qua cả hai cuộc kháng chiến, đến nay tôi vẫn còn giữ. Gắn bó hơn là những người bạn cùng học, những người đã từng chia ngọt sẻ bùi, vui buồn có nhau, giúp nhau lúc khó khăn đau yếu; đến nay có người tôi đã được gặp lại, nhưng còn có nhiều người vẫn chưa biết được tin tức của nhau như: Bùi Xuân Kiều, Bùi Xuân Thế, Chu Minh Long...


Tuy thời gian ở Thủy quân quá ngắn ngủi, chưa làm được gì cho đất nước, nhưng tôi đã được nhà trường dẫn dắt những bước đi đầu tiên trong cuộc đời bộ đội của mình. Những ngày đầu đó là những hình ảnh đẹp đáng quý và khó quên. Đúng như ý thơ của Xuân Diệu, tôi xin ghi lại như sau:

   "... Năm tháng ban đầu Thuỷ quân ấy
   Ngàn năm chưa dễ mấy ai quên... "


Hà Nội, tháng 11 năm 1993
TQS
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #19 vào lúc: 03 Tháng Hai, 2021, 03:44:18 pm »

NHỚ LẮM NHỮNG NGÀY LÀM LÍNH THỦY QUÂN

Nguyễn Quang Tiếp
Nguyên chuyên viên Ban Tổ chức - Viện Đông ỵ - Bộ Y tế


Đang là lính thuộc Lữ đoàn 808 bộ đội chủ lực. Tôi nhận được quyết định của trên cử đi học lớp Thuỷ quân Sông Lô. Trong số 10 đồng chí được cử đi tất cả đều là dân cư vùng biển. Chúng tôi vô cùng phấn khởi bàn giao súng đạn chuẩn bị lên đường.


Từ giã núi rừng Yên thế, trong đội hình tiểu đội do anh Hà Ngữ chỉ huy. Chúng tôi bắt đầu cuộc hành quân bộ ròng rã trên 10 ngày đường mới về tới bến Bình Ca. Từ Bình Ca chúng tôi chuyển sang đi đò dọc xuôi về ngã ba Đoan Hùng (nơi tiếp giáp giữa Sông Lô với Sông Chảy), rồi tiếp tục theo đường mòn qua Phố Giàn thì đến trạm tiếp đón học viên trong bìa rừng cách Phố Giàn khoảng 500-600 mét.


Sau khi tiếp nhận giấy tờ của chúng tôi, Ban chỉ huy tiểu đoàn học sinh trao đổi trong hiệu bộ rồi phân bổ chúng tôi về các đơn vị học viên. Tôi được biên chế vào đại đội một do anh Lê Trường Đa chỉ huy và cuộc đời lính học sinh Thuỷ quân của tôi bắt đầu. Đã tham gia sinh hoạt tập thể từ tuổi 15 và đã từng là lính chiến đấu, lại cùng lứa tuổi với các học viên trẻ, nên tôi nhanh chóng thích nghi với nếp sinh hoạt của nhà trường. Từ việc tham gia làm lán trại, đào hầm hào, lấy củi, hái măng, giúp dân gặt hái... đến việc giữ vững kỷ luật học tập và rèn luyện trên thao trường, cũng như hoà mình trong sinh hoạt hội họp, ca hát và luyện tập văn nghệ trong đơn vị... Tôi luôn là một thành viên hăng hái tham gia tích cực vói ý thức tự nguyện, nên dù thiếu ăn, thiếu mặc, sinh hoạt và học tập, rèn luyện suốt ngày nhưng tôi vẫn hăng say, tươi vui yêu mến đơn vị và đồng đội.


Rồi vào mùa thu năm ấy (1950), theo chỉ thị của Bộ, nhà trường tách ra thành lập một đơn vị lấy tên là Đội Thuỷ quân 71 được sang học tập kinh nghiệm chiến đấu trên biển ở Trung Quốc. Tôi vinh dự được chọn là một trong những học viên của trường được tham gia đơn vị này. Số anh em được đi đều rất phấn khởi, nhưng không khỏi lưu luyến với trường, nhớ thầy, nhớ bạn lúc lên đường. Nhiều anh em đã rơi lệ lúc chia tay với những ngày sống và học tập tươi trẻ tại Sông Lô, Sông Chảy mãi mãi để lại trong chúng tôi những kỷ niệm tốt đẹp.


Ngày ấy Hoa Nam được giải phóng, nhưng đường số 4 (biên giới Việt Trung) vẫn bị Pháp chiếm đóng. Nên cuộc hành trình của Đội 71 chúng tôi phải vượt núi xuyên rừng khá vất vả, ròng rã hơn nửa tháng trời mới qua được biên giới ở đoạn Đồng Đăng - Ái Khẩu. Đoàn chúng tôi đến Bằng Tường nhưng Bạn chưa chuẩn bị kịp phương tiện xe cộ, nên lại đi bộ thêm hai ngày đường nữa mới đến Long Châu. Tới đây Bạn có chuẩn bị đưa chúng tôi đi Nam Ninh bằng đường thuỷ, sau đó đưa chúng tôi đi tiếp bằng ô tô đến Cam Giang (Tsékham), một thành phố nhỏ trên bờ biển Đông, kề ngay phía bắc của bán đảo Lôi Châu và hôm sau đưa chúng tôi ra đảo Điều Thuận, (Điều Thuận là một hòn đảo nhỏ cách đất liền hơn 10 cây số). Bạn bố trí chúng tôi ở vào nhà dân. Nhân dân trên đảo đối xử với chúng tôi rất tốt. Thời gian học tập rất khẩn trương, trong vòng 6 tháng dưới sự tổ chức chỉ đạo của Quân đoàn 43 (là một quân đoàn mạnh thuộc đệ tứ dã chiến quân). Chương trình học tập của chúng tôi được kết hợp giữa học tập kỹ thuật và chiến thuật tác chiến bộ binh (tổ 3 người và tiểu đội) cùng với việc luyện tập và vận hành tác chiến bằng thuyền buồm, học tập đổ bộ chiếm lĩnh trận địa và sau cùng là giới thiệu trận đánh giải phóng đảo Hải Nam. Được bạn giúp đỡ nhiệt tình chu đáo, cùng với sự tích cực học tập rèn luyện của chúng tôi, nên kết quả đem lại rất tốt. Trước khi về nước Bạn trang bị cho chúng tôi đủ chăn màn và hai bộ quân phục kiểu Việt Nam và trang bị đủ súng đạn cho một đại đội bộ binh mạnh. Chấp hành chủ trương của Ban chỉ huy đội, mỗi anh em chúng tôi chỉ mang đủ quân trang cần thiết, gọn nhẹ, để toàn đơn vị có thể mang hết tất cả số súng đạn mà Bạn giúp để đưa vể nước.


Chúng tôi trở về trường lúc đó đã chuyển lên Làng Cỏ, cũng là lúc Bộ có chủ trương giải thể và đưa anh em Thuỷ quân về các đơn vị (một số sang pháo binh, về Bộ Tổng Tham mưu, về quân khu Việt Bắc), còn đại bộ phận của Đội 71 được đưa ra vùng Duyên hải (Quảng Yên, Hồng Gai và tỉnh Hải Ninh), để tham gia chiến đấu và xây dựng các cơ sở du kích vùng biển, dưới sự chỉ huy của các tỉnh đội. Trong số gần ba chục cán bộ về Quảng Yên trong đó có đồng chí Tuần, đồng chí Hợi và tôi được điều về công tác ở ban tham mưu của tỉnh đội. Sau đó tôi được ban chỉ huy đại đội 915 giao nhiệm vụ đưa một trung đội về hoạt động vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở du kích ở ngoại vi thị xã Quảng Yên. Để thi hành nhiệm vụ được giao từ Cát Hải, tôi bắt liên lạc và bám theo đường dây về thị xã, thị sát trước và chọn hai thôn Bùi Xá và La Khê nằm ven biển thuộc xã Tiền An làm địa bàn hoạt động. Sau đó tôi quay trở lại Cát Hải để đón đơn vị, khi đến Tuần Châu trong lúc chờ đò qua lạch biểu thì gặp một đơn vị địch đi tuần tra vành đai trắng phát hiện. Đồng chí dẫn đường bị chúng bắn chết, còn tôi chạy trốn cố thủ ở một đồi rậm. Khi địch tưới xăng đốt, tôi vọt lao ra, ném lại quả lựu đạn về phía hai tên đuổi theo thì bị chúng bắn bị thương, tôi vừa kịp vùi giấy tờ dưới cỏ thì bị bắt. Sau hơn một tháng qua hai phòng nhì (Quảng Yên và Hải Phòng) hỏi cung và tra khảo không khai thác được gì hơn, địch lập cho tôi phích tù màu trắng với tên khai của tôi là Nguyễn Văn Ca, rồi đưa xuống giam ở căng (camp) Đoàn Xá - Hải Phòng, mang áo tù binh có chữ PG (Prisonnier de guerre). Sang đầu năm 1953, tôi cùng một số anh em tù binh ở sàn 4 đào hầm trốn, bị lộ, địch đưa chúng tôi sang Lào giam ở căng tù Savanakhet. Mùa hè năm ấy tôi cùng hai bạn tù lại rủ nhau trốn trại, nhưng không thoát vì sau 4 ngày lùng sục địch lại bắt được chúng tôi và chuyển sang giam ở căng Séno, quản lý chặt chẽ hơn. Đến đầu năm 1954, nhân dịp bị địch điều đi đào công sự ở thượng Lào, tôi đã thừa cơ trốn thoát. Trở lại Việt Nam, tôi về đoàn 77 và sau tham gia phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.


Sau chỉnh huấn năm 1955, tôi được chuyển ngành. Trước khi nhận nhiệm vụ mới, tôi xin nghỉ phép về thăm quê và lo việc chuyển mộ mẹ tôi từ ven biển Đông Linh về bản quán ở xã Yên Cư thuộc huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh. Thế là nỗi băn khăn day dứt vì thương xót mẹ trong nhiều năm của tôi đến đây đã được nguôi vợi vì tôi đã lo được cho mẹ tôi có mồ yên mả đẹp tại quê nhà.


Từ sau khi chuyển ngành tôi đã liên tục tham gia công tác tại 3 đơn vị ở Hà Nội là Bệnh viện Trung ương của Bộ y tế, Tổng công ty Xăng dầu và Tổng công ty Xuất nhập khẩu hàng dệt (Textimex) và đã nghỉ hưu ngày 1/4/1991.


Điểm lại 45 năm qua, tôi đã tham gia công tác ở nhiều đơn vị, đã hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao và ở đâu tôi cũng được tập thể và bạn bè, đồng đội yêu mến, chăm sóc giúp đỡ tận tình. Song nơi đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc, nhiều ấn tượng đẹp nhất vẫn là trường Thuỷ quân, không những vì ở đây tôi đã được huấn luyện, rèn luyện tạo dựng được một nếp sống và làm việc hăng say, tươi trẻ vì tinh thần tự nguyện vì sự nghiệp chung của một lớp thanh niên đang trưởng thành trong cao trào cách mạng, mà còn thắm đượm tình nghĩa yêu thượng cán binh, đồng đội. Bởi vậy sau nhiều năm xa cách tôi không thể nào quên những hình ảnh tươi đẹp thân thương của những ngày phố Giàn, làng Cỏ, cũng như những ngày sóng gió ân tình ấy trên đảo Điều Thuận (Tsékham).


Với tình cảm sâu đậm ấy, nay về nghỉ hưu được gặp những anh, chị em cán bộ và đồng đội cũ của trường Thuỷ quân sông Lô để cùng nhau gắn bó, đối với tôi là niềm vinh dự và hạnh phúc lớn lao vô cùng.


Hà Nội, đầu xuân - Giáp Tuất 1994
N.Q.T
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM