Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 05:30:20 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bình Minh Ba Tơ  (Đọc 3225 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2020, 11:12:19 am »

- Tên sách: Bình Minh Ba Tơ
- Tác giả: Trung tướng Nguyễn Đôn
- Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
- Năm xuất bản: 1995
- Người số hóa: giangtvx, quansuvn


VÀI LỜI TÂM SỰ


Trong ngày kỷ niệm 40 năm khởi nghĩa Ba Tơ (11-3-1945 - 11-3-1985) các đồng chí tham gia cuộc khởi nghĩa và đông đảo anh em trong đội du kích Cứu quốc Ba Tơ được Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh mời về dự lễ khánh thành Tượng đài kỷ niệm khởi nghĩa Ba Tơ và nhà bảo tàng lịch sử.    


Trong kỳ họp mặt ấy, anh em ngỏ ý cần có một tập hồi ký viết rõ những sự kiên và quá trình xây dựng căn cứ, xây dựng lực lượng, từ 17 chiến sĩ cách mạng thành hai đại đội (Phan Đinh Phùng và Hoàng Hoa Thám) tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, rồi chuyển thành giải phóng quân tham chiến trên các chiến trường trong những tháng năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.


Đáp ứng lòng mong muốn ấy, tôi lục lại ký ức của mình, lược biên và nhờ ghi chép lại tập hồi ký này để góp tư liệu phục vụ kỷ niệm lần thứ 50 khởi nghĩa Ba Tơ. Chắc không tránh khói sai sót, vì thời gian trôi qua đã quá lâu. Mong các đồng chí thông cảm.


                                                                      Ngày 11 tháng 3 năm 1994
                                                                                NGUYỄN ĐÔN
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #1 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2020, 11:13:56 am »

ẤN TƯỢNG TUỔI THƠ


Tôi bước vào con đường hoạt động cách mạng như một tất yếu phải xảy ra do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.


Làng Vĩnh Lộc, nơi tôi sinh ra, là một vùng đất khô cằn, hai cánh đồng hẹp chạy ngoằn ngoèo giữa những đồi núi. Người dân quê tôi đời đời sinh sống trên mảnh ruộng bạc màu, mỗi năm thu hai vụ lúa - một vụ cấy, một vụ gieo; ngoài ra còn trồng mía ép mật nấu đường, trồng dâu nuôi tằm dệt vải, chằm nón đem đi bán ở chợ gần chợ xa. Vất vả là vậy mà cái đói nghèo vẫn đuổi sát sau lưng, như một căn bệnh kinh niên, từ đời này sang đời khác.


Vào những năm 1927 - 1928 phong trào học quốc ngữ lan đến làng tôi. Ban ngũ hương mấy lần hội họp cơm no rượu say mà chưa bàn nổi việc xây dựng một ngôi trường; cuối cùng mới bắt dân đi "xâu" công ích vào rừng đốn cây, chặt tre, cắt tranh mang về dựng một ngôi trường ba gian mái tranh vách đất, gần nhà họp Ban ngũ hương trên ngã tư Tổng Lộ nhìn ra cái ao làng, nơi có cây trâm cổ thụ nghiêng mình trên mặt nước ao tù.


Ngay từ những ngày dầu cắp sách đến trường, tôi gặp được người thầy giáo đầy tâm huyết với quê hương đất nước, luôn động viên lớp học trò nhỏ của mình cố gắng học tập để trở nên người hữu ích. Khi đã đọc thông viết thạo tôi say sưa với những trang sử ký trong sách giáo khoa. Tôi hứng thú khi đọc những trang sách có hình vẽ Hai Bà Trưng ngồi trên mình voi thúc quân đuổi theo Tô Định, Ngô Quyền đứng trên chiến thuyền chỉ huy thuỷ binh tiêu diệt quân Tống trên Bạch Đằng giang, Lý Thường Kiệt cắp giáo rạp người trên mình ngựa đuổi theo kẻ thù đến tận châu Ung, châu Liêm, Trần Quốc Tuấn tuổi già vẫn cầm quân ra trận, Lê Lợi đứng ra chiêu tập anh hùng hào kiệt dựng cờ khởi nghĩa ở đất Lam Sơn đánh đuổi quân Minh.


Trong giờ ra chơi thầy thường thì thầm kể cho chúng tôi nghe cuộc biểu tình do những người cộng sản lãnh đạo chiếm huyện đường Đức Phổ đêm mùng 8 tháng 10 năm 1930. Những người biểu tình đã đốt toàn bộ giấy tờ tài liệu, xoá sạch dấu vết cai trị của chế độ thực dân và vua quan Nam triều bán nước. Tôi so sánh những tấm gương các vị anh hùng dân tộc có công đuổi giặc xâm lăng, giành độc lập, giữ yên bờ cõi với những người cộng sản và nghi ngờ lời buộc tội của bọn quan lại đương thời coi người cộng sản là bọn cướp của đốt nhà, "cộng vợ, cộng chồng" làm điều phi luân bại lý...    


Cha tôi là một nông dân tham gia chống Pháp và vua quan Nam triều phong trào khất thuế do các nhà nho yêu nước quê tôi như các cụ Tú Tân, cử Đình... đề xướng. Phong trào thất bại, kẻ bị giam cầm, người bị tù đày biệt xứ, kẻ bị chém đầu. Nhưng tiếng thét chống ngoại xâm của họ vang vọng mãi đến thế hệ chúng tôi và hình ảnh cha như ngọn đèn phía trước gọi tôi bước theo trong đêm tối mịt mùng.


Anh tôi là một người tham gia "hội kín" mà sau này tôi biết là chi bộ cộng sản đầu tiên ở quê nhà. Tuổi nhỏ tôi thường được anh sai ra ngõ chơi để gác cho bạn bè anh đóng vai đám trai làng khăn xếp áo the rong chơi đến nhà tôi hội họp. Tuổi nhỏ tôi cũng được nhìn thấy lần đầu tiên lá cơ đỏ búa liềm treo trên ngọn cây trâm cổ thụ ở ao làng. Đó là một sáng tháng mười, trời se lạnh nhưng không mưa. Trên đường đến trường, từ xa bọn học trò chúng tôi đã nhìn thấy người đứng rất đông ở ngã tư Tổng Lộ chỉ tay về phía cây trâm ở ao làng. Bọn tôi chạy lại và nhìn thấy lá cờ đỏ búa liềm trên ngọn cây trâm nhẹ bay trong gió sớm. Một lúc sau lý trưởng đến quát nạt. Ông vào điếm canh định đánh mõ họp tráng đinh thì phát hiện trong mõ có truyền đơn. Ông gọi tôi lại bảo đọc to lên. Tôi cầm tờ truyền đơn in đông sương, màu chữ tím, đọc dõng dạc từng câu. Tháng năm trôi qua, hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm vẫn còn in đậm trong trí ức của tôi và tôi nhớ trong truyền đơn có đoạn kêu gọi đánh đổ thực dân Pháp và vua quan Nam triều phong kiến bán nước, đòi người cày có ruộng...


Lá cờ đỏ búa liềm ngạo nghễ trên ngọn cây trâm già cho mãi đến trưa mới hạ xuống để lý trưởng đem lên trình quan huyện.


Sau những ngày ấy không khí trong làng sôi động hẳn lên. Một sáng cuối đông năm ấy, tiết trời còn lạnh, tôi co ro trong tấm áo tơi đến trường thì thấy anh Lâm Quang Mậu - người bạn thường lui tới với anh tôi - tay cầm chiếc cần câu dài đang thì thầm chuyện trờ với vài ba người khác trước cổng trường. Trông gương mặt, tôi đoán họ đang bàn điều gì hệ trọng. Tôi lặng lẽ bước qua đường vào lớp. Một lúc sau, khi những tia nắng đầu ngày bừng lên xua tan giá buốt cuối mùa đông, từng đoàn người từ các làng Vạn Lộc, Châu Nhai kéo đến, trên cánh tay trái có gim một băng đen. Bấy giờ anh Lâm Quang Mậu mới luồn lá cờ đỏ búa liềm vào chiếc cần câu cầm đi đầu đoàn biểu tình. Đoàn người kéo đi về hướng huyện lỵ, hô vang những khẩu hiệu đòi tổ chức truy điệu những người chết và bồi thường cho những người bị thương trong cuộc biểu tình ở Tổng Châu những ngày trước đó. Không khí đấu tranh tràn ngập quê tôi, mọi người chờ đợi thắng lợi. Nhưng buổi chiều một tin không vui báo về. Cuộc biểu tình kéo lên huyện lỵ làm bọn nha lại khiếp sợ, tên tri huyện chấp nhận yêu cầu để chuyển lên cấp trên. Nhưng trên đường về, khi đoàn dừng lại mít tinh ở gò Tạng (Hà Nhai) thì bọn lê dương từ tỉnh kéo lên xả súng máy bắn vào cuộc mít tinh. Một số người chết, nhiều người bị thương. Mẹ và bà tôi lo lắng, đứng ngồi không yên chẳng biết số phận anh tôi thế nào. Mẹ bảo tôi đi dò tìm tin tức. Tối hôm ấy anh tôi về, áo quần ướt sũng. Bà tôi mùng lắm, ôm cháu sờ khắp người xem có bị thương đâu không. Giọng run run, bà bảo:

- Ngày xưa cha mày cũng theo các cụ chống Tây, khất thuế. Cứ mỗi lần nghe súng Tây nổ, bà lại lo, nhưng biết khuyên các cháu thế nào bây giờ? Con nối nghiệp cha là nhà có phúc.

Anh tôi kể:
- Khi nghe tiếng súng, chỉ huy cuộc mít tinh ra lệnh giải tán. Đạn nó bắn chiu chíu trên đầu, cháu nhảy xuống đám ruộng cấm (ruộng giữ nước để nuôi cá sau vụ gặt) nằm tránh. Đợi khi im tiếng súng, bọn nó rút hết cháu mới lên bờ chạy về.

Giọng anh tôi rất vui, như người vừa dự vào một trò chơi nguy hiểm, khiến không khí gia đình cũng vui lây.
- Bây giờ rồi sao hả cháu? - Bà tôi hỏi.
- Đấu tranh nữa chứ bà, đấu tranh đến bao giờ mình giành lại được đất nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #2 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2020, 11:16:06 am »

Mùa xuân năm sau, làng quê tôi thay đổi rất nhiều. Dưới sự lãnh đạo của Nông hội đỏ, bà con nông dân nghèo đòi tăng tiền công cấy, công cày, công gặt, công chặt mía nấu đường... Những tổ đổi công, vong công tương trợ làm ăn, giúp đỡ nhau qua những ngày giáp hạt. Đêm đêm các lớp học quốc ngữ vang lên trong thôn xóm. Đội Tự vệ đỏ thành lập do anh Mười Liết (một lính chiến của Pháp trong thế chiến 1914 -1918 mãn hạn trở về làng) làm đội trưởng. Đêm đêm theo hiệu lệnh của người đội trưởng, các đội viên bước đi rầm rập. Những buổi tập thường diễn ra ở sân nhà tôi hay sân đình, sân miếu. Hết tập đội ngũ đến tập bắn súng, tập lăn lê bò toài. Ngày làm lụng vất vả để kiếm miếng ăn, tối tham gia luyện tập. Nhưng không một ai phàn nàn mà còn tỏ ra hăng hái. Đội Tự vệ đỏ còn làm các việc tuần tra canh gác ban đêm. Từ ấy xóm làng yên vui, ngày đêm của ngõ mở toang. Cây trái ngoài đồng, trong vườn, bò, heo trong chuồng đêm đêm đã có những đội viên tự vệ đỏ ghé mắt nhìn vào nên kẻ gian không dám ngang nhiên trộm cắp. Thật là một thời kỳ "Nghiêu - Thuấn" ở quê tôi. Không khí ấy nung nấu trong tôi lòng khát khao một cuộc sống tự do, trong một đất nước độc lập, yên bình. Bọn hương lý trong làng thấy sức mạnh của đội Tự vệ đỏ nên cũng kiêng nê. Khi xét xử những xích mích dù to, dù nhỏ trong làng đều có ý kiến người tổ chức và chỉ huy đội tự vệ. Người dân đã bắt đầu ý thức được sức mạnh của mình nên không còn cảnh khoanh tay cúi đầu cung kính trước sự quát nạt của bọn hào lý trong làng. Một mùa xuân trôi qua cùng với vẻ đẹp thiên nhiên là vẻ đẹp bừng bừng khí thế cách mạng trên khuôn mặt của người dân quê tôi.


Đêm đêm từ những cuộc mít tinh trong từng thôn xóm để nghe chỉ thị của cấp trên vang lên tiếng trống, tiếng tù và và tiếng hô khẩu hiệu:

     Ủng hộ Xô - viết Nghệ Tĩnh!
   Đả đảo thực dân phong kiến!
   Đông Dương hoàn toàn độc lập!



Trong khi người dân quê tôi đắm mình trong không khí cách mạng tràn đầy hứng khởi thì một tin sét đánh từ tỉnh lỵ bay về. Giữa đêm 23 tháng 4 năm 1931, ở phía nam bờ sông Trà Khúc thực dân Pháp và vua quan Nam triều đã chém ông Nguyễn Nghiêm - một người cộng sản, bí thư đầu tiên của tỉnh Đảng bộ Quảng Ngãi. Nghe tin có người bật lên tiếng khóc. Cái chết của người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Nghiêm như một lời cảnh cáo đối với bọn thực dân Pháp cướp nước và vua quan Nam triều bán nước, nung nấu lòng căm thù của quần chúng nhân dân. Nhiều cuộc hội họp, mít tinh lớn nhỏ bùng lên với tiếng thét uất nghẹn.

   "Đả đảo đế quốc khủng bố!
   Đả đảo vua quan Nam triều bán nước!
   Đả đảo cường hào gian ác!"



Cờ đỏ búa liềm ngạo nghễ tung bay trên đỉnh núi Đá Dê, núi Đá Chồng, núi Tron, núi Nón... trong suốt một tuần trăng sau cái chết của người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Nghiêm.


Đầu tháng 5 năm 1931, một hôm đang ngồi trong lớp học nhìn ra tôi thấy tùng đoàn người từ phía tây kéo xuống, phía bắc kéo vào, hai bên có tự vệ đi kèm giữ trật tự. Thầy giáo cho lớp nghỉ học ra về. Tôi ôm sách vở chạy vụt ra đường theo đoàn biểu tình đến gò mả phía nam xóm trường thì thấy người các nơi kéo về đứng chật cái gò rộng. Cờ đỏ búa liềm bay phấp phới trên những băng vải trắng có dòng chữ màu đen "Chống khủng bố". Mọi người đang chăm chú đúng nghe diễn thuyết. Sau đó mọi người trật tự đi theo lá cờ tổng chỉ huy do anh Bảy Xất - một người anh họ của tôi cầm đi đầu. Khi đoàn biểu tình bước vào trận địa làng Phước Lộc thì được tin báo bọn lính Tây từ tỉnh kéo lên chặn ở cầu sắt Phước Lộc. Người chỉ huy ra lệnh phất cờ dừng lại để bàn cách đối phó. Nhưng phía sau tưởng là gặp địch nên tản sang hai bên rồi tự động bỏ chạy về các ngả.


Cuộc biểu tình tan vỡ hoàn toàn, về đến nhà mọi người lo bọn lính lê dương kéo đến triệt phá làng nên lập tức đào hầm cất giấu lúa gạo, khoai sắn, đồ đạc. Một không khí hoang mang lo sợ bao trùm khắp xóm làng. Hai ba ngày trôi qua không thấy bọn lính kéo đến. Nỗi lo chưa kịp tan hết thì được tin cùng ngày hôm ấy, đoàn biểu tình ở phía bắc Sơn Tịnh kéo đến cầu Bồ Đề (nay là cầu Kênh), cách huyện lỵ chừng 1 cây số thì bọn lính lê dương chặn lại, xả súng bắn chết mười bốn người, nhiều người bị thương, bị bắt.


Từ đây lại bắt đầu một thời kỳ bọn thực dân câu kết với phong kiến khủng bố phong trào cách mạng tỉnh tôi. Bọn lính lê dương kéo về phía tây Sơn Tịnh đóng ở An Đình, Châu Nhai... Ở mỗi tổng chúng đặt thêm chức bang tá với một đội lính bản xứ người Bắc; trong từng làng lập hội đồng kỳ hào, hội đồng tộc biểu (để quản lý người trong họ) và một đội dân đoàn để đàn áp khủng bố! Ngày đêm chúng lùng sục ráo riết những người cộng sản. Nhiều cán bộ hy sinh trong các cuộc mít tinh, biểu tình, hoặc bị bắt như các ông Tôn Diêm, Phan Thái Ất1 (Phan Thái Ất người Nghệ An vào hoạt động ở Quảng Ngãi), anh Xán, chị Trinh... Một không khí buồn lo lan tràn trong làng quê.


Một ngày đầu tháng tám năm 1931 nắng nóng, không khí oi nồng. Những đám mây đen kịt ở chân trời báo hiệu những cơn giông săp ập đến. Tên bang tá họ Tôn cùng với đội lính người Bắc từ Phước Lộc kéo về làng tôi. Bọn chúng gọi đám hương lý kỳ hào đến ra lệnh đưa lính về từng nhà tình nghi là cộng sản để bắt. Các anh Sáu Hứa, Bốn Vy, Bảy Xuất và anh tôi bị chúng lôi ra ngã tư Tổng Lộ tra tấn. Trước sau bọn lính chỉ hỏi có một câu "cộng sản ở đâu? khai ra". Đến chiều bọn chúng trói ngoặt cánh tay ra sau lưng, xâu thành một hàng dài bắt đi. Những ngày sau đó các cán bộ cốt cán trung kiên của Đảng ở nhiều cấp lần luợt sa lưới. Quần chúng hoang mang, bọn cường hào được dịp ngóc đầu dậy ức hiếp dân nghèo. Vài người trước có tham gia Tự vệ đỏ, nay lo sợ, chạy trốn vào nhà thờ, xưng tội với cha cố mong nhờ sự che chở. Từ hôm anh tôi bị bắt, bà và mẹ tôi rất lo lắng buồn phiền.

Bà tôi bảo:
- Bà chỉ sợ nó không chịu nổi tra tấn tù đày mà khai ra điều không phải thì có lỗi với cô bác và cha mày.

Trong hoàn cảnh ấy tôi phải tỏ ra là người cứng cỏi để can ngăn, an ủi bà và mẹ.
Tôi nói:
- Anh cháu dặn "trong bất cứ hoàn cảnh nào nhà ta cũng không lạy lục van xin ai cả".

Bà tôi trầm ngâm:
- Vậy thì bà yên lòng.


Trong những ngày nặng nề ấy lính lê dương, đi kèm có viên thông ngôn, về các đình làng kéo lên một lá cờ xanh rồi họp dân làng bắt ký giấy quy thuận nhà nước bảo hộ, bắt hội đồng hào mục, tộc biểu cam đoan không theo, không che giấu cộng sản và mỗi làng phải nộp về đồn Ba Gia hàng chục gánh heo, gà, vịt.


Mùa hè năm 1932 chúng tôi theo thầy giáo lên huyện dự kỳ thi sơ học yếu lược. Chúng tôi đi qua Gò Trạng, nơi bọn lê dương xả súng bắn vào đoàn biểu tình ngày 19 tháng 1 năm 1931, qua cầu Bồ Đề trên, quốc lộ số 1, nơi bọn lê dương bắn vào đoàn biểu tình khi họ ở trên cầu, trong tay không có một thứ vũ khí nào để tự vệ. Tôi hình dung ra cảnh hàng loạt người ngã xuống, quằn quại trong vũng máu trên mặt cầu hay rơi xuống lòng khe. Bất giác tôi nhớ lại lời bà tôi kể: "Họ có súng, mình tay không. Bao người tài giỏi như Cử Thụy, Tú Tân, Âm Loan, Bố Khiết... đã sắm đủ dao tu, thang dây, thang xếp để trèo vào Thành mà cũng chẳng được gì. Rốt cuộc người bị chém, kẻ bị đày, người chết trong tù, kẻ đi biệt xứ...". Đâu là phương hướng, là bến bờ trong cuộc đấu tranh chống Tây của những người yêu nước. Từ sâu kín lòng mình, tôi vô cùng kính trọng tấm gương hy sinh cao cả của những bậc anh hùng, nghĩa sĩ, những người ngã xuống để giành quyền tự do độc lập cho đất nước. Nhưng sự nghiệp của họ sẽ đi về đâu? Và rồi từ tầng sâu ý thức gợi cho tôi nhớ lại lời kêu gọi của Đảng Cộng sản trong các tài liệu mà tôi đã nhiều lần đọc cho người dân nghèo quê tôi nghe. "Mất nước phải đòi lại nước, mất tự do phải giành lại tự do", "thất bại là mẹ đẻ thành công". Tôi bỗng thấy như mình có thêm sức mạnh và quyết tâm đi theo con đường của cha anh và bao người đã đi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #3 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2020, 11:17:52 am »

XẾP BÚT NGHIÊN


Vào những năm 1932 -1935 phong trào cách mạng quê tôi lắng xuống mà sau này trong tổng kết lịch sử Đảng gọi là thời kỳ thoái trào. Thêm vào đó cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn hạn hán ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân, đặc biệt là dân nghèo.


Nhiều người đi tha phương cầu thực. Từ ngày anh tôi đi tù, cuộc sống gia đình ngày càng khó khăn. Tôi không có tiền lên huyện theo học trường tiểu học, đành ở nhà chuyển sang học chữ nho với các thầy đồ trong làng. Nhờ biết chữ nho mà tôi đọc được Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại học trung dung. Mỗi tháng tôi xin nghỉ vài hôm đi thăm anh, khi ở nhà giam huyện, lúc ở nhà lao tỉnh. Có lần bọn chúng bắt tù đi lên rừng đẵn gỗ, tôi phải lặn lội lên tận đầu nguồn sông Trà Khúc thăm anh. Những lần đi như thế thật vất vả nhưng đã mở rộng tầm nhìn và sự hiểu biết của tôi. Tôi được tận mắt thấy bọn lê dương phang báng súng vào đầu vào lưng người tù, hay cảnh những người tù bị chết trôi khi chuyển bè gỗ qua thác "Hú" chở về xuôi, cảnh những người tù mặt bủng da vàng đang lên cơn sốt, cũng phải dầm mình trong mưa gió làm công việc khổ sai. Lòng tôi đau thắt.


Có một kỷ niệm mà mãi đến bây giờ tôi vẫn không quên. Đó là lần đến thăm anh tôi bị giam ở đồn Núi Sứa vào ngày chủ nhật. Gặp lúc bọn lính dong tù ra sông Trà Khúc tắm. Suốt dọc đường, tôi cứ chạy theo để được nói chuyện với anh. Bỗng một tên quan binh Pháp đi ngược lại, gặp người lính khố xanh nó hô to "gác đê vu". Người lính đứng sững, nó dang tay tát bốp vào mặt. Máu miệng máu mũi người lính trào ra. Tên quan binh Pháp giật giật cổ áo anh lính rồi thản nhiên bỏ đi. Người cai khố xanh bước lại hỏi:

- Vì sao nó đánh anh?
- Dạ thưa thầy, tôi quên cài cúc áo cổ. - Người lính trả lời.
- Thôi cài lại rồi đi, khéo nó trở lại thì khốn. - Anh buông một tiếng thở dài, lẩm bẩm. - Rõ nhục! Rõ nhục!


Tắm xong đám tù ngồi trần phơi mình dưới nắng đợi áo quần khô. Tôi hỏi anh tôi về thái độ người cai lúc nãy. Anh tôi trả lời:

- Nhiều người đi lính cho Pháp hoặc vì bị bắt buộc, hoặc vì cơm áo nhưng trong thâm tâm họ vẫn còn tình cảm với giống nòi đồng loại. Có người được anh em tù chính tri tuyên truyền giác ngộ đã tỏ ra có cảm tình, giúp đỡ anh em lúc ốm đau. Nhưng bản thân họ chưa dám hành động. Lần đầu nghe anh tôi nói về người lính Việt Nam trong hàng ngũ lính thuộc địa Pháp đã khiến tôi thay đổi nhận thúc và thái độ trước đây với họ.


Khi chữ "Thánh hiền" trong tôi đã lưng vốn, thầy tôi bảo:
- Nghề làm thuốc cứu sống con người, giúp đồng loại đỡ đau khổ. Thầy khuyên em nên học lấy nghề làm thuốc.


Đang trong lúc chưa tìm thấy hướng đi cho cuộc đời, lại phải chứng kiến những cảnh đau lòng mà kẻ thù đổ xuống đầu dân mình, tôi nghe theo lời khuyên của thầy với ý nghĩ: "Ít ra mình cũng làm được điều có ích cho người dân nghèo".


Tôi xuống cầu Quán Cơm xin học nghề thuốc ở nhà ông Phan Đình Hiển - một người từng tham gia phong trào "Ba mươi - Ba mốt" bị tù, nay được thả về, mở hiệu bốc thuốc và chữa bệnh. Chính nơi đây tôi được tiếp xúc với nhiều chính trị phạm đã mãn hạn tù giam nhưng còn bị quản thúc ở quê, hàng tháng họ phải lên trình diện ở tổ mật thám tỉnh như các anh Phạm Viết My, Phạm Trân...


Trên đường về họ thường ghé lại ngủ ở nhà ông Phan Đình Hiển để chuyện trò, luận bàn thời cuộc. Qua đấy tôi được nghe về chuyện Hồng quân Trung Hoa, về những cuộc đấu tranh của các chính trị phạm đòi cải thiện đời sống, chống lại thái độ đối xử của giám thị với tù nhân. Có một lần cụ Trần Kỳ Phong, một nhà nho yêu nước đã từng bị thực dân Pháp lưu đày ở Côn Đảo ghé lại nhà ông Phan Đình Hiển. Sau bữa cơm chiều cụ gọi tôi lại hỏi thăm gia cảnh. Nghe tôi kể cảnh nhà túng thiếu, có người anh hoạt động cách mạng bị bắt tù, cụ trầm ngâm một lúc rồi khuyên tôi:

- Cháu phải cố gắng học tập, đọc nhiều sách báo, mở rộng kiến văn và phải lập chí tiến thủ. Có chí tiến thủ mà không có hiểu biêt thì khác chi thuyền không lái, làm sao cống hiến được nhiều cho xã hội, đất nước? Rồi cụ đọc cho tôi nghe một số bài thơ cụ sáng tác. Đến nay tôi chỉ còn nhớ vài câu.
    Cát bùn vùi lấp người thiên cổ,
   Sóng gió lần xoay cuộc đại đồng.



Một lần khác có người mang khăn gói vào xin gặp thầy Hiển. Thầy Hiển vừa bước ra, bỗng hai người ôm chầm lấy nhau thân thiết. Sau tôi mới biết đó là anh Đội Ngọc vừa ở nhà tù ra. Anh Ngọc kể lại cuộc đấu tranh đòi biệt đãi đối với tù chính trị ở nhà lao Buôn Ma Thuột và Quảng Ngãi đã giành thắng lợi. Anh còn kể bao nhiêu chuyện về phong trào đấu tranh của Mặt trận Bình dân Pháp. Với niềm lạc quan, anh Ngọc nói:

- Trước mắt ta phải lo đẩy mạnh phong trào, củng cố và phát triển tổ chức, kẻo nay mai thắng lợi đến nơi ta không lo kịp.


Tôi như bị thôi miên bởi đôi mắt sáng quắc, nụ cười cởi mở và giọng đầy lạc quan tin tưởng của anh Đội Ngọc và tự hỏi "Làm gì?" Phải làm gì bây giờ?" Chả lẽ ta chỉ bằng lòng với cuộc đời một thầy thuốc sao?"... Những câu hỏi ấy cứ bám riết lấy tôi, buộc tôi suy nghĩ và trăn trở...


Những ngày ở Quán Cơm, sau bữa cơm chiều, tôi thường đi bách bộ lên cầu Trà Khúc hóng mát. Cách cầu không xa có một người thợ cắt tóc dáng gầy, đen, có đôi mắt sâu thẳm, lầm lì, trong chiếc lều tạm bên đường. Người quanh vùng gọi anh bằng cái tên thân mật: "Anh Tư cắt tóc". Một hôm tôi đang dạo bước ra giữa cầu thì anh Tư đi theo và bắt chuyện. Qua lời tâm sự tôi biết anh là một chính trị phạm vừa được tha về còn đang bị bọn mật thám rình mò theo dõi. Anh dựng lều cắt tóc để kiếm sống. Từ hôm đó tôi thường lui tới, lúc cắt tóc, lúc nghe nói chuyện. Thì ra anh Tư tên thật là Tư Danh, huyện ủy viên Sơn Tịnh từ những năm 1930 - 1931, là bạn tù của anh tôi. Anh Tư Danh khuyên tôi đứng ra thành lập hội "Thanh niên báo chí", tìm đọc sách báo mới và tổ chức cho nhiều ngươi cùng đọc cùng nghe để họ hiểu biết thời cuộc, hiểu biết con đường đấu tranh gian khổ đòi quyền dân chủ dân sinh. Anh Tư nhận xét:


- Ông Hiển là người tốt, nhưng đã bắt đầu ngại hoạt động và có tư tưởng làm giàu. Còn ông Bạch Quang Ba cộng tác với báo Tiếng Dân do cụ Huỳnh Thúc Kháng chủ trương là tờ báo mang tư tưởng cải lương.


Nghe lời anh, tôi tổ chức một nhóm thanh niên góp tiền mua sách báo mới, trao đổi cho nhau đọc và đọc cho nhiều người nghe.   


Tháng tư năm 1936 mặt trận Bình dân Pháp giành thắng lợi lớn ở chính quốc. Chính phủ mới lên nắm quyền, nới rộng tự do ngôn luận trên các thuộc địa. Ở Đông Dương, Đảng chủ trương dùng sách báo công khai tuyên truyền, giáo dục quần chúng. Hội "Thanh niên báo chí" của chủng tôi hoạt động mạnh.


Năm 1937 một phái đoàn đại diện Chính phủ Pháp do Gô-đa, người của Đảng Xã hội dẫn đầu sang Đông Dương có đi qua Quảng Ngãi. Đảng chỉ thị cho cơ sở tổ chức quần chúng mít tinh đón tiếp, đưa yêu sách.


Ngày 1 tháng 3 năm 1937, hàng vạn quần chúng từ các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh kéo vào, Đức Phổ, Mộ Đức, Tư Nghĩa kéo ra, Nghĩa Hành kéo xuống, đứng chật hai bên đường trong thị xã Quảng Ngãi, nơi phái đoàn đi qua, hô khẩu hiệu, đưa yêu sách. Tôi bị lôi cuốn trong không khí sôi sục cách mạng của quần chúng quê nhà, tham gia vào các cuộc mít tinh lấy chữ ký vào các bản kiến nghị gửi lên viện dân biểu Trung Kỳ. Chỉ trong một thời gian ngắn, các hội Nông dân Tương tế, Thanh niên Dân chủ phát triển mạnh ở khắp các làng xã miền tây huyện Sơn Tịnh. Được rèn luyện, trưởng thành trong phong trào quần chúng, cuối năm 1937 tôi được giới thiệu vào công tác trong hệ thống bí mật của Đảng. 
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #4 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2021, 08:35:03 pm »

MẶT TRỜI CHÂN LÝ


Mùa xuân năm 1938, tôi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tại chi bộ tổng Tịnh Thượng. Theo phân công của chi bộ, tôi tổ chức, xây dựng phong trào quần chúng, thành lập chi bộ Đảng ở các làng thuộc hai tổng Tịnh Thượng, Tịnh Châu. Để che mắt bọn mật thám, tạo điều kiện tiếp xúc với quần chúng, tôi đóng vai người buôn đường. Tay cầm ô, mình mặc áo dài the, chân mang đôi guốc mộc, tôi đi khắp thôn xóm vận động thành lập các chi hội - Thanh niên Dân chủ.


Cuối năm 1938 ở các làng Trà Bình, Châu Nhai, Xuân Hoà, Phước Lộc đã có chi bộ Đảng, và một số đảng viên dự bị hoạt động theo nguyên tắc đơn tuyến.


Mùa xuân năm 1939, cấp trên giới thiệu về chi bộ chúng tôi một đồng chí người Nghệ An thoát ly vào hoạt động bí mật ở quê tôi. Anh giúp chúng tôi phương pháp vận động quần chúng xây dựng phong trào, hướng dẫn học tập tài liệu "Tự chỉ trích". Vì là người miền ngoài, giọng anh nói khó nghe, chi bộ phân công tôi đi kèm để giải thích lại những điều bà con chưa rõ. Hoạt động với nhau một thời gian, nhưng theo nguyên tắc bí mật, tôi không được biết tên anh, chỉ gọi là đồng chí Nghệ. Sau này khi tập kết ra Bắc gặp lại anh, tôi mới biết tên anh là Thưởng. Chúng tôi ôm nhau mùng mừng, tủi tủi nhắc lại bao kỷ niệm của một thời gian khổ.


Giữa năm 1939, nhân kỷ niệm cuộc cách mạng tư sản dân quyền vĩ đại của nhân dân Pháp, Tỉnh ủy tổ chức mít tinh. Bọn quan cai trị đầu tỉnh đánh hơi được. Chúng huy động toàn lực chặn các ngả đường. Nhưng quần chúng khôn khéo vượt qua vòng kiểm soát về tập họp ở trường đua ngựa tỉnh, trương cờ băng hô to khẩu hiệu đòi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do đi lại làm ăn... Mặc dù quần chúng nắm chặt tay lập thành mấy hàng rào bao quanh, bảo vệ người diễn thuyết, nhưng bọn lính khố xanh, khố đỏ, mật thám xông vào đàn áp dã man, thu xé băng cơ, bắt đi người đại biểu. Quần chúng lại tập họp kéo theo đến trước tổ mật thám hô vang khẩu hiệu:

"Đả đảo khủng bố!
Thi hành quyền tự do dân chủ!"



Lại một đợt mưa dùi cui báng súng nã xuống đầu người dân quê tôi. Mười ba giờ chiều hôm ấy quần chúng tập họp gần trường tiểu học Bồ Đề lũ lượt kéo theo sau một đại biểu cầm trên tay tờ báo Phương Đông làm hiệu. Đoàn người đi được một đoạn thì bọn địch lại xông vào đàn áp, bắt giữ người đại biểu1 (Người đại biểu hôm ấy là anh Trần Long, em ruột anh Trần Nam Trung - nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam sau này) giải tán cuộc biểu tình.


Mỉa mai thay, nhân dân Pháp đã tốn bao xương máu phá tan ngục tù "Bát-ty" để đòi quyền "bình đẳng - tự do - bác ái" thì ở xứ sở Đông Dương cũng vào ngày ấy bọn thực dân Pháp kỷ niệm cuộc cách mạng lịch sử của dân tộc mình bằng dùi cui báng súng nã xuống đầu người dân quê tôi đi đòi quyền "bình đẳng - tự do - bác ái".


Cuối năm 1939 Chính phủ của Mặt trận Bình dân Pháp đổ, bọn phản động lên nắm chính quyền. Chúng ra lệnh giải tán Đảng Cộng sản ở Đông Dương, cấm các tổ chức dân chủ, đóng cửa, đình xuất bản sách báo tiến bộ, truy nã các đảng viên cộng sản. Một không khí ngột ngạt báo hiệu cuộc thế chiến thứ hai sắp bùng nổ.


Tháng tám năm ấy Huyện ủy Sơn Tịnh họp tại nhà đồng chí Mên ở Đại Lộc do đồng chí Nguyễn Chánh thay mặt Tỉnh ủy chủ trì. Tham gia cuộc họp có tôi, đồng chí Khế (túc trung tướng Trần Quý Hai), đồng chí Phấn, Khoách, Cừ, Hùng. Cuộc họp đi đến quyết định: Chuyển hướng công tác vào bí mật, một số cán bộ, đảng bộ đổi vùng hoạt động, các tổ chức công khai của Đảng thay đổi hình thức đấu tranh. Tôi và anh Niên được phân công tổ chức in ấn tài liệu cấp trên để phổ biến trong quần chúng, đảng viên củng cố phong trào. Vào một buổi sáng mùa hè, tôi và anh Niên đang in tài liệu trong buồng kín thì mẹ tôi bước vào. Nhìn thấy giấy tờ, mực in, bản đông sương, còn tôi đang cúi rạp người nắn nót hai chữ Bình - Đức1 (Bình - Đức là bí danh của Tỉnh ủy Quảng Ngãi) vào cuối bản tài liệu, bà lo lắng thở dài:

- Mày làm thế này cũng giống như thằng anh mày năm "Ba mốt" thôi. Rồi cũng lại đi tù con ơi!

Nói thế nhưng mẹ tôi lặng lẽ ra trước nhà ngồi gác cho chúng tôi. Tài liệu như những cánh chim đậu xuống tay người dân yêu nước quê tôi, khơi dậy phong trào vận động ủng hộ Hồng quân Trung Hoa, đòi phòng thủ Đông Dương, ủng hộ hòa bình chống chiến tranh. Ngoài công việc in ấn căng thẳng, tôi lao vào đọc sách báo vừa để giải trí vừa để học tập, tìm hiểu tình hình. Lúc bấy giờ các tờ báo hàng ngày, báo tuần như Dân chúng, Nhành lúa, Đông Phương đều bị đóng cửa, duy có tờ Tiếng dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng đang còn hoạt động. Một lần, đọc xong truyện ký Hồng Quân Trung Hoa, tôi mơ về vùng đất độc lập tự do như ở Diên An. Tôi thầm ước sau này Đảng chủ trương đấu tranh vũ trang, dù có phải hy sinh xương máu như cuộc vạn lý Trường Chinh ta cũng giành được một mảnh đất, ở đấy con người được sống trong độc lập, hít thở không khí tự do, và thương yêu nhau trong tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Lần khác, tôi đọc cuốn sách về Phan Đình Phùng có người tướng trẻ tài năng Cao Thắng. Với cái lò rèn và năm ba người thợ giỏi tay nghề, ông đã làm ra hàng trăm khẩu súng có rãnh xoáy trong nòng. Với chiến thuật "Sa nan úng thủy", ông đã lừa kẻ địch vào của "tử" rồi phá đập ngăn nước, đá, gỗ ào ào đổ xuống kéo trôi hàng trăm tên địch, xác trôi lềnh dềnh trên dòng sông Ngàn Sâu. Tôi úp mặt xuống gối khóc khi đọc đến đoạn tướng trẻ tài ba ngã xuống giữa trận tiền khi đốc quân đánh vào đồn Đức Thọ.


Có lẽ vì căn duyên ban đầu ấy mà gần suốt cuộc đời hoạt động, tôi luôn là một chiến binh.

Đầu tháng chín năm 1939, tôi được bầu làm bí thư tổng Tịnh Thượng và được cử đi dự hội nghị bầu ban châp hành huyện Sơn Tịnh. Đầu tháng chín năm 1939 phát xít Đức tiến công Ba Lan. Anh - Pháp tuyên chiến với phát xít Đức. Đảng chủ trương in nhiều tài liệu giáo dục quần chúng vạch trần âm mưu của bọn phát xít, ủng hộ lực lượng Đồng minh chống phát xít.


Một sáng tôi đang bàn với anh Niên chuyển địa điểm in tài liệu mới vào rừng thơm thì lý trưởng dẫn mật thám đến nhà bắt tôi, đưa về sở mật thám Quảng Ngãi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #5 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2021, 08:36:37 pm »

THỬ THÁCH ĐẦU TIÊN


Vừa bước vào phòng tra, tôi nhìn thấy kìm kẹp, dùi cui, roi da, roi cá đuối, bình điện dây thừng cái treo trên xà, cái bở vương vãi dưới sàn nhà. Bùi Trọng Lệ, phó mật thám tỉnh bước vào phòng. Nó nhìn tôi xoi mói từ đầu đến chân, nhếch mép, môi dưới trễ xuống, mồm cong lên, vẻ mỉa mai thách thức. Nó nện gót giày đi lại trong phòng rồi bất ngờ dừng lại xông vào đấm đá tôi túi bụi. Tôi lùi dần, lùi dần vào góc tường, cắn răng chịu đựng. Quả như anh em tù nói, thằng Lệ đánh ác hơn tụi lính nhiều. Chúng đã mệt, nó thở hồng hộc kéo ghế ngồi, vẫy tay gọi tôi lại, rút trong ngăn kéo ra một tập tài liệu in đông sương ném lên mặt bàn, hỏi:

- Phải chữ mày viết đây không?

Bị bất ngờ, nhưng tôi cố trấn tĩnh trả lời:

- Tôi không biết.


Thằng Lệ nhếch mép, khoát tay hai thằng mật thám bước lại. Đợt tra tấn thứ hai lại tiếp tục. Bọn chúng thả sức quất roi tới tấp vào đầu, vào mặt, vào lưng tôi. Đến lúc tôi không còn sức chịu đựng ngã lăn ra sàn xi măng, chúng mới gọi lính lôi tôi vứt xuống xà lim.


Buổi chiều chúng đưa thêm một ngươi nữa vào xà lim. Nhờ ánh sáng tờ mờ chiếu qua cái của tò vò tít trên cao của xà lim, tôi nhân ra anh là một người cao lớn, có đôi mắt tròn sáng quắc. Tôi thoáng nghĩ: "Đây là một đồng chí cách mạng, hay tên mật thám trá hình đây". Nằm xuống sàn xà lim anh ta bắt đầu gợi chuyện.

- Anh ở đâu? Bị bắt mấy ngày rồi? Bọn nó đánh có đau lắm không? Đã khai báo gì chưa?

Trước sau tôi cũng chỉ trả lời có một câu:

- Tôi biết gì đâu mà khai.

Chừng như anh ta cũng đoán biết thái độ củạ tôị nên tự giới thiệu:

- Tôi là Nguyễn Cát, hoạt động công khai ở phía đông Sơn Tịnh.

Tôi lục tìm trong ký ức và nhớ lại ngày còn học nghề làm thuốc ở nhà ông Hiển có đôi lần nghe nhắc đến tên anh với vẻ kính trọng, nhưng tôi chưa được gặp mặt. Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn cảnh giác. Đêm hôm ấy anh khuyên tôi:

- Bọn nó còn tiếp tục tra tấn anh nữa. Nhưng cố chịu đựng đừng khai, vì khai thì bọn nó còn tiếp tục đánh cho đến khi nào moi hết tin tức mới thôi. Anh nhớ khi nó đánh lấy hai cánh tay che đầu, đừng để bị tổn thương mà khi ra tù không tiếp tục hoạt động được.

Đúng như anh nói, mấy ngày tiếp theo chúng càng dánh tôi đau hơn, nhưng tôi vẫn không nhận nét chữ mình viết.

Hôm sau vừa bước vào phòng tra, Bùi Trọng Lệ chỉ ghế bảo tôi ngồi. Tôi chưa hiểu nó định giở trò gì thì hai tên mật thám dắt anh Phấn vào, mặt mày tím bầm, quần áo toạc rách, hai tay còng ngoặt ra sau lưng. Anh đi thẳng đến trước tôi. Nhân lúc thằng Lệ quay mặt đi, anh nói nhỏ: tôi khai anh in tài liệu. Một ý nghĩ vụt ra trong đầu tôi, không thể để chúng làm một đối chất giữa tôi và anh Phấn, phải choảng cho anh một trận để anh phản cung. Nhưng thằng Lệ đã vẫy tay gọi lính đưa anh Phấn ra. Quay lại nó bảo tôi:

- Với những thằng khác bọn nó đánh đủ rồi. Nhưng với mày thì tao đánh, đánh đến khi nào mày bỏ cái gan lì, khai ra hết mới thôi!

Cuộc tra tấn bắt đầu. Thằng Lệ xông vào đánh tôi rất ác. Hắn quất roi da, roi cá đuối vào đầu, vào lưng tôi, nó thúc mũi giày vào bụng, vào ngực, vào hông. Tôi ôm đầu, cắn môi đến bật máu tươi ra chịu đựng. Tôi ngã ra sàn nhà, thằng Lệ túm tóc kéo ngồi dậy hỏi:

- Mày có nhận thằng Võ Phấn tổ chức và đưa tài liệu cho mày in không? Đến nước này thì không chối được nữa, nhưng phải nghĩ cách lừa nó. Tôi trả lời:

- Mấy hôm nay ông hỏi Võ Phân là ai, tôi không biết là ai, còn anh này là Võ Giỏi, bạn học cũ cùng trường. Anh có thuê tôi in rồi trả tiền để tôi mua sách báo đọc, sau đó lại bắt tôi tả lại cách in đông sương, và viết chữ để nhận dạng.

Thế là cuộc tra tấn kết thúc. Chúng chuyển tôi sang nhà lao chờ làm án.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #6 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2021, 08:37:31 pm »

TRƯỜNG HỌC TRONG NHÀ TÙ


Vào nhà lao Quảng Ngãi, tôi gặp lại anh Cát, anh Cừ, anh Chánh, anh Duân, anh Phấn... Chúng tôi tổ chức họp kiểm điểm, rút kinh nghiệm và nhận định: trong các cuộc đấu tranh công khai, nhiều quần chúng, đảng viên nòng cốt bị lộ mặt trong hoạt động, nhiều người thiếu cảnh giác. Có tỉnh ủy viên đọc xong tài liệu, cất để dưới gối hoặc dắt trên mành cửa. Bọn mật thám lợi dụng sơ hở ấy, lần ra đầu mối truy bắt, khám nhà, tìm thấy tài liệu. Khi bị sa lưới, một số ít người không chịu nổi tra tấn đã khai báo để lộ bí mật tổ chức Đảng.    Thế là trong một thời gian ngắn, theo lệnh từ chính quốc, bọn thực dân Pháp cùng với bộ máy tay sai đã phá vỡ các cấp đảng bộ từ liên tỉnh đến huyện và xuống một số chi bộ cơ sở. Mỗi chúng tôi đau xót với những khuyết điểm của mình đã tạo nên sự tổn thất lớn lao cho phong trào của Đảng. Đây cũng là bài học kinh nghiệm sâu sắc trong ký ức, giúp tôi vượt qua những chặng đường gian khổ sau này.


Phiên toà xử án tù chính trị mở tại dinh án sát tỉnh Quảng Ngãi. Từ mấy hôm trước chúng tôi đã bàn với nhau phải lợi dụng phiên tòa làm diễn đàn vạch trần dã tâm cướp nước và bán nước của thực dân Pháp và vua quan Nam triều, đòi quyền tự do dân chủ, đòi tổ chức phòng thủ Đông Dương, chống phát xít Đức - Ý - Nhật.


Buổi sáng, khi bọn chúng áp giải những chính trị phạm từ nhà lao tỉnh sang dinh án sát, thì đã thấy quần chúng đúng đông nghịt bên ngoài chờ nghe phiên toà xét xử những người cộng sản. Trước tòa chúng tôi đặt câu hỏi: "Chúng tôi, những người đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, chống chiến tranh phát xít, bảo vệ nền hoà bình cho nhân loại thì có tội gì? Phải chăng những kẻ cúi đầu trước sức mạnh của phát xít, cam tâm bán rẻ dân tộc, đất nước lại là người vô tội?". Bên ngoài quần chúng la ó, chúng lo sợ, vội vã, tuyên án rồi kết thúc phiên toa, đẩy chúng tôi lên xe áp giải về nhà lao. Dọc đường chúng tôi hô vang khẩu hiệu:

"Đả đảo phiên tòa bất công!
Đả đảo bọn cướp nước, bán nước!".


Tiếng hô làm náo động khu vực nội thành hôm ấy.

Bọn chúng căn cứ vào cấp lãnh đạo của từng người mà xử mức án từ một năm đến năm năm tù giam. Lần ấy tôi lãnh mức án hai năm tù giam. Cuộc sống trong nhà tù vô cùng nghiệt ngã. Mỗi ngày được hai bữa cơm gạo mục cá thối với mấy cọng rau úa vàng. Chúng tôi bàn nhau vận động anh em bên nhà lao thường phạm cùng nhau tuyệt thực làm reo, đấu tranh tẩy chay nhà thầu, đòi được nhận gạo, thức ăn về để anh em tù tự nấu. Cuộc đấu tranh thắng lợi, bữa ăn đảm bảo vệ sinh và khá hơn một chút. Nhưng cái được lớn nhất là gây được cảm tình với anh em bên nhà lao thường phạm. Họ nhận ra ở đâu, người cộng sản cũng là người đi đầu trong đấu tranh chống lại áp bức bất công. Nay mai mãn hạn tù trở lại quê nhà, họ sẽ là người tuyên truyền về lòng dũng cảm của những người cộng sản.


Để nâng cao hiểu biết lý luận cách mạng, chúng tôi tổ chức học tập chủ nghĩa duy vật biện chúng, nhân sinh quan và thế giới quan cách mạng.


Cụ Nguyễn Công Phương, cao tuổi nhất, có kiến văn rộng, là người đi từ phong trào yêu nước Cần Vương đến với chủ nghĩa cộng sản đã kể cho chúng tôi nghe lịch sử phong trào yêu nước tỉnh nhà. Những bài học kinh nghiệm của Ba-lê công xã ở Pháp và Cách mạng tháng Mười ở Nga. Những ngày lao công ở kho lưu trữ, chúng tôi lấy được các bản đồ Châu Á, Châu Âu, bản đồ thế giới, tìm những mẩu bút chì, nhặt giấy bao thuốc lá đem về lao tổ chức lớp học. Anh em bên lao thường phạm thường xuyên gửi báo chí do người nhà đi thăm nuôi mang vào cho chúng tôi đọc. Vì vậy tuy ở trong tù chúng tôi vẫn biết những gì đang xảy ra bên ngoài nhà lao.


Đầu tháng chín năm 1939, Đức mở mặt trận sang Châu Âu. Anh, Pháp tuyên chiến với Đúc. Tại các nước thuộc địa, bọn thực dân ra sức vét lính để cung cấp cho cuộc chiến tranh ở chính quốc, quanh thành Quảng Ngãi mọc lên những lều che tạm để nhốt tân binh. Trai tráng các làng quê bị bắt dồn về đây. Đêm đêm anh em phải chịu cảnh mưa dầm gió bấc, ngày ngày phải tập luyện dưới làn roi vọt của bọn cai đội. Thấy tình cảnh đó chúng tôi đã tuyên truyền họ, vạch trần âm mưu của bọn thực dân đưa người Việt sang Pháp làm bia đỡ đạn và khuyên họ trốn ngũ trở về quê quán với gia đình vợ con.


Cái ăn của người đi tù đã khổ, cái mặc cũng khổ không kém. Mỗi người được phát một bộ quần áo vải xanh mỏng, sợi dệt thưa như vải màn. Toàn nhà lao mấy trăm con người nhiều lần đấu tranh phản đối, buộc tên giám binh phải đến tận nơi hứa sẽ phát áo quần bằng vải xanh dày. Nhưng rồi chúng lần lữa mãi. Một hôm anh em tù chính trị làm lao công trước sân tòa công sứ, gặp lúc tên công sứ Han-ri-môn đến, anh em vẫn thản nhiên. Nó bực mình mắng "tù cộng sản không biết phép lịch sự". Một anh đứng ra bảo nó: "Chúng tôi không đứng lên chào ông vì muốn giữ phép lịch sự đối với ông". Anh em khoác tay, tất cả chúng tôi đứng lên cố tình giạng rộng hai chân. Anh quay lại: "Thưa ông, chắc ông nhìn thấy rồi chứ. Là người thay mặt cho nước đại Pháp cai trị xứ tôi, ông nghĩ sao?". Tên công sứ cúi gằm mặt, im lặng bước đi. Chỉ mấy ngày sau đó chúng mang quần áo mới đến phát cho anh em. Ở nhà lao Quảng Ngãi một thời gian, bọn chúng thấy tập trung chính trị phạm ở một nơi không lợi nên đày các anh có mức án cao lên nhà lao Buôn Ma Thuột. Số còn lại đưa đi các nhà lao Ba Tơ, Gi Lăng, Trà Bồng. Đây là những vùng rừng núi xa xôi. Bọn chúng nghĩ người cộng sản ở đây sẽ chết dần mòn về thể xác và tính thần.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #7 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2021, 08:38:46 pm »

TRONG LÒNG CHẢO GI LĂNG


Mới năm giơ sáng, bọn địch đã đánh thức chúng tôi dậy, gọi tên từng người ra khỏi phòng, còng tay, rồi bắt ngậm một thanh gỗ ngắn vào mồm cột chặt ra phía sau để không ai hô được khẩu hiệu phản đối. Nhưng khi xe chạy qua các phố trong thị xã, chúng tôi đập mạnh vào thành xe. Đồng bào hai bên đường chạy ra, thấy bọn chúng còng tay, khớp miệng chúng tôi, có người xúc động quay mặt khóc. Xe nhằm hướng rừng núi phía tây mà chạy. Đến tận trưa, khi đã xa vùng dân cư chúng mới tháo khớp miệng cho chúng tôi. Buổi chiều xe bò qua một đèo cao rồi hãm tốc độ, thả trôi dần xuống một thung lũng có cánh đồng hẹp, kẹp giữa các sườn núi dốc. Trước mặt chúng tôi là đồn Gi Lăng nằm trên ngọn đồi trơ trọi cạnh sông Rinh. Nước từ thượng nguồn đổ qua thác đá tung bọt trắng xóa, nhẹ nhàng chảy giữa hai bờ cát trắng. Thung lũng Gi Lăng như một cái lòng chảo bốn bề vây kín rừng cao, núi thẳm. Buổi chiều tiết trời miền núi lạnh giá. Chúng tống ba mươi anh em chúng tôi vào một cái lán bốn bề trống huênh, trống hoác cạnh dãy chuồng nuôi dê. Mùi hôi thối xông sang không chịu nổi. Buổi tối gió thổi mạnh, rét cắt ruột như có trăm nghìn mũi kim đâm vào da thịt. Không chăn, không màn, anh em ôm nhau để truyền hơi ấm. Năm giờ sáng, sau hồi kèn báo thức, đám lính người Thượng xông vào lán lôi chúng tôi dậy sắp hàng nhận cuốc xẻng ra rừng làm việc. Suốt ngày ngồi xe, gần trọn đêm thức trắng, người mệt rã rời lại phải lao công cực nhọc, nhưng đến trưa chúng phát cho suất cơm gạo mục cá khô đầy ròi tữa. Thế ra ở đâu bọn thực dân Pháp cũng tìm cách giết dần người cộng sản. Một cuộc đấu tranh đã nổ ra đòi làm lại nhà cửa, cấp đủ chăn màn để chống rét, chống muỗi, cấp gạo, tiền để người tù tự tổ chức nấu ăn, cắt hai phạm nhân làm vườn rau và mỗi ngày chỉ làm việc bảy giơ, hàng tháng phải để một người tù theo xe nhà binh về tỉnh lỵ mua sắm những hàng cần thiết giúp anh em. Nói chung mọi yêu sách đồn trưởng đều chấp nhận. Riêng làm việc ngày bảy giờ thì hắn không giải quyết, lấy lý do lính đồn cũng phải làm việc ngày tám giơ. Từ đấy cuộc sống chúng tôi có khá hơn, tuy nhiên việc cấp phát chăn màn, tên đồn trưởng lần lữa mãi. Một hôm tên giám binh đưa quan một Ba-dô-va-ni lên thay viên đồn trưởng cũ, anh em tập họp cử tôi ra gặp hắn nêu yêu cầu đòi giải quyết. Tên giám binh nhìn tôi vẻ thách thức, nhún vai bảo: - Nếu chúng bay an cư lập nghiệp, sống yên ổn với vợ con thì ai bắt chúng bay lên đây làm gì để bây giờ đòi chăn, màn?

- Các ông bọn người cướp nước, chúng tôi những kẻ mất nước đấu tranh đòi quyền độc lập tự do cho dân tộc mình có khác gì nhân dân Pháp đấu tranh đòi quyền tự do bình đẳng, bác ái trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền Pháp năm 1789. Tại sao các ông bắt bớ khủng bố, tù đày chém giết những người cộng sản chúng tôi. Các anh đứng phía sau giật giật gấu áo nhắc tôi kiềm chế - Tôi hạ giọng - Tôi mong các ông quan tâm giải quyết những yêu cầu chính đáng đó.


Tên giám binh bực dọc bỏ đi. Ba-dô-va-ni thay hắn hứa sẽ giải quyết. Vài tuần sau chúng tôi nhận được hai chiếc màn dài giăng suốt hai dãy sạp cho gần ba mươi anh em nằm. Sau này tôi nghe bọn lính nói lại, tên giám binh lệnh cho Ba-dô-va-ni chú ý những người cứng đầu để chuyển lên nhà lao Buôn Ma Thuột.


Bọn Pháp mở con đường từ Gi Lăng - Hải Giá đến Kông Plông. Chúng ra lệnh bắt xâu đồng bào thượng, tuổi từ 14 trở lên phải đi làm một tháng và dùng lao công của tù cộng sản. Gặp năm mất mùa, dân đi xâu chỉ mang theo bắp, sắn khô mà cũng chẳng đủ ăn no bữa, trên mình chỉ có một mảnh khố rách, thân hình tiều tụy. Họ làm công việc nặng nhọc, phá đá chặt cây dưới roi vọt của lính dồn, trong cái nắng gay gắt miền Tây và những cơn mưa rừng xối xả. Đêm đêm họ ôm nhau nằm dưới gốc cây, trong hang đá, bên đống lửa chống lại cái rét cắt da. Nhiều người đang đêm lên cơn sốt, sáng ra đã nằm chết còng queo. Trước thảm cảnh đó, chúng tôi bàn nhau phải cứu giúp đồng bào mình. Lúc này một số anh em đã học nói được tiếng Re, tiếng Cà Dong. Chúng tôi vận động họ đấu tranh đòi bọn cai, đội chỉ huy phải cho làm lán ở, cấp thêm lương thực, thuốc chữa bệnh, ốm được nghỉ, báo lên quan đồn xin khoán việc cho từng làng. Chúng tôi cũng khêu gợi tinh thần dân tộc, lòng yêu thương giống nòi đồng loại trong những người lính thượng. Ngày ấy có cai Đe - người dân tộc Re rất đồng tình, nhưng sợ. Anh nói:

- Cái bụng tao cũng thương bọn nó lắm. Nhưng chỉ sợ quan đồn cúp lương lột lon, còn bắt tù nữa.

Nhưng dù sao thì từ đấy bọn lính cũng đối xử với đồng bào tốt hơn. Việc ăn ở, làm xâu được cải thiện. Biết chúng tôi là những người cộng sản chống Tây bị bắt lên đây cầm tù, đồng bào thương lắm. Một lần tôi kể chuyện bọn Tây độc ác, quan ta nghe theo nó đánh người Thượng người Kinh bắt đi xâu nộp thuế; phải đánh đổ chúng nó dân mình mới có cái bắp, cái gạo ăn no, cái nước uống sạch, cái khố lành che thân, không phải đi xâu nộp thuế. Nghe xong một thanh niên Cà Dong, thân hình vạm vỡ, tóc xõa ngang vai, đôi mắt linh lợi, đứng phắt dậy, cầm tay tôi hỏi:

- Mày lên chỗ tao được không? Mày bày chúng tao học cái chữ, làm cái súng đánh Tây. Cái ná làng tao bắn không tới nó. Nó có cái súng, mình không có cái súng đánh không được.

Mãn hạn xâu, trước khi về anh còn hẹn sẽ xuống gặp tôi. Câu nói của anh thanh niên Cà Dong lại khơi dậy trong tôi ý nghĩ: "Có nên trốn tù cùng nhau lên vùng Cà Dong tổ chức đồng bào lập khu du kích chống Tây không? Làm cách mạng mà chỉ ký tên đưa yêu sách đòi dân chủ, dân sinh để rồi bị bắt bớ tra tấn tù đày thì đến bao giờ mới giành được độc lập tự do cho dân tộc?". Một năm bị giam cầm trong lòng chảo Gi Lăng, chúng tôi mất liên lạc với bên ngoài. Mãi sau này có người nhà lặn lội lên thăm, chúng tôi mới biết quân Nhật đã vào Lạng Sơn, lực lượng vũ trang cách mạng đã làm cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn xây dựng vùng căn cứ du kích. Ngày ấy chúng tôi chỉ biết Bắc Sơn là vùng rừng núi phía Bắc còn ở vị trí nào thì không rõ. Cái tin ấy như luồng gió thổi bùng ngọn lửa khao khát xây dựng khu du kích trong lòng tôi. Nhiều đêm thức giấc tôi cứ mơ màng nghĩ về vùng du kích Bắc Sơn.


Cuối năm ấy đồn Gi Lăng xây dựng lại. Anh em tù chúng tôi chia ra làm thợ nề, thợ mộc, thợ sơn.

Đồn trưởng Ba-dô-va-ni là một sĩ quan trẻ, thấp, béo, người đảo Coóc thường đến xem chúng tôi làm việc. Thấy tù cộng sản là những người khéo tay, qua chuyện trò hắn nhận ra chúng tôi hiểu biết, có lòng yêu dân tộc, đất nước nồng nàn. Một hôm hắn thể lộ tâm sự: "Người dân xứ Coóc chúng tôi cũng muốn giành độc lập cho xứ sở. Tôi đã vào Đảng Xã hội. Nhưng đã bao nhiêu cuộc nổi dậy đấu tranh đều bị chính phủ Pháp đàn áp dã man. Cuối cùng đành chịu vậy". Một thoáng buồn lướt qua khuôn mặt hắn. Từ hôm ấy Ba-dô-va-ni đối xử với chúng tôi thân thiện hơn.


Một hôm nhận được lệnh báo động của cấp trên, hắn tìm gặp anh Cự, người nói: tiếng Pháp khá nhất trong số chúng tôi, báo tin cho biết những người cộng sản Nam Kỳ làm bạo động.

Đêm hôm ấy nhóm trung kiên trong nhà lao họp lại nhận định: nếu cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thắng lợi thì ảnh hưởng sẽ lan ra Nam Trung Bộ. Chúng tôi vạch kế hoạch cướp đồn Gi Lăng, lấy súng, đạn, lương thực, bắt Ba-dô-va-ni đem theo làm người huấn luyện quân sự, rồi tất cả kéo về vùng dân tộc Cà Dong cùng đồng bào lập khu du kích chống Pháp. Cuộc họp phân công anh Cự giữ liên lạc chặt chẽ với Ba-dô-va-ni để tìm hiểu thêm tình hình. Tôi, anh Trần Khuy, Trần Huy, Trần Long, Nguyễn Cừ chuẩn bị tư tưởng với anh em. Khi thời cơ đến sẽ giao nhiệm vụ cụ thể cho từng người.


Đêm ấy tôi trằn trọc mãi, mơ về một khu "Diên An" ở vùng rừng núi phía tây quê tôi. Gần sáng tôi thiếp đi trong niềm hân hoan của người sắp bước vào cuộc chiến. Nhưng bốn năm ngày sau đó, Ba-dô-va-ni báo cho anh Cự biết cuộc khởi nghĩa thất bại. Bọn Pháp đã xử bắn những người lãnh đạo, và xâu tay hàng trăm người chở đi thả xuống biển. Biết tin, chúng tôi lặng lẽ cúi đầu tưởng nhớ những đồng chí đã hy sinh và bỏ luôn kế hoạch cướp đồn Gi Lăng. Những ngày sau đó, chúng tôi vẫn khắc khoải chờ đợi tin tức hoạt động bên ngoài và chủ trương mới của Đảng.


Lần ấy anh Nguyễn Cừ theo xe nhà binh về Quảng Ngãi, ngủ đêm lại ở lao tỉnh để đến sáng hôm sau theo bọn lính ra phố mua hàng. Hôm ấy anh gặp mấy đồng chí chính trị phạm từ Thanh Hóa mới đưa vào sau khi vỡ chiến khu Ngọc Trảo và anh Bùi Lâm. Anh Lâm cho biết Trung ương chủ trương duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, xây dựng các khu căn cứ cách mạng, thành lập các đội du kích. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã về biên giói, triệu tập hội nghị Trung ương, ra Nghị quyết tám trong đó kêu gọi thành lập Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng vũ trang ở các địa phương, khi có thời cơ sẽ tiến hành khởi nghĩa từng phần, mở đường cho cuộc khởi nghĩa trong cả nước giành thắng lợi. Tin ấy như một câu trả lời, giải tỏa nỗi băn khoăn lo lắng của chúng tôi lâu nay: "Nếu chúng ta làm cuộc khởi nghĩa ở Gi Lăng thì có phần sai lầm manh động không?". Niềm vui lan tỏa trong anh em. Đêm ấy những người tù cộng sản trong lòng chảo Gi Lăng hát vang bài Quốc tế ca "Vùng lên hỡi khắp nô lệ ở thế gian", tiếp đến là bài Ta là thanh niên xích vệ: "Chúng ta là thanh niên xích vệ. Chúng ta là tự vệ đội ngày mai. Vì sanh trưởng trong đời đớn đau này, một là toàn thắng, hai là hy sinh. Vì công lý ta ra đấu tranh mau. Mau đặng giải phóng cho nhân quần đây. Dù cho thịt nát, xương tan hay lao tù, chúng ta cũng quyết chiến đấu đến khi thành công..."
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #8 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2021, 08:39:56 pm »

NHỮNG NGÀY SUM HỌP


Mùa đông năm 1941, tôi mãn hạn hai năm tù giam. Trước hôm trở về các đồng chí động viên, căn dặn tôi, mỗi người một câu:

- Về nhà đừng vì chăn ấm, vợ con mà nguội lạnh tinh thần chiến đấu. Nhưng cũng chớ vội vã, phải thận trọng tìm hiểu kỹ tình hình. Anh biết đấy. Trong vòng hai năm, ba lần các tổ chức Đảng được xây dựng lại. Nhưng cả ba lần đều bị kể địch truy tìm, khủng bố phá vỡ. Lần đầu các đồng chí ở nhà lao Trà Bồng tổ chức thành lập được Tỉnh ủy lâm thời do anh Võ Xuân Hào làm bí thư. Vài tháng sau đã bị bắt. Tháng 10 năm 1940 anh Đỗ Xán gặp đồng chí Phan Đăng Lưu trao cho tài liệu hướng dẫn tổ chức du kích. Trở về xã Sơn Kim anh Xán cùng một số đồng chí chế thuốc làm lựu đạn. Chẳng may thuốc bốc cháy. Bọn mật thám lần tìm ra manh mối tóm gọn. Đầu năm sau anh Nguyễn Năng Lự vượt ngục trở về hoạt động, bắt liên lạc với một số đồng chí ở phía tây Sơn Tịnh xây dựng lại phong trào. Công việc đang thuận lợi thì Lâm Tài phản bội chỉ điểm cho mật thám vây bắt ngay anh Nguyền Năng Lự trong nhà mình ở Phước Lộc.


Kẻ địch khôn ngoan, xảo quyệt lắm. Làm cách mạng không phải chỉ có lòng quả cảm, mà còn cần có óc thông minh, tài phán đoán, tinh nhạy để có những quyết định táo bạo kịp thời.

- Chúng ta có quá nhiều sai lầm trong những hoạt động trước đây. Khi phong trào quần chúng lên cao, chúng ta sinh ra chủ quan coi thường kẻ địch. Còn bọn địch như con mèo rình mồi, lợi dụng những sơ hở đó để khủng bố phá vỡ phong trào. Kết quả là chúng ta kẻ trước người sau vào tù, còn kẻ địch thì cười cợt trên sự ngu ngốc của chúng ta, chỉ có quần chúng phải chịu đau khổ vì những cuộc khủng bố. Giờ đây như rắn mất đầu.

- Chúng ta làm cách mạng là tin vào chân lý. Nhưng con đường đi đến chân lý không đơn giản. Đừng lấy quần chúng làm vật hy sinh cho những sai lầm của mình.

- Anh về cho bọn tôi gửi lời thăm bà, thím và chị ấy. Anh nói lại với nhà, bọn tôi đều khoẻ mạnh.


Quả có thế thật. Ba-dô-va-ni càng tiếp xúc với chúng tôi càng tỏ ra có cảm tình với người với người tù cộng sản. Bọn đội cai và đám lính Kinh, Thượng thấy thế cũng không dám hống hách khinh thường chúng tôi như trước. Cuộc sống được cải thiện, anh em ít đau ốm, thương yêu đùm bọc giúp đỡ nhau nhiều hơn. Buổi chia tay thật cảm động, kẻ ôm vai, người nắm chặt tay, buồn vui lẫn lộn. Hành trang mang về chỉ có cái giỏ mây tôi ngồi đan trong tù vào những ngày mưa gió được nghỉ lao công, mấy bộ quần áo, vài ba thứ lặt vặt. Nhưng trong đầu tôi đầy ắp những kinh nghiệm, những lời dặn dò và những điều cơ bản trong Nghị quyết tám được anh em truyền miệng cho nhau.


Tôi theo xe nhà binh có lính áp giải về nhà lao Quảng Ngãi. Xe chuỵển bánh, tôi ngoái lại nhìn cái lòng chảo Gi Lăng, ở đấy tôi có bao nhiêu kỷ niệm với những người đồng chí còn đang chịu cảnh chim lồng, cá chậu. Một niềm xúc động dâng trào, tôi thấy cay cay nơi khoé mắt.


Xe xuống chân dốc Cà Đao, trạm gác cuối cùng của đồn Gi Lăng, cái chốt an toàn đề phòng tù vượt ngục. Từ đây xe chạy men theo lưu vực sông Trà Khúc. Mỗi vùng đất đi qua, gợi tôi nhớ đến những địa danh đã vang lừng một thời chống Tây. Tôi lặng im ngồi nhìn ra bên ngoài, hình dung cảnh kẻ thù đàn áp những người dân vô tội quê tôi. Và lạ thay, cái đó không làm tôi khiếp sợ mà lại đốt bùng ngọn lửa căm thù trong lòng mình. Tôi thầm hứa: "Các anh ơi! Tôi sẽ không phụ lòng tin, những lời dặn dò tâm huyết của các anh". Xe vuợt cầu Trà Khúc đưa tôi về nhà lao Quảng Ngãi. Hôm sau sở mật thám gọi tôi lên làm giấy tờ để đưa về làng quản thúc.


Tôi đi tắt qua cánh đồng rồi bước nhanh trên con đường làng quen thuộc trùm bóng tre về nhà. Vừa bước vào tới sân, mẹ thấy, chạy tới ôm tôi:

- Con được về luôn rồi hả con?

Tôi gật đầu, đặt tay lên đôi vai gầy của mẹ mà lòng nghèn nghẹn. Tôi biết mẹ đã từng ngày bấm đốt ngón tay, từng đêm trằn trọc mong con mãn hạn tù trở về. Bây giờ anh chị tôi mới chạy ra, kẻ đổ cái giỏ mây, người cầm nón. Tôi theo vào nhà ngồi xuống bộ phản giũa, đưa mắt nhìn đồ đạc trong nhà. Tất cả vẫn nguyên vẹn, chỉ có cũ kỹ, tàn tạ hơn. Mẹ, rồi anh, chị cầm tay, nắn vai, nhìn vào khuôn mặt xanh gầy của tôi như đoán ra được những nỗi khổ cực mà tôi phải chịu đựng suốt hai năm tù tội. Một lúc sau họ hàng làng xóm kéo đến chật nhà mừng tôi mãn hạn tù trở về. Bà con rối rít hỏi thăm sức khoẻ, tin tức của những người thân còn ở lại. Tiếp những ngày sau đó, nhà tôi lúc nào cũng đông khách. Tôi gặp lại nhiều anh chị trong hội "Nông dân Tương tế" hội "Thanh niên Báo chí" hoạt động với tôi từ những nằm "ba sáu, ba bảy". Một vài đảng viên ở các chi bộ trong tổng chưa sa lưới mật thám cũng tìm đến thăm tôi. Trong bữa cơm gia đình, chúng tôi kể cảnh sống trong tù, sự tra tấn những ngày lao cộng cực nhọc giữa rừng sâu dưới nắng mưa tầm tã, chuyện thời sự thế giới, tin Nhật, Pháp giành giật miếng mồi Đông Dương, những tin đồn đại về sự tàn bạo của quân lính Nhật theo chân vài người lính Bắc mang vào. Câu chuyên đang say bỗng ngưng lại, từ sâu kín lòng mình chúng tôi linh cảm một cuộc sống đen tối sắp ập xuống đầu người dân quê tôi, nếu nay mai quân Nhật lật Pháp chiếm cứ Đông Dương. Nghỉ ở nhà được mấy hôm chựa kịp làm gì thì lý trưởng đã mang trát của sở mật thám gọi tôi đi an trí Ba Tơ. Lý trưởng là người trong họ nên mẹ tôi chạy đến năn nỉ nhờ làm giấy bảo đảm với huyện xin cho tôi được ở nhà mươi ngày vì đang ốm. Nhưng kỳ thật là để lo việc cưới vợ cho tôi. Mẹ bảo, giọng bùi ngùi:

- Con gái có thì, nó đợi con hai ba năm rồi. Bây giờ con đi an trí. Mẹ thì già lấy ai đi thăm con, chăm sóc mẹ lúc trái gió trở trời.


Tôi lặng im ngồi nghe mẹ nói. Vợ tôi là cô gái quê rụt rè, hiền hậu, hiểu công việc tôi đang làm, sẵn sàng hỵ sinh cho tôi đi hoạt động, thâm tâm cũng có lúc lo lắng những điều bất hạnh đến với mình, nhưng rồi tình yêu giúp cô vượt qua. Đám cưới chúng tôi rất đơn giản, không có cỗ bàn linh đình, nhưng rất đông vui. Họ hàng, bạn bè đồng chí đến chúc mừng hạnh phúc chúng tôi. Chưa qua tuần trăng mật, tôi đã bị giải ra nhà lao tỉnh để hôm sau theo lính áp giải lên "căng" an trí Ba Tơ. Hôm đi, mẹ tiễn tôi ra đến đầu làng. Mẹ xoa xoa lên đôi vai con như ngày nào tiễn tôi đến Quán Cơm trọ học nghề làm thuốc. Giọng nghẹn ngào, mẹ dặn:

- Lên đó ít lâu con nhớ đánh thơ về để mẹ khỏi lo nghe con.

Vợ tôi đưa chồng thêm một đoạn. Dọc đường tôi nói với vợ bao nhiêu điều. Vợ tôi chỉ lặng im nghe, thỉnh thoảng "vâng! vâng! dạ! dạ!". Lúc chia tay, vợ tôi chỉ nói được mấy lời:

- Anh yên tâm, giữ sức khoẻ, việc nhà đã có em, thu xếp được, em sẽ lên thăm.

Nói được chừng ấy câu rồi vợ tôi sụt sùi khóc. Vợ tôi là cô gái quê bình thường nhưng dịu dàng chân chất. Phần tốt đẹp nhất trong cô là tình yêu chồng, đức hy sinh và lòng son sắt. Tôi đứng lặng nhìn vợ khóc mà bỗng thấy yêu quý vô cùng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #9 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2021, 08:53:09 am »

ĐƯỜNG LÊN CĂNG AN TRÍ BA TƠ


Hôm ấy là một ngày mưa rét. Tôi và người lính khố xanh đi áp giải ngồi tàu lửa từ ga Quảng Ngãi vào ga Mộ Đức (nay là Thạch Trụ) để đón ô tô lên Ba Tơ. Tàu chạy nhanh, xóm làng hai bên đường chìm trong màn mưa lướt qua ngoài của toa gợi nhớ một thời hoạt động đi về. Tôi triền miên trong những cảm giác vui buồn thương nhớ những đồng chí kẻ mất người còn. Anh lính ngồi cạnh vỗ vai tôi bảo:

- Hôm nay tôi giải anh lên Ba Tơ, nhưng phải ngày mai mới có ô tô. Tôi muốn nhân dịp nghé thăm bà dì ruột ở làng Vạn Lý nên xuống tàu ta đi bộ lên đấy, ngủ lại, sáng mai đón xe về Ba Tơ.

Tôi gật đầu:

- Đi đâu, ở đâu tùy bác.

Xuống ga, mưa tạnh, trời hửng nắng nhưng se lanh. Gió heo may cuối mùa đông từng đợt thổi về. Tôi kéo cao cổ áo cho đỡ rét, bước nhanh theo người lính. Anh tâm sự:

- Tôi vì bát cơm manh áo phải đi lính, chứ thật lòng chẳng thích. Nhục lắm.

Chiều tối đến nơi, anh đưa tôi về một túp nhà ở giữa đồng, bốn bề che bằng tranh rạ rách nát. Cửa vào là tấm liếp tre che tạm. Bà cụ chủ nhà đen gầy, áo quần rách rưới đang ngồi bên bếp đun nồi khoai. Anh lính lên tiếng:

- Dì làm gì đó?

Bà cụ quay ra mừng rỡ:

- Ủa, con đến lúc nào? Còn ai nữa kia?

Anh lính đến gần nói nhỏ gì với bà. Bà đứng lên nhìn tôi, đôi mắt già rưng rưng ngấn lệ.

Bà quay lại dặn cháu:

- Con trông cho dì nồi khoai, sắp chín rồi đó.

Tôi đứng lặng nhìn cảnh sống cô đơn nghèo khổ của bà cụ, lòng dâng đầy niềm thương cảm đến nghẹn ngào. Quay sang tôi, bà bảo:

- Ở nhà uống nước, cô chạy ra đây một tí, về ngay.

Tôi ngăn bà lại hỏi:

- Cô ơi, ở làng Vạn Lý này cô có biết anh Trúng không?

- Biết chớ, tôi với nó cũng bà con xa mà.

- Nhờ cô nói anh Trúng ra đây cho tôi thăm.

Bà cụ không đáp lặng lẽ ra đi một lúc, quay về với cái bọc nhỏ trên tay, theo sau là một cậu bé gầy yếu chưa đến tuổi thành niên, trên đầu quấn khăn tang.

- Thằng "Trúng con" đây cháu nè.

Tôi ngỡ ngàng hỏi:

- Cha em đâu?

- Cha em ở tù về được một thời gian đau ốm luôn, ho ra máu rồi chết!

Tôi nghẹn ngào. Thế là một đồng chí trung kiên của Đảng, một đầu mối trong sơ đồ tổ chức của tôi ở huyện Đức Phổ đã mất! Em này còn nhỏ và chẳng biết gia cảnh thế nào, biết có nối chí cha không? Tôi ngậm ngùi tự giới thiệu tôi là bạn tù với cha em. Ba em là một đảng viên cộng sản mấy lần tù tội bị Tây cướp nước, nó tra tấn đánh đập hết sức dã man, nên bị đau phổi. Chúng tôi đã đấu tranh liên tục đòi chúng phóng thích anh ấy về nhà chữa bệnh, kéo dài cuộc sống, không ngờ anh ấy đã mất. Đây đúng là một tội ác chúng nó gây nên! Tôi cũng hứa là sẽ viết thư liên lạc với cậu bé1 (Nguyễn "Trúng con", nay là Nguyễn Duy Phê, sĩ quan cấp tướng, chuyên công tác cơ yếu ở Bộ Quốc phòng, tham gia hoạt động từ năm 1943).


Bữa cơm thật đạm bạc bên ngọn đèn dầu lạc leo lét. Ba con người ngồi quanh cái sàn tre, trên đặt một đĩa tép kho với muối hạt, bát dưa và ba cái chén; miệng chén sứt mẻ như răng cưa. Rổ khoai lang để bên cạnh, củ to nhất vừa một miếng ăn, còn lại những chạc khoai dài, to chỉ bằng ngón tay. Niêu cơm nhỏ chưa đủ mỗi người một bát. Tôi cầm chạc khoai đưa lên miệng thì bà cụ giằng lại và trao cho tôi chén cơm:

- Cháu ăn chén cơm trước cho ấm bụng.

Tôi thoáng nghĩ, có lẽ đây là bát gạo bà vừa vay bên nhà mẹ của Trúng để đãi khách. Giá không có chúng tôi, chắc chiều nay bà chỉ ăn khoai trừ bữa. Tôi hỏi chuyện làm ăn, bà kể:

- Lúa khoai đang lên xanh tốt thì có lệnh bắt phá lúa, phá khoai để trồng bông, trồng lạc. Trái mùa, lỡ vụ, lại bị hạn rồi lụt nên cả vùng mất trắng - Bà thở dài:

- Năm nay đói là cầm chắc cháu ạ.

Sáng hôm sàu chúng tôi từ giã bà cụ ra đường đón xe lên Ba Tơ. Chiếc ô tô hàng chạy bằng than củi ì ạch vượt đèo Đá Chát, bỏ lại phía sau trùng trùng điệp điệp núi thấp núi cao rồi như con bò già thở phì pho lê từng bước lên đỉnh Mốc. Từ đây có thể phóng tầm mắt nhìn rõ châu lỵ Ba Tơ và Hoàng Đồn. Đồn xây trên một khu đất cao, rộng bên bờ sông Liên, chung quanh có tường thành và hào sâu bao bọc. Ở bốn góc thành có tháp canh. Trước cổng đồn là con đường đá dẫn đến chân đường cách đấy chừng vài trăm thước. Chung quanh có những tường rào bao bọc. Xuống đến chân dốc Mốc, xe bắt đầu chạy chậm giữa những xóm nhà người Kinh thưa thớt hai bên đường. Xa xa, lẫn trong cây rừng thấp thoáng vài nóc nhà sàn chênh vênh trên sườn dốc cheo leo. Mấy nương sắn rạt hết lá trơ lại những thân mốc, vài ba nương ngô lá thân khô vàng héo hắt nằm giữa màu xanh núi rừng trùng điệp như những mụn vá trên chiếc áo chàm rách bươm. "Cuộc sống của dân quanh đây chắc là vất vả cực nhọc lắm". Tôi nghĩ vậy. Nhưng cảm giác đó không làm tôi lo lắng, mà ngược lại gợi cho tôi một ý nghĩ khác. "Lên đây vài ba hôm, sắp xếp xong chỗ ăn ở rồi sẽ tính chuyện tìm hiểu tình hình hoạt động trên này. Bà con nghèo quanh đây nhiều thế này chả lẽ không tổ chức được cơ sở Đảng?".

Xe chạy chậm trên con đường đất đỏ bầm như máu rồi dừng lại. Tôi hỏi anh lính:

- Đến nơi rồi hả anh?

Anh lính gật đầu, vươn vai, các đốt xương lưng kêu rôm rốp. Chúng tôi xuống xe. Anh em nghe tôi lên, ra đây đón. Gặp lại nhau tay bắt mặt mừng, chào hỏi rối rít. Anh lính quay sang tôi:

- Thôi ta đi, kẻo muộn giờ làm việc.

Tôi theo anh lính vào đồn. Đến sân gặp người cai đi ra, anh đứng rập chân chào, rồi hỏi:

- Thưa thầy, quan lớn có nhà không?

Người cai không trả lời, nắm tay, chìa ngón cái ra chỉ chỉ về phía sau. Tôi theo anh lính bước lên bậc thềm vào gian giữa. Viên quan một người Pháp mặc áo quần nhà binh chỉnh tề, ngồi ở cái bàn to kê giữa phòng đang chăm chú đọc sách báo. Cái cổ nung núc thịt, đỏ như cổ gà chọi, hằn lên hai ngấn. Bàn bên viên thông ngôn nắn nót viết từng hàng chữ vào cuốn sổ dày cộp. Anh lính rập chân chào, viên thông ngôn ngước lên. Không đợi anh nói, hắn hỏi ngay.

- Tù an trí hả?

- Dạ - Anh lính đáp.

Hắn đứng lên rời bàn đến viên quan một xổ một tràng tiếng Pháp. Bây giờ viên quan một mới ngước nhìn tôi, vẻ dò xét rồi từ từ đứng dậy chống hai tay lên bàn nói một thôi liền như trẻ con đọc bài. Qua lời dịch của viên thông ngôn, tôi hiểu: "Anh mãn tù ngồi, nhà nước bảo hộ cho về. Nhưng từ nay anh phải ở đây, việc sinh sống tự lo liệu lấy. Anh có thể làm ruộng, chăn nuôi, buôn bán, thích thì mang cả vợ con lên đây lập nghiệp, được đi lại làm ăn trong bán kính năm trăm mét quanh đồn. Nhưng nhất nhất phải tuân thủ theo luật lệ quan đồn như: mỗi ngày hai lần sáng, chiều đến đây trình diện. Đi xa quá năm trăm mét phải được phép quan đồn".

Viên thông ngôn trao đổi mấy câu ngắn với viên quan một rồi quay sang bảo tôi:

- Bây giờ anh ra ngoài tìm chỗ ăn ở, sáng mai vào đồn trình diện. 

Anh lính tiễn tôi ra cổng rồi dừng lại, giọng bùi ngùi anh nói:

- Bây giờ tôi phải vào đồn, còn anh ra phố tìm hỏi thăm bạn cũ. Người các anh lên đây nhiều rồi.

- Anh có ghé thăm dì, cho tôi gửi lời cảm ơn.


Từ giã anh lính, tôi đi ra phố. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ cái châu lỵ Ba Tơ. Châu lỵ năm trong một thung lũng hẹp. Rải ra hai bên đường ba bốn cửa hàng tạp hoá, mấy quán ăn, bên cạnh mấy cái lều chợ xiêu vẹo gọi là Chợ Đồn, thêm vài hiệu may với mấy ông thợ già lọm khọm, mục kỉnh đeo trễ xuống sống mũi. Hai quán hớt tóc thụt trong đường, đôi ba cái quán nước, trên chiếc chõng tre bày vài nải chuối, mẹt khoai, miếng mít. Chừng ấy hàng quán của những người từ miền xuôi lên, cả vợ con buôn bán mà dân quanh vùng gọi là phố. Còn lại là những ngôi nhà lụp sụp mái tranh thấp ôm những tường đất nặng nề của các gia đình nghèo quanh năm làm ruộng, đốt than, kiếm củi bán ở các phiên chợ, hay làm thuê cho những gia đình giàu có trong vùng. Bao quanh châu lỵ Ba Tơ là những rặng núi cao lởm chởm chóp nhọn trông như chiếc nơm lật ngược.


Tôi xách chiếc va li tìm đường về nhà anh Duân mà trong đầu vương vấn mãi một câu hỏi: "Sao nó quản thúc tù bằng căng an trí mà lỏng lẻo vậy?", không phải một khu tập trung như tôi tưởng và tôi linh cảm thấy như có những âm mưu thâm độc nấp sau cái vẻ buông lỏng đó. Tôi bước vào nhà đã thấy anh em ngồi đợi ở đấy. Nhiều người tôi quen biết từ những ngày còn ở nhà lao Quảng Ngãi, nhưng cũng có người từ các lao Buôn Ma Thuột, Côn Lôn về đây, tôi chỉ nghe tên, nay mới gặp mặt. Gặp nhau chuyện như ngô rang. Từ những phán đoán, nhận định sức mạnh của phát xít Đức, lòng dũng cảm hy sinh của các chiến sĩ Hồng quân bảo vệ thành trì cách mạng trên mặt trận Xô - Đức, đến chuyện Nhật - Pháp đang gầm ghè nhau miếng mồi Đông Dương, và cuối cùng là việc làm ăn sinh sống hàng ngày.


Giữa tháng mười hai năm 1941, ngày đầu tiên tôi đến "căng" an trí Ba Tơ diễn ra như thế đấy.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM