Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:42:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chuyện người con Hồng Phước  (Đọc 4234 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:30:53 pm »

Ngay sau khi thành lập khoảng ba đến bốn tháng, tức tháng 7 năm 1967, Tiểu đoàn đặc công 87 đã tổ chức tập kích đại đội pháo binh Mỹ đóng ở phía bắc đèo Ông Gấm, thuộc các thôn Tùng Sơn và An Ngãi Tây, xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 20 cây số về phía tây. Có thể nói, đèo ông Gấm là tiền đồn án ngữ về phía tây khu vực dân cư đông đúc. Nhân dân ở đây chủ yếu là đồng bào theo đạo Thiên Chúa thuộc các thôn Tùng Sơn và An Ngãi. Căn cứ của địch nằm trên trục đường 14B, nay là đường đi du lịch Bà Nà - núi Chúa. Trước đây, tức năm 1966, Tiểu đoàn Đặc công 89 tập kích trận địa pháo Thanh Vinh. Để tránh bị đối phương đánh bất ngờ vào các căn cứ trong thành phố, năm 1967, Mỹ đã điều lên đây một đại đội pháo binh 105mm, đóng dã chiến trên dãy đồi Lai Láng, nằm về phía bắc đèo Ông Gấm. Chúng thường xuyên bắn phá ác liệt ngày đêm lên các căn cứ của ta như: Phú Túc, An Lợi, Hòa Trung, Nam Yên, Trường Định và khu vực núi Chúa, nay là khu du lịch Bà Nà, nhằm ngăn chặn từ xa để bảo vệ khu hậu cần Mỹ ở Bàu Tràm (Đa Phước) và sân bay trực thăng Xuân Thiều (Hòa Hiệp). Trong khi đó, cục diện chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng lại đang nghiêng về phía ta, khi ta mở chiến dịch hè - thu tấn công quân Mỹ - ngụy đã thu được nhiều thắng lợi lớn.

Tình hình đơn vị chúng tôi lúc ấy vừa mới thành lập đang trong tình trạng vừa phải sắp xếp biên chế tổ chức, bố trí cán bộ, chiến sĩ vào từng vị trí theo khả năng; vừa xây dựng doanh trại, huấn luyện chiến thuật đặc công và chuẩn bị chiến trường để tiểu đoàn tham gia chiến đấu và phối hợp với các đơn vị bạn cùng hiệp đồng chiến đấu tấn công quân địch. Nhận nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng địch ở đèo Ông Gấm, Ban chỉ huy Tiểu đoàn cử lực lượng đi chuẩn bị chiến trường, gồm 9 đồng chí, chia thành 3 tổ do tôi chỉ huy. Trong quá trình điều tra, các đồng chí Tạo, Tùng, Phước, Sửu, Hiền đã đạt được kết quả tốt sau 2 đêm đột nhập vào trận địa pháo đèo Ông Gấm.

Qua điều tra, chúng tôi biết được cứ điểm địch phòng thủ sơ sài; bên ngoài chỉ có 2 lớp rào bùng nhùng, 4 lô cốt, 1 hào giao thông; bên trong toàn nhà bạt và các ụ pháo. Chỉ huy đơn vị xác định đã nắm chắc 95% phần thắng, có thể tác chiến dễ dàng. Bên ngoài, cách căn cứ khoảng 500 mét, chung quanh là đồng bào Thiên Chúa giáo thuộc các thôn Tùng Sơn và An Ngãi. Bọn ngụy quân, ngụy quyền đóng ở đây khoảng 800 tên và cho rằng khu vực này là bất khả xâm phạm. Trên thực tế, trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, địch đã lợi dụng đồng bào, gây chia rẽ Kinh - Thượng, lương - giáo để chống lại phong trào cộng sản. Vì thế, đây cũng là một khó khăn khi ta tiếp cận mục tiêu.

Kể từ khi thành lập, đây là trận đánh mở màn của Tiểu đoàn Đặc công 87, vì vậy phải quyết tâm đánh thắng để lập thành tích xây dựng đơn vị và làm nền tảng cho những trận đánh sau. Đó cũng là một trong những trọng tâm của công tác chính trị tư tưởng mà Đảng ủy Tiểu đoàn xác định, nhằm lãnh đạo động viên đơn vị, nhất là bộ phận tham gia chiến đấu lần đầu, ra quân là đánh thắng. Tiểu đoàn lấy Đại đội 1 trước đây thuộc Tiểu đoàn Đặc công 89 làm nòng cốt, chọn 25 đồng chí cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm chiến đấu tốt trong trận tập kích trận địa pháo Mỹ ở Thanh Vinh năm 1966 và 15 đồng chí cán bộ, chiến sĩ mới từ miền Bắc vào làm dự bị trận đánh. Bên cạnh đó, công tác bảo đảm hậu cần, vận chuyển thương binh, liệt sĩ cũng được chỉ huy đơn vị phân công, bố trí chặt chẽ, cụ thể, tỉ mỉ. Vũ khí mang theo được trang bị mạnh, đặc biệt có 6 khối bộc phá 5 cân để đánh các cụm pháo.

Ngày 10 tháng 7 năm 1967, đơn vị bắt đầu hành quân trên trục đường hành lang. Chúng tôi phải vượt sông, trèo đèo, lội suối, có không ít đoạn đường Mỹ đổ quân phục kích và càn quét khu vực. Thỉnh thoảng pháo binh ở trận địa pháo Hòa Lộc bắn chặn đường. Đặc biệt khó khăn và nguy hiểm khi đội hình vượt qua hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra. Ở đây, địch đặt máy ra-đi-ô xung, loại máy mà dân ta gọi nôm na là cây nhiệt đới, khi phát hiện tiếng động của đối phương sẽ ngay lập tức báo về tổng đài. Đồng thời, các cụm pháo cối lập tức bắn dồn dập đến tọa độ do tín hiệu xác định. Tuy nhiên, quân đội Mỹ dù có cố gắng bao nhiêu cũng không thắng nổi những trinh sát đặc công điêu luyện của ta. Trong điều kiện bình thường, một người dân có thể đi từ cánh bắc sang cánh nam chỉ mất 4 giờ. Nhưng để qua đoạn đường trên đảm bảo an toàn, bí mật thì chúng tôi phải hành quân mất 2 ngày 2 đêm nghĩa là phải đi đường vòng không những để tránh địch mà còn phải tránh nhân dân đi lại trên trục đường này, vì kẻ địch thường trà trộn vào để đi do thám tình hình. Bên cạnh đó chúng còn sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi để phát hiện bộ đội hành quân, hay cán bộ đi công tác qua vùng này. Có trường hợp ta không thể lường trước được, chỉ cần sơ suất nhỏ là có thể rơi vào tay địch ngay. Tôi xin đơn cử một thủ đoạn của địch khiến ta không dễ gì phát hiện. Trên các trục đường hẻm và đường luồn bắt buộc ai cũng phải đi qua, cứ độ 5 giờ chiều, chúng quan sát, trà trộn vào dân để chờ mọi người đi làm về hết rồi đem kẹp heo đặt trên trục đường và cột tranh cỏ qua đường. Sáng hôm sau lên, chúng kiểm tra nếu thấy mất kẹp, mất cỏ tranh là có cộng sản đi qua đây. Trên cơ sở đó, địch sẽ tổ chức phục kích hoặc đặt mìn nhằm để sát thương bộ đội hoặc cán bộ của ta. Có một lần, đồng chí Ngô Văn Hiên là Bí thư chi bộ xã Hòa Ninh, trên đường đi công tác bị dính kẹp của địch, loại kẹp nặng 8 cân. Đồng chí đã phải dùng súng ngắn bắn đứt khóa rồi mang kẹp đi luôn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:32:09 pm »

Vì thế, trong quá trình hành quân, ta luôn thực hiện khẩu hiệu đối phó với địch là: “Đi không dấu, nấu không khói, nói không to, ho không tiếng”, đó cũng là nguyên tắc bắt buộc mọi cán bộ, chiến sĩ đặc công phải chấp hành và thực hiện tốt. Ngày 12 tháng 7, đơn vị hành quân đến vị trí tạm dừng tại thôn Hòa Trung (Hòa Liên) và tổ chức đội hình chiến đấu. Lực lượng biên chế thành hai mũi. Mũi 1 do đồng chí Thái Thanh A làm mũi trưởng cùng 8 đồng chí đột nhập vào hướng bắc trận địa pháo và sở chỉ huy của địch. Mũi 2 là mũi chính, do đồng chí Trịnh Xuân Tạo làm mũi trưởng cùng các đồng chí Hiền, Tùng, Sách, Chí... đột nhập từ hướng tây đánh xuống, tôi đi theo mũi này. Đội dự bị gồm 9 đồng chí do đồng chí Phước chỉ huy. Sau đó, các bộ phận lần lượt cơ động đến thôn Mỹ Sơn, đèo Ông Gấm. Theo kế hoạch hiệp đồng, 18 giờ ngày 12 tháng 7, tổ trinh sát tiểu đoàn đi tiền trạm cảnh giới bám địch; 20 giờ, đơn vị tổ chức hành quân; 22 giờ tiếp cận mục tiêu; 23 giờ bí mật cắt rào để lót đội hình sẵn sàng nổ súng.

Khi đội hình dừng lại phía bắc đồi Lai Láng, tôi ra lệnh triển khai, thực hành tiềm nhập theo các hướng như đã phân công. Trời càng về khuya, sương mù càng dày đặc. Đêm tối mịt mùng như bưng lấy mắt bộ đội. Tôi có cảm tưởng chỉ quơ nhẹ cánh tay ra là có thể bốc được một nắm bóng tối và sương mù. Lúc này, pháo của địch tăng cường bắn phá dữ dội về phía tây các căn cứ của ta. Tiếng nổ dồn dập, liên hồi, ánh lửa chớp sáng lòa cả trận địa. Chúng không hề biết rằng đó là những phát đạn gây tội ác cuối cùng của mình. Sự có mặt của những tên lính viễn chinh không hề được nhân dân bản xứ hoan nghênh, ngược lại một cái chết đang chờ đợi chúng. Chỉ trong giây lát nữa thôi, các chiến sĩ đặc công của chúng tôi sẽ biến cái căn cứ tiền đồn này thành mồ chôn những tên lính xâm lược. Nghe tiếng đạn nổ, tôi miên man suy nghĩ như vậy. Nhận định trước tình hình, đúng hơn là đã có trong phương án chiến đấu nên đội hình của ta vẫn bí mật nằm trước họng súng 105mm của địch. Mặc dù tiếng nổ làm rung chuyển cả người nhưng anh em vẫn nằm yên chờ lệnh. Tôi bò theo động viên anh em cứ đúng 23 giờ là thực hành cắt rào lót đội hình. 24 giờ, nghĩa là đã đến giờ G theo hiệp đồng cả trận địa pháo binh Mỹ ngưng bắn. Không gian lại trở về vẻ im lìm trong đêm tối. Chỉ có một toán lính Mỹ đi tuần tra chung quanh các vọng gác. Chúng dùng đèn pha quét qua quét lại nhiều lần nhưng không hề phát hiện ra các chiến sĩ đặc công đang ẩn mình trên các ụ súng đang từng phút, từng giây chờ lệnh nổ súng. Thời gian như ngừng trôi. Hình như mọi hoạt động của sự sống xung quanh đều ngừng hẳn để nhường lại sức mạnh cho những trái tim người lính đặc công. 24 giờ 5 phút, tôi làm hiệu bấm nhẹ đồng chí Tạo, xạ thủ B41, ra lệnh bắn sập lô cốt đầu cầu. Ngay lập tức một quầng lửa da cam bùng lên. Ụ súng vừa mấy phút trước đó còn bắn dữ dội về phía căn cứ của ta bỗng chốc trở thành đống bê tông đổ nát. Nghe tiếng súng, anh em hiểu ngay đó là hiệu lệnh tấn công cho toàn trận đánh. Tiếng nổ của thủ pháo, lựu đạn và những đường đạn căng của súng AK như một tấm lưới lửa trút xuống đầu quân địch khi chúng chưa kịp trở tay. Các đồng chí Tạo, Tùng, Hiền nhanh chóng chỉ huy các mũi phát triển vào trung tâm bắt liên lạc với chỉ huy trận đánh và chờ lệnh đánh pháo. Để kịp thời xử trí những tình huống chiến đấu có thể xảy ra, tôi khẩn trương cơ động về vị trí chỉ huy tiểu đoàn cùng đồng chí Bá Phước (Tiểu đoàn phó) và theo dõi toàn bộ trận đánh. Trong quá trình phát triển chiến đấu, chúng tôi vận động theo hướng của đồng chí Tùng. Lúc này, các đồng chí bộc phá viên đã đặt xong các khối thuốc TNT. Bất ngờ, một phát pháo hiệu đỏ bắn lên không gian báo hiệu cho các chiến sĩ đồng loạt giật nụ xòe rồi lùi xa ẩn nấp. Những tiếng nổ long trời chuyển đất nối đuôi nhau, vang lên như sấm dậy một góc trời đèo Ông Gấm đã xé tung những khẩu pháo của Mỹ thành những đống sắt vụn. Nhân dân các thôn Tùng Sơn, An Ngãi, Phú Thượng và Phú Hạ nghe tiếng bộc phá nổ biết có đánh lớn đã thức dậy xem chúng tôi biểu diễn nghệ thuật “nở hoa trong lòng địch”. Sau khoảng 10 phút chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn đại đội pháo binh Mỹ, phá 6 khẩu pháo 105mm và nhiều xe quân sự; thu một số vũ khí. Khi đơn vị rời khỏi trận đánh, về vị trí tập kết, kiểm tra quân số phát hiện thiếu một chiến sĩ, tôi cùng đồng chí Hoàng Thế Sắc vội quay lại đưa đồng chí của mình ra. Sau đó, tôi tiếp tục chỉ huy đơn vị lui quân về chiến khu Hòa Trung đảm bảo an toàn, bí mật.

Trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là từ lúc Mỹ ồ ạt đổ quân vào Đà Nẵng, lấy vịnh Đà Nẵng làm hậu phương cho các loại tàu chiến quân sự neo đậu, sẵn sàng chi viện cho quân đội Mỹ đi các chiến trường Khu 5 và Trị Thiên - Huế. Khi đổ quân vào cảng Phú Lộc, Hòa Khánh, Liên Chiểu, Hòa Hiệp,v.v, địch đóng các đồn bót, tổng kho hậu cần ở Đa Phước, sân bay Xuân Thiều, cầu Thủy Tú, đồi Hầm Vàng và kho xăng Liên Chiểu, trận địa pháo Thanh Vinh. Chúng phái nhiều trung đội biệt kích hành quân lùng sục theo trục đường 1A và đường xe lửa từ cầu Thủy Tú sang Kim Liên và kho xăng Liên Chiểu hòng ngăn chặn đối phương tấn công bất ngờ để bảo vệ an toàn hậu phương của chúng. Về phía ta, Tiểu đoàn Đặc công 87, sau khi thực hiện các trận đánh lớn, chúng tôi lại trở về căn cứ rút kinh nghiệm, học tập, huấn luyện và củng cố về mọi mặt. Trong quá trình vừa chiến đấu vừa xây dựng, đơn vị đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Mọi cán bộ đảng viên, đoàn viên đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng nhận nhiệm vụ và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cấp trên giao. Đầu tháng 3 năm 1966, tiểu đoàn ra quân đi chiến đấu với phương thức phân tán từng đại đội, đứng ở từng địa bàn khác nhau trên vành đai Đà Nẵng. Mỗi bộ phận tự tổ chức lực lượng điều tra chiến trường, nghiên cứu mục tiêu. Lúc này, tình hình chiến sự ngày càng nóng lên, hệ thống căn cứ chốt điểm trên vành đai phòng thủ Đà Nẵng của địch được củng cố thêm. Quân Mỹ áp dụng hình thức chiến thuật cơ bản trong phòng ngự của chúng là xây dựng nhiều căn cứ hỏa lực và lực lượng để lấp hết các khoảng trống trên vành đai bảo vệ Đà Nẵng. Trước tình hình như vậy, Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam - Đà Nẵng ra lệnh cho các đơn vị bộ đội địa phương và Tiểu đoàn Đặc công 87 đóng quân hướng cánh bắc Hòa Vang mở một đợt hoạt động nhằm tăng cường đánh phá giao thông, tập kích các chốt điểm Mỹ - ngụy để thu hút lực lượng và làm cho địch chú ý hướng này, tạo thời cơ cho Tiểu đoàn Đặc công 89 và các đơn vị ở cánh nam hoạt động mạnh hơn, phối hợp với chiến trường chung.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:34:01 pm »

Theo chỉ thị của cấp trên đêm mùng 6 tháng 8 năm 1967, phải nổ súng ở địa hình. cánh bắc Hòa Vang, cho dù đánh lớn hay nhỏ cũng phải nổ súng bằng được để hướng sự chú ý của địch về cánh bắc nhằm mục đích làm cho chúng phân tán lực lượng không kịp tập trung đối phó. Đêm mùng 6 tháng 8 năm 1967 Đại đội 1, thuộc Tiểu đoàn Đặc công 87, sử dụng một bộ phận do tôi trực tiếp phụ trách lên đường thực hiện nhiệm vụ. Hôm ấy, tôi cùng 11 đồng chí hành quân từ căn cứ cánh bắc Hòa Vang xuống khe Hố Chuối, trong đó có đồng chí Sắc là du kích xóm Kim Liên. Đồng chí Sắc đã dẫn chúng tôi xuống xóm Kim Liên nằm phục kích. Lúc này, trời cũng vừa tối. Theo nguồn tin từ cơ sở, tụi lính Mỹ thường đi tuần từ Liên Chiểu đến Kim Liên. Chúng tôi triển khai đội hình nằm phục kích đến tận 23 giờ 30 phút vẫn không thấy bọn địch đi tuần. Tôi bèn phân công đồng chí Sắc bò vào làng Kim Liên để về nhà hỏi thăm tình hình địch. Ba của đồng chí sắc cho biết hôm đó bọn lính Mỹ đóng quân dã chiến lúc 5 giờ chiều ở cuối làng Kim Liên. Lực lượng của địch gồm có 1 trung đội, 3 nhà bạt, 1 khẩu đại liên. Chúng không bố trí hàng rào, không đào công sự và đóng ngay cạnh đường ray xe lửa, phía dưới quốc lộ 1A. Sau khi nắm chắc tình hình địch cũng như địa điểm đóng quân của địch, đồng chí Sắc nhanh chóng trở lại đơn vị báo cáo. Tôi tập trung anh em lại hội ý. Căn cứ vào ý kiến của đồng chí Sắc và một số chiến sĩ, tôi lệnh cho đơn vị đột nhập theo hướng biển bò lên, vì hướng này địch rất sơ hở không để ý quan sát. Theo kế hoạch đã thống nhất tôi dẫn anh em xuống Hố Chuối, triển khai đội hình, giao nhiệm vụ cho đồng chí Hoàng Trợ (Đại đội phó) chỉ huy trận đánh và đồng chí Sắc dẫn đường. Còn tôi cùng với một đồng chí chiến sĩ liên lạc nằm ngoài để vừa cảnh giới bám địch, vừa giữ đường cho anh em lui quân. Do đặc điểm làng Kim Liên bấy lâu nay ta không tổ chức hoạt động gì lớn nên địch vẫn xem đây là vùng an toàn nhất với địa hình phía bắc là cầu Trắng, cầu Đen, phía nam là cầu Thủy Tú, phía đông giáp biển và phía tây là ấp chiến lược Kim Liên.

Nhận mệnh lệnh chiến đấu, đồng chí sắc dẫn anh em lần lượt vượt quốc lộ 1A. Bất ngờ, một chiếc GMC chạy từ Liên Chiểu vào hướng Đà Nẵng, cách đội hình của ta khoảng 5 mét. Mặc dù đèn pha rất sáng, nhưng chúng vẫn không phát hiện được ta. Các anh tiếp tục bò qua đường 1A, xuống đường xe lửa, rồi xuống hướng biển, sau đó bò lên lại theo hướng địch đóng quân. Khi đội hình bò qua đường xe lửa, anh em nhận thấy quân số của địch lúc này đã tăng lên, do chúng kéo quân từ Liên Chiểu về. Đồng chí Trợ nhanh chóng tổ chức hội ý với các tổ trưởng về vấn đề tăng quân của địch. Anh em vẫn quyết tâm đánh. Đồng chí Trợ chia lực lượng thành 3 tổ, mỗi tổ gồm 3 đồng chí. Khi ta đột nhập vào sát trận địa thì gặp một chuồng bò của dân khoảng 15 đến 16 con. Nhờ tiếng động của đàn bò phát ra nên địch không để ý. Chúng chỉ tập trung chú ý vào hướng từ trên núi xuống. Thực hiện chiến thuật đánh nhanh, diệt gọn, áp sát quân địch phát huy tối đa hỏa lực, xung lực nên ta cố gắng vận động càng sát địch càng tốt. Đặc biệt, đồng chí Hiền ở tổ chính diện đã bò cách chỗ hai tên lính đứng gác khoảng 5 mét. Còn hai tổ đột nhập vào sát hai bên nhà bạt. Khi tất cả đã sẵn sàng, đồng chí Trợ bắn một phát súng ngắn làm hiệu lệnh chiến đấu. Ngay lập tức, đồng chí Hiền tiêu diệt luôn 2 tên lính gác rồi xông lên, cùng anh em dùng AK, thủ pháo, lựu đạn đánh tới tấp vào các mục tiêu nhà bạt, san bằng trận địa làm cho địch không kịp trở tay. Đồng chí Liên, xạ thủ B40, nhanh chóng lấy phần tử bắn dập tắt ổ đại liên, bất ngờ một viên đạn văng trúng vào phổi. Đồng chí y tá kịp thời băng bó vết thương và cùng đồng chí Hiền dìu đồng chí Liên về Hố Chuối, nơi đơn vị tập kết quân số. Các anh lần lượt về đến vị trí tập kết. Đơn vị kiểm tra lại quân số đã phát hiện thấy thiếu đồng chí Ngô Lực, người con của mảnh đất Hòa Liên. Anh đã anh dũng hy sinh trong trận tập kích vừa qua. Trong trận đánh này ta đã làm chủ hoàn toàn trận địa. Bọn lính Mỹ bị tiêu diệt hoàn toàn, mặc dù bọn ngụy ở đầu cầu Thủy Tú và Liên Chiểu ở gần đó cũng không kịp dùng bộ binh để chi viện. Chúng phải bắn đèn sáng pháo cối, dùng xe tăng phản kích. Nhân dân vui mừng thông báo, sáng ngày mùng 7 tháng 8, tình hình chiến trận phơi bày ra trước mắt. Những chiếc nhà bạt hôm qua giờ chỉ còn là những đống đổ nát. Đổ che đậy sự thất bại, địch đã điều trực thăng hạ xuống lấy xác ngay trong đêm. Tuy nhiên, sáng dậy, người dân vẫn còn thấy thịt và cánh tay của những tên lính văng vào nhà dân và đường số 1 Các đồng chí tham dự trận đánh này đều được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ. Sau này, mỗi khi có dịp trở lại thăm làng Kim Liên, Thủy Tú, nơi diễn ra trận đánh năm xưa, tôi vẫn được người dân sống trên mảnh đất này kể chiến công của bộ đội đặc công Tiểu đoàn 87 như mới vừa xảy ra hôm qua. Có thể nói đây là một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất của đời tôi về một trận đánh xuất sắc, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, bất ngờ, hợp đồng chặt chẽ. Trong chiến công chung đó, đồng chí Sắc, người du kích Kim Liên cùng bà con Hòa Hiệp đã góp một phần không nhỏ.

Trên chiến trường miền Nam, Mỹ liên tiếp đổ quân và nhiều hơn dự kiến ban đầu gấp nhiều lần. Tiểu đoàn Đặc công 87 cũng như các lực lượng khác vẫn trong tình trạng vừa xây dựng, vừa chiến đấu, vừa trưởng thành. Quân số luôn có sự thay đổi vì lý do chiến đấu hy sinh, bị thương, cấp trên điều động. Vì thế, chúng tôi phải thường xuyên có kế hoạch vừa chiến đấu, vừa huấn luyện để anh em kịp làm quen với cách đánh của bộ đội đặc công. Đối với tôi, mỗi trận đánh là một kỷ niệm. Không chỉ là chiến thắng mà còn chứa đựng sự đau thương mất mát. Có những anh em vừa mới từ miền Bắc vào một thời gian ngắn đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Mái tóc đen nhánh, nụ cười tinh nghịch mang đậm nét duyên con gái của những chàng trai thư sinh mới lớn lên, vừa rời ghế nhà trường xếp bút nghiên lên đường đánh giặc luôn ám ảnh tôi trong từng bữa ăn giấc ngủ. Là người chỉ huy, tôi không lúc nào nguôi ý nghĩ phải tổ chức trận đánh như thế nào để ta tổn thất ít nhất và đem lại hiệu quả chiến đấu cao nhất. Trong những trận chiến đấu về sau này, tôi đặc biệt ấn tượng với trận đánh đêm giao thừa xuân Mậu Thân 1968. Năm đó, ngày mừng xuân, Tiểu đoàn Đặc công 87 Đà Nẵng đã tổ chức đón một cái Tết đặc biệt, một cái Tết đầy máu lửa.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:35:13 pm »

Trước đó, ngày 19 tháng 8, tôi nhận được bức điện khẩn của đồng chí Tư lệnh Mặt trận 44 gọi vào nhận nhiệm vụ gấp. Vừa đến nơi, gặp các anh cán bộ tiểu đoàn anh em 89, 91 và 71, chúng tôi tay bắt mặt mừng. Như vậy là các đơn vị đặc công cùng đồng nghiệp cũng đều có mặt nhận nhiệm vụ. Chúng tôi được cấp trên thông báo, ta chuẩn bị mở chiến dịch lớn trên phạm vi toàn miền Nam để “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, đánh bại âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước. Tham dự trận đánh trên đèo Hải Vân lần này, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ ở ngoài rào chỉ huy chung cả ngày lẫn đêm. Vì thế khi trở lại đơn vị, tôi liền cử hai tổ trinh sát gồm 6 đồng chí đi chuẩn bị 2 mục tiêu là đồn lính Mỹ và đồn lính ngụy trên đèo Hải Vân, do hai đồng chí Tiểu đoàn phó phụ trách. Lực lượng điều tra đồn tên lửa của Mỹ gồm 3 đồng chí Phước, Tạo và Thái A. Hướng đồn lính ngụy do 4 đồng chí Thượng, Sửu, Hiền và Sử nhận nhiệm vụ điều tra.

Sau một tuần lễ tổ chức đột nhập, nhiều đêm quan sát, các đồng chí đã đạt kết quả tốt. Riêng đồn tên lửa Mỹ vào đêm cuối cùng, 3 đồng chí vào được bên trong cổng ngõ đồn thì bất ngờ gặp 3 tên lính Mỹ cùng một con chó béc-giê đi tuần. Chúng đạp trên đầu đồng chí Tạo, thậm chí con chó còn cạp cái mũ trên đầu đồng chí. Trước tình thế này, bắt buộc đồng chí Tạo phải dùng lựu đạn diệt 3 tên lính Mỹ và con chó béc-giê chết tại chỗ và chạy thoát ra ngoài. Còn đồng chí Phước bị kẹt lại trong bờ rào thứ 3. Địch trong đồn báo động bắn ra dữ dội. Chúng cho xe tăng chạy quanh dồn, bắn pháo sáng liên tục cho đến sáng, khiến đồng chí Phước không thể thoát ra ngoài được, phải nằm lại trong bờ rào của địch suốt ngày hôm ấy, chờ đến tối mới bò ra. Sau 3 ngày đêm ăn đói, mặc rét, đồng chí Phước về đến đơn vị người đầy vết thương, thịt da trầy trụa do dây thép gai cào hết cả người. Mặt khác, sau khi thoát ra ngoài, hai đồng chí Tạo và Thái A về báo cáo chỉ huy mục tiêu bị lộ. Ngay lập tức, tôi đưa tổ trinh sát đi trở lại địa hình và trực tiếp dẫn đường đột nhập theo hướng khác. Chúng tôi vượt qua cầu Lô, rẽ xuống biển rồi lên hầm số 2, bò lên đỉnh trận địa tên lửa của địch. Sau 3 ngày đêm đầy khó khăn vất vả, khoảng 2 giờ chiều hôm đó, tôi dẫn tổ trinh sát trèo lên phiến đá cách bờ rào dây thép gai của địch khoảng 50 mét để quan sát. Bên trong cứ điểm của địch hiện ra trước mắt chúng tôi rõ mồn một. Bao gồm: 6 dàn tên lửa Tô-ma-hốc, lô cốt, nhà lính, đài ra đa và sân bay trực thăng. Trong đầu tôi phác nhanh dự kiến hướng tiến công. Tôi nhận định khả năng hướng đông có nhiều sơ hở, chỉ có một lớp rào sơ sài, các dàn tên lửa sát rào, 3 dàn quay ra hướng bắc, 3 dàn quay ra Biển Đông có thể đánh được. Khoảng 10 phút sau, trên sân đồn có 3 con chó béc-giê ngóng đầu ra chỗ cục đá nơi chúng tôi đang ngồi núp. Chúng đánh hơi và sủa lên inh ỏi. Lũ chó sủa ngày càng dữ dội làm cho bọn lính Mỹ nghi ngờ hô toáng lên “Vi-xi! Vi-xi!”. Địch lập tức điều một chiếc xe tăng chạy xuống hướng đông đường cúp cùng 3 con chó béc-giê. Nhưng lúc ấy, chúng tôi đã thoát ra khỏi chỗ đó một cách an toàn, sau khi chui qua ống cống đá dưới đường cúp của ngụy. Tối hôm ấy, tổ trinh sát tiếp tục đột nhập từ hướng đông vào đến các bệ phóng một cách dễ dàng, bởi vì đèo Hải Vân lúc này mây mù bao phủ. cần nói thêm rằng, hàng ngày, trong thời gian từ 18 giờ đến sáng hôm sau, trời vẫn còn tối. Đó là một thuận lợi để bộ đội đặc công đột nhập vào mục tiêu, điều nghiên tỉ mỉ. Coi như bước điều tra lần này đạt kết quả tốt đẹp. Chúng tôi nhanh chóng quay trở lại điểm hẹn, gặp lại các đồng chí đi điều tra đồn Nhứt ngụy báo cáo kết quả. Tôi cho các anh em về trước, còn tôi cùng các đồng chí tiểu đoàn phó là đồng chí Thượng, Sửu, Phước và Sử ở lại tiếp tục đặt đài quan sát, vẽ sơ đồ đồn Nhứt và chọn trận địa cối 82mm của tiểu đoàn, tiến hành đo cự li và tầm bắn trên thực địa của bản đồ độ 800 đến 1.000 mét. Vì ở khoảng cách đó là thuận lợi nhất cho tầm bắn của cối 82mm trong hiệp đồng tác chiến với tiểu đoàn. Cũng ngay trong đêm hôm đó, tôi cùng các đồng chí tiếp tục đột nhập vào đồn Nhứt ngụy để nắm toàn bộ nội, ngoại vi cứ điểm của ngụy một lần nữa. Sáng hôm sau, chúng tôi trở về đơn vị bàn kế hoạch chuẩn bị phương án tác chiến. Lúc này, công việc của tiểu đoàn rất bộn bề, vừa phải củng cố tổ chức, biên chế đơn vị làm doanh trại chỗ đóng quân, cho anh em xuống đồng bằng gùi lương thực đổ vừa ăn vừa dự trữ. Một số đồng chí được cử ra đèo Hái Vân làm nhà chứa gạo và súng đạn, chuẩn bị trạm cứu chữa thương binh. Một tổ trinh sát được cử đi chuẩn bị điều tra sân bay Xuân Thiều, chuẩn bị trận địa cối 82mm đặt tại miếu xóm Nà, hiệp đồng bắn vào sân bay trực thăng Xuân Thiều khi có lệnh mở chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968. Trong một thời gian ngắn nhờ sự thống nhất của cán bộ, chiến sĩ và phát huy tốt tinh thần trách nhiệm nôn công việc chuẩn bị mọi mặt của tiểu đoàn đã hoàn tất.

Bên cạnh việc chuẩn bị vật chất cho cuộc chiến lâu dài, chúng tôi còn được học chính trị để nâng cao nhận thức, xác định quyết tâm cho từng cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng nhận nhiệm vụ trên giao, thi đua lập công xuất sắc. Đơn vị được huấn luyện kỹ thuật đặc công tập kích cứ điểm vào ban đêm, ban ngày; tổ chức phòng ngự đánh địch phản kích khi chúng có xe tăng máy bay yểm trợ trên đường đèo Hải Vân, từ Đà Nẵng ra, từ Thừa Thiên Huế vào khi địch tập trung tại cao điểm đồn Nhứt trên đỉnh đèo Hải Vân, nơi dự kiến sẽ diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:36:51 pm »

Đêm 30, rạng ngày mùng Một Tết Mậu Thân năm 1968, Tiểu đoàn Đặc công 87 chính thức thực hiện nhiệm vụ đánh chiếm đèo Hải Vân. Nhận mệnh lệnh cấp trên, Tiểu đoàn 87 đã sử dụng 4 đại đội đặc công tập kích tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Mỹ - ngụy. Cụ thể, lực lượng đánh tên lửa do Đại đội 1 đảm nhiệm, dưới sự chỉ huy chung của đồng chí Công; trong đó, đồng chí Chiêm - Đại đội phó làm mũi trưởng. Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ, tôi lệnh cho bộ phận này đi trước một ngày. Đội hình đánh đồn ngụy do Đại đội 2 đảm nhiệm, các đồng chí: Phước, Thượng, Sửu chỉ huy. Đại đội cối giao cho đồng chí Sử chỉ huy, có nhiệm vụ bắn chế áp, kiềm chế hỏa lực địch, kịp thời chi viện cho anh em chiến đấu. Tôi đứng ở ngã ba đỉnh đèo Hải Vân, chỉ huy chung.

19 giờ, các mũi ở các hướng đã tiếp cận mục tiêu, 22 giờ khắc phục vật cản, 23 giờ bí mật lót đội hình vào bên trong, 24 giờ hiệp đồng nổ súng. Những mốc thời gian như vậy kể lại sau chiến tranh có vẻ khá dễ dàng, nhưng trong thời điểm ấy chúng tôi có thể phải đánh đổi bao nhiêu sinh mạng của đồng chí, đồng đội chỉ vì một sơ suất nhỏ của mình. Tại đồn Nhứt, chúng đốt pháo, giật đèn sáng, bắn súng chào mừng năm mới. Sau 30 phút, bọn lính ăn nhậu say sưa, sau đó nằm im lặng trong đêm tối mà không hề cảnh giác. Đúng 24 giờ, tức giờ G, Tiểu đoàn đặc công chúng tôi thực hành hiệp đồng nổ súng với toàn mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng. Đêm ba mươi, rạng sáng ngày mùng Một xuân Mậu Thân năm 1968, bị những tiếng nổ của thủ pháo, lựu đạn, AK, B40, B41, đạn cối 82mm đánh phủ đầu, quân Mỹ - ngụy trong đồn gần như bị tê liệt hoàn toàn. Đỉnh đèo Hải Vân như một biển lửa trút lên đầu quân thù. Đơn vị chúng tôi đã làm chủ hoàn toàn trận địa cho đến sáng mùng Một Tết Mậu Thân.

Sáng hôm ấy, toàn tiểu đoàn chuyển sang phòng ngự, sẵn sàng đánh địch phản kích. Quân Mỹ - ngụy hành quân từ Đà Nẵng lên bằng cơ giới, có xe tăng, máy bay yểm trợ. Hướng Thừa Thiên - Huế, chúng cũng hành quân tương tự như vậy. Trước tình thế tiến thoái lưỡng nan khi địch ở Đà Nẵng ra, pháo từ tàu biển bắn lên, địch ngoài Huế vào tôi cùng với các đồng chí chỉ huy tiểu đoàn vẫn quyết đoán, động viên anh em bình tĩnh chống trả và tìm cách xử trí thích hợp. 12 giờ địch đến vị trí phục kích của ta tại nơi quẹo cánh tay ở chân đèo. Quân ta sử dụng hỏa lực của cối 82mm, B40, B41 đánh phủ đầu quân địch, diệt nhiều tên, bẻ gãy cuộc hành quân tiếp viện cho quân Mỹ - ngụy trên đèo, buộc chúng phải tháo chạy về Đà Nẵng. 18 giờ ngày mùng Một Tết Mậu Thân, toàn tiểu đoàn về vị trí tập kết an toàn. Tuy nhiên, trong trận chiến đấu trên ta không thể tránh khỏi những tổn thất. Đó là sự hy sinh anh dũng của một số cán bộ, chiến sĩ khi tham gia trận đánh này, đặc biệt là tấm gương đồng chí Phòng, người nhảy lên cắm cờ trên lô cốt cố thủ đồn tên lửa Mỹ và đã anh dũng hy sinh. Ngay sau đó, đồng chí Bí thư chi bộ Nguyễn Văn Công, Chính trị viên tiểu đoàn, tuyên bố kết nạp Đảng cho đồng chí Phòng tại trận địa.

Nhận được mệnh lệnh tổ chức lui quân của cấp trên, khoảng 6 giờ chiều hôm đó, tôi cho anh em khiêng thương binh, liệt sĩ về hậu cứ Khe Lạnh (Kim Liên, Hòa Hiệp) nghỉ ngơi để hôm sau về doanh trại ở Khu 1, cánh bắc Hòa Vang. Tôi nắm tình hình tư tưởng, kịp thời giáo dục, xốc lại đội hình, động viên anh em tiếp tục sẵn sàng đi chuẩn bị chiến trường, đồng thời lãnh đạo đơn vị làm kho chứa gạo để chuẩn bị cho những trận đánh tiếp theo. Khi chúng tôi về Khu 1, đang tiến hành làm doanh trại củng cố đơn vị thì bất ngờ gặp một tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ hành quân từ Lăng Cô đi xuyên sơn về Khe Răm. Chúng vô tình đi đúng ngay nơi đơn vị đóng quân. Khoảng 5 giờ chiều, nghe trinh sát báo cáo tôi ra lệnh nhanh chóng chuyển thương binh và cán bô các cơ quan vào sâu trong cánh bắc, để bộ phận chiến đấu ở lại. Lúc này, lực lượng của tiểu đoàn chỉ còn một đại đội tăng cường. Tôi giao nhiệm vụ cho các đại đội đào hầm, chiếm vị trí có lợi đảm bảo đánh địch hiệu quả nhất. Khoảng 7 giờ sáng hôm sau, lính Mỹ ở trên tràn xuống theo khe, hướng sân tiểu đoàn. Do phát hiện địch từ trước nên ta chủ động đón đánh từ xa. Bị bất ngờ chúng vội vàng dừng lại và gọi pháo đánh xung quanh, gọi trực thăng thả dù tiếp tế. Tôi bình tĩnh bám sát đội hình, chỉ huy anh em kiên cường chiến đấu. Tuy nhiên, do chênh lệch về quân số, vũ khí trang bị nên khoảng ba ngày sau địch tràn xuống được và tổ chức truy kích quân ta. Nhưng trên trục đường hành quân của chúng, ta đã bố trí các lực lượng như công binh, đại đội độc lập của khu đội... chặn đánh gây thêm nhiều tổn thất cho địch. Đối với bộ đội đặc công, vì lực lượng mỏng nên rút sâu vào căn cứ thứ hai củng cố lại đội hình, sẵn sàng đánh chống càn, đối phó với B-52, bom tọa độ. Sau bận đó, máy bay chiến đấu của Mỹ - ngụy đã đánh bom nát rừng từ Khe Răm lên khe Hói Mít. Chúng còn cho 3 chiếc máy bay B-52 rải thảm làm các cơ quan khu bị tổn thất nặng. Ngoài ra, máy bay chiến đấu của địch tiếp tục thả chất độc hóa học khiến lá cây rụng hết, buộc chúng tôi phải lấy cành cây khô che hầm bí mật.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:38:34 pm »

Công tác tại Tiểu đoàn Đặc công 87 đến năm 1969, tôi được cấp trên điều động về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Đặc công 89. Sát cánh chiến đấu cùng anh em khoảng hai năm, đến năm 1971, tôi lại chuyển sang Ban 10 Đặc công Mặt trận 4. Sau đó, Bộ Tư lệnh đã điều tôi đi cùng Sư đoàn 2 Quân khu 5 tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, đánh Khe Sanh tỉnh Quảng Trị. Trong chiến dịch này, ta đã thu được nhiều thắng lợi to lớn. Xa những người chiến sĩ đặc công một thời cùng nếm mật nằm gai, trong lòng tôi không khỏi bùi ngùi thương nhớ. Nhưng chiến tranh là vậy, dẫu trên bất cứ vị trí nào người lính cũng phải hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đó cũng là cách thể hiện nỗi nhớ đồng đội.

Năm 1972, tôi được cấp trên điều về quận Nhì, thành phố Đà Nẵng làm Quận đội phó. Một thời gian sau, tôi tiếp tục được bổ nhiệm chức danh Quận đội trưởng, có nhiệm vụ xây dựng lực lượng đặc công biệt động thành. Trong bối cảnh chung, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sắp đi vào hồi kết, cục diện chiến trường nhiều nơi ưu thế thuộc về chúng ta; hơn nữa, lực lượng đặc công, biệt động thành đã qua nhiều lần thử lửa, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu nên công việc của tôi cũng gặp khá nhiều thuận lợi. Cùng với việc tổ chức, xây dựng lực lượng, huấn luyện nghiệp vụ,v.v, trong thời gian này, tôi chỉ huy chung ở vòng ngoài và các đội tập kích Tiểu đoàn vận tải công binh và Cơ quan tham mưu tổng hành dinh Sư đoàn 3 của ngụy tại ngã 3 Hòa Mỹ. Kết quả trận đánh, ta đã thu toàn bộ vũ khí, giành thắng lợi to lớn, góp phần tô thắm truyền thống lực lượng vũ trang quận Nhì, thành phố Đà Nẵng.

Hồi ấy, ngã ba Hòa Mỹ là khu tam giác chiến giữa ba xã Hòa Khánh, Hòa Minh và Hòa Phát, nằm trên trục đường 1A, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 5 cây số về hướng tây bắc. Đây là một địa thế vô cùng lợi hại trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng, khi địch đánh chiếm Đà Nẵng Chúng lấy nơi đây làm bàn đạp phòng thủ và tấn công đối phương quyết liệt hơn qua từng giai đoạn lịch sử.

Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, ngày 17 tháng 1 năm 1947, nơi đây đã diễn ra những trận chiến đấu quyết liệt của Tiểu đoàn 19, Trung đoàn 96 cùng lực lượng dân quân du kích khu tây Đà Nẵng của hai xã Hòa Thắng và Hòa Liên cũ. Ta đã đánh bại 5 đợt phản kích có xe tăng, xe thiết giáp yểm trợ của quân đội Pháp với ý đồ xâm lược đánh nhanh thắng nhanh, giành lại quyền chủ động để cứu nguy cho lực lượng địch đang chiếm đóng Đà Nẵng. Tiểu đoàn 19 đã cùng dân quân du kích đánh bại mưu đồ xâm lược của chúng ngay trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.

Trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, cũng tại ngã ba Hòa Mỹ này, Mỹ - ngụy cũng lấy nơi đây làm tiền đồn án ngữ nhằm phòng thủ phía tây Đà Nẵng. Chúng đưa đến đây một lực lượng lớn khoảng 5.000 tên. Trong đó, Sư đoàn 3 bộ binh đóng tại thung lũng Sũng Mây, trên dãy núi Phước Tường chạy dài ra dãy núi Đa Phước. Tại đây lính Mỹ đóng đồn bót dày đặc, bao gồm: Tiểu đoàn cơ giới vận tải, một cơ quan tham mưu của Sư đoàn 3 ngụy, quân địa phương, tổng đoàn, dân vệ, bảo an, cảnh sát đóng rải rác trong dân.

Căn cứ Hòa Mỹ nằm trên dãy gò đất cát, chung quanh là ruộng lúa nước của dân. Gò nống cát cao 3 mét so với mặt ruộng, địa hình trống trải dễ quan sát từ xa. Có hàng rào dây thép gai bao bọc, hào giao thông, kiên cố. Ở giữa có lô cốt cố thủ cao 4 mét, được trang bị hỏa lực bắn thẳng có đèn pha cực mạnh chiếu ra xung quanh cứ điểm sáng như ban ngày. Tiểu đội bộ binh địch tuần tra canh gác ngày đêm hết sức nghiêm ngặt. 4 góc rào 4 lô cốt có gắn đại liên M60 sẵn sàng nhả đạn khi có báo động. Ngoài ra, trong cứ điểm nhiều dãy nhà lính lợp tôn được bố trí xen kẽ nhiều nhà để xe ô tô và nhà chứa vũ khí, lương thực để tiếp tế cho quân ngụy ở chiến trường Trị Thiên. Căn cứ Hòa Mỹ được chúng phân ra hai khu vực: khu A tiểu đoàn cơ giới đóng nằm về phía bắc cứ điểm, khu B nằm phía nam cụm cứ điểm là cơ quan tham mưu của Sư đoàn bộ binh 3 ngụy. Khu A và khu B cách nhau con đường cái, địa hình phòng thủ như nhau. Hai đơn vị nằm trong khuôn viên cụm cứ điểm, khi có động tĩnh bên ngoài vào thì hai bên sẽ yểm trợ cho nhau đắc lực. Từ tối đến sáng, các loại xe ô tô vận tải vận chuyển trên đường liên tục.

Được sự nhất trí của ban chỉ huy, tôi dẫn hai tổ trinh sát gồm các đồng chí Xảo, Cưu, Nhơn, Bông và Thắng đi chuẩn bị chiến trường. Từ căn cứ đóng quân đến vị trí trinh sát, chúng tôi phải đi mất 24 giờ và phải vượt qua nhiều đồn bốt giặc. Qua 3 đêm đột nhập, chúng tôi đã nắm chắc toàn bộ nội ngoại vi cứ điểm, đồng thời kết hợp cùng các đồng chí cơ sở Quận Nhì ban ngay cải trang đi bán bánh mì cho bọn lính để vẽ sơ đồ báo cáo cho đơn vị. Đây là những chiến sĩ biệt động thành hoạt động hợp pháp, đứng chung quanh các xã phường, thường xuyên nắm tình hình địch phục vụ chiến đấu tốt.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:40:24 pm »

Tôi lên phương án chiến đấu, đề nghị Quận ủy Quận Nhì báo cáo cấp trên xin thông qua. Cấp trên chấp thuận và yêu cầu đặc công Quận Nhì phải tiêu diệt cho được tiểu đoàn vận tải và cơ quan tham mưu Sư đoàn 3 ngụy tại ngã ba Hòa Mỹ để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị vùng ven đô lúc bấy giờ. Sau khi nghe tôi trình bày phương án chiến đấu, Quận ủy và Ban chỉ huy đã nhất trí phương án và phân công cho tôi trực tiếp chỉ huy với tinh thần “diệt gọn, giành thắng lợi”. Lực lượng tham gia chiến đấu gồm 35 đồng chí với vũ khí trang bị là súng AK, thủ pháo, lựu đạn, B40, B41, được biên chế thành 2 mũi: Mũi 1, do đồng chí Đặng Ngọc Xảo chỉ huy, đánh tiêu diệt tiểu đoàn vận tải công binh; mũi 2, do đồng chí Lê Đức Cưu chỉ huy, đánh tiêu diệt cơ quan tham mưu Sư đoàn 3 ngụy. Tham gia trận đánh còn có đội công tác của quận ủy do đồng chí Phan Văn Tải phối hợp chiến đấu, nhân dân thôn Hồng Phước trực tiếp giúp đỡ giải quyết thương binh, thuốc men, đảm bảo cơm nước cho bộ đội. Trong chiến tranh, công tác hậu cần luôn đóng vai trò quan trọng. Bộ đội có ăn no mới đảm bảo đủ sức khỏe để xung phong, cầm cự với địch. Vì thế, đơn vị phải thực sự biết dựa vào nhân dân. nhờ nhân dân nuôi dưỡng. Trong trận đánh đồn Hòa Mỹ của đơn vị chúng tôi, bà con thôn Hồng Phước đã không quản ngại nguy hiểm, đêm ngày lo cho bộ đội bát cơm ngon, chén canh ngọt. Dẫu đã gần bốn thập ki trôi qua, nhưng tôi không thể nào quên những con người điển hình năm ấy như các chị Ba Dĩ, Năm Miên, Bảy Mau, ông Thủ Tuấn, bà Năm Liên và một số gia đình khác tận tình giúp đỡ trong và sau trận đánh của Đại đội Đặc công quận Nhì, Đà Nẵng.

Ngày 10 tháng 5 năm 1972, tổ trinh sát đi trước bám bến đò Thủy Tú chuẩn bị cho đơn vị vượt sông. Nhân dân thôn Thủy Tú chuẩn bị ghe thuyền chờ sẵn để đón bộ đội sang sông. Ngày 12, đơn vị bắt đầu hành quân, 19 giờ, chúng tôi bắt đầu vượt sông Thủy Tú. 22 giờ, chúng tôi đến vị trí tập kết. Tôi kiểm tra lại lần cuối quân số, vũ khí trang bị. Toàn đơn vị an toàn, đảm bảo sẵn sàng chiến đấu. Tôi giao nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu cho đồng chí Đặng Ngọc Xảo - Đại đội phó làm mũi trưởng và đồng chí Lê Đức Cưu - Đại đội trưởng làm mũi trưởng thứ hai. Còn tôi ở vị trí chỉ huy bên ngoài cùng với đồng chí liên lạc để đón anh em ra. Đúng 23 giờ theo kế hoạch, các hướng mũi bắt đầu tiếp cận mục tiêu, khắc phục vật cản như dò gỡ mìn, cắt hàng rào dây thép gai.v.v. 24 giờ, đơn vị bí mật đưa đội hình vào các mục tiêu. Hôm ấy, không hiểu vì sao khác với thường lệ, ở bên trong cứ điểm của địch, chúng đang tăng cường pha đèn sáng liên tục. Đội tuần tra của chúng ra sức lùng sục xung quanh cứ điểm. Bộ đội bí mật nằm im chờ lệnh.

24 giờ 30 phút, bộc phá viên lên đánh sập lô cốt cố thủ. Toàn bộ các mũi xông lên tiến công địch. Tiếng nổ của thủ pháo, lựu đạn, bộc phá, B40, B41, AK vang lên giòn giã cả trận địa. Trong vòng 30 phút chiến đấu vô cùng ác liệt, đơn vị đã làm chủ hoàn toàn trận đánh, tiêu diệt toàn bộ Tiểu đoàn vận tải công binh và cơ quan tham mưu Sư đoàn 3 ngụy. Lúc này, Sư đoàn 3 ngụy ở Sũng Mây đã báo động cho quân xuống chi viện. Đồng thời, quân địch ở Đà Nẵng cũng kéo lên, nhưng chỉ đứng ở xa, chứ không dám vào chi viện. Đơn vị đã diệt và phá hủy hàng trăm xe các loại, phá hủy một lô cốt cố thủ và nhiều nhà lính, lực lượng địch ở căn cứ Hòa Mỹ bị tiêu diệt hoàn toàn. Đội đặc công quận Nhì đã chiến đấu anh dũng, ngoan cường, thọc sâu đánh hiểm sát thành phố Đà Nẵng, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - ngụy.

Sau chiến thắng Hòa Mỹ ba tháng, tức tháng 8 năm 1972, lực lượng đặc công quận Nhì, thành phố Đà Nẵng tiếp tục lập chiến công lớn, đó là trận tập kích Tỉnh đường lưu vong Quảng Trị, khi chúng thất thủ tại Quảng Trị chạy vào Đà Nẵng nương thân, được Mỹ đùm bọc, che chở. Lực lượng này đóng quân tại Bàu Tràm, thôn Xuân Thiều xã Hòa Hiệp. Bối cảnh chung lúc ấy, chiến dịch xuân hè năm 1972 đã được mở ra trên khắp các chiến trường miền Nam, từ Quảng Trị, Thừa Thiên đến Khu 5, Nam Bộ. Quân và dân ta giải phóng tỉnh lỵ và các chi khu, ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn thất bại nặng nề. Điển hình là Tỉnh đường Quảng Trị phải khoác áo lưu vong vào núp bóng căn cứ Đà Nẵng. Mỹ ưu ái dành riêng cho một lô đất ở khu vực Bàu Tràm để nương thân. Chúng là những đứa con nuôi của Mỹ, nằm ở tuyến đầu chống miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Quảng Trị bấy giờ là một chiến tuyến với không biết bao nhiêu năm chứa đầy bom đạn của giặc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước. Một thời tôi đã được chứng kiến nhân dân 3 xã ở đây là Vĩnh Hòa, Vĩnh Chấp, Vĩnh Kim của huyện Vĩnh Linh, trung dũng kiên cường trụ bám cả bầu trời và mặt đất; trong những năm kháng chiến chống Mỹ, quân dân nơi đây đã bắn rơi nhiều máy bay của giặc Mỹ, bảo vệ mảnh đất thân yêu của mình trên tuyến đầu miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đầu năm 1972, quân và dân ta tấn công, tiêu diệt hàng loạt đồn bốt ngụy như: Gio Linh, Cam Lộ, Cồn Tiên, Dốc Miếu và giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Lúc đó, bộ máy ngụy quyền và quan quân địch tháo chạy khắp nơi. Khi vào Đà Nẵng, chúng đóng quân trên một đồi cát trắng Bàu Tràm, bao bọc chung quanh là căn cứ hậu cần của Mỹ, bên cạnh đó là sân bay trực thăng Xuân Thiều. Đặc biệt, ở đây có bàu nước sâu bao bọc chung quanh cồn cát trắng, là một địa hình an toàn nhất. Chúng cho nơi đây là bất khả xâm phạm mà không nghĩ rằng ngay trung tâm thành phố cũng trở thành không an toàn đối với bọn Mỹ - ngụy. Chính vì vậy mà chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” bị thất bại thảm hại trên chiến trường, trong đó có Quảng Nam - Đà Nẵng. Bọn này bị tấn công liên tục. Chúng buộc phải dàn mỏng đội hình ra, nơi nào có hoạt động mạnh thì chúng đối phó lúng túng, ăn không ngon, ngủ không yên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:41:31 pm »

Thất thủ tại Quảng Trị chạy vào Đà Nẵng, lực lượng Tỉnh đường Quảng Trị đóng quân tại Bàu Tràm bao gồm một đại đội lính bảo an, một trung đội cảnh sát và cơ quan hành chính trên dưới 200 tên, do tên thiếu tá tỉnh phó chỉ huy, có quân Mỹ bảo vệ ngày đêm tại khu hậu cần Đa Phước. Đây là một trong những mục tiêu tấn công của lực lượng đặc công Quận Nhì. Ban chỉ huy Quận đội cử tôi trực tiếp chỉ đạo, tổ chức trinh sát, điều tra cứ điểm trong 2 đêm 10 và 20 tháng 9 năm 1972, gồm 2 bộ phận. Một bộ phận do đồng chí Xảo phụ trách, đột nhập Tỉnh đường Quảng Trị đạt kết quả tốt, bộ phận còn lại do đồng chí Cưu điều tra đồn công binh, tiền đồn bảo vệ tỉnh đường và sân bay trực thăng Xuân Thiều trên trục hành lang cống Bàu Tràm cũng đạt kết quả tốt, bảo đảm có thể đánh được. Thông qua phương án chiến đấu, Ban chỉ huy và Quận ủy Quận Nhì bao cáo lên cấp trên phê duyệt, nhất trí 100% cho Quận Nhì nổ súng. Theo phương án, mũi 1 có 15 đồng chí do đồng chí Xảo chỉ huy, có nhiệm vụ bí mật dẫn đội hình bơi qua Bàu Tràm đánh vào nhà tên tỉnh phó, đại đội bảo an và khu vực cảnh sát, diệt các lô cốt nhà lính, chốt chặn không cho địch tháo chạy sang đồn lính Mỹ. Cấp trên yêu cầu đánh nhanh, giải quyết gọn, rút quân an toàn, đề phòng địch đánh phản kích và chặn đường rút lui của ta. Mũi 2 có 15 đồng chí do đồng chí Cưu chỉ huy có nhiệm vụ tiêu diệt đại đội công binh, chặn quân Mỹ ở sân bay Xuân Thiều, chốt giữ bờ cảng, chờ bộ phận đánh tỉnh đường ra bắt liên lạc với nhau, giải quyết xong công tác thương binh tử sĩ mới được rút lui về tập kết tại xóm cồn.

17 giờ ngày 22 tháng 8 năm 1972, đơn vị tổ chức hành quân, 19 giờ vượt sông Thủy Tú, 22 giờ đến vị trí tập kết, 23 giờ toàn đội hình vượt qua Bàu Tràm. Tôi đưa bộ đội xuống triển khai tại xóm cồn, đồng thời giao nhiệm vụ cho đồng chí Xảo, đồng chí Cưu. Tôi ở ngoài cảnh giới và đón anh em ra. 23 giờ 30 phút, ta bí mật lót đội hình theo phương án tác chiến. 24 giờ, tức giờ G, khối bộc phá 5 cân đặt tại chân cầu thang nhà tên tỉnh phó giật nụ xòe là hiệu lệnh tấn công cho toàn trận đánh. Bộ phận đồng chí Cưu nhanh chóng tiêu diệt đại đội công binh, làm chủ trận địa, chốt chặn quân địch không cho địch chạy sang sân bay Xuân Thiều. Bộ phận du kích các xã Hòa Hiệp và Hòa Khánh, do đồng chí Phan Văn Tải phụ trách, hiệp đồng nổ súng vào khu vực hậu cần Mỹ ở Bàu Tràm để nghi binh, kéo địch đánh lạc hướng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng đặc công hướng chủ yếu lui quân an toàn. Kết quả ta tiêu diệt hoàn toàn Tỉnh đường lưu vong Quảng Trị và đại đội công binh ngụy tại bờ cảng Bàu Tràm, Xuân Thiều. Quân ta đã tiêu diệt địch được cả hai nơi, gồm lực lượng lính ngụy và cảnh sát, trong đó có tên thiếu tá tỉnh phó Quảng Trị. Kết quả trên đã thể hiện một trận đánh xuất sắc của Đại đội Đặc công Quận Nhì: dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, anh dũng tuyệt vời cùng với sự hiệp đồng chặt chẽ giữa quân và dân hai phường Hòa Hiệp, Hòa Khánh đạt hiệu suất chiến đấu cao. Đặc biệt, trong trận đánh đã nổi lên một số tấm gương chiến đấu dũng cảm, kiên cường như các đồng chí Xảo, Cưu, Nhơn, Bông, Cúc, Diêm, Điến... cùng với người chỉ huy sâu sát, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, linh hoạt mưu trí và quyết đoán trận đánh tốt.

Năm 1974, sau khi đi tập huấn chiến thuật đặc công toàn quốc, rút kinh nghiệm tác chiến đặc công toàn miền Nam tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, do Binh chủng Đặc công tổ chức; cuối năm 1974, tôi trở về tham gia chuẩn bị chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam nói chung. Ngày 29 tháng 3 năm 1975, các đơn vị địa phương phối hợp với các sư đoàn chủ lực tấn công các hướng vào thành phố Đà Nẵng đã thu được thắng lợi trọn vẹn. Tháng 4 năm 1975, cấp trên điều tôi về làm Quận đội trưởng Quận Nhất, có nhiệm vụ tập hợp lãnh đạo giải quyết hậu quả chiến tranh, giải quyết an ninh trật tự rất phức tạp, tổ chức cải tạo và học tập cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, phá gỡ bom mìn để lại. Trong giai đoạn này, Đà Nẵng 3 năm liền (từ 1975 đến 1977) chủ yếu tập trung giải quyết hậu quả chiến tranh, củng cố các tổ chức Đảng, chính quyền và mặt trận, ổn định kinh tế, an ninh quốc phòng địa phương.

Năm 1977, trước yêu cầu nhiệm vụ mới đòi hỏi, cũng là nguyện vọng của bản thân, tôi được tổ chức cử đi học bổ túc quân sự địa phương trong thời gian một năm ở Học viện Quân sự Đà Lạt. Ra trường năm 1978, tôi tiếp tục trở về nhận công tác quận Nhất. Cũng trong năm đó, Thành đội Đà Nẵng được thành lập. Cấp trên điều động tôi nhận nhiệm vụ mới, làm Chỉ huy phó Thành đội. Tình hình Đà Nẵng hồi mới giải phóng, đời sống của nhân dân còn khó khăn. Vì thế, cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ cũng thiếu thốn đủ thứ. Để góp phần cải thiện đời sống cho bộ đội, tôi đã bàn với các đồng chí cán bộ lãnh đạo mở cuộc vận động anh em tăng gia sản xuất. Dần dần, nhiều đơn vị đã tự túc được rau xanh, bổ sung quỹ vốn, nâng cao bữa ăn cho bộ đội. Cùng với công tác hậu cần, việc duy trì kỷ luật, chống tình trạng xả hơi, tư tưởng công thần sau chiến thắng cũng được đơn vị duy trì thường xuyên. Vì thế, đơn vị luôn ổn định. Năm 1983, tôi được nghỉ hưu, trở về đời thường, vui cuộc sống gia đình tại phường Thạch Thang, quận Hải Châu. Suốt hơn ba mươi năm quân ngũ, về hưu phải đối mặt với gánh nặng cơm áo gạo tiền cũng là một thách thức lớn đối với tôi. Hồi ấy, cuộc sống gia đình tôi gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế. Để nuôi sống đàn con, duy trì sự tồn tại của gia đình, tôi đã làm bất cứ việc gì mình có thể như đi đào phế liệu, lên rừng đốn củi, bứt mây,v.v.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:43:52 pm »

CHƯƠNG SÁU

NHỮNG PHÚT TRẢI LÒNG

Mặc dù cuộc sống gia đình luôn trong tình trạng thiếu thốn, con cái nheo nhóc, nhưng lòng nhiệt tình cách mạng của tôi không lúc nào nguôi. Trở về địa phương, tôi không nghỉ hưu theo đúng nghĩa mà tích cực tham gia công tác xã hội. Thực tế, tôi đã có thâm niên 15 năm làm tổ trưởng tổ dân phố, công tác Mặt trận Tổ quốc, Hội Người cao tuổi, câu lạc bộ Thái Phiên, là cựu chiến binh gương mẫu. Ở bất cứ cương vị nào, công việc gì, tôi đều nghĩ rằng mình là bộ đội đặc công, như lời Bác Hồ dạy “là công tác đặc biệt, nhiệm vụ đặc biệt”, nên tôi luôn đặt việc làm của mình là đặc biệt để hoàn thành một cách “đặc biệt”.

Tham gia hoạt động giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ do thành phố Đà Nẵng. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam,v.v. phát động, tôi đã viết nhiều bài ký kể về những trận đánh tiêu biểu của bộ đội đặc công thành phố Đà Nẵng trong các thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu nước đã xuất bản thành sách do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành. Đồng thời, tôi cũng viết nhiều bài thơ để kỷ niệm lưu truyền cho con cháu sau này như: Trường Định quê hương, Thủy Tú quê em, Nước nhà đã hết chiến tranh,v.v, tham gia viết lịch sử một số quận xã phường thuộc thành phố Đà Nẵng. Nhớ những năm tháng ăn trong bom, ngủ trong đạn, nhiều anh em còn nằm lại nơi rừng sâu núi thẳm, tôi đã cùng động đội đi tìm mộ liệt sĩ đưa về nghĩa trang và bàn giao cho gia đình ở miền Bắc.

Suốt cuộc đòi cống hiến cho Đảng, cho cách mạng, tôi không mảy may tính toán một chút riêng tư, kể cả trong quá khứ và hiện tại. Hiện nay, tuổi đời của tôi đã vượt qua ngưỡng thất thập cổ lai hi khá lâu, thời gian còn lại không dài. Ngẫm lại, với 50 tuổi Đảng, cấp bậc trung tá, được khen thưởng 15 huân chương các loại, trong đó có Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Quân công hạng Ba; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Nhì, 3 Huân chương Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang các hạng Nhất, Nhì, Ba; 1 Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì; nhiều bằng khen và một bằng tuyên dương công trạng, tôi thấy thành tích cống hiến của mình còn khiêm tốn, nhưng lòng tôi vẫn cảm thấy thanh thản khi đã sống hết mình cho đất nước, cho quê hương.

Về cuộc sống gia đình riêng, tôi đã hai lần biệt ly hai nửa cuộc đời. Những tưởng hạnh phúc không còn mỉm cười với một người lính đặc công chỉ biết cầm súng chiến đấu cho quê hương. Nhưng chiến tranh đã cướp của tôi hai người vợ thì chiến tranh cũng ban phát cho tôi người con gái thứ ba. Chính người con gái này đã lấp khoảng trống trong trái tim tôi và chính cô ấy đã đem đến cho tôi niềm hạnh phúc vững bền. Sau này, dù trong gian khó tôi vẫn luôn cảm ơn người vợ hiền đã đem cho tôi niềm tin cuộc sống.

Niềm vui đó của tôi được bắt đầu từ năm 1974, khi đất nước đã gần đến ngày thắng lợi trọn vẹn như lời Bác Hồ dạy: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, lúc đó tôi đang làm Quận đội trưởng Quận Nhì, thành phố Đà Nẵng. Trong một lần đi công tác, tôi đã kịp làm quen với cô dân quân biệt động thành Bùi Thị Tánh, một người con gái cùng quê. Tình đồng hương, đồng đội trộn lẫn và trên tất cả là sự cảm thông chia sẻ những mất mát đau thương trong chiến tranh đã đưa hai tâm hồn lại với nhau. Vì vậy, mới gặp nhau vài lần, chúng tôi đã “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Gần kề ngày chiến thắng, tôi quyết định hòa nhập niềm vui chung với vẹn tình riêng nên đặt vấn đề xây dựng gia đình với vợ tôi bây giờ. Người ta bảo hạnh phúc là thiên thần, đối với tôi nó còn kỳ diệu hơn thế khi nhận được cái gật đầu e lệ của cô dân quân xinh đẹp. Tôi trình bày nguyện vọng với tổ chức và được sự đồng ý, liền chọn ngày lành tháng tốt làm lễ kết hôn. Trong hoàn cảnh chiến tranh, vợ chồng tôi được sự giúp đỡ của anh em trong đơn vị Quận Nhì đã tổ chức một lễ cưới trang trọng tại chiến khu cánh bắc Hòa Vang. Mỗi lần kể lại cho các con nghe, tôi vẫn thường gọi đây là “Đám cưới đồng đội”. Vì các đồng chí, đồng đội của chúng tôi đã chung nhau góp sức làm nên một buổi liên hoan ấm cúng mừng hạnh phúc của chúng tôi. Hôm ấy, mọi người đã tổ chức một bữa cơm thân mật, đầy đủ ý nghĩa rồi chia tay nhau ra mặt trận lên đường chiến đấu. Cũng năm đó, niềm vui được làm cha đã đến với tôi khi vợ tôi sinh được cháu trai đầu lòng dưới làn bom đạn địch đánh phá ác liệt, trên chiến khu phía bắc đường Bạch Mã, tức tuyến đường Huế đi Đà Nẵng. Mọi khó khăn vất vả của người mẹ, người cha đều trút lên vai cô ấy. Còn tôi tiếp tục hòa nhập cùng đoàn quân gồm bộ đội địa phương và các binh đoàn chủ lực, pháo binh, xe tăng thiết giáp, chuẩn bị xuất kích hiệp đồng tác chiến ba cánh quân tấn công giải phóng thành phố Đà Nẵng vào ngày 29 tháng 3 năm 1975 lịch sử.

Bây giờ, tuy chiến tranh đã lùi xa nhiều thập niên, nhưng trong trái tim tôi không thể quên được tấm lòng nhân dân đã giúp đỡ bản thân cũng như đơn vị đi đến trọn vẹn cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Đó là mẹ kính yêu của tôi, tức bà Hồ Thị Khoen, còn gọi là mẹ Xiềng ở thôn Hồng Phước - người đã đào 7 căn hầm bí mật trong nhà và ngoài vườn để nuôi giấu cán bộ, bộ đội đặc công trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; được công nhận là gia đình có công với cách mạng và được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Hòa bình lập lại, chị gái tôi tức Trần Thị Xiềng được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Gia đình bà Phạm Thị Dĩ, bà Võ Thị Chinh,v.v. với tôi, những con người như vậy thật bình dị, nhưng cũng cao quý biết bao.

Hạnh phúc gia đình hòa chung với niềm vui của dân tộc. Nhờ sự bảo ban, dạy dỗ của vợ tôi trong những năm tôi còn trong quân ngũ nên hiện nay ba đứa con tôi đều đã trưởng thành. Các con dâu, rể, cháu đều đang tham gia công tác xã hội. Có được cuộc sống hôm nay, tôi biết ơn Đảng, ơn Bác Hồ, cảm ơn nhân dân đã nuôi dưỡng tôi trong suốt hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Đồng thời, tôi cũng luôn ghi nhớ công ơn của những đồng chí đồng đội đã ngã xuống vì nền độc lập của dân tộc, vì cuộc sống bình yên hôm nay. Những người tôi muốn nói đến cuối cùng là các bà vợ. Mỗi người đến với tôi trong một giai đoạn, hoàn cảnh khác nhau, nhưng tất cả họ đều hy sinh vì tôi. Họ chính là phần đời, là máu thịt của tôi. Để có tôi hôm nay là nhờ vào những con người như vậy. Mở rộng ra, tâm sự của tôi với cháu con, thế hệ trẻ chính là sống ở đời hãy biết tri ân, biết hy sinh vì lợi ích của dân tộc, đất nước. Âu cũng là đạo nghĩa truyền thống của dân tộc Việt Nam ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:46:46 pm »

Bài thơ lưu niệm

Nước nhà đã hết chiến tranh
Ghi trang hồi ký để dành mai sau.
Đánh Tây, đánh Mỹ năm nào
Tuổi nay bóng đã chiều tà sớm hôm.
Viết lên trang sử hào hùng
Tả xung hữu đột vô cùng hiểm nguy.
Mình làm rồi lại mình ghi
Để cho con cháu mai sau luận bàn.
Chiến trường tây bắc Hòa Vang
Bao nhiêu trận đánh mình cùng tham gia
Giờ đây trở lại quê nhà
Một thời chinh chiến đã qua đi rồi
Bây giờ ngoài tuổi bảy mươi
Không ham lợi lộc, không màng công danh.
Giờ đây con cháu trưởng thành
Phát huy truyền thống dựng xây cơ đồ.
Lá cờ năm cánh phất cao
Việt Nam anh dũng tự hào đứng lên.
Đây là lời kết sau cùng
Ghi trang hồi ký vang lừng chiến công.

Trường Định quê hương

(Kỷ niệm bộ đội làm công tác dân vận tại thôn Trường Định tháng 10 năm 1967)

Gió đông thổi lòng thêm tê tái
Hận thù nhà không thể ngồi yên
Nhìn về Trường Định quê hương
Làm sao cho khỏi nhớ thương đồng bào
Lên non mới biết non cao
Sống giữa đồng bào mới thấm lòng dân
Chín năm kháng chiến thánh thần
Giờ đây chống Mỹ là dân anh hùng
Bao lần chúng bắt tập trung
Chiêu an, bình định về vùng quan Nam
Nhân dân thề quyết giữ làng
Rào thôn chiến đấu, rào đàng chúng đi
Dòng sông Trường Định xanh rì
Nhiều tên lính Pháp có đi không về
Giờ đây Mỹ, ngụy ê chề
Đã từng ném xác như bè chuối trôi
Chúng không cứu vãn được rồi
Đêm ngày bắn giết để rồi dồn dân
Âm mưu khủng bố tinh thần
Đồng bào cứ giữ một lòng mà thôi
Trồng khoai, cấy lúa xanh tươi
Năm nào cũng đủ mọi người ấm no
Cũng nhờ cách mạng đem cho
Hướng dẫn sản xuất, còn lo học hành
Đồng bào góp sức, góp công
Nào gạo, nào lúa để dành nuôi quân
Nuôi anh cán bộ nằm vùng
Đón anh giải phóng ở rừng về đây
Giúp dân sản xuất, cấy cày
Thắm tình cá nước, bao ngày khó khăn
Mẹ già đôi má nhăn nhăn
Bấm tay từng đốt, mấy năm qua rồi
Các em bé nhỏ vui tươi
Vang ca tiếng hát nụ cười thơ ngây
Cụ già mấy chục năm nay
Trông cho thống nhất đón ngày Bác vô
Các anh, các chị, các cô
Hầm chông, mìn mũi chôn mồ thực dân
Dù cho gian khổ khó khăn
Con thuyền cách mạng buồm căng lên rồi
Cho dù sóng gió ra khơi
Vững tay chèo lái, thuyền bơi đến bờ
Kết đoàn quanh dưới bóng cờ
Không phân đảng phái, nhất tề đứng lên
Lời thề độc lập vững bền
Vì Tổ quốc, hãy đứng lên diệt thù.

Thủy Tú quê em

Tiếng chuông ngân nhà chùa réo rắt
Đêm về khuya ruột thắt từng cơn
Nhìn về Thủy Tú quê em
Bến đò làng cũ đêm đêm vắng người
Các em bé nhỏ xinh tươi
Giờ đây vắng cả nụ cười, tiếng vang
Thôn em có bến đò ngang
Đưa anh bộ đội về làng thủy chung
Thôn em tấp nập, tưng bừng
Mít tinh, hội nghị đón mừng chiến công
Giờ đây làng xóm không còn
Chuối vườn trơ trọi nhận không ra nhà
Quân thù cướp mất dân ta
Chúng dồn dân ở Vạn mà cồn Dâu
Nhân dân sống cảnh khổ đau
Ruộng vườn bỏ hết, sống nhau sao đành
Đêm đêm thức suốt năm canh
Nhớ người cán bộ sao đành nằm im
Giờ đây bến lại xa thuyền
Đi về làng cũ không còn như xưa
Mẹ già tựa cửa sớm trưa
Vườn cau, khóm trúc gió đưa dạt dào
Các anh giải phóng ước ao
Về quê Thủy Tú ghé vào thăm em
Tình duyên chớm nở đôi bên
Quân thù chia cắt quê em đây rồi
Căm thù ứa nghẹn sục sôi
Kết đoàn tranh đấu để rồi về quê
Đón anh giải phóng đi về
Rào làng chiến đấu chống bè ngoại xâm
Quân dân đoàn kết một lòng
Quân thù không thể mà hòng chia đôi
Cho dù bão táp sóng dồi
Vững tay chèo lái, thuyền bơi đến bờ
Sông dài cá lội bơ vơ
Phải duyên tinh nghĩa đợi chờ trăm năm
Nay về Thủy Tú quê em
Bến đò làng cũ đêm đêm vắng người.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM