Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:42:43 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chuyện người con Hồng Phước  (Đọc 4240 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2020, 06:25:30 pm »

Thi thoảng có người tiếc nuối, hay ước mong quê hương; đất nước sớm sạch bóng loài lang sói đã cất lên câu ca trên nghe lẻ loi, ai oán. Trước đây, khi đặt chân lên đây, thực dân Pháp đã biến nơi này thành đồng không, nhà trống. Chúng đã đẩy nhân dân ta vào cảnh màn trời chiếu đất, cực khổ khốn cùng. Nạn đói, ốm đau bệnh tật, chết chóc,v.v. đua nhau tàn phá cái xóm làng yên bình như bức tranh thủy mặc. “Con giun xéo mãi cũng oằn”, lời cha ông nói không có sai. Trước sự tàn bạo của kẻ thù, quân và dân nơi đây đã đứng lên để “đòi cái công lý” mà khi thực dân Pháp mang danh nhà nước bảo hộ từng rêu rao. Một cái kết dành cho mọi kẻ xâm lược trên thế giới đã được định đoạt, âu cũng là cái giá phải trả cho những gì chúng đã gây ra. Phò Nam, Quan Nam trở thành mồ chôn giặc Pháp, cảm phục trước chiến công của những con người chân đất áo vải trên quê hương, tôi đã viết nên mấy dòng thơ đầy cảm kích vừa thể hiện tình cảm của mình, nhưng cũng là lời cảnh báo cho những kẻ đang tâm giày xéo lên hạnh phúc của con người:

Dòng sông Trường Định xanh rì
Nhiều tên lính Pháp có đi không về

Thực dân Pháp rút đi, đế quốc Mỹ nhảy vào tiếp tục dựng lên bộ máy chính quyền bù nhìn tay sai. Bọn tay sai bán nước hại dân đã quên đi đạo lý của dân tộc. Thể hiện lòng trung thành với ông chủ Mỹ, chúng tiến hành dồn dân lập ấp, tuyên truyền rùm beng cái gọi là tự do quốc gia, quốc sách ấp chiến lược, ấp tân sinh, khu trù mật. Âm mưu của chúng lộ rõ là nhằm ngăn chặn phong trào cách mạng trên đà phát triển mạnh mẽ của ba huyện miền núi: Đông Giang, Tây Giang và Nam Giang. Lúc đó, các huyện này đã được giải phóng. Bị thất bại nặng nề trong chiến lược “chiến tranh đơn phương”, để tiếp tục hình thức chiến tranh mới, Mỹ - ngụy đã đẩy quân ra chốt chặn nhiều nơi từ đèo Mũi Trâu nằm ở phía tây nam huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế, theo dọc đường Bạch Mã vào Nam Yên, Phò Nam, Quan Nam, gò Ông Tự, Tùng Sơn, An Ngãi. Đèo Ông Gấm, Cao Sơn, An Lợi... thành vành đai phòng thủ vững chắc tại phía tây và tây bắc Hòa Vang, đây cũng là tuyến phòng thủ từ xa của thành phố Đà Nẵng. Để chia cắt sự liên hệ của nhân dân đối với bộ đội và các lực lượng cách mạng, địch tổ chức dồn dân vào khu tập trung, lập ấp người Phò Nam, Nam Yên, Trường Định, Quan Nam. Tình thế cách mạng vì thế trở nên khó khăn, nhân dân như “cá chậu, chim lồng”, không dễ dàng tiếp tế cho anh em chúng tôi gạo thóc, thuốc men như trước. Cũng trong thời gian này, Ngô Đình Diệm đẻ ra cái quái thai “Luật 10/59” để siết chặt cổ người dân, dìm phong trào cách mạng trên lưỡi lê, máy chém. Hoàn cảnh của quân và dân đã ngặt nghèo càng ngặt nghèo hơn.

Về phía ta, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đơn vị H29 đặc công, đứa con đầu lòng của lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ra đời và trưởng thành, đã lập nhiều chiến công vang dội như chiến thắng Hiệp Đức, Bót Xít, đồn Rô, Ga Lâu... làm nức lòng đồng bào dân tộc miền núi. Chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của cấp trên, đẩy mạnh diệt ác phá kềm, hỗ trợ nhân dân nổi dậy chống dồn dân, mở rộng vùng giải phóng đến nông thôn, đồng bằng, đơn vị chúng tôi nhận nhiệm vụ tiêu diệt địch ở đồn Phò Nam. Đây là một đồn có vị trí quan trọng về chiến lược quân sự, nó khống chế một vùng rộng lớn phía tây bắc Hòa Vang.

Lãnh đạo, chỉ huy Đơn vị H29 lúc bấy giờ là các anh Phan Hồng Dâng, Hồ Sỹ Tỵ, Lê Tung, Nguyễn Thanh Thủy. Trước khi thực hành tiêu diệt cứ điểm Phò Nam, H29 được phối thuộc một trung đội trinh sát và quân báo do tôi chỉ huy và một trung đội bộ binh thuộc Đơn vị H30, do anh Đỗ Châu Sa phụ trách. Tham gia trận đánh, về phía chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam - Đà Nẵng có anh Trần Tốc, Chính trị viên, và anh Đặng Đình Vân cùng đi lãnh đạo, chỉ đạo.

Tôi 25 tháng 11 năm 1961, đơn vị chúng tôi làm lễ xuất quân từ thượng nguồn sông Voi, là một nhánh của sông A Vương, đi về hướng bắc huyện Hòa Vang. Dọc đường, chúng tôi hành quân đến đâu cũng được đồng bào dân tộc K’tu dẫn đường, ủng hộ lương thực mang theo, mặc dù lúc ấy đời sống của đồng bào còn khó khăn, thiếu thốn đủ thứ như “thiếu cơm hụt muối”. Trong giai đoạn Mỹ - Diệm kìm kẹp, dùng những thủ đoạn xảo quyệt mị dân, mua chuộc, dụ dỗ,... nhưng đồng bào vẫn một lòng một dạ theo Đảng, Bác Hồ, không ai theo giặc làm tay sai cho chúng. Nhiều câu chuyện xúc động về đồng bào K’tu đã làm không ít người rơi nước mắt cảm động. Những ai từng sống trong những ngày đói khổ, địch càn quét liên miên thì làm sao có thể quên được câu chuyện người K’tu còn nghèo, còn khổ, thiếu thốn quần áo, phải đóng khố, phát rừng làm rẫy, nhưng thu hoạch lúa rẫy mỗi năm một hộ được 50 gùi thì ủng hộ cách mạng 30 gùi. Bữa ăn hằng ngày của đồng bào là sắn, bắp, rau rừng, còn gạo để dành nuôi bộ đội đánh Mỹ - ngụy. Tình thương vô bờ bến của đồng bào K’tu dành cho bộ đội được đúc kết một cách thật giản dị, chân thành qua câu nói: “Mình thương hắn như thương con đẻ của mình”. Trên đường hành quân, nghe những câu chuyện như vậy tôi thấy ấm lòng biết bao. Dù chiến tranh tàn khốc đến đâu, điều kiện chiến đấu ác liệt như thế nào, nếu được đồng bào chở che, nuôi dưỡng thì bất chấp thủ đoạn nào của giặc, chúng tôi luôn là người chiến thắng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2020, 06:26:53 pm »

Sau ba ngày hành quân băng rừng, lội suối, chúng tôi đã hành quân từ Đông Giang ra Giàn Bí, Dốc Quạt và về đến Ba Viên vào ngày 28 tháng 11 năm 1961. Trên cương vị Đội trưởng Quân báo trinh sát đặc công của tỉnh đội Quảng Nam Đà Nẵng, tôi được phân công đi liên hệ với địa phương, các cơ sở mật để nắm lại tình hình. Đoàn công tác tiền trạm gồm có tôi, Phan Hồng Dâng và Nguyễn Thanh Thủy là Chính trị viên phó Đại đội 29. Chúng tôi đã gặp anh Ba Thế - Bí thư Huyện ủy Hòa Vang, anh Hùng - Phó Bí thư đứng cánh bắc Hòa Vang, chị Hai Cưu (tức Phạm Thị Cưu) và anh Hoàng. Những người lính đặc công một thời sát cảnh cùng Huyện ủy Hòa Vang đi công tác phong trào nay được gặp lại các anh, chị, ai cũng mừng mừng tủi tủi. Mọi người ân cần đón tiếp anh êm tôi như những đứa em đi xa mới về. Chúng tôi tiếp tục được các anh, các chị cung cấp thêm thông tin về tình hình địch từ cơ sở và nhân dân địa phương báo về như: quân số, chỉ huy, vũ khí và hệ thống phòng thủ của địch. Trên cơ sở đó, kết hợp với kết quả trinh sát thực địa, các đồng chí chỉ huy trận đánh đã kịp thời bổ sung vào phương án chiến đấu để đảm bảo chắc thắng”.

Bên lề cuộc vui hội ngộ, trao đổi tình hình nhiệm vụ, anh Ba Thế không quên hỏi thăm cuộc sống riêng của gia đình tôi, hỏi về tình cảm của tôi và cô du kích Trần Thị Bán, người con gái được anh xe duyên. Chuyện tình của tôi được bắt đầu từ khi Thành ủy Đà Nẵng phân công tổ trinh sát đặc công đi công tác phong trào cùng Huyện ủy Hòa Vang, do anh Ba Thế, Huyện ủy viên, phụ trách. Nhiệm vụ của chúng tôi là xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng trung du và vùng ven đô thị để nắm địch phục vụ chiến đấu, phá ấp chiến lược, diệt ác phá kìm, giành dân giữ đất. Một hôm, tôi cùng các đồng chí trong đơn vị đi công tác xuống đồng bằng. Cán bộ địa phương đã bố trí du kích dẫn đường và đảm bảo cơm ăn, nước uống. Ban đêm, chúng tôi được bố trí nghỉ lại chiến khu Lỗ Trào, Đá Hang. Sáng hôm sau, vào khoảng 10 giờ, có một đoàn người cơ sở gánh gồng gạo, mắm đem lên. Đoàn cán bộ đi công tác phong trào vô cùng cảm ơn tình cảm của nhân dân và tổ chức tiếp đón nồng nhiệt. Tôi bất ngờ phát hiện trong đoàn có cô du kích Trần Thị Bán, là người dẫn đường cho chúng tôi đêm hôm trước. Từ đó, tôi và Bán trở nên thân thiết. Nhiều lần cùng xẻ núi luồn rừng đi xây dựng cơ sở, tôi tâm sự với em những trầm luân của cuộc đời mình đã trải qua. Bán cũng không ngại ngần khi kể cho tôi nghe về cuộc sống riêng tư. Những câu chuyện như vậy đã làm cho đường đi của chúng tôi bớt đi phần khó nhọc, nói cách khác là làm dịu đi sức nóng của cuộc chiến. Đồng thời, tôi cũng có cảm giác mơ hồ một thứ tình cảm đặc biệt dành cho em đang len lỏi trong trái tim. Vì thế, dù biết rằng đi xuống đồng bằng không may gặp địch là có thể hy sinh, tù đày.v.v., nhưng tôi vẫn mong thường xuyên có nhiều chuyến đi để được gần gũi “cô du kích nhỏ”. Có lẽ Bán cũng có tâm trạng giống tôi nên mỗi lần đi bên nhau tôi thấy em rất vui. Không biết do anh em đồn đại hay trực tiếp tìm hiểu mà anh Ba Thế biết chuyện tôi và Bán có ý quyến luyến nhau. Anh đã nhiều lần chủ động tâm sự với tôi: “Cuộc kháng chiến còn dài. Nếu cậu đồng ý xây dựng với cô Bán thì tôi rút lên cho đi bộ đội”. Lúc đầu, tôi cũng còn e ngại vì mình dẫu gì cũng đã một đời vợ. Sau đó, tôi về ngẫm nghĩ: “Chiến tranh đã khiến tôi biệt ly người vợ thứ nhất. Không lẽ cũng chiến tranh đem đến cho tôi người kế tiếp?”. Tôi thăm dò tình cảm của Bán. Dường như anh Ba Thế đã nói hết với cô ấy nên em đã nhận lời cầu hôn của tôi nhanh chóng. Được sự đồng ý của tổ chức và hai bên gia đình, chúng tôi quyết định tổ chức kết hôn. Hôm vợ chồng tôi làm đám cưới, không quà tặng, không rước dâu, không ồn ào nghi lễ. Trên chiếc bàn dài của đơn vị, chỉ có bình nước trà, bao thuốc lá và gói kẹo. Số người tham dự, chứng kiến hạnh phúc lứa đôi của chúng tôi cũng ít ỏi. Tính đại diện cả hai cơ quan đơn vị vừa đúng 7 người. Nhưng không vì thế mà đám cưới bớt đi phần vui vẻ, đầm ấm và hạnh phúc. Vợ chồng tôi say mê trong lời chúc mừng của anh em, đồng chí đồng đội. Mọi người đều tin rằng, chiến tranh dù ác liệt đến đâu cũng không thể tiêu diệt được mầm hạnh phúc. Tôi và Bán hứa với anh em bầu bạn khi đất nước thống nhất sẽ tổ chức cưới lại cho bõ những ngày gian lao. Bây giờ được “ông mai” quan tâm, tôi vui vẻ báo cáo về những tháng ngày hạnh phúc vừa qua. Anh Ba Thế cười lớn: “Ông tơ này cũng biết xe chỉ đấy chứ”. Mọi người nghe vậy cũng cười vui làm vơi bớt vẻ căng thẳng trước khi bước vào trận đánh đồn Phò Nam.

Khoảng 17 giờ hôm ấy, bộ đội ta bắt đầu thực hành tiếp cận mục tiêu. Đến vị trí tạm dừng cách đồn địch chừng 500 mét, chúng tôi đứng trên đồi cao quan sát. Bao nhiêu lô cốt lù lù của địch đều lộ ra, đập vào mắt cán bộ, chiến sĩ rõ mồn một. Lúc đó, có hai toán quân từ hướng cầu Sụp lần lượt kéo về đồn. Như mọi trận đánh trước, công tác chuẩn bị chiến trường được chỉ huy đơn vị tổ chức chặt chẽ, nhất là công tác điều tra. Quá trình điều tra đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí Đặng Đình Vân và Trần Tốc. Tôi cùng với đồng chí Dâng, đồng chí Thủy thực hành đột nhập vào hướng đông nam nắm tình hình địch. Khó khăn ở hướng này là đồn đóng gần núi, nằm trên trục đường Bạch Mã Đà Nẵng - Huế, Đà Nẵng và Tây Nguyên, đây cũng là hướng trên núi xuống nên địch hay để ý. Đêm đầu, chúng tôi vào hết bốn lớp rào đến chiến hào an toàn, sau đó lùi ra. Hôm đó, đồng chí Tốc, đồng chí Vân đi cùng, nhưng nằm ở ngoài hàng rào. Chúng tôi bò ra báo cáo với các đồng chí đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngày hôm sau, tổ điều tra trở về vị trí tạm trú để vẽ sơ đồ. Đêm thứ hai, chúng tôi cũng vào đến vị trí đêm đầu để so sánh đối chiếu sơ đồ với thực địa và đến đêm thứ ba thì kiểm tra lần cuối xem địch có thay đổi gì không. Vì thế, khi đơn vị hành quân chiến đấu, dựa trên kết quả điều tra và thông báo của các anh cán bộ địa phương, chúng tôi được biết lực lượng địch nơi đây gồm một đại đội lính bảo an do tên thiếu úy Nguyễn Thông K chỉ huy. Vũ khí trang bị gồm có 5 trung liên và còn lại là ga-răng, các-bin, súng trường, lựu đạn, một máy PRC10. Thực chất, đồn Phò Nam có từ thời chống Pháp; đến thời Mỹ - Diệm, chúng xây thành đắp lũy kiên cố hơn, nằm trên trục đường Bạch Mã, một con đường quân sự chiến lược được nối từ nam Khe Tre ở phía tây huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế, kéo qua sông Bắc, sông Nam, Phò Nam, Quan Nam, ngã ba Tùng Sơn An Ngãi rồi chạy xuống thành phố Đà Nẵng. Năm 1961, khi làm xong con đường này, Ngô Đình Diệm đi kinh lý cắt băng khánh thành. Bọn quan chức địa phương đã bắt nhân dân đứng hai bên đường cầm cờ ba que hô vang: “Tống thống Việt Nam cộng hòa muôn năm”, có cả may bay, xe tăng, binh lính hộ tống từ Thừa Thiên - Huế vào Đà Nẵng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2020, 06:28:32 pm »

Sau khi quan sát kỹ địa thế, tình hình bố phòng của địch, ban chỉ huy kịp thời bổ sung và nhắc lại phương án hiệp đồng chiến đấu, hạ quyết tâm “đánh chắc, thắng chắc”, thống nhất khẩu lệnh, tín hiệu, các hướng xác định, vị trí từng mũi, theo giờ G nổ súng.

Mũi 1: các anh Lê Tân Viễn và Nguyễn Thanh Thủy trực tiếp chỉ huy đánh vào 2 lô cốt phía tây và hai nhà lính.

Mũi 2: Anh Phan Hồng Dâng và tôi trực tiếp chỉ huy đánh vào 2 lô cốt, các nhà lính phía đông và nhà chỉ huy.

Mũi 3: gồm các anh Tiến Râu, Thanh Ngọc, Lâm Liêm và Hồng đánh vào lô cốt dộc lập phía bắc đường Bạch Mã. Anh Trần Tốc, Đặng Đình Vân trực tiếp chỉ huy đi cùng.

Chỉ huy các bộ phận nhanh chóng về triển khai cho lực lượng của mình. Lúc này, những chiếc kim đồng hồ như nặng nề hơn, nhích chậm chạp từng tí một. Là người chỉ huy từng kinh qua trận mạc, tôi không nôn nóng nhưng cũng không tránh khỏi sự hồi hộp. Chỉ sau mấy tiếng đồng hồ nữa, đồn Phò Nam như cái gai trong mắt của bộ đội, nhân dân nơi đây sẽ bị chúng tôi nhổ đi. Nhưng cũng chỉ mấy tiếng đồng hồ nữa thôi, trong số đồng đội của tôi liệu có ai nằm xuống hòa vào lòng đất mẹ để đất nước sớm bình yên.

Thời gian chờ đợi cũng qua đi. Đúng 23 giờ, chúng tôi bắt đầu tiềm nhập, tiếp cận chuẩn bị cắt hàng rào, rà mìn để lót đội hình. Theo phương án chiến đấu, tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy bộ phận của mình đánh vào lô cốt phía nam và nhà lính. Khi các mũi đang thuận lợi phát triển đội hình thì bất ngờ gặp lính địch đi tuần có dẫn chó theo. Con chó đánh hơi, sủa ăng ẳng. Trước tình huống oái oăm đó, anh em đành phải lùi ra ngoài hàng rào chừng 20 mét nằm chờ. Trong đồn, địch sinh nghi đã bắn pháo sáng báo động. Bọn lính từ trong các nhà bạt chạy ra ngoài hào chiến đấu và bắn hú họa về hướng chó sủa. Đến 0 giờ, địch vẫn không thấy động tĩnh gì, chúng cho rằng chó sủa là cọp, beo hay heo rừng đi kiếm ăn. Vì đồn này nằm sát chân núi lớn, toàn cây cối rậm rạp và lau lách là nơi trú ngụ của nhiều loài chim, thú. Bầu không khí căng thẳng bỗng chốc bao trùm lên trận địa. Địch thì cố căng mắt nhìn vào bóng đêm, ta thì kiên trì mai phục. Sự giằng co của hai bên là cơ hội tốt nhất để bầy muỗi rừng kiếm ăn. Chúng tha hồ bay vo ve và đậu bất cứ chỗ nào phát hiện có mùi máu. Chúng tôi vẫn nằm im lìm, mắt căng ra theo dõi động tĩnh của địch. Nhiều tên lính đã bắt đầu có biểu hiện ngứa ngáy, có tên còn làu bàu cái gì đó. Tôi đoán chắc chúng đang trách bọn chỉ huy thần hồn nát thần tính, bắt lính ra canh thú rừng. Khoảng 1 giờ ngày 28 tháng 11, bọn lính ở ngoài hào chiến đấu lục tục kéo nhau vào nhà bạt ngủ để tránh muỗi đốt. Chớp thời cơ, chỉ huy trận đánh và các mũi chớp nhoáng hội ý nhận định: “Ta thực hiện phương án hai lúc này có nhiều yếu tố bất ngờ. Vì địch sơ hở, chủ quan. Chúng bị mất ngủ, mệt mỏi và cho rằng khu vực này là an toàn, quân giải phóng không dám tấn công nữa”. Đây là thời cơ và điều kiện thuận lợi để ta hạ quyết tâm tiêu diệt địch. Sau đó, các mũi tiếp tục cắt rào, bí mật cơ động vào đồn địch. Hết lớp rào thứ hai, chúng tôi nhảy xuống hào áp sát gần các lô cốt, nằm ép mình để che khuất quầng sáng của pháo sáng do địch bắn lên khi đi tuần. 1 giờ 30 phút, toàn trận địa vẫn tĩnh lặng như tờ. Lũ muỗi rừng cũng hết kiên nhẫn để bám theo các chiến sĩ quân giải phóng đang chờ thời cơ để tiêu diệt quân thù. Ở mũi phía tây, do đồng chí Tấn Viễn chỉ huy, đã ra lệnh cho tổ trưởng Nhỏ dùng quả thủ pháo nặng một cân thuốc nổ vọt lên khỏi hào và lao về phía lô cốt địch, đồng thời giật nụ xòe đút nhanh vào lỗ châu mai. Ngay lập tức một chớp lửa xanh lè và tiếng nổ long trời lở đất vang lên làm rung chuyển không gian yên tĩnh của núi rừng. Đây là lô cốt đầu tiên của địch bị tiêu diệt, cũng là hiệu lệnh để các tiếng nổ dữ dội khác tiếp tục chôn vùi lực lượng địch ở các lô cốt phía đông, phía bắc trong đống bê tông đổ nát. Nghe tiếng nổ, tôi ra lệnh cho tổ viên của mình nhảy lên đánh chiếm lô cốt bằng cách ném thủ pháo, lựu đạn vào lỗ châu mai, sau đó phát triển chiến đấu đến các nhà lính. Bị đánh bất ngờ lại đang trong trạng thái mỏi mệt nên địch nhanh chóng bị thất thủ. Trong khi tảo trừ bọn sống sót, tôi bắt được 3 tên lính bị thương nhưng giả chết, hai tay vẫn ôm khư khư hai quả lựu đạn liền thu lựu đạn và bắt chúng đứng dậy dồn ra sân đồn giao cho anh em quản lý. Tôi quay lại nhà bếp, bắt gặp tên lính nấu cơm ôm khẩu súng ngồi trên bếp run cầm cập. Biết nó đang hoảng sợ, tôi hô đứng dậy, thu khẩu súng và hỏi:

- Mày làm gì mà núp ở đây?

- Dạ! Em là người nấu bếp, sợ quá nên núp vào đây. Tên lính trả lời.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2020, 06:30:09 pm »

Tôi tước luôn khẩu súng, trói lại, đồng thời dồn tên lính vào trước sân đồn. Theo thông báo của chỉ huy trận đánh, sau gần mười phút chiến đấu, thế trận hoàn toàn thuộc về ta, quân địch trong đồn phần lớn đã bị tiêu diệt. Biết địch không còn khả năng kháng cự, chúng tôi bắc loa tay gọi hàng: “Đầu hàng thì sống, chống cự thì chết”. Lúc ấy, trước mắt chúng tôi, quân địch chết và bị thương nằm la liệt. Không nghe tiếng địch chống cự, bộ đội ta ngừng nổ súng. Từ trong các góc, hầm trú ẩn, nhiều tên lính đưa hai tay lên cao, buông vũ khí xin đầu hàng. Trước khi vào trận, đơn vị chưa dự kiến hết tình huống thắng lợi giòn giã như vậy nên không chuẩn bị đủ dây trói, đành phải trói hai tên làm một. Hai mũi tiến công phát tín hiệu, khẩu lệnh gặp nhau giữa sân đồn. Trong lòng chúng tôi ngập tràn cảm giác sung sướng của người chiến thắng. Kết quả trận đánh, quân ta chỉ có một đồng chí bị thương. Chiến thắng trên càng làm cho anh em chúng tôi vui mừng hả dạ. Riêng mũi 3 đánh lô cốt độc lập ra phía bắc, cũng diệt gọn lô cốt và thu toàn bộ vũ khí, trong đó có một khẩu trung liên.

Thế là chỉ gần một giờ chiến đấu, đồn Phò Nam bị quân ta xóa sổ. Chúng tôi bắt tù binh, thu vũ khí, quân trang quân dụng, đạn dược, thuốc men.v.v. và thực hành lui quân. Trong số chiến lợi phẩm có 5 khẩu súng trung liên, còn lại là tôm-xông, các-bin, ca-rân, súng trường và một máy PRC10. Số địch bị bắt làm tù binh lên tới 15 tên, trong đó có thiếu úy Nguyễn Thông K bị thương gãy chân. Bộ đội tổ chức băng bó cho đồng chí thương binh của mình và cả số lính địch bị thương. Cán bộ ta tuyên truyền, giáo dục và phóng thích tại chỗ 14 tù binh. Trong khi đó, Trung đội bộ binh H30, do anh Đỗ Châu Sa chỉ huy, được lệnh phối hợp chiến đấu, đã tổ chức phục kích quân địch tiếp viện trên đường Bạch Mã, khi chúng từ đồn Quan Nam sang ứng cứu. Song địch đã đi hướng khác nên ta đành phải lui quân.

Khoảng 5 giờ sáng, sau khi thu dọn toàn bộ chiến trường, đơn vị tổ chức lui quân. Chúng tôi dẫn một tên lính bị bắt về trại địch vận là trung sĩ Vũ N, là dân miền Bắc di cư vào miền Nam năm 1954. N tỏ ra biết có tội với cách mạng và nhân dân. N ra vẻ ăn năn hối cải, như muốn làm một việc gì đó để chuộc tội. Vì thế, dù tay bị trói, nhưng anh ta vẫn xin mang giúp chiến lợi phẩm. Thấy thế, chúng tôi đã nói đùa với nhau tên tù binh này ngoan ngoãn. Sau 3 tháng học tập, cải tạo tại trại, ta phóng thích số tù binh về lại đồng bằng, nhưng N đã xin ở lại theo cách mạng, làm bất cứ việc gì cách mạng giao cho. Tôi cũng đã có dịp gặp lại anh ấy vào dịp cuối năm 1962, khi chúng tôi đi giữ lúa ở làng Lừng của đồng bào K’tu. Tôi giật mình hỏi ra mới biết N phụ trách tiểu đội sản xuất, chuyên phát rừng làm rẫy và đi gùi hàng cho cơ quan sản xuất của tỉnh.

Sau trận đánh đồn Phò Nam của bộ đội đặc công, bọn dân vệ ở các thôn ấp: Nam Yên, Phò Nam, Trường Định, Thủy Tú và Quan Nam đã khiếp sợ bỏ súng về nhà. Số khác bỏ nhà vào thành phố lao động kiếm sống vì họ tin chắc cách mạng sẽ thắng lợi. Thông tin về chiến thắng Phò Nam đã được nhân dân truyền miệng lan nhanh từ miền núi đến đồng bằng, đi vào thành thị. Tài xuất quỷ nhập thần của bộ đội ta đã khiến địch ở các nơi hoang mang dao động mạnh, thậm chí một số nơi khác còn co cụm về đồng bằng. Sự khát khao, mong mỏi, chờ đợi của người dân huyện Hòa Vang bấy lâu nay được khơi dậy. Ta có chủ trương đánh địch bằng 3 hình thức phối hợp là quân sự, chính trị và binh vận đã làm cho địch mỗi ngày một suy yếu và tan rã. Từ đó, các đội vũ trang tuyên truyền của huyện Hòa Vang hỗ trợ cùng với nhân dân đứng lên phá ấp trở về làng cũ làm ăn, xây dựng làng chiến đấu và chính quyền cách mạng. Lúc này, ban tự quản ở các thôn ấp tiến hành xây dựng lực lượng du kích chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Chúng tôi sau một tuần chiến đấu, trở về căn cứ, đơn vị tổ chức sinh hoạt bình công, mừng chiến thắng và rút kinh nghiệm trong chiến đấu, phối hợp tác chiến. Dẫu có người được phát biểu ý kiến, có người không, nhưng trong lòng mỗi chúng tôi đều chung ý nghĩ thầm cảm ơn những người cha, người mẹ, người anh, người chị dân tộc K’tu đã tuy bao đời chịu đựng gian khổ, nhưng rất giàu lòng nhiệt tình cách mạng. Đặc biệt là đồng bào ở ba thôn Giàn Bí, Lồ Ô và Tà Lang. Đây là những thôn nằm dọc theo đường Bạch Mã (nay là xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng). Sau này khi hòa bình lập lại, xã Hòa Bắc đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Bây giờ, mỗi khi nhớ lại hay gặp lại đồng đội năm xưa tay bắt, mặt mừng, tôi lại trào lên cảm giác trân trọng những con người đã một thời hiến trọn tuổi thanh xuân cho cuộc trường chinh của đất nước, với sức chịu đựng bền chặt mà nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Hai mươi năm không đêm nào ngủ được” hay: “Vạn ngày có buổi nào yên/Cá ăn phải máu, chim quên lối về”. Với những dòng hồi ký muộn màng, tôi xin được thay nén hương để tưởng nhớ tới các anh: Đào Ngọc Chua, Ba Thế, Đặng Đình Vân và bao đồng bào, đồng chí đã nằm yên trên đất mẹ Hòa Vang anh dũng. Sự hy sinh cao cả của các anh đã để lại cho chúng tôi và thế hệ mai sau tiếp bước xây dựng quê hương giàu đẹp. Tổ quốc muôn đời sẽ không bao giờ quên công ơn của các anh. Tôi tự nhủ nếu mình còn sống để đi hết cuộc chiến thì sẽ làm một cái gì đó để góp phần giáo dục cho thế hệ sau hiểu được những gì thế hệ chúng tôi đã cống hiến cho đất nước và tôi đã bắt đầu viết lại những gì mình đã làm, được chứng kiến ngay sau khi kết thúc chiến tranh. Có lẽ mong ước ấy sẽ trở thành hiện thực khi những trang viết này đến tay bạn đọc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2020, 06:33:34 pm »

Trở lại những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, năm 1961, tôi được triệu tập về tham gia thành lập đội tình báo, dưới sự chỉ đạo của Thành ủy Đà Nẵng. Nhiệm vụ chủ yếu của Đội là theo dõi nắm địch, xây dựng cơ sở nội thành, xây dựng lực lượng giao liên biệt động thành và du kích mật và nắm tình hình địch phục vụ chiến đấu. Trong chiến tranh, người lính có thể gặp nhiều tình huống bất ngờ như đụng địch phục kích, cơ sở bị lộ, gặp thú dữ,v.v, nếu sơ suất hoặc không nhanh trí thì khả năng tổn thất là khó tránh khỏi. Đối với tôi, đụng địch là chuyện bình thường, nhưng hai lần chạm trán chúa sơn lâm đã trở thành những kỷ niệm khó phai. Lần thứ nhất xảy ra trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp, tôi đã kể ở trên. Còn lần thứ hai tôi lại gặp hổ trong dịp đi mua lương thực. Đó là một ngày trung tuần tháng 8 năm 1962, tôi lúc ấy là Trung đội trưởng đang cùng với các chiến sĩ trinh sát đặc công gồm Hồng Râu, Lâm, Thư và Vấn đi công tác đồng bằng mua lương thực. Hoàng hôn buông xuống, đường về khó khăn hiểm trở. Mỗi người gùi 3 ang gạo, đồ dùng cá nhân và súng đạn, tổng trọng lượng khoảng 35 đến 40 cân. Từ chân dốc lên đến đỉnh phải đi mất bốn tiếng đồng hồ, chúng tôi động viên nhau cố gắng đi lên trước khi trời tối, vì con đường này thỉnh thoảng có biệt kích hay đi tìm dấu vết cộng sản. Lúc này, tôi đi sau đội hình khoảng từ 15 đến 20 mét. Bất ngờ, từ bên vách ta luy núi, một con cọp vằn vện to như con ngựa xuất hiện. Nó đứng cách tôi khoảng hai mét. Cọp gầm lên một tiếng như xé trời đêm, âm thanh rung chuyển cả núi rừng. Vừa ngẩng đầu lên, không kịp suy nghĩ, tôi nhanh chóng bật khóa an toàn khẩu súng AK treo trước ngực và chĩa nòng súng vào họng cọp siết cò. Loạt đạn tiểu liên đã kết liễu đời con ác thú. Bây giờ, mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn có cảm giác ớn lạnh khi đối diện với chúa sơn lâm.

Tôi tham gia lực lượng tình báo từ năm 1961 đến hết năm 1963. Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian này, địch tập trung đánh phá ác liệt phong trào cách mạng của quân và dân ta. Quân đội Mỹ - ngụy tăng cường đóng đồn bốt dày đặc, tổ chức khủng bố nhân dân, bao vây cấm vận thường xuyên, nhất là các làng thuộc vùng ven đô. Tôi cùng các đồng chí Đặng Ngọc Phương, Võ Thanh Hùng (Phó Bí thư Quận Nhì) bí mật nhận nhiệm vụ cấp trên giao vào thành phố xây dựng cơ sở cách mạng, nắm địch, diệt ác phá kềm, xây dựng lực lượng chính trị trong dân và xây dựng các chi bộ Đảng ở cơ sở. Khi vào đứng chân ở những khu phố có mật độ địch đóng quân dày đặc như Thanh Khê 6, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà và Tam Thuận. Để nắm được tình hình, ta phải đột nhập vào tận doanh trại của chúng. Nhưng quân địch đông, thỉnh thoảng bị biệt động thành, bộ đội đặc công “choảng” cho một trận nên chúng rất cảnh giác. Vì thế, chúng tôi phải cải trang khi thì làm lính ngụy, lúc lại là thanh niên làm nghề đánh cá biển. Vào một buổi chiều, bọn lính đồn Thanh Khê tổ chức thi đấu bóng chuyền. Tôi nhận thấy đây là cơ hội tốt để mình trà trộn vào điều tra. Bản thân vốn là một cầu thủ nên tôi lẫn lộn vào đánh mà không ai có thể phát hiện được. Tôi đứng ở vị trí cầu chuyền 2, nêu cho tên lính đập. Những quả chơi bóng cao tay của tôi được tung lên như đặt vào tay cầu công. Mọi người đứng xem vỗ tay nhiệt liệt. Bên có tôi tham gia đã thắng liền 3 hiệp. Lúc nghỉ giải lao, biết nếu ở thêm có thể bị lộ nên tôi lặng lẽ rút êm. Bọn chúng không hề hay biết. Tôi vừa về đến nhà cơ sở, đồng chí Phương đồng chí Hùng vỗ vai tôi khen ngợi:

- Khen cho ông Ngôn không bao giờ sợ địch.

- Nếu sợ địch thi linh đặc công không bao giờ đánh được địch. Tôi pha trò.

Tối hôm đó, chúng tôi tiếp tục theo cơ sở địa phương dẫn đường đi điều tra mâm hội đồng quán cơm ngụy và trung đội địa phương quân đóng ở đồn Phú Lộc.

Một thời gian sau, Thành đội Đà Nẵng rút tôi về xây dựng một trung đội trinh sát đặc công với đội công tác bảo vệ thành ủy, có địa bàn hoạt động ở cánh trung và cánh bắc Quận Nhì. Chúng tôi trực tiếp xây dựng cơ sở đặc công, biệt động thành, tham gia đánh tề, diệt ác ôn, đào hầm bí mật ở vùng ven và đô thị.v.v. Năm 1965 đối với tôi có khá nhiều kỷ niệm về công việc cũng như chuyện gia đình. Trong đó, ngày 16 tháng 3, vợ tôi sinh đứa con gái đầu lòng tại thôn Nam Yên, nơi được mệnh danh là chiếc nôi cách mạng. Khi con mở mắt chào đời, tai nghe bom nổ giật mình đã khóc ré lên hoảng hốt. Trong thời gian này, lính Mỹ đi càn quét liên tục. Vì thế, tôi phải nhờ đồng đội đưa vợ con lên vùng dân tộc K’tu ở thôn Tà Lang, Giàn Bí tạm trú một thời gian. Nhờ có sự cưu mang, giúp đỡ của bà con dân tộc, mẹ con cô ấy vẫn bình yên. Về sau bom đạn ác liệt quá, tôi lại chuyển vợ con vào vùng B Đại Lộc để tiếp tục đi công tác. Khi con gái chưa tròn một tuổi, vợ chồng tôi đã gửi về cho ông bà nội nuôi dưỡng. Vợ tôi trở lại với công việc của người lính quân y. Cũng trong năm 1965, một lần lính Mỹ đi càn quét bắt nhân dân đưa vào ấp chiến lược để thanh lọc, vợ tôi đã bị chúng giam ở nhà lao Hội An.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2020, 06:34:33 pm »

Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phải có một tiểu đoàn hậu cứ (của Thành đội Đà Nẵng) để làm nhiệm vụ chuyên trách đánh sân bay, bến cảng, kho hàng, cơ quan đầu não, trận địa tên lửa và pháo binh, kho xăng dầu, bom đạn của địch; thực hiện chủ trương của Thành ủy và Thành đội Đà Nẵng, ngày mùng 5 tháng 11 năm 1965, Tiểu đoàn Đặc công 89 được thành lập; tôi có quyết định làm Đại đội phó. Sau một thời gian ngắn, cấp trên bổ nhiệm tôi làm Đại đội trưởng Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn Đặc công 89 của Thành đội Đà Nẵng.

Nhận nhiệm vụ mới chưa được bao lâu, vào tháng 5 năm 1966, tôi được phân công trực tiếp đi điều tra trận địa pháo binh Mỹ tại Thanh Vinh và báo cáo cấp trên phê duyệt phương án. Tình hình chung trên chiến trường miền Nam lúc bấy giờ, cuộc tiến công Đông Xuân (1964-1965) và Hè Thu 1965, đỉnh cao là các chiến thắng Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài đã làm làm cho chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ bị phá sản, kế hoạch Giôn-xơn - Mắc Na-ma-ra bị thất bại. Các đòn tiến công vối sức mạnh của ba thứ quân kết hợp với phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng đã đánh bại quân ngụy trên khắp chiến trường miền Nam, đẩy chính quyền Sài Gòn ngày càng lún sâu vào cuộc khủng hoảng. Giữa mùa hè năm 1965, mặc dù Mỹ đã từng bước đẩy cuộc “chiến tranh đặc biệt” lên tới đỉnh cao, vượt quá mức dự kiến ban đầu, nhưng mọi sự cố gắng đều rơi vào vô vọng và chịu sự thất bại nặng nề. Nhằm cứu vãn sự thất bại của “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ buộc phải đưa quân Mỹ vào để tiến hành “chiến tranh cục bộ”. Ngày 8 tháng 3 năm 1965, hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ của Mỹ chính thức đặt chân lên thành phố Đà Nẵng. Đây là những đơn vị chiến đấu của Mỹ đầu tiên đến Việt Nam, một biểu hiện của sự thất bại hiện hữu của “chiến tranh đặc biệt”. Chúng đã lập ra nhiều căn cứ quân sự, trong đó có căn cứ pháo binh Thanh Vinh, là nơi tập trung nhiều pháo lớn, ngày đêm bắn phá vùng giải phóng của ta, gây ra nhiều tội ác với nhân dân, đặc biệt ở Quảng Nam - Đà Nẵng. Để chặn đứng bàn tay tàn bạo của kẻ thù, quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng phải đánh phủ đầu, tiếp sức với các chiến trường trên toàn miền Nam, bằng mọi giá phải phá hủy căn cứ này nhằm tiêu hao sinh lực của chúng. Nhiệm vụ nặng nề, nhưng vô cùng vinh quang được cấp trên giao cho Đại đội 1, Tiểu đoàn Đặc công 89, là đơn vị mới được thành lập ngày mùng 5 tháng 11 năm 1965, thực hiện.

Nhận nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường và trực tiếp chỉ huy trận đánh, tôi không khỏi băn khoăn, hồi hộp. Tôi tự nhủ, mình phải phấn đấu sao cho xứng đáng với sự tin cậy của cấp trên. Cách đánh đặc công thì mình cũng đã được học và cũng từng kinh qua nhiều trận. Song đây là trận đầu tiên tập kích vào trận địa pháo binh Mỹ, liệu mình phải tổ chức đánh như thế nào để trước hết diệt gọn quân địch, ít tổn thất cho ta. Với hỏa lực và lực lượng hùng hậu của địch, chỉ cần có cơ hội phản kích là chúng có thể đẩy lui hoàn toàn đội hình của ta. Mặc dù đây là vinh dự, tự hào, nhưng trên vai tôi là sinh mạng của đồng đội, là niềm tin của tổ chức, của nhân dân, nếu không may trận đánh không thắng thì liệu lịch sử sẽ viết như thế nào về mình. Tôi luôn trăn trở để tìm cách đánh sao cho hiệu quả, ít thiệt hại nhất.

Sau khi nhận nhiệm vụ, tôi chọn năm đồng chí là Bân, Ngưu, Qui, Tỉnh và Chuyên cùng với tôi đi điều tra căn cứ pháo binh Thanh Vinh. Chúng tôi mang theo lương khô, gạo rang, cơm vắt... và vũ khí cá nhân. Tôi động viên anh em: Muốn thành công thì ngay từ đầu cả tổ phải quyết tâm vượt qua khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ trước thời gian cấp trên giao. Chiều hôm đó, chúng tôi đến đồi Hố Chuối (Kim Liên) để đặt đài quan sát chọn hướng điều tra căn cứ Thanh Vinh. Từ đây, anh em có thể đưa ống nhòm lên nhìn rất rõ mục tiêu. Căn cứ pháo binh Mỹ nằm giữa bãi cát trắng bao gồm nhiều lớp rào kẽm gai, hào giao thông, lô cốt, nhà tôn, cụm pháo... hiện lên mồn một trong mắt các cán bộ, chiến sĩ đi chuẩn bị chiến trường. Như vậy, hướng điều tra căn cứ đã được chúng tôi xác định.

Hoàng hôn buông xuống, toàn tổ lần mò đến bờ sông Thủy Tú và tìm cách sang bờ bên để tiếp cận căn cứ. Chúng tôi lặng lẽ vạch cỏ, nhẹ nhàng buông mình xuống dòng sông quê xanh mát. Lúc chúng tôi bơi đến giữa dòng thì một tình huống bất ngờ xảy ra. Một chiếc trực thăng từ sân bay Xuân Thiều bay lên đèn pha rà sát mặt nước tìm mục tiêu. Ánh đèn sáng đến nỗi tôi có cảm tưởng một con cá nhỏ đớp bóng cũng có thể bị chúng phát hiện. Đội công tác nhanh trí lặn sâu xuống nước khiến máy bay địch không phát hiện được gì. Khi tiếng động cơ nhỏ dần, chúng tôi nổi lên và tiếp tục bơi, coi như thử thách đầu tiên đã vượt qua.

Tuy nhiên, để tiếp cận được mục tiêu chúng tôi còn phải qua mấy chặng đường gay go nữa như đột nhập ấp chiến lược, đụng địch phục kích phải đi đường vòng, gặp chim, thú đi ăn đêm đánh hơi thấy người liền bay loạn xạ, kêu oang oác.v.v. Soi đồng hồ, chiếc kim dạ quang chỉ gần 4 giờ sáng, tôi quyết định tìm nơi trú ẩn bí mật trong ngày cho anh em. Lúc này, trong xóm làng, tiếng gà gáy, tiếng chó sủa vang lên từng hồi. Một vài đồng chí băn khoăn, có người hỏi:

- Trời sáng, làm sao bây giờ?

- Các đồng chí yên tâm. Tôi sẽ bố trí chỗ cho chúng ta trú ẩn an toàn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 13 Tháng Mười Hai, 2020, 06:36:31 pm »

Tôi đáp liều như vậy để trấn an anh em, chứ mình vẫn chưa nghĩ ra chỗ nào. Bất chợt, tôi nhớ ngay đến gia đình mình ở cách đây không xa, chỉ cách căn cứ pháo binh Mỹ khoảng 250 mét. Nhà tôi nằm trong vùng địch kiểm soát, ở vùng cát xóm Hóc Bộ, thôn Hồng Phước. Mẹ tôi, tức bà Xiềng, là cơ sở của Quận Nhì, do ông Phan Văn Tải là Quận ủy viên Quận Nhì và tôi xây dựng. Trong nhà, ngoài vườn nhà tôi thường xuyên có những căn hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, bộ đội. Nghĩ đến đây, tôi quyết định đưa anh em đột nhập về nhà mình. Khi về gần đến nhà, lòng tôi bồi hồi xúc động. Bao nhiêu năm xa gia đình, những tưởng chúng tôi sẽ đoàn tụ trong niềm vui thống nhất như Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Ai ngờ hôm nay mình lại trở về với nhiệm vụ đặc biệt trong trận đánh quyết định này. Lúc ấy mọi người trong nhà thấy tôi về liền tròn xoe mắt chứa đầy sự ngạc nhiên. Mẹ tôi chỉ biết đứng nhìn và từng giọt nước mắt lặng lẽ chảy trên gò má đầy nếp nhăn nheo. Không chần chừ, tôi đề nghị gia đình bố trí cho một căn hầm bí mật để bộ đội trú ẩn trong ngày. Lúc ấy, mẹ tôi cũng như bao bà mẹ Việt Nam thời bấy giờ sẵn sàng đáp ứng yêu cầu này. Mọi người trong nhà khẩn trương ngụy trang, biến ngay hầm trú ẩn bom pháo Mỹ của gia đình thành hầm bí mật cho anh em chúng tôi. Có một điều khá may mắn là nhà tôi ở sát căn cứ của Mỹ nên kẻ địch có phần nào chủ quan, không đi lùng sục nhiều. Mẹ hướng dẫn cho chúng tôi cơi nới thêm hầm, làm thêm ngách để bảo đảm đủ nằm, vì vách hầm đã có sẵn bao cát. Sau khi xong xuôi mọi chuyện, mẹ tồi căn dặn:

- Các con dưới hầm cứ bình tĩnh ngủ yên, đừng lo lắng. Trên này có động tĩnh gì để một mình mẹ đối phó.

Lúc đó, trong lòng chúng tôi chợt trào lên một cảm giác rưng rưng khó tả. Dù không ai nói với ai một lời nào, nhưng anh em chúng tôi cùng chung ý nghĩ: “Nơi trú ẩn an toàn nhất đó chính là tình cảm, lòng thương yêu dũng cảm của mẹ. Người đã lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho bộ đội”. Có thể nói, trong chuyến đi điều tra trận địa pháo Thanh Vinh, chúng tôi gặp không ít khó khăn, nhưng cũng khá nhiều thuận lợi. Chẳng hạn như ngay buổi chiều hôm ấy, em tôi là cơ sở cũng có mặt ở nhà. Buổi tối, em đã dẫn chúng tôi đột nhập vào toàn bộ căn cứ Mỹ. Cần nói thêm rằng, quê tôi hồi ấy không riêng gì gia đình tôi mà còn nhiều bà mẹ khác một lòng trung thành với cách mạng. Có thể đơn cử như gia đình bà Phạm Thị Dĩ cả nhà đều tham gia cách mạng. Nhà bà ở nơi đầu sóng ngọn gió, đêm đêm thắp ánh đèn dầu để cảnh giới bọn địch. Trong nhà bà có 4 căn hầm bí mật để nuôi cán bộ, bộ đội. Bản thân bà Dĩ đã trực tiếp tham gia phục vụ nhiều trận đánh như lo cơm nước, thuốc men, khiêng thương binh, tải đạn cho bộ đội đặc công quận Nhì xuyên suốt trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hoặc gia đình bà Võ Thị Chinh ở thôn Phái 6, xã Hòa Liên. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đây là một trong những gia đình có công với cách mạng. Bà Chinh luôn thể hiện là một người mẹ mẫu mực, không sợ địch, kiên cường trụ bám, thường xuyên thu mua lương thực, thực phẩm giúp cho bộ đội địa phương và đơn vị đặc công quận Nhì. Bà nuôi bộ đội ăn uống ngày đêm thường xuyên từ 15 đến 20 người và hàng đêm gùi hàng trăm kilôgam gạo cho bộ đội.

Trở lại nhiệm vụ chính, khi đột nhập vào đồn địch, quan sát thấy rõ các cụm pháo 105mm và nội ngoại vi căn cứ, tôi tiến hành phân công mỗi người đột nhập một hướng. Quy luật tuần tra canh gác của địch, những chi tiết trong căn cứ.v.v. đều được ghi vào trong trí nhớ của chúng tôi. Đúng 2 giờ sáng hôm sau, tôi dẫn anh em trở lại vị trí an toàn, xem như đã hoàn thành công tác chuẩn bị bước một. Khi quay vào núi X, tôi bất ngờ gặp lại các đồng chí Ba Đằng và Sáu Tài, là cơ sở có nhà ở sát đồn lính Mỹ, đang giả vờ đi lên núi đốn củi. Hai anh tiếp tục cung cấp thêm một số chi tiết, quy luật của địch. Do đó, chúng tôi càng hiểu rõ hơn, giúp cho việc vẽ sơ đồ quá trình điều tra trận địa pháo mọt cách chính xác hơn. Trong thời gian chúng tôi đi chuẩn bị chiến trường, anh em ở lại tiếp tục huấn luyện bổ sung phương án chiến đấu.

Khi về đến đơn vị, tôi nhanh chóng vẽ sơ đồ và đắp sa bàn trận địa pháo của địch, sau đó thông qua phương án chiến đấu và được Đảng ủy, Ban Chỉ huy tiểu đoàn phê duyệt, nhất trí giao nhiệm vụ cho tôi trực tiếp chỉ huy trận đánh này.

Ngày 10 tháng 6 năm 1966, đại đội chọn 60 đồng chí, tổ chức thành 3 mũi, do các đồng chí Bân, Ngưu, Chuyên làm mũi trưởng tiến công căn cứ địch ở 3 hướng. Bố trí lực lượng cụ thể như sau: Đối với hướng Tây, là hướng chủ yếu, do tôi trực tiếp chỉ huy từ hướng Tây đánh xuống; ngoài ra còn một đội hình dự bị có thể chi viện kịp thời khi có tình huống ngoài dự kiến xảy ra. Mũi thứ hai do đồng chí Bân phụ trách, có nhiệm vụ từ hướng đông đánh lên. Mũi thứ ba do đồng chí Chuyên phụ trách, đảm nhiệm đánh từ hướng bắc đánh vào. Vũ khí trang bị gồm có: súng B40, B41; thủ pháo, lựu đạn, 7 khối bộc phá 5kg bằng thuốc TNT, 3 bộc phá ống dùng để phá rào. Sau đó, đơn vị tập hợp kiểm tra lần cuối cùng để chuẩn bị xuất phát. Đúng 14 giờ cùng ngày, chúng tôi bắt đầu hành quân. Tôi cắt cử lực lượng trinh sát đi trước bám địch, do đồng chí Nhưng phụ trách. Dọc đường đi, có lúc tôi chợt thấy trong lòng xao xuyến lạ. Năm xưa đi chiến đấu, tôi không ngờ có một ngày mình trở lại quê hương, trực tiếp chỉ huy một trận đánh lớn như thế này. Nghĩ trước lại nghĩ sau, trong số chiến sĩ tham gia đánh trận này có không ít đồng chí là con một trong gia đình. Tôi có quan niệm rất rõ ràng: Làm người chỉ huy, bên cạnh việc xây dựng quyết tâm chiến đấu và chiến thắng, còn phải suy nghĩ cho anh em, đồng chí, đồng đội. Tôi có may mắn hơn nhiều anh em, vì trước khi bước vào trận đánh đã được gặp lại người thân trong gia đình. Đối với chúng tôi thời bấy giờ, đó là niềm hạnh phúc hiếm hoi của người lính trận mà không phải ai cũng có thể có được.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:27:06 pm »

Khi đến vị trí tạm dừng, tôi tổ chức đắp sa bàn và lên phương án huấn luyện bổ sung cho đơn vị. Về công tác chính trị tư tưởng, cấp trên cũng như chỉ huy đơn vị đã giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ thể hiện quyết tâm bằng cách cắt dán câu “Thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” lên báng súng AK từng đồng chí, nghĩa là quyết tâm đánh thắng trận đầu, diệt nhiều phương tiện vũ khí hiện đại nhất của quân đội Hoa Kỳ, trong đó có loại pháo 175mm tự hành, được gọi là “vua chiến trường”. 19 giờ, đội hình bắt đầu vượt sông Thủy Tú. Khác với lúc đi điều tra, lần này chúng tôi qua sông rất an toàn. Dường như đó cũng là dấu hiệu ngày tận số của căn cứ pháo binh Thanh Vinh. Khoảng 22 giờ, tôi cho dừng đội hình ở cánh đồng Hòa Hiệp để kiểm tra lần cuối cùng. Trong quá trình hành quân gần đến mục tiêu, cũng có vài đồng chí chưa thực sự quyết tâm, còn mang cả hỏa lực B41 đi lạc đường, thực ra thì đây chỉ là số ít anh em chưa có kinh nghiệm chiến đấu, không ảnh hưởng gì. Nhưng trước tình thế như vậy, tôi phải nhanh chóng xốc lại đội hình, để tiếp tục hành quân.

23 giờ đơn vị bắt đầu triển khai các hướng để tiếp cận mục tiêu. 30 phút sau mũi chủ yếu dọ đồng chí Ngưu phụ trách tiến hành cắt rào đưa hỏa lực vào bên trong. Các đồng chí phụ trách B40, B41 cơ động áp sát lô cốt đầu cầu, sẵn sàng nhả đạn. Quân ta lúc này nằm theo đội hình hàng dọc chuẩn bị đánh chiếm mục tiêu. 23 giờ 40 phút, mũi số 2 cũng khắc phục được vật cản đưa toàn bộ đội hình vào bên trong cứ điểm. 23 giờ 50 phút, tiếp tục mũi thứ 3 từ hướng bắc vào được bên trong, sẵn sàng chờ lệnh nổ súng. Đêm đặc quánh, thời gian như ngừng trôi. Trong trái tim tôi lúc ấy dường như chỉ có một suy nghĩ duy nhất: Bình tĩnh quan sát, chờ đến giờ G phát lệnh nổ súng tiêu diệt cứ điểm địch đã gây ra nhiều tội ác đối với nhân dân. Tôi nhẩm đếm từng tích tắc, mỗi tiếng như vậy là khoảng thời gian để anh em chúng tôi kiểm tra lần cuối trước khi siết cò, giật nụ xòe.

Đúng 24 giờ, tức giờ G, hướng mũi phía tây còn một hàng rào thép gai cuối cùng. Đồng chí Ngưu thực hành cắt, bất ngờ vấp phải quả mìn sáng bật lên nổ, làm cả trận địa sáng như ban ngày. Chúng tôi đã dự kiến trước tình huống có thể xảy ra nên bình tĩnh tìm nơi ẩn nấp. Khi quả mìn sáng vừa tắt, mũi phía đông của đồng chí Bân tranh thủ lót đội hình vào. Một tình huống bất ngờ lại đến làm thót tim chúng tôi. Trong lúc cơ động vào bên trong cứ điểm, một đồng chí chiến sĩ do sơ suất đã vướng phải quả mìn sáng khác. Mìn bật lên nổ, cháy xè xè, phun ra những tia lửa như chùm pháo hoa bắn lên không trung làm sáng cả một góc trời, thời gian kéo dài khoản 5 phút. Toàn đội hình án binh bất động. Tôi xác định có thể bị lộ và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, dù hy sinh tất cả cũng phải nhổ cho được cái ung nhọt trên đất quê hương. Tuy nhiên, trong đồn vẫn im lặng. Chắc có lẽ lính Mỹ cho rằng chó mèo của dân đi ăn đồ hộp bị vấp mìn chiếu sáng, vì đó là chuyện thường xảy ra tại căn cứ này nên chúng không mấy để ý. Qua một cơn bất thần điên đảo, vô cùng hồi hộp lo sợ, chúng tôi hình dung giống như một cuộc diễn tập ở thao trường. Cũng may không có tình huống xấu nào xảy ra. Lúc này, ở hướng mũi 1, tôi cho hai tổ vọt qua bãi trống, áp sát hai lô cốt đầu cầu sẵn sàng nổ súng.

Khoảng 24 giờ 15 phút, mũi phía đông lót được 2 tổ vào sát hào giao thông. Một bất ngờ nữa lại đến khi toán lính Mỹ đi tuần tra. Chúng đạp trúng đầu hai đồng chí Tỉnh và Quy, hoảng hốt hét lên: “Vi-xi! Vi-xi!”. Mìn sáng tắt, nhanh như chớp, Ngô Tấn Tỉnh nổ súng diệt ngay toán lính Mỹ, đó cũng là hiệu lệnh tấn công cho toàn trận đánh. Đồng chí Tĩnh, đồng chí Quy dẫn đội hình bàng qua chiến hào thọc sâu vào sở chỉ huy, nổ súng tiêu diệt địch hết nhà này đến nhà khác. Riêng đồng chí Bân, dẫn 25 cán bộ, chiến sĩ triển khai đánh chiếm các mục tiêu như trong phương án.

Mũi phía tây được lệnh nổ súng. Những phát đạn B40, B41 chính xác của đồng chí Ngưu, đồng chí Hiền nhanh chóng đánh sập hai lô cốt đầu cầu. Hai đồng chí tiếp tục dẫn 8 chiến sĩ thọc sâu đánh vào trung tâm bắt liên lạc với mũi 2 và mũi 3. Lúc này, quân địch đã qua những giây phút hoảng loạn ban đầu. Chúng tập trung đội hình còn lại đánh phản kích vào hướng tây. Bọn lính trong lô cốt ở đồi phía nam dùng đại liên M60 bắn dọc theo hàng rào phía tây của mũi 1, cắt đội hình còn lại phía sau của ta chưa vào kịp. Tình thế chiến đấu vô cùng khẩn trương. Nếu để địch kịp hồi phục phát huy các loại hỏa lực mạnh thì ta khó bề chiến thắng. Trước tình hình như vậy, người chỉ huy phải thật sự tỉnh táo, bình tĩnh và dũng cảm thì mới có thể đạt được hiệu suất chiến đấu cao, ngược lại sẽ khó tránh khỏi tổn thất. Tôi vừa chỉ huy anh em đánh địch vừa nghĩ ra cách vượt rào nhanh nhất. Lúc đầu, tôi bồng từng đồng chí ném qua rào. Bồng được khoảng chín mười đồng chí thì nghe tiếng súng nổ dồn dập bên trong, hỏa lực địch cay xé trước mặt, tôi vội nằm chồng lên dây thép gai thành một chiếc cầu để anh em tiếp tục vượt qua. Lúc này, địch đã hoàn hồn đánh trả quyết liệt. Khi đồng chí cuối cùng đã vào bên trong, tôi cũng nhảy lên vượt qua rào, vừa chạy vừa hô to: “Đảng viên! Đảng viên đâu theo tôi. Hãy dũng cảm tiến lên!”. Đồng chí Ngưu dẫn tổ của mình vòng ra phía sau, tiêu diệt ngay lô cốt địch ở tiền duyên, thu được khẩu đại liên M60.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:28:21 pm »

Mũi 3 do đồng chí Chuyên mũi trưởng dẫn đội hình thọc sâu đánh chiếm các khu nhà bạt, lô cốt, hầm ngầm, sau đó nhanh chóng phát triển vào khu trung tâm, bắt liên lạc với mũi 1 và mũi 2. Khi các mũi liên lạc được với nhau, tôi giao nhiệm vụ cho đồng chí Trần Ngọc Trung độc lập tác chiến, một mình đánh một lô cốt ngoài cổng đồn. Đồng chí Trung nhanh chóng dùng súng B40 bắn sập lô cốt, sau đó nhảy vào tung luôn mấy quả thủ pháo diệt gọn một tiểu đội lính Mỹ và chiếm giữ luôn, sẵn sàng bắn xe tăng địch chi viện từ trận địa pháo 175 của tiểu đoàn lính Mỹ cách đó 300 mét về phía bắc. Trận địa pháo Thanh Vinh lúc này thực sự trở thành một biển lửa chôn vùi quân xâm lược Mỹ.

Trận đánh vô cùng ác liệt kéo dài 30 phút, các mục tiêu cơ bản đề ra trong phương án đều thực hiện được. Sở chỉ huy của Mỹ ở Đà Nẵng đã báo động cho máy bay trực thăng, Đa-cô-ta bay lên thả đèn sáng, bắn rốc-két vu vơ hòng cứu vãn tình thế. Nhưng mọi sự cố gắng của chúng chỉ rơi vào vô vọng. Các chiến sĩ đặc công của ta đã làm chủ hoàn toàn trận đánh. Tôi bình tĩnh chỉ huy bộ đội đặt bộc phá khối vào các bệ pháo và đồng loạt giật nụ xòe. Các khối thuốc nổ đã xé tung các bệ pháo 105mm ra thành từng mảnh. Kiểm tra lại trận địa, phát hiện thấy còn một khẩu pháo chưa đánh, tôi liền ra lệnh cho đồng chí Hiền dùng quả bộc phá ống đút vào nòng pháo 105mm phá hủy luôn. Sau khi quan sát, nhận báo cáo từ các mũi, hướng, tôi hô to: “Đơn vị tiếp tục tấn công!”, đây là ám hiệu riêng của chỉ huy trận đánh. Lúc này, trận địa đã im tiếng súng, anh em hiểu ý tự động lui về điểm hẹn an toàn. Kết quả trận đánh, ta đã tiêu diệt gần hai trăm lính Mỹ, phá hủy 7 khẩu pháo 105mm, 7 xe kéo pháo, 20 nhà bạt cùng công sự, lô cốt hầm ngầm, thu 4 đại liên M60 và một số súng đạn, quân trang quân dụng. Đây là lần đầu tiên bộ đội ta trực tiếp chạm trán với phương tiện chiến tranh hiện đại bậc nhất thế giới của quân đội Mỹ. Quả là một đòn choáng váng, gây đảo điên, bất thần đối với những tên lính xâm lược khi chúng mới đặt chân lên đất Đà Nẵng. Cũng trong trận đánh này, có nhiều tấm gương chiến đấu xuất sắc, dũng cảm ngoan cường nổi lên như các đồng chí Ngô Tấn Tĩnh, Lê Văn Quy, Nguyễn Văn Bân, Lê Ngưu, Phạm Văn Hiền, Phạm Nhưng, Phạm Văn Chuyên và Trần Ngọc Trung cùng nhiều đồng chí khác. Đối với cá nhân tôi, được cấp trên đánh giá là người chỉ huy mưu trí, sáng tạo, bình tĩnh, dũng cảm trước, trong và sau trận đánh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Để ghi nhớ chiến công, tập thể Đại đội 1 và nhiều đồng chí đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng huân chương cao quý. Kết quả trận đánh đã thiết thực góp phần tô thắm truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, Tiểu đoàn Đặc công 89 Đà Nẵng nói riêng, luôn xứng đáng với truyền thống oanh liệt của quê hương “trung dũng, kiên cường đi đầu diệt Mỹ”. Có thể khẳng định, trận tiêu diệt cứ điểm trận địa pháo Thanh Vinh là một trong những trận đánh hay của cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1, Tiểu đoàn Đặc công 89 anh hùng. Tuy nhiên, để có được chiến thắng này một phần phải nhờ vào sự giúp đỡ tận tình của nhân dân các thôn Thủy Tú (Hòa Hiệp), Quan Nam (Hòa Liên) Hồng Phước (Hòa Khánh) đã tạo mọi điều kiện để đơn vị tập kích trận địa pháo Thanh Vinh đạt hiệu suất chiến đấu cao. Đặc biệt, sau khi chúng tôi tập kích trận địa pháo Thanh Vinh, đồng chí Phạm Văn Hiền chạy lạc vào nhà bà Chính trong lúc lính Mỹ đang lùng sục. Bà đón vào hầm bí mật, sáng hôm sau đi chợ may quần áo cho đồng chí Hiền mặc và cải trang đi chăn trâu để xuống Xuân Thiều nhằm đánh lạc hướng địch và đưa đồng chí Hiển lên căn cứ.

Đến tháng 4 năm 1967, Thành đội Đà Nẵng có chủ trương thành lập thêm một tiểu đoàn đặc công hậu cứ, nhiệm vụ là đánh các mục tiêu tương tự Tiểu đoàn Đặc công 89. Thành đội giao cho tôi và đồng chí Chính trị viên Đặng Thanh Nam chỉ huy Đại đội 1 ra cánh bắc Hòa Vang để tổ chức thành lập Tiểu đoàn Đặc công 87 Đà Nẵng. Cùng lúc đó, hậu phương lớn miền Bắc bổ sung thêm 400 cán bộ, chiến sĩ cho đơn vị, được biên chế thành 3 đại đội. Tuy nhiên, số cán bộ, chiến sĩ này phần lớn chưa kinh qua chiến đấu. Như vậy, quân số tiểu đoàn lúc này khoảng 500 người. Tôi được cấp trên giao nhiệm vụ làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Tán Mào làm Chính trị viên, về cơ cấu tổ chức, ban chỉ huy tiểu đoàn gồm có 5 đồng chí là: Ngôn, Mão, Thượng, Phước và Công. Đây cũng chính là thời điểm ta đánh vào nhà lao Hội An, giải vây cho cả ngàn người chạy ra vùng giải phóng. Tôi không biết đó là hạnh phúc, hay báo trước một sự đau đớn đến tột cùng khi vợ tôi thoát ra, tiếp tục về làm việc cho ngành quân y tiền phương cánh bắc Hòa Vang. Cùng công tác trên một địa bàn nên thỉnh thoảng vợ chồng gặp mặt, chúng tôi thường động viên nhau công tác. Chiến tranh đã mang đến hy sinh, mất mát, nhưng cũng không thể ngăn cản nổi sự sống bất diệt của những con người anh dũng của một dân tộc anh hùng. Chính những ngày khó khăn, ác liệt ấy, vợ tôi đã mang bầu đứa con thứ hai. Tình hình chiến sự ở cánh bắc Hòa Vang lúc này, ta gặp rất nhiều khó khăn vì địch bao vây phong tỏa. Toàn thể các cơ quan, đơn vị đều đói cơm nhạt muối. Bộ đội phải ăn toàn rau rừng và củ móng ngựa suốt 3 tháng trời. Chiến khu chỉ còn một ít gạo, dành để nuôi thương binh. Đến lúc gạo ưu tiên cũng hết. Bộ đội, du kích thiếu ăn da xanh như tàu lá. Nhưng dẫu sao thì họ vẫn có thể ăn rau, củ, quả thay cơm. Còn các đồng chí thương binh thì không thể như thế. Anh em phải có chút gạo để lấy sức giành lại sự sống khỏi tay tử thần. Là một người chỉ huy, nhìn bộ đội, du kích và thương bệnh binh lả đi vì đói, tôi không thể đành lòng phó mặc cho may rủi. Sau nhiều đêm suy nghĩ, tôi quyết định dùng chiến thuật đặc công để lọt qua vùng địch, xuống nhà dân xin gạo về nuôi thương binh. Lần đó, tôi dẫn 5 đồng chí chiến sĩ công binh xuống ranh Trường Định. Nhìn thấy địch dăng hàng ngang phục kích bên kia sông, tôi hướng dẫn anh em chui qua hai lớp rào, đi quanh đồn lính Mỹ đóng ở Quan Nam, sau đó bò vào nhà cơ sở. Lúc ấy, anh em cán bộ, chiến sĩ công binh đi cùng tỏ ra vui mừng và khâm phục. Đặc biệt, khi chúng tôi vào đồn thì đi không, lúc trở về mỗi người mang 3 ang gạo vẫn theo đường cũ, cách lô cốt lính Mỹ từ 15 đến 20 mét. Chuyện chúng tôi đi lấy gạo giữa vòng vây quân thù nghe ra thật khó lý giải. Vì thế, sau này có người hỏi tôi vì sao mà chúng tôi có thể làm được chuyện động trời đó. Tôi chỉ thủng thẳng trả lời: “Chỉ có tinh thần dũng cảm, gan dạ của người chiến sĩ cách mạng, kết hợp với kỹ thuật, sự khôn khéo của người lính đặc công mới có thể vượt qua được khó khăn và giành thắng lợi”. Cũng trong dịp ấy, tức năm 1968, chị em bên bệnh xá xuống Kim Liên lấy gạo, trong đó có vợ tôi, nhưng gặp địch phục kích không đi được phải quay vào núi và ở lại đến tối hôm sau. Vì thế, mấy chị em phải nhịn đói suốt một ngày, một đêm. Buổi tối, mọi người lại xuống tiếp. Không ngờ đó là chuyến đi định mệnh của các y, bác sĩ, nhân viên bệnh xá. Họ bị địch phục kích hy sinh tất cả. Vợ tôi mất đi khi đứa con trong bụng mới gần 4 tháng, được đồng đội đưa về căn cứ chôn cất. Thế là tôi lại mang thêm trên mình hai vành tang trắng. Chiến tranh đã cướp đi của tôi nhiều quá. Hai bà vợ và một đứa con chưa kịp chào đời. Khỏi phải nói lúc ấy tôi căm thù giặc như thế nào. Nước mắt tôi lặn vào trong để nhường chỗ cho sự minh mẫn, khả năng sáng tạo của người chỉ huy bộ đội đặc công trong chiến đấu. Tôi thề sẽ quyết tâm chiến đấu để đền nợ nước, trả thù nhà. Xin nói thêm, sau ngày 29 tháng 3 năm 1975, Đà Nẵng được giải phóng, tôi lên chuyển vợ con tôi về nghĩa trang liệt sĩ. Còn cô con gái Hồ Thị Liễu được vợ chồng tôi gửi về ở với nội nên không biết mẹ mình còn hay mất, ở đâu. Nó lớn lên chỉ biết có ba, người ba thương yêu độc nhất. Hiện nay, vợ chồng Liễu đang sinh sống ở quê chồng, thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2020, 08:29:29 pm »

Cũng trong năm 1967, lực lượng đặc công biệt động quận Nhì, thành phố Đà Nẵng, đã tập kích đồn Phú Lộc, tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch, thu toàn bộ vũ khí, khai thông hành lang vào nội thành Đà Nẵng. Chiến thắng này đóng vai trò quan trọng trong việc đưa nhiều thanh niên, học sinh lên căn cứ bổ sung cho các đơn vị đặc công, biệt động và cơ quan dân chính Đảng. Họ được giáo dục, học tập chính trị và huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật đặc công, sau đó biên chế quân số cho Quận đội quận Nhì và cơ quan Quận ủy quận Nhì. Số đồng chí này sau đó đã tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu nhiều chiến công xuất sắc trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, góp phần to lớn vào thành tích chung của lực lượng vũ trang Quận Nhì đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trực tiếp tham gia lãnh đạo, chỉ huy quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang Quận Nhì trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tôi càng thấm thía sự hi sinh anh dũng, lòng nhiệt tình cách mạng của những con người ấy. Sau này, mỗi khi nhớ lại một thời hào hùng của dân tộc, tôi lại cảm thấy tự hào vì mình đã đóng góp một phần nhỏ bé vào chiến thắng chung.

Những năm tháng ăn núi, ngủ rừng một thời đã trở thành kỷ niệm không thể nào phai mờ trong tôi. Vì nơi ấy, chúng tôi đã sống chiến đấu vì nền độc lập của dân tộc, nơi có những con người bình dị đi vào cuộc chiến tranh với trái tim đầy nhiệt huyết cách mạng. Có những chiến công đã được sử sách ghi danh, cũng có những chiến công thầm lặng chỉ in dấu trong trái tim mỗi con người trực tiếp tham gia chiến đấu. Trường hợp tôi muốn nói đến là trận đánh bất ngờ trên đường đi công tác tiêu diệt một tiểu đội lính biệt kích của Mỹ tại thung lũng Khe Răm vào thượng tuần tháng 5 năm 1967.

Địa danh này nằm về phía bắc dòng sông Cu Đê. Thiên nhiên đã ban cho nơi đây một cảnh đẹp sơn thủy hữu tình. Nếu không có chiến tranh thì có lẽ nơi đây sẽ là một khu du lịch sinh thái tốt cho những ai muốn nhìn mây ngắm núi. Dọc hai bên bờ sông là hai thôn Phò Nam và Nam Yên. Trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, đây là chỗ dựa vững chắc của quân và dân ta ở chiến trường tây bắc huyện Hòa Vang. Vì vậy, để ngăn chặn đường tiến của quân ta xuống đồng bằng, vào thành phố Đà Nẵng, bọn giặc không từ một thủ đoạn chiến tranh tàn ác nào. Chúng ngày đêm đánh phá quyết liệt, hành quân càn quét, chà đi xát lại, lùng sục, bố ráp các khu vực dân cư. Trên không, pháo tầm xa, pháo đài bay B-52 ngày đêm trút xuống khu vực này hàng ngàn tấn bom đạn và chất độc hóa học. Xóm làng trở nên tiêu điều xơ xác. Địch đã biến nơi đây thành bãi chiến trường để tha hồ hoạt động thám báo, biệt kích. Có thể nói, lá rừng cũng ghi không hết tội ác của chúng. Tuy nhiên, nhân dân ta vẫn một lòng kiên trung với Đảng, với cách mạng; vẫn kiên cường bám trụ làng quê chiến đấu, giữ vững niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc.

Cuộc sống của cán bộ, bộ đội trên căn cứ vì thế cũng gặp không ít khó khăn, nhất là vấn đề lương thực, thuốc men. Người khỏe mạnh chịu đựng còn thấy khó khăn, với anh em thương binh càng cực khổ bội phần. Để góp phần giải quyết tình thế, tôi quyết định tổ chức một số đồng chí đi xuống thăm nhân dân nắm tình hình bà con, tình hình địch và tiện thể thu hái ớt rừng, mang xuống đồng bằng đổi lấy ít gạo, mắm. Trong một chiều hè tháng 5 oi bức, tôi cùng bốn anh em xuống Khe Răm với ý định bơi sang thôn Phò Nam, sau đó sẽ đi thu hái ớt như dự kiến.

Chúng tôi xuống đến Khe Răm khoảng hai giờ chiều. Bất ngờ, một chiếc máy bay trinh sát L.19 của địch bay đến, quần lượn mấy vòng trên cao rồi sà xuống thấp ném quả mù xuống bãi cỏ tranh. Chúng tôi chưa kịp xác định hành động đó của địch nhằm thực hiện âm mưu gì thì một chiếc trực thăng bay đến và đổ xuống bãi cỏ tranh một toán biệt kích. Bọn chúng gồm có 12 tên, sau một lúc sục sạo xung quanh thấy không có gì, bèn tìm cách tránh nắng. Chúng tôi lặng lẽ quan sát. Cái nắng gay gắt chiều hè miền nhiệt đới không ủng hộ những tên lính xâm lược đến từ phía bên kia bán cầu. Tụi biệt kích tụ tập lại bên khóm chuối rừng, cởi bỏ quần áo, tổ chức ăn uống no say và nằm lăn ra đất tắm nắng, nghỉ ngơi thoải mái. Chúng không hề biết rằng chúng đang bị năm cặp mắt tinh tường của các chiến sĩ đặc công theo dõi. Đối với chúng tôi, đây là tình huống xảy ra bất ngờ và thời cơ diệt địch rất thuận lợi. Tôi trao đổi với anh em về tình hình. Toàn tổ nhất trí quyết tâm tiêu diệt địch. Phương án tác chiến được vạch ra ngay trên dốc Khe Răm.

Trời càng về chiều, nắng hè càng chói chang. Dường như vạn vật đều sợ cái nắng nung người của miền sơn cước. Không một loài chim thú cất tiếng kêu nên không gian càng trở nên tĩnh mịch. Thỉnh thoảng, vài ngọn gió nồm lọt qua khe núi làm bãi cỏ tranh xào xạc, uốn lượn dập dờn theo chiều gió như những làn sóng xanh mơn man, làm mát dịu cái nắng nóng mùa hè. Chúng tôi cơ động theo bờ khe nước, bí mật bò qua bãi cỏ tranh, men theo chiều gió cách địch chừng 50 mét. Khoảng cách của chúng tôi và tụi biệt kích được rút ngắn dần. Khoảng 20 mét thì toàn tổ dừng lại, dàn thành hàng ngang sẵn sàng nổ súng. Năm giờ chiều nắng nóng bắt đầu dịu dần, bọn lính Mỹ lục tục gọi nhau ngồi dậy. Chớp thời cơ, tôi phát lệnh nổ súng. Những tiếng súng AK và lựu đạn đồng loạt phát huy sức mạnh. Tiếng hô xung phong của chúng tôi hòa lẫn tiếng la hét của những tên lính biệt kích làm vang động cả một vùng, cỏ tranh bốc cháy ngùn ngụt, khói lửa bốc cao rần rật càng thôi thúc khí thế hăng say chiến đấu của chiến sĩ ta, góp phần uy hiếp tinh thần của lính Mỹ. Bị đánh phủ đầu, bọn lính biệt kích chưa kịp phản ứng đã bị tiêu diệt gọn. Một tên lính da đen bị thương vào chân, cố bò lại khẩu đại liên M60. Nhưng hắn chưa kịp nổ súng đã bị một chiến sĩ cũng đang bị thương nằm cạnh đó diệt luôn. Tên cuối cùng thoát chết trong trận đánh bất ngờ, cố chạy ngược vào rừng cũng bị quân ta truy kích tiêu diệt nốt. Như vậy, trong phút chốc, trên đường đi công tác, 5 cán bộ, chiến sĩ chúng tôi đã diệt gọn toán biệt kích của Mỹ khi chúng chưa kịp gây tội ác; thu 10 khẩu tiểu liên cực nhanh AR15, một đại liên M60, một súng phóng lựu M79, một máy thông tin PRC 25 cùng toàn bộ quân trang, quân dụng. Bên ta một chiến sĩ bị thương và đã hy sinh trên đường chuyển về đơn vị. Trận đánh dù không lớn, nhưng đã gây chấn động các đồn địch gần đấy. Chúng không ngờ Việt cộng ở đâu xuất quỷ nhập thần như vậy. Do đó, địch ngay tại căn cứ và một số đồn bốt ở gần đó cũng không có phản ứng gì. Sáng hôm sau, chúng mới cho máy bay đổ bộ, xe tăng lên để lấy xác đồng bọn về. Có thể nói, đây là một trận đánh xuất sắc, có hiệu suất chiến đấu cao, với tinh thần dũng cảm kiên cường, ý chí kiên quyết tấn công tiêu diệt địch bất kể chúng ở đâu và trong hoàn cảnh, điều kiện nào. Chiến công trên đã góp phần tô thắm truyền thống anh dũng kiên cường của bộ đội đặc công Đà Nẵng nói chung, Tiểu đoàn Đặc công 87 Đà Nẵng nói riêng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM