Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:29:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Người con đất Quảng kiên trung  (Đọc 4902 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2020, 04:02:16 pm »

Lúc bấy giờ, việc xét duyệt lý lịch của bạn gái để tiến tới hôn nhân cũng khá phức tạp, nhất là các đồng chí còn công tác trong quân đội. Tuy nhiên, khi cầm bản lý lịch tự khai của người yêu, tôi đã yên tâm 100% chắc thắng. Vì gia đình cô ấy có nhiều người trực tiếp tham gia cách mạng, hoặc tổ chức nuôi giấu cán bộ trong nhà. Chẳng hạn như cha vợ tôi là ông Trần Nhi, mọi người thường gọi là ông Sáu, có tính tình thẳng thắn cương trực, chịu thương chịu khó hết mực. Dân trong làng ai cũng mến thương. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông vào hội nông dân cứu quốc, tham gia giành chính quyền năm 1945 rồi đi dân công tải đạn. Khi thực dân Pháp núp bóng quân đồng minh trở lại hòng tái chiếm nước ta, chúng đánh vào Đà Nẵng thì nhạc phụ tôi theo chủ trương của cách mạng “vườn không nhà trống”, đi tản cư vào Tam Kỳ, dệt vải xi ta Bà Tân (người chị thứ nhất của nhạc phụ tôi) để may quần áo cho Vệ quốc đoàn. Sau năm 1954, ông về quê hương đem tiền bạc, thuốc men, gạo vải về giúp đỡ cách mạng. Năm 1975, khi đất nước trọn niềm vui, gia đình vợ tôi cũng hồi hương về xã Điện Hòa, huyện Điện Bàn để sinh sống và tham gia các hoạt động xã hội ở địa phương. Cha vợ tôi lâm bệnh và qua đời năm ông ngoại bát tuần. Người thứ hai tạo nên điểm nhấn trong lý lịch vợ tôi là người mẹ. Bà là Nguyễn Thị Cúc, thường gọi là bà Tám, một người phụ nữ hiền hậu, chịu thương, chịu khó lo cho chồng cho con. Mẹ vợ tôi tham gia cách mạng trước năm 1945, đã được Đảng, Nhà nước công nhận là người có công với nước. Gia đình vợ tôi có 6 người con, nhưng đã qua đời 3 người lúc còn nhỏ. Ngoài vợ tôi là Trần Thị Hòa, còn các em Trần Thị Lợi và Trần Thị Lộc. cả hai đều tích cực tham gia công tác xã hội, có đóng góp ít nhiều cho cách mạng.

Khi tôi trình bày nguyện vọng và nộp bản lí lịch tự khai người vợ tương lai, các anh trong Ban Thường vụ xem xong liền gật đầu với hàm ý rất tốt. Tuy nhiên, theo nguyên tắc, đơn vị vẫn cử người về địa phương xác minh cụ thể. Sau đó, được sự đồng ý của tổ chức và hai bên gia đình, ngày 27 tháng 7 năm 1979, nhằm ngày mùng 6 tháng 6 năm Kỷ Mùi, chúng tôi chính thức làm lễ kết hôn. Đám cưới tổ chức ở gia đình vợ ở xã Điện Hòa, huyện Điện Bàn. Tiếng là đám cưới nghe nó to tát, nhưng tiệc cưới lúc đó của vợ chồng tôi chỉ có bánh kẹo nuga Hà Nội và nước ngọt. Mặc dù đơn sơ là vậy song cũng thật đượm nghĩa, thắm tình anh em, đồng đội. Dường như hạnh phúc của vợ chồng tôi cũng chính là hạnh phúc chung của mọi người. Trong tiệc cưới râm ran, ai cũng mừng cho tôi. Thậm chí, có người còn nói vui: “Thế là từ nay thủ trưởng biết khổ rồi nhé!”. Hôm ấy, đồng chí Phan Hoan đã đứng ra làm chủ hôn. Khỏi phải nói niềm vui của hai bên gia đình nội ngoại, bà con thân tộc đã đến mừng hạnh phúc cho tôi với niềm tự hào xen lẫn cái thở phào nhẹ nhõm vì trút được nỗi lo... tôi ở vậy đến già. Các đồng chí ở các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần không ngớt lời chúc mừng tân lang. Đặc biệt, các anh tôi ở Đà Lạt đều về dự đông vui. Sự có mặt của mọi người trong lễ cưới đã giúp tôi nhận ra tình cảm của họ dành cho mình thật to lớn biết bao. Trước đây, khi chỉ huy trận đánh, hay quản lý đơn vị hàng ngày, tôi được tiếng là thẳng tính, nói năng rành mạch, nhưng hôm cưới tôi đã ấp úng không nói hết ý, hết lời để cảm ơn sự quan tâm, chia sẻ của anh em, đồng đội, bà con cô bác gần xa, v.v.

Mặc dù đất nước đã hòa bình, song vì đặc thù công tác, vợ chồng tôi đã tình nguyện không hưởng tuần trăng mật. Sau lễ cưới, chúng tôi lại ai về việc nấy. Vợ tôi tiếp tục đi ngược lên bệnh xá huyện Phước Sơn làm việc. Còn tôi, ngày 15 tháng 8 năm 1979, cũng lên đường ra miền Bắc đi học lớp chính trị cao cấp tại Học viện Chính trị Quân sự ở thị xã Hà Đông. Tròn một năm sau, tức ngày 15 tháng 8 năm 1980, tôi tốt nghiệp ra trường. Quả thực, một năm học tập rèn luyện đã đem lại cho tôi nhiều điều bổ ích. Trước đây, trong các kỳ tập huấn, hay các buổi nói chuyện, tôi chỉ được nghe và hiểu chưa hệ thống về Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lý luận mác-xít, phương pháp luận, thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, v.v. Song bây giờ, sau khi ra trường, tôi đã nắm chắc những điều lâu nay mình chưa hiểu hoặc có biết nhưng chưa sâu. Trên cơ sở lý luận được các thầy trang bị, tôi có thể luận giải được các vấn đề của cách mạng Việt Nam. Tôi cũng như các bạn đồng học lúc bấy giờ đều thừa nhận triết học đã đem đến cho chúng tôi một phương pháp tư duy khoa học, một cái nhìn vừa toàn cánh, vừa cụ thể trong việc giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Cầm quyết định trong tay, tôi trở về công tác tại Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Đây cũng là lúc tôi đón nhận đứa con đầu lòng, đứa con mà vợ tôi đã phải vượt cạn một mình, tự lo liệu mọi chuyện trong thời gian tôi đi học xa. Với mong muốn cuộc sống của gia đình lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười, mọi thành viên đều hiền hòa vui vẻ nên khi con được hơn một tháng tuổi, vợ chồng tôi đặt tên cho cháu là Lê Trần Minh Hiền. Một thời gian sau, vợ tôi được tổ chức tạo điều kiện cho chuyển công tác về Bệnh viện Quận 1, nay là Bệnh viện Đa khoa Hải Châu, thành phố Đà Nẵng và đến năm 2006 về nghỉ hưu tại phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu.

May mắn hơn nhiều đồng chí, đồng đội được trở về sau cuộc chiến, nhưng những người lính như tôi phải đối mặt với cuộc sống gia đình cũng không kém phần khốc liệt. Nhớ lại giai đoạn nuôi con thời kỳ bao cấp, mọi thứ nhu yếu phẩm đều được cấp theo tem phiếu, tôi vẫn không thể hình dung nổi những khó khăn mình đã vượt qua. Xét cho cùng, thời kỳ đó không chỉ gia đình tôi mà toàn xã hội đều như vậy, bởi vì hậu quả chiến tranh chống Mỹ để lại còn nặng nề, đất nước lại phải bước vào cuộc chiến đấu mới ở biên giới Tây Nam. Lúc đó, đồng lương y tế ít ỏi không đủ khả năng nuôi con nhỏ nên vợ tôi phải chăn nuôi heo để có thêm đồng ra đồng vào. Để nuôi được heo thì phải có cám, nhưng cám cũng phải mua theo tiêu chuẩn phân phối. Cha ông ta dạy chẳng có sai: “Cái khó ló cái khôn”. Trước việc công ty lương thực bán cám phân phối cho công nhân viên, vợ tôi xin tên các đồng nghiệp ở bệnh viện không nuôi heo để đứng tên được mua số lượng cám nhiều hơn. Hằng ngày, vào các buổi tối khoảng từ 7 đến 8 giờ, cô ấy bỏ cám vào thùng, sau đó chất lên xe đạp hai bên hai thùng, chở đến nhà làm bún ở dưới dốc cầu vồng đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn), gửi ở đó để nhờ các chú thợ làm bún đổ nước luộc bún đang sôi vào thùng cho chín cám. Sáng hôm sau, khoảng từ 4 đến 5 giờ, vợ tôi tranh thủ lên chở về để cho heo ăn thay vì nấu cám trộn vào rau. Đặc biệt, thời gian vợ tôi mang thai đứa con thứ hai thì khó khăn càng chồng chất. Vì tôi lớn tuổi mới lập gia đình nên phải tranh thủ sinh ba năm hai đứa nên rất cực. Trong lúc đó, cha mẹ tôi không còn, cha mẹ vợ già yếu lại ở trong quê nên vợ chồng tôi không có ai phụ giúp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2020, 04:02:35 pm »

Thương vợ một mình lặn lội thân cò nuôi hai đứa con nhỏ dại, tôi xin đất ao ở gần đơn vị để trồng rau muống. Tranh thủ thời gian nghỉ, tôi cũng cởi quần áo dài nhảy xuống ao nhổ cỏ, bón phân. Còn vợ tôi, hằng ngày khi đi làm buổi chiều về lại ghé qua đám rau cắt một vài bó, ngọn để dành cho người, gốc và cọng cứng thì cho heo. Ngoài ra, vợ tôi còn phải mua thêm bèo về chẻ ra để trộn chung với rau muống làm thức ăn cho heo. Một nách hai đứa con thơ, lại chăm sóc thêm đàn heo nên không thấy lúc nào vợ tôi rảnh rỗi. Tôi rất thương cô ấy, nhưng do việc nhà binh nên đành phó mặc mọi chuyện cho người vợ hiền. Biết được tâm trạng của chồng, vợ tôi đã động viên ngược: “Anh yên tâm công tác. Chăm sóc gia đình là thiên chức của người phụ nữ. Anh đừng bận tâm”. Tôi không bận tâm làm sao được khi trông thấy hình dáng của người vợ yêu quý ngày càng gầy đi. Không những nuôi heo thịt, vợ tôi còn nuôi cả heo nái. Nuôi con và nuôi heo. Vợ tôi quay như chong chóng trong cơn bão cuộc đời. Bây giờ nhớ lại, tôi vẫn không thể nào lý giải nổi sức mạnh nào đã giúp cho vợ tôi ngày ấy vừa làm tốt công tác cơ quan, vừa thu vén chuyện gia đình đâu vào đấy. Tôi đem thắc mắc này hỏi cô ấy. Vợ tôi chỉ cười và bảo: “Đó là tình yêu chồng và lòng thương con”. Ngày ngày, cứ đúng 7 giờ, vợ tôi phải có mặt tại cơ quan để giao ban bệnh viện, sau đó phục vụ bệnh nhân đến 11 giờ 30 phút. Tiếng kẻng báo hết giờ vừa dứt, vợ tôi đã chân thấp chân cao vội vàng đạp xe về nhà lo cho bầy heo và cơm nước cho gia đình. Hầu như cô ấy không có giờ nghỉ trưa, vì đến 13 giờ đã phải có mặt tại cơ quan để tham gia đọc báo đầu giờ. 16 giờ 30 phút tan tầm buổi chiều, vợ tôi cùng chiếc xe đạp cà tàng, chạy vội ra khung hội nghị cắt rau chở về nhà, để kịp đón con tại nhà mẫu giáo Tuổi Thơ. Đứa lớn ngồi sau, đứa nhỏ ngồi trước, chị em chúng ôm nhau để mẹ đẩy về. Nấu cơm, nấu cám heo, v.v đều được chụm bằng mùn cưa. Vì vậy, trong căn nhà nhỏ của tôi hễ có vợ ở nhà là khói lại bốc lên cay xè, chảy cả nước mắt, nước mũi. Giải quyết khó khăn là một chuyện, nhưng vợ tôi cũng là người tham công tiếc việc. Vì thế trong chuồng heo nhà tôi lúc nào cũng có từ 3 đến 4 con heo thịt và một bầy heo con. Để chia sẻ những khó khăn vất vả của người vợ, tôi cũng tranh thủ đi bỏ thùng và chở nước bún vào 4 giờ sáng hằng ngày. Sở dĩ, tôi phải đi sớm như vậy để những người lính hoặc bà con quanh xóm không biết mình đi chở nước bún. Sau khi cho heo ăn, đến đánh vật với bữa ăn sáng của các con xong, vợ chồng tôi mỗi người lại một ngả về với công việc ở cơ quan. Nhờ sự chuyên cần của vợ nên hằng năm, gia đình tôi xuất chuồng từ 2 đến 3 tạ heo hơi, trừ chi phí rồi cũng đủ tiền lo liệu thêm cho gia đình, con cái.

Nuôi heo được một thời gian, vợ tôi xoay sang bán đá cây, vì sau này heo thường bị dịch chết giữa chừng nên mất cả vốn lẫn lời. Hằng ngày, cứ khoảng 4 giờ, cô ấy dậy chuẩn bị bữa sáng cho các con xong rồi đạp xe lên mấy lò làm đá ở phường Bình Hiên, đường Trưng Nữ Vương, hoặc đường Yên Bái chở từng cây đá về bán lấy lãi. Hôm nào trời nắng, mỗi sáng chở chừng hai cây bán lại cho mấy quán quanh nhà là vợ tôi có thêm từ 10 đến 20.000 để chi tiêu trong gia đình. Nói chung trong thời bao cấp, ai cũng gặp nhiều khó khăn. Sau này, khi Đảng, Nhà nước ta có chủ trương xóa đi chế độ tem phiếu thì không riêng gia đình tôi mà ai cũng mừng, khỏi mất thời gian xếp hàng chờ đợi từ 3 đến 4 giờ sáng để mua thực phẩm theo phân phối.

Kỷ niệm thời bao cấp không phải là những gì hào hùng, vẻ vang như lúc còn chiến tranh. Nhưng chính nó cũng góp phần phản ánh một giai đoạn phát triển của xã hội. Ngày ấy, khoảng thời gian rảnh rỗi của cán bộ công nhân viên quả là hiếm hoi. Cả tuần chỉ được nghỉ một ngày chủ nhật thì phải tranh thủ xếp hàng chờ mua lương thực, thực phẩm. Thông thường, chúng tôi phải chờ từ 2 đến 3 tiếng đồng hồ mới nghe gọi đến tên mình vào mua. Vì thế mới có chuyện các cô thương nghiệp hay làm mình làm mẩy, hay người mua lách luật ưu tiên, tìm mối quen biết để được về sớm, v.v.

Dẫu cuộc sống gia đình khó khăn, một mình phải bươn chải để duy trì tiếng cười trong tổ ấm, nhưng khi nói về chồng, vợ tôi rất tự hào. Đã không ít lần, tôi nghe bạn bè truyền lại lời cô ấy rằng: “Chồng tôi thật sự là anh lính Cụ Hồ, luôn xứng danh Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Còn nhiều lắm những gì cô ấy nói về tôi. Chẳng hạn như, anh Lý là một người chồng, người cha mẫu mực, bản lĩnh, chịu thương chịu khó. Đối với ông bà cha mẹ, anh là người con hiếu thảo, có trách nhiệm, sẵn sàng gánh vác mọi việc dù có khó đến đâu đi nữa cũng quyết làm cho được, không chỉ với gia đình mà đối với bà con cô bác cũng vậy. Đối với anh ấy, chữ hiếu chữ tình đều trọn vẹn.

Tình cảm của vợ dành cho tôi thật lớn lao. Vì vậy, tôi càng thấy mình phải có trách nhiệm hơn đối với gia đình. Tôi thường bảo các con: “Gắng học đi con. Cố gắng học thật giỏi, trau dồi đạo đức, thi đỗ có tấm bằng đại học, ra trường rủi mà không xin được việc làm, cùng lắm bán rau hành cũng không ai khinh rẻ mình được”. Đáp lại lòng yêu thương chăm sóc của vợ chồng tôi, cả 3 cháu đều tốt nghiệp đại học. Cháu đầu Lê Trần Minh Hiền tốt nghiệp trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng, đi làm từ năm 2002. Cháu thứ hai là Lê Trần Minh Thảo tốt nghiệp Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, đi làm năm 2006 và cháu thứ ba Lê Thị Minh Thanh tốt nghiệp Đại học Kinh tế Đà Nẵng năm 2008, hiện nay đang theo học thạc sĩ tại Ôxtrâylia.

Cuộc sống bình dị của gia đình và sự trưởng thành của 3 đứa con là niềm vui của vợ chồng tôi. Bây giờ đã bước qua phân nửa ngưỡng “thất thập cổ lai hy”, mỗi khi trái gió trở trời những vết thương lại đau nhức nhối, nhưng tôi luôn cảm thấy có sức sống hơn so với thời gian còn làm việc. Được như vậy, tôi thầm nghĩ có lẽ nhờ ơn trên độ trì, ông bà cha mẹ phù hộ. Đồng thời, không thể thiếu vai trò của vợ tôi, một người phụ nữ hiền lành, chịu thương chịu khó, tính tình thẳng thắn trung thực, hết lòng vì mọi người nói chung, chồng con nói riêng. Có thể nói, trong suốt hơn 30 năm phục vụ trong ngành y tế, vợ tôi đã thực hiện đúng như lời Bác Hồ dạy: “Lương y như từ mẫu”. Trong các mối quan hệ gia đình, cô ấy là người con hiếu thảo với cha mẹ, hết lòng yêu thương các em. Ngoài xã hội, vợ tôi luôn thủy chung trọn vẹn với bạn bè, tận tụy trong công việc, v.v. Vì vậy nên khi nghỉ hưu, vợ tôi lòng đầy thanh thản bởi đã làm tròn trách nhiệm của một người công dân. Về với chồng con, vợ tôi là người thầy thuốc mà tôi tin tưởng nhất, người đã lo cho tôi từng viên thuốc, mũi kim... đến chén cơm, bát cháo hằng ngày. Tôi và các con luôn cảm thấy hạnh phúc xen lẫn tự hào vì đã có được người vợ, người mẹ đảm đang mẫu mực.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2020, 04:03:24 pm »

Đến nay, tôi đã bước qua tuổi 75 với 60 năm tham gia cách mạng, tròn 50 năm tuổi Đảng, trong đó có hơn 40 năm đi bộ đội, bị thương nhiều lần. Vì vậy, sức khỏe cũng đã cạn kiệt, vết thương ở đầu luôn làm tôi đau nhức khó chịu. Năm 2010, sau 35 năm ngày đất nước thống nhất, tôi được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là một vinh dự cho tôi và gia đình. Bạn bè, đồng chí, đồng đội vui vẻ đến chúc mừng khiến tôi vô cùng cảm động. Các đồng chí, đồng đội ở Huyện ủy Phú Ninh, Thành ủy thành phố Tam Kỳ, anh Hoàng Minh Thắng, anh Đoàn Khuê, anh Trịnh Ngoạn... và anh Nguyễn Chơn đã đề cử giới thiệu tuyên dương tôi. Sau đó, tôi được Ban Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Quảng Nam, Hội đồng Thi đua khen thưởng tỉnh; Đảng ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam xét và đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý này.

Tôi không thể nào quên khoảnh khắc được đồng chí Huỳnh Ngọc Sơn - Phó Chủ tịch Quốc hội, thay mặt Đảng, Nhà nước trao danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tôi chợt rưng rưng nhớ về các đồng chí, đồng đội đã nằm xuống nơi chiến trường. Không biết trong phút giây trang nghiêm ấy, các anh có về chung vui với tôi không? Sau đó, các đồng chí: Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam Nguyễn Đức Hải, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lê Minh Ánh, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng - Hoàng Minh Thắng đã ôm hôn tôi thắm thiết chúc mừng. Càng vui bao nhiêu, tôi càng thương nhớ Bác Hồ bấy nhiêu. Lời hứa với Bác trước ngày vào miền Nam chiến đấu vẫn vang vọng mãi trong tôi đến tận hôm nay và cả mai sau.

Có một câu chuyện nhỏ hôm tôi đi nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tại Quảng Nam. Hôm ấy, tôi đưa vợ đi cùng. Lúc ban tổ chức gọi đến tên tôi lên nhận, vợ tôi ngồi dưới nghe các anh em đồng chí đồng đội của tôi nói chuyện: “Răng bữa ni ông Lý mới được phong? Xứng đáng quá chứ! Bắn máy bay giỏi lắm! Đánh Mỹ rất hăng, không biết sợ là gì”. Nghe mọi người nói như vậy, vợ tôi không khỏi tự hào về người chồng bao năm gắn bó. Trong mắt vợ tôi ánh lên một niềm kiêu hãnh. Cô ấy chia sẻ: “Nghe các anh nói, em càng hiểu và tự hào về anh, nay còn sống đúng là hạt gạo trên sàng. Nhìn anh em, đồng chí đồng đội của anh chúc mừng trong tình cảm nồng ấm thân mật tình đồng chí đồng đội em cũng thấy xúc động và nghẹn ngào”.

Gần cả cuộc đời tôi chiến đấu, công tác chủ yếu trên chiến trường Quảng Nam thân yêu. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, tôi đã đem hết sức lực, tài năng và một phần xương máu cống hiến cho quê hương, cho Tổ quốc. Tuy nhiên, so với sự hy sinh của các đồng chí, đồng đội và nhân dân cả nước nói chung, Quảng Nam nói riêng thì sự hy sinh cống hiến của tôi chẳng đáng là bao. Từ đáy lòng mình, tôi xin tri ân các đồng chí đồng đội, các cha, các mẹ, các anh, các chị đã cùng tôi chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc suốt 60 năm ấy biết bao nghĩa tình.

Những năm gần đây, tôi đã nhiều lần đi thăm lại chiến trường xưa, thăm các cha, các mẹ, các anh, các chị, các em cùng những gia đình đã cưu mang đùm bọc và giúp đỡ cho tôi và đồng đội trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất. Đồng thời, tôi cũng đến nghĩa trang liệt sĩ ở các huyện và tỉnh, nghĩa trang Trường Sơn. Đường 9, thắp nén hương thơm cầu mong linh hồn các đồng chí, đồng đội và đồng bào được siêu thoát, yên nghỉ nơi suối vàng. Cũng là lời kết cho cuốn sách, tôi xin gửi tới các vị cao niên gần xa, các đồng chí bạn bè thân hữu lời tri ân nhớ thương sâu sắc nhất mà tôi không có dịp hàn huyên tâm sự ân tình.

Nhớ lại cuộc đời và sự nghiệp với bao nỗi thăng trầm, tôi vẫn một lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân, thủy chung cùng đồng chí, đồng đội, hiếu thảo với gia đình. Khi về hưu, sống cuộc sống giản dị, trong sạch, không làm gì trái với lương tâm, pháp luật, đó là lời tâm sự cùng bạn bè, sẻ chia cùng đồng đội khi tôi có điều kiện chiêm nghiệm đời mình. Đây cũng là ước nguyện mong tuổi trẻ gìn giữ đến mai sau. Mong rằng các thế hệ trẻ ngày nay có điều kiện học tập rèn luyện, cần phát huy tài năng trí tuệ xây dựng đất nước nói chung, quê hương Quảng Nam nói riêng ngang tầm lịch sử, xứng đáng với truyền thống “Quảng Nam trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ”.

Hồi ký này tôi ghi theo nhật kí và trí nhớ của tôi... song thời gian chiến tranh đã lùi xa, sức khỏe đã giảm sút, trí nhớ bây giờ không minh mẫn như cách đây ba mươi đến bốn mươi năm về trước nên không thể tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, kính mong các đồng chí, đồng đội cũng như bạn đọc gần xa lượng thứ.

Đà Nẵng, Xuân Tân Mão 2011
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2020, 04:04:18 pm »

Phụ lục

TRONG TRÁI TIM ĐỒNG ĐỘI

MỘT SỐ PHẦN THƯỞNG TRONG ĐỜI BINH NGHIỆP CỦA ĐẠI TÁ
ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN LÊ HẢI LÝ

- 1 Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

- 1 Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- 1 Huân chương Độc lập hạng Nhì.

- 1 Huân chương Quân công hạng Nhì.

- 1 Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.

- 1 Huân chương Chiến thắng hạng Ba.

- 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất.

- 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì.

- 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba.

- 1 Huân chương Quân kỳ Quyết thắng.

- 3 Huân chương Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba.

- 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.

- 7 Bằng khen Dũng sĩ diệt Mỹ - ngụy, cùng với 7 huy hiệu.

- 4 năm là Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh và nhiều bằng khen của các cấp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2020, 04:05:57 pm »

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Tôi tên: Hoàng Minh Thắng (tức Nguyễn Tấn Vịnh).

Sinh ngày: 20-10-1927.

Quê quán: Thôn Tiên Đỏa - xã Bình Sa - Thăng Bình - Quảng Nam.

Trú quán: Nhà N1 ngõ 40 phố Vạn Bảo - Ba Đình - Hà Nội.

Nhập ngũ: 1-5-1947 chuyển ngành tháng 5-1976.

Ngày vào Đảng: 20-10-1946 chính thức ngày 20-12-1946.

Vào Nam năm 1960 Chính ủy Trường Quân chính Quân khu 5.

- Năm 1963 đến năm 1968 Phó Bí thư - Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Nam.

- Năm 1968 - 1970, Phó Chính ủy Sư đoàn bộ binh 3 (Đoàn Sao Vàng).

- Năm 1970 - 1975 Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam.

Tôi xin tham gia góp ý kiến về đồng chí Lê Hải Lý như sau:

Đồng chí vào Nam chiến đấu năm 1962 đã làm chỉ huy từ đại đội lên Tỉnh đội trưởng. Chiến đấu và chỉ huy chiến đấu 120 trận, từ diệt đại đội Mỹ đến tiểu đoàn ngụy, tôi xin nêu lên một số trận tiêu biểu mà tôi theo dõi đồng chí Lý đánh giặc, chỉ huy gan dạ, dũng cảm, linh hoạt, sáng tạo, độc đáo.

- Xuân năm 1968 Tết Mậu Thân, còn vết thương ở bàn chân đang đi khập khễnh trên cho nghỉ an dưỡng, song bản thân đồng chí Lý xin đi chiến đấu với cương vị lúc này là Chính trị viên Tiểu đoàn 70 chủ lực của Tỉnh đội, động viên anh em cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn chiếm Tỉnh đường Quảng Tín (thành phố Tam Kỳ ngày nay) trong 1 đêm 1 ngày cắm lá cờ Tổ quốc lên dinh Tỉnh trưởng. Giữ vững trận địa đến trưa hôm sau, đơn vị đã diệt được nhiều địch và đồng chí là người chỉ huy bình tĩnh, gan dạ, động viên tiểu đoàn giữ vững trận địa, đơn vị được khen thưởng. Bản thân đồng chí được cấp trên tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì.

- Chiến dịch X1, tiểu đoàn tác chiến phía tây thị xã Tam Kỳ (Tỉnh đường Quảng Tín) đã chỉ huy tiểu đoàn đánh quyết liệt với 1 tiểu đoàn Mỹ, 1 tiểu đoàn cộng hòa, 1 tiểu đoàn bảo an, 30 xe tăng, trong tình hình thế địch hình thành thế bao vây Tiểu đoàn 70, đồng chí Lý nắm 1 trung đội trực tiếp đánh thẳng vào đại đội quân địch, bản thân đồng chí dùng súng AK của chiến sĩ diệt 15 tên lính Mỹ, kéo địch về hướng tấn công bất ngờ của người chỉ huy. Hành động, ý chí chiến đấu đó rất anh hùng, tạo cơ hội cho toàn tiểu đoàn mở hướng vượt ra ngoài, đánh trở lại quân Mỹ - ngụy, làm cho địch bất ngờ, hoang mang, bắn lộn lẫn nhau, Tiểu đoàn 70 đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn cộng hòa, tiểu đoàn bảo an, diệt gọn 1 đại đội Mỹ, bắn cháy 8 xe tăng Mỹ - ngụy. Trận này đồng chí được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì.

- Đến năm 1969, được điều về làm Thị đội trưởng Thị xã Tam Kỳ, được bầu vào Phó Bí thư Thị ủy, thời kỳ này sau xuân Mậu Thân địch thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, rải chất độc hóa học, lực lượng vũ trang có người dao động, chạy đầu hàng địch, khai báo nơi đóng quân của Thị đội. Trước tình hình đó, đồng chí Lý cùng tập thể củng cố 2 đại đội đặc công V18 và V14, đội công tác xây dựng cơ sở và du kích mật, sau một thời gian ngắn vừa xây dựng, vừa củng cố lực lượng, vừa chuẩn bị chiến trường nắm chặt tình hình địch, tổ chức Đại đội 18 tập kích vào Hội đồng Kỳ Nghĩa diệt Hội đồng tề ngụy và một trung đội dân vệ thu toàn bộ vũ khí, sau đó chỉ huy Đại đội 14 đánh vào Hội đồng Kỳ Bích diệt mâm tề và một trung đội dân vệ thu vũ khí. Từ đó, hoạt động du kích mật ở nội ô thị xã hoạt động trở lại, đồng chí chỉ huy Đại đội 18 và 14 tập kích đại đội thám bảo ở vườn nhãn Tam Kỳ diệt gọn thu vũ khí, khi lui quân nhiều đồng chí bị thương, đồng chí Lý trực tiếp khiêng thương binh về căn cứ, chỉ huy V14 đánh thọc sâu xuống Kỳ Hưng diệt một trung đội dân vệ ở cây đa Dù sát thị xã. Được cơ sở giúp đỡ, đồng chí Lý trực tiếp đi chuẩn bị chiến trường diệt gọn một đại đội thám báo ở bắc tỉnh đường, qua chiến đấu buộc địch co cụm lại, ta tổ chức lại đường dây hành lang ra vào thị xã được khắc phục, các đội công tác hoạt động trở lại ra vào thị xã hành lang được an toàn.

Thời kỳ công tác ở Thị đội, đồng chí Lý có công cùng tập thể khắc phục lại phong trào sau Tết Mậu Thân cùng Thị đội chỉ huy diệt gọn 2 đại đội thám báo, 15 trung đội dân vệ, hàng trăm tên ác ôn tề ngụy phản động góp phần cùng Thị ủy, Thị đội giành thắng lợi, bản thân đồng chí Lý được cử đi báo cáo điển hình tại Hội nghị Du kích chiến tranh của Quân khu, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và Chiến sĩ thi đua của tỉnh.

- Năm 1972, được đề bạt Tỉnh đội phó, đồng chí Lý được tín nhiệm cử đi chỉ huy trưởng tiền phương, sử dụng chiến thuật kết hợp binh hỏa lực bao vây đánh lấn buộc địch ra ngoài công sự để diệt như chiến dịch chống lấn chiếm tây thị xã Tam Kỳ, buộc địch đồn Chà Vu, Đá Nẻ thoát ly công sự để tiểu đoàn 70, 72, 74 diệt gọn tiểu đoàn bảo an ngụy; cùng sử dụng chiến thuật này buộc địch đồn Dương Huê, Dương Cháy tháo chạy, Tiểu đoàn 11 phục lót diệt gọn tiểu đoàn bảo an.

- Cùng chiến thuật kết hợp xung hỏa lực Tỉnh đội sử dụng Tiểu đoàn 70 và Tiểu đoàn 74 hỏa lực với bộ đội địa phương Quế Sơn, Thăng Bình tập kết bộ phận tiền phương thôn 2 Phú Thọ, Quế Sơn chuẩn bị đánh đồn Hố Rổi bị lộ. Địch dùng máy bay lên thẳng và pháo binh đánh ác liệt, chúng địch dùng máy bay hạ xuống bắt sống bộ phận tiền phương, nhóm trực thăng 4 chiếc đi đầu bay sát ngọn tre ném lựu đạn, đồng chí Lý dùng súng AK của đồng chí Hiệu nhằm vào nhóm trực thăng bắn một loạt vào đầu chiếc máy bay đi đầu bốc cháy tại chỗ, chiếc thứ 2 chưa kịp bay lên đồng chí đã bắn hết băng đạn thì chiếc máy bay lảo đảo rồi bốc cháy. Trận này có đồng chí Năm Cảnh (Tỉnh đội trưởng) cùng đi vì bị sốt rét nên vệ binh đưa về phía sau, đồng chí cảnh bị trực thăng bắn hy sinh. Sau đó, toàn bộ máy bay trực thăng bay cao, đồng chí Lý di chuyển sở chỉ huy, tổ chức lại lực lượng bao vây diệt gọn đại đội trinh sát của Sư đoàn 2 ngụy, bắt sống 15 tên thu toàn bộ vũ khí, qua trận này đồng chí được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì. Ý chí đó thể hiện tinh thần dũng cảm, phẩm chất anh hùng.

- Xuân 1975, tôi được anh Năm Công gọi đi họp Bộ Chính trị mở rộng ở Hà Nội về, ở nhà lực lượng Quân khu 5, Sư đoàn 2, Lữ đoàn 52 đánh giải phóng 2 chi khu quận lỵ Phước Lâm, chi khu quận lỵ Tiên Phước, 4 tiểu đoàn của tỉnh bố trí đánh phía tây thị xã Tam Kỳ. Tôi về đầu tháng 2 năm 1975, thay đổi phương án đưa 4 tiểu đoàn của tỉnh mở hành lang xuống phía đông Thăng Bình, Tam Kỳ. Quân khu điều động đồng chí Tỉnh đội trưởng đi về quân khu, quyết định đồng chí Lê Hải Lý lên Tỉnh đội trưởng. Tôi, Hoàng Minh Thắng, đi lãnh đạo, chỉ đạo tiền phương ở đồi Tròn, Đức An; lúc này vùng đông địch chiếm lại, đóng chốt dày đặc, một xã có 4 đến 5 đồn bót nền mở hành lang xuống vùng đông rất khó khăn, Tỉnh ủy lập Đảng ủy Ban chỉ huy vùng đông lấy hành lang thôn Tư Bình Chánh thọc xuống vùng đông, đồng chí Lý, Chỉ huy trưởng. Đêm 15 tháng 3 năm 1975 đưa 2 tiểu đoàn của tỉnh và bộ đội địa phương, đội công tác xuống trước, đồng chí Lý chỉ huy đánh chốt điểm giải phóng Bình Hải; sau đêm 18 tháng 3 đưa hết 4 tiểu đoàn xuống vùng đông thực hiện vu hồi chiến dịch đông thị xã Tam Kỳ, giải phóng Bình Đào, Bình Dương, Bình Giang, Bình Sa. Ngày 23 tháng 3 năm 1975, Tiền phương tỉnh điện cho Ban chỉ huy vùng đông vượt qua vùng địch 3 xã chưa giải phóng, đồng chí Lý chấp hành mệnh lệnh dùng 2 tiểu đoàn 70 và 72, đồng chí vượt qua vùng địch đêm 23 tháng 3 năm 1975 đánh đồn Núi Cấm, trận địa pháo 105 ly ở Núi Cấm diệt gọn địch tháo chạy, đánh sập cầu Kỳ Phú. Sáng ngày 24 tháng 3 năm 1975, xe tăng, bộ binh Sư đoàn 2 xuất hiện đầu cầu Tam Kỳ, ngã ba Trường Xuân, địch ở thị xã Tam Kỳ và Tỉnh trưởng Đào Mộng Xuân ở trần, đốt tài liệu, lên xe tháo chạy ra Đà Nẵng. Ta vào giải phóng thị xã Tam Kỳ là tỉnh đầu tiên ở đồng bằng được giải phóng lúc 10 giờ 30 phút ngày 24 tháng 3 năm 1975.

Tôi tự thấy có trách nhiệm đề nghị đồng chí Lê Hải Lý xứng đáng được phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì từ đại đội, tiểu đoàn trưởng, Thị đội, Tỉnh đội trưởng trên cương vị chỉ huy gan dạ - dũng cảm - sáng tạo, ý chí đó còn được thể hiện cụ thể: 5 lần bị thương, 3 lần được tổ chức cho ra miền Bắc đồng chí Lý vẫn xin ở lại bám trụ chiến trường tiếp tục chiến đấu.

                                                                                                                                                                 
Đà Nẵng, ngày 19 tháng 6 năm 2009
HOÀNG MINII THẮNG
Nguyên Chính trị viên Tỉnh đội
và Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2020, 04:08:07 pm »

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Kính gửi: - Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương Bộ Quốc Phòng

- Hội đồng thi đua khen thưởng Trung ương

- Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

- Thường vụ Đảng ủy Quân khu 5

- Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Quảng Nam

- Thường vụ Đảng ủy và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam

Tôi Thượng tướng: Nguyễn Chơn, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

Đồng chí: Lê Hải Lý - Đại tá, Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Quảng Nam.

Đồng chí Lý sinh ra và lớn lên ở huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam địa phương giàu truyền thống cách mạng chống giặc xâm lược.

Từ năm 1962 đến năm 1975 phụ trách nhiều cương vị khác nhau, chủ yếu lãnh đạo và chỉ huy chiến đấu.

“Chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”, đồng chí Lý là chỉ huy trưởng tỉnh Quảng Nam chỉ huy lực lượng tỉnh luôn luôn bám trụ địa bàn, chỉ huy liên tục nhiều trận đánh xuất sắc như đồng chí Lý đã trình bày. Luôn có ý thức phối hợp với chủ lực quân khu về mở rộng chiến dịch ở địa bàn tỉnh.

Như trận ngày 9 tháng 12 năm 1966 phối hợp với Trung đoàn 1 Sư đoàn 2 tiêu diệt 1 tiểu đoàn Mỹ ở Cẩm Khê trên 450 tên xâm lược Mỹ, bắn rơi 3 máy bay trực thăng, ta chủ động phục kích đoạn đường nguy hiểm địch lọt vào ổ phục kích đi hàng dọc, đi sát nhau, tinh thần uể oải mất cảnh giác.

Sáng ngày 13 tháng 12 năm 1966, địch sử dụng 85 trực thăng đến chở cả số bị thương và chết. Trận này bộ đội địa phương Quảng Nam phối hợp cùng chủ lực đánh tốt.

Trận đầu năm 1967, ta đã nắm chắc quy luật của Thiết đoàn 32 ngụy buổi sáng lên thôn 5 Kỳ Thịnh - Tam Kỳ đánh với lực lượng địa phương và du kích, trưa dồn lại một khu vực không dám vô làng, ở bên rìa làng dừng xe để nghỉ trưa. Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1 bộ binh trang bị vũ khí chủ yếu là B40, B41 và ĐKZ, cụ thể là 16 khẩu ĐKZ loại ĐKZ75 và ĐKZ82 và 4 khẩu cối 82mm tổ chức lại một đơn vị có bộ binh và hỏa lực.

Ta phục kích giấu quân ngụy trang kín nơi Chiến đoàn 32 ngụy thường dừng xe lại để nghỉ trưa, ta tiêu diệt 27/32 xe số còn lại địch tháo chạy. Trận này dân quân tự vệ, bộ đội địa phương của huyện tham gia phối hợp chiến đấu tốt với quân chủ lực.

1. Đồng chí Lý trong chiến tranh là cán bộ quân sự chỉ huy của tỉnh Quảng Nam.

Bản lĩnh chính trị luôn vững vàng thể hiện các bước ngoặt của cách mạng, như tháng 8 năm 1965 quân Mỹ ào ạt đổ quân vào Đà Nẵng - Chu Lai là bước ngoặt, trước khi ký Hiệp định Pa-ri và sau khi ký Hiệp định Pa-ri là bước ngoặt. Quảng Nam cùng cả nước chiến đấu để phối hợp với chiến trường Quảng Trị năm 1972 và sau khi ký Hiệp định Pa-ri năm 1973 lúc này địch cắm cờ lấn chiếm đất, quân dân Quảng Nam thề một tấc không đi, một li không rời, lực lượng địa phương liên tục tấn công, phản công địch nhằm giữ dân, giữ đất. Anh Lý xác định mặt trận ngoại giao, mặt trận quân sự thì mặt trận quân sự quyết định trên chiến trường.

2. Tinh thần chiến đấu của anh Lý luôn dũng cảm sâu sát cơ sở các đại đội, các tiểu đoàn của tỉnh.

Khi còn chiến tranh, Quảng Nam là ngọn cờ đầu tiêu diệt Mỹ - ngụy của Quân khu 5.

Đồng chí Lý hiện nay là thương binh 2/4.

3. Ý thức tổ chức kỷ luật luôn gương mẫu cho cấp dưới và nghiêm chỉnh với cấp trên.

Thể hiện việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết, mệnh lệnh của cấp trên nghiêm túc.

Thể hiện Mậu Thân 1968 tổ chức lực lượng đánh vào thị xã Tam Kỳ, Tỉnh đường Quảng Tín v.v... Cán bộ, chiến sĩ, nhân dân thương vong lớn vẫn chấp hành mệnh lệnh nghiêm chỉnh hết đợt 1 đến đợt 2 v.v...

4. Tôi và một số ít cán bộ ở miền Bắc về lại chiến trường công tác, chiến đấu, thời kỳ này chưa có Mặt trận dân tộc giải phóng. Cán bộ ở Bắc chiến trường Khu 5 hầu như tôi biết hết cán bộ Đảng, cán bộ quân sự, cán bộ chính trị nhất là cán bộ tỉnh đội, do thông qua lãnh đạo chỉ huy chiến đấu.

Đồng chí Lê Hải Lý có nhiều nguyên nhân khác nhau trước đây chưa đề cập phong anh hùng. Nay cấp trên có chủ trương, tôi đề nghị cấp trên xem xét, bản thân tôi thấy phong anh hùng cho đồng chí Lý là xứng đáng. Tôi đề xuất còn xem xét quyết định là do cấp trên.

Kính thư
                                                                                                                                                                       
Thượng tướng NGUYỄN CHƠN
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2020, 04:10:01 pm »

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA ĐỒNG ĐỘI

Chúng tôi gồm:

Trịnh Ngoạn - nguyên Chính trị viên phó Tỉnh đội Quảng Nam, nguyên Phó Chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự Đà Nẵng, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, nguyên Bí thư Thị ủy Tam Kỳ nghỉ hưu. Hiện thường trú tại tổ 40 phường Hòa Thuận Tây - quận Hải Châu - thành phố Đà Nẵng.

Võ Ngọc Khuê - nguyên Chủ nhiệm Chính trị Tỉnh đội Quảng Nam, nguyên Tỉnh ủy viên, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng nghỉ hưu. Hiện thường trú tại tổ 47 phường Vĩnh Trung - quận Thanh Khê - thành phố Đà Nẵng.

Là bạn gần gũi của đồng chí Lê Hải Lý gần như suốt cả cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cho đến ngày toàn thắng, xin có mấy ý kiến về bản báo cáo thành tích của đồng chí Lê Hải Lý đề nghị tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân như sau:
 
1. Chúng tôi hoàn toàn xác định bản báo cáo thành tích của đồng chí Lê Hải Lý là hoàn toàn đúng sự thật vì thành tích chiến đấu của đồng chí Lê Hải Lý chẳng những chúng tôi xác định mà trong suốt cuộc chiến tranh đều được cán bộ, chiến sĩ các đơn vị trực thuộc Tỉnh đội Quảng Nam xác định là một cán bộ chỉ huy có bản lĩnh và có nhiều thành tích xuất sắc trong chỉ huy tác chiến cũng như xây dựng lực lượng trong hoàn cảnh hết sức khó khăn.

2. Một số ý kiến cụ thể về quá trình chiến đấu của đồng chí Lê Hải Lý: Trong gần 15 năm chiến đấu trên chiến trường Quảng Nam (1961 - 1975) với cương vị là Tiểu đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Tỉnh đội, Tỉnh đội phó và Quyền Tỉnh đội trưởng, trong chiến dịch Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, đồng chí Lê Hải Lý là một cán bộ chỉ huy, luôn luôn có tinh thần quyết tâm và ý chí chiến đấu tấn công địch quyết liệt, thể hiện trong chỉ huy tác chiến bình tĩnh, gan dạ, mưu trí trong đánh địch, là chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho các đơn vị trực tiếp tham gia chiến đấu mà nổi bật là các trận:

- Trận đánh chiếm Tỉnh đường Quảng Tín (Quảng Nam) trong chiến dịch Tổng tiến công Mậu Thân Xuân 1968, đồng chí trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 70 đánh chiếm tỉnh đường, địch phản công quyết liệt vẫn kiên cường chiến đấu giữ vững trận địa, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và bình tĩnh tổ chức đơn vị rút lui an toàn.

- Trận Phú Ninh - thị xã Tam Kỳ trong chiến dịch tiến công X1, với một tiểu đoàn trong thế trận bị 3 tiểu đoàn địch (trong đó có 1 tiểu đoàn Mỹ) bao vây, đồng chí vừa trực tiếp cầm súng chiến đấu, vừa chỉ huy Tiểu đoàn chiến đấu tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá vòng vây, tổ chức đơn vị rút lui an toàn.

- Trận đánh quân đổ bộ đường không (Quế Sơn) trong thế trận hiểm nghèo, địch đã dùng bom, pháo với cường độ lớn và trực thăng đổ quân hòng tiêu diệt sở chỉ huy và Tiểu đoàn 70.

Với cương vị là Tham mưu trưởng Tỉnh đội (trong khi Tỉnh đội trưởng vắng mặt) đồng chí đã bình tĩnh chỉ huy tiểu đoàn đánh trả quyết liệt, tiêu diệt toàn đại đội trinh sát thám báo Sư đoàn 2 ngụy. Bản thân đồng chí, Lý vừa cõng thương binh, vừa tổ chức chỉ huy đơn vị lui về căn cứ.

Đặc biệt là trong chiến dịch Tổng tiến công mùa Xuân 1975, với cương vị Quyền Tỉnh đội trưởng, đồng chí đã chỉ huy các tiểu đoàn 70, 72, 74 đánh thọc sâu từ vùng tây đến vùng đông Thăng Bình, đông Tam Kỳ, đánh thẳng lên thị xã Tam Kỳ phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang Quân khu 5 tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân địch, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Nam vào ngày 24 tháng 3 năm 1975.

Trong các trận đánh kể trên đồng chí Lê Hải Lý được tặng thưởng nhiều Huân chương Chiến công.

Với thành tích chiến đấu xuất sắc của đồng chí Lê Hải Lý, chúng tôi đã nhiều lần đề xuất đề nghị tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhưng do sau giải phóng Tỉnh đội Quảng Nam sáp nhập với Quảng Đà thành Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nên đề xuất trên chưa được giải quyết. Vì vậy lần này chung tôi tiếp tục đề nghị cấp trên xem xét phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho đồng chí Lê Hải Lý.

                                                                                                                                                                 
Đà Nẵng, ngày 19 tháng 6 năm 2009
TRỊNH NGOẠN - VÕ NGỌC KHUÊ
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2020, 04:12:22 pm »

NGƯỜI CHỈ HUY CAN TRƯỜNG

VÕ NGỌC KHUÊ
Tổ 49 - phường Vĩnh Trung,
                                                                                                                                                               
quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

Tôi rất may mắn được cùng đồng chí Lê Hải Lý tham gia một số trận đánh trong các chiến dịch lớn trên cùng chiến trường Quảng Nam.

Qua các trận đánh đó điều cảm nhận lớn nhất của tôi với đồng chí Hải Lý là: Dù trong tình huống nào đồng chí vẫn bình tĩnh và quyết đoán nhanh chóng tổ chức chỉ huy và động viên bộ đội kịp thời đánh trả quyết hệt, tiêu diệt gọn hoặc tiêu hao phần lớn sinh lực địch, bảo toàn lực lượng ta. Tiêu biểu là các trận Phú Ninh (thị xã Tam Kỳ) 1969, Phú Thọ (Quế Sơn) 1972 và chiến dịch tấn công giải phóng vùng Đông Thăng Bình - Tam Kỳ, tiến lên phối hợp chủ lực Quân khu 5 giải phóng thị xã Tam Kỳ - tỉnh lỵ Quảng Nam.

Chính bản lĩnh và ý chí chiến đấu của đồng chí được thể hiện bằng lời nói và cả hành động là: “Địch phục thì đánh địch mà đi; địch tấn công, ta phản công quyết liệt” thì chiến thắng bao giờ cũng thuộc về ta, rõ nét nhất là năm 1972 trên đường hành quân đến xã Phú Thọ, Quế Sơn thì bị địch phát hiện, chúng sử dụng ngay đại đội trinh sát của Sư đoàn 2 ngụy đổ bộ bằng trực thăng đánh thẳng vào đội hình bộ đội ta hòng đánh đòn phủ đầu tiêu diệt lực lượng ta. Tuy rất bị động và bất ngờ nhưng đồng chí đã bình tĩnh động viên bộ đội lập tức đánh trả, tiêu diệt toàn bộ quân địch, đưa bộ đội về căn cứ an toàn.

Trên đường lui quân về vùng giải phóng, đồng chí còn tự mình cõng một thương binh mặc dù bản thân đồng chí cũng là một thương binh.

Bây giờ chiến tranh đã lùi xa, nhưng trong ký ức của tôi về Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Hải Lý vẫn là người anh, người đồng đội thân thiết, người chỉ huy can trường năm nào. Nhắc đến anh, tôi lại nhớ đến những câu ca dao truyền miệng của người Quảng Nam:

“Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Rượu hồng đào chưa nhấm đã say.
Bạn về nằm nghĩ gác tay,
Chớ ai mô trọng nghĩa ơn dày cho bằng ta.
Dù xa chỗ ngõ cũng xa,
Dù gần Vĩnh Điện La Qua cũng gần”.

Chúng tôi đã bước sang nửa bên kia của cuộc đời, song cùng sinh sống trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nên thỉnh thoảng anh em lại gặp nhau và ôn lại một thời hào hùng đã qua. Mỗi lần như vậy, tôi lại thấy anh như trẻ lại. Anh sôi nổi nhắc đến đồng chí này, bà mẹ kia, v.v. Tôi thầm nhủ: Có lẽ trong trái tim người anh hùng ấy còn rất nhiều phần cho đồng chí, đồng đội, cho những bà mẹ một thời chong đèn, đào hầm bí mật nuôi dưỡng bộ đội trong những năm kháng chiến thần thánh của dân tộc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2020, 04:14:49 pm »

TỈNH ĐƯỜNG QUẢNG TÍN
XUÂN MẬU THÂN 1968

NGUYỄN LONG KHÁNH

Hằng năm, khi mùa xuân đến mang theo niềm hạnh phúc cho đất và người. Đối với Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Hải Lý, mùa xuân đối với ông còn là kỷ niệm một thời cùng đồng đội tham gia đánh chiếm Tỉnh đường Quảng Tín trong chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968.

Tham gia chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, Tiểu đoàn 70 đảm nhiệm vai trò chủ công của lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Nam có nhiệm vụ tấn công vào thị xã Tam Kỳ. Mục tiêu cụ thể là Tỉnh đường Quảng Tín, tòa hành chánh tỉnh trưởng và giải phóng nhà lao.

Theo dự kiến ban đầu, đơn vị sẽ tiến công từ phía tây, tức từ hướng Kỳ Thịnh xuống Tam Kỳ. Song do xác định thời gian có sự sai lệch về lịch âm, dương nên có nơi đã tuyên bố tổng tiến công và nổi dậy. Vì vậy, tiểu đoàn không thể thực hành tiến công theo kế hoạch. Trước tình hình đó, Chính trị viên tiểu đoàn Lê Hải Lý đã cùng với Tiểu đoàn trưởng Vũ Thành Năm đề nghị Tỉnh đội chuyển hướng tiến công từ phía tây sang phía bắc. Được sự nhất trí của cấp trên, ngay trong ngày hôm ấy, đội hình tiểu đoàn vận động chuyển sang hướng bắc. Đại tá Lê Hải Lý nhớ lại: “Khi chuyển hướng tiến công, chúng tôi phải đi vòng qua nhiều khu vực địch chốt giữ. Lúc hành quân xuống đến Phương Hòa, tội gặp đồng chí Trần Chí Thành, Thị ủy viên, Đội trưởng Đội công tác cánh bắc Tam Kỳ, để bàn bạc trao đổi tình hình, xác định quyết tâm chiến đấu, lựa chọn cách đánh”. Cũng theo đánh giá của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Hải Lý, do đổi hướng đánh, lựa chọn lại mục tiêu nên đơn vị xác định sẽ gặp một số khó khăn trong quá trình thực hành tiến công vào Tỉnh đường Quảng Tín. Biết được những băn khoăn của ban chỉ huy Tiểu đoàn 70, Đội trưởng Đội công tác Trần Chí Thành khẳng định: “Các đồng chí yên tâm! Chúng tôi sẽ phối hợp chặt chẽ trong suốt quá trình chuẩn bị chiến đấu và thực hành chiến đấu”. Sau đó, anh bố trí lực lượng cơ sở mật, du kích mật, kể cả một số cơ sở trong trung đội lính nghĩa quân dẫn đường cho đội hình tiểu đoàn tiếp cận mục tiêu. Nhờ đó, đơn vị đã lách qua vị trí đóng quân của hai tiểu đoàn lính ngụy ở phía tây và tiểu đoàn lính bảo an đoạn nhà lao, phía đông là nơi chốt chặn của tiểu đoàn lính cộng hòa và chi đoàn xe tăng Mỹ, từng bước áp sát mục tiêu an toàn. Đại đội 2, do đồng chí Nguyễn Kinh làm Đại đội trưởng, trong đó có trung đội của Trung đội trưởng Trần Kim Chước làm mũi thọc sâu có nhiệm vụ đánh chiếm tòa thị chính và nhà tỉnh trưởng đã bí mật vượt qua sáu lớp rào thép gai, áp sát nhà tỉnh đường. Đồng thời, Đại đội 3 cũng áp sát bờ rào của nhà lao. Lực lượng của Đại đội 1 được chia thành hai bộ phận, trong đó hai trung đội làm dự bị cho Tiểu đoàn 70 và bộ phận còn lại tăng cường cho Đại đội 2.

Khoảng 24 giờ ngày 31 tháng 1 năm 1968, chính trị viên và tiểu đoàn trưởng đi kiểm tra toàn bộ đội hình của tiểu đoàn, động viên anh em quyết tâm chiến đấu giành thắng lợi, sau đó về vị trí chỉ huy xin ý kiến tỉnh đội cho nổ súng. Đúng 1 giờ 30 phút ngày 1 tháng 2 năm 1968, lệnh nổ súng tấn công Tỉnh đường Quảng Tín được phát đi. Lập tức, trung đội của đồng chí Trần Kim Chước đánh thẳng vào nhà chỉ huy tỉnh đường, chiếm ngay nhà đại tá tỉnh trưởng Đào Mộng Xuân. Lực lượng còn lại của Đại đội 2 tiếp tục nổ súng, sử dụng bộc phá bốc dỡ chướng ngại vật tiến vào tỉnh đường. Cùng lúc, hỏa lực và xung lực của Đại đội 3 tấn công dồn dập tiểu đoàn lính bảo an, sau đó hỏa lực chuyển làn bắn vào bên trong trận địa. Sau hơn một giờ chiến đấu, Trung đội trưởng Trần Kim Chước điện báo về ban chỉ huy tiểu đoàn đã chiếm được tỉnh đường và cắm cờ giải phóng lên nóc tòa nhà tỉnh trưởng, các bộ phận còn lại tiếp tục chiến đấu với lực lượng địch phía trong tỉnh đường.

Khoảng 6 đến 7 giờ sáng ngày 1 tháng 2, ở phía đông, lính cộng hòa và xe tăng Mỹ bắt đầu phản kích quyết liệt. Chúng tập trung hỏa lực đánh thẳng vào bên sườn của ta, cắt đứt đội hình Tiểu đoàn 70 thành hai bộ phận. Đại tá Lê Hải Lý cho biết: “Lúc này, ban chỉ huy tiểu đoàn chỉ còn một mình tôi. Vì đêm hôm ấy, đồng chí tiểu đoàn trưởng bị thương đã đưa ra trạm phẫu, đồng chí Tiến, Tiểu đoàn phó hy sinh”. Địch phản ứng quyết liệt khiến lực lượng còn lại của ta không vào được bên trong. Chính trị viên Lê Hải Lý phải liên lạc với Trần Kim Chước bằng máy thông tin PRC25, để chỉ huy và động viên anh em giữ vững tinh thần chiến đấu. Cuộc chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt. Nhờ có sự yểm trợ của hỏa lực mạnh, bộ binh địch đã từng bước chiếm lại được một số vị trí. Về phía ta, nhiều đồng chí đã chiến đấu dũng cảm và anh dũng hy sinh. Chính trị viên Lý vừa trực tiếp chỉ huy điều động lực lượng dự bị tăng sức chiến đấu cho các bộ phận, vừa động viên anh em kiên quyết ngăn chặn, tập trung đánh bộ binh địch để bảo vệ thương binh liệt sĩ. Trời càng về trưa, địch càng tăng thêm lực lượng với quyết tâm chiếm lại tỉnh đường. Một bộ phận quân cộng hòa và lính Mỹ đã áp sát sở chỉ huy của tiểu đoàn. Tình thế lúc này khá nguy nan. Chính trị viên Lê Hải Lý phải sử dụng khẩu súng AK của một chiến sĩ đã hy sinh vừa nổ súng ngăn chặn, tiêu diệt những tên lính ngụy đi đầu để sở chỉ huy cơ động ra phía ngoài, vừa bao quát toàn bộ trận đánh. Kể đến đây, gương mặt người cựu chiến binh chợt đanh lại. Chờ qua cơn xúc động, ông tiếp tục: “Quân địch bị ta đánh trả quyết liệt đã lùi về phía sau để hỏa lực của xe tăng, pháo binh bắn mạnh vào đội hình đối phương, sau đó tổ chức tiến công tiếp. Lúc này, một đồng chí xạ thủ trung liên của Đại đội 2 bị trúng đạn hy sinh. Tôi vội bỏ khẩu AK xuống, nằm rạp bên cạnh khẩu trung liên tiếp tục thay vị trí người chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, bắn kìm chân, thu hút hỏa lực của địch để các đơn vị đưa anh em thương binh, liệt sĩ ra ngoài. Tôi vừa chỉ huy đơn vị, vừa bắn chặn địch và bám sát đội hình”. Theo dòng hồi tưởng của người chỉ huy, lúc này Tiểu đoàn 70 phải vừa chiến đấu, vừa lui quân chuyển đến Phương Hòa, thuộc thôn 1, xã Kỳ Thịnh, huyện Bấc Tam Kỳ (Quảng Nam).

Trong lúc đó, mũi thọc sâu của Trần Kim Chước vẫn giữ vững mục tiêu đã chiếm và chiến đấu kiên cường, đánh trả quyết liệt các đợt tiến công của địch. Sử dụng hỏa lực mạnh không hiệu quả, gọi hàng bị đáp trả bằng những loạt đạn AK chính xác, cuối cùng địch phải dùng chất độc thần kinh CS, đánh vào nhà tỉnh trưởng. Cơn xúc động lại đến trong trái tim người anh hùng suốt một đời trận mạc. Ông nói giọng chùng xuống: “Khoảng 10 giờ hôm ấy, tôi không còn bắt được liên lạc với đồng chí Chước. Tôi hiểu các đồng chí của tôi không còn nữa. Các anh đã chiến đấu và hy sinh anh dũng, giữ trọn lời thề: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cuộc chiến đấu vẫn tiếp diễn, song ưu thế về lực lượng, hỏa lực của địch đã gây cho chúng tôi nhiều khó khăn”. Tiểu đoàn 70 đã đánh chiếm và giữ Tỉnh đường Quảng Tín trong suốt nhiều giờ. Địch tập trung các loại vũ khí hạng nặng, giở mọi thủ đoạn chiến tranh nhằm khuất phục quân ta. Nhưng những người lính của Tiểu đoàn 70 năm ấy vẫn kiên cường bám trụ với quyết tâm giữ vững mục tiêu đã chiếm được. Tuy nhiên, trước quân thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần, được tăng viện thường xuyên lại có thời gian nghỉ ngơi giữa các đợt tiến công; trong khi đó chúng ta đã chiến đấu liên tục trong thời gian dài, một số đồng chí đã bị thương, hy sinh nên khả năng chiến đấu phòng ngự của ta có phần giảm sút. Vì vậy, chỉ huy tiểu đoàn quyết định vừa đánh, vừa lui để bảo toàn lực lượng còn lại. Sau khoảng 36 tiếng đồng hồ chiến đấu, đội hình của ta dần lùi ra khỏi khu vực chiến sự, là thời gian đồng chí cuối cùng rút khỏi tỉnh đường từ bờ rào do cơ sở của đồng chí Thành đưa ra.

Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Hải Lý trầm ngâm: “Trận đánh vào Tỉnh đường Quảng Tín đã để lại trong tôi nhiều kỉ niệm sâu sắc. Đó là một cuộc chiến đấu cực kỳ ác liệt, thể hiện sự quyết tâm cao độ của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 70. Đây cũng là trận đánh mà đồng chí, đồng đội của tôi bị thương, hy sinh, nhiều nhất từ trước đến nay. Bản thân tôi cũng bị mấy vết thương liên tục. Vết này chưa lành hẳn thì vết khác lại chồng lên”. Bằng giọng nói nghẹn ngào, ông cũng nhắc lại trường hợp đồng chí Hiểu bị thương nặng trong chiến đấu đã hy sinh trên đường cơ động. Lúc ấy, Chính trị viên Lê Hải Lý vừa quan sát chỉ huy đội hình hành quân, vừa đi cạnh anh em thương binh để động viên các đồng chí khiêng cáng và những người bị thương. Dường như anh em cũng hiểu tâm trạng của người chỉ huy, tình hình đơn vị nên dù đau đớn vẫn không một lời rên la. Nhiều đồng chí toàn thân quấn băng trắng toát nhưng thấy anh đến lại nhoẻn cười để yên tâm lo công việc đơn vị. Bất chợt, có tiếng gọi khẽ cất lên: “Anh Lý! Anh Lý cúi xuống”. Nhưng người chính trị viên vừa quay lại, chưa kịp cúi thì đồng chí Hiểu đã ngã xuống, nói thều thào: “Em ra đi! Em đã hoàn thành nhiệm vụ”. Đôi mắt người chiến sĩ từ từ nhắm lại với nét mãn nguyện trên gương mặt và anh im lặng mãi mãi. Đại tá Lý cố kìm nén xúc động nói: “Có lẽ không một ngòi bút nào có thể diễn tả nỗi tâm trạng của tôi lúc ấy. Đó là sự pha trộn của tình thương, lòng kính phục và trách nhiệm của người chỉ huy. Để yên lòng anh em và giữ nghiêm tinh thần sẵn sàng chiến đấu, tôi đã bặm môi không dám khóc người chiến sĩ của mình trước lúc về với đất mẹ vẫn còn nhớ nhiệm vụ của người lính”. Người chỉ huy ngậm ngùi bồng Hiểu đặt lên bờ ruộng, sửa lại tư thế để anh nằm thẳng người, rồi cởi hai chéo dù của mình đắp lên người đồng chí vừa hy sinh và đánh giấu để nhân dân đến chôn cất. Nhiệm vụ phía trước vẫn còn, không thể chậm trễ, Lê Hải Lý vội ôm hôn người chiến sĩ lần cuối cùng với lòng xót thương vô hạn. Đi được một đoạn khoảng 100 mét, Chính trị viên Lý lại gặp một đồng chí thương binh không bước nổi mà phải vừa đi vừa bò. Lúc đó, Lê Hải Lý cũng đang đi khập khiễng nên không thể cõng người thương binh được, đành phải một tay chống cây gậy tre, còn tay kia đỡ anh ấy dậy, xốc nách và dìu nhau bước về nơi an toàn.

Cuộc chiến đấu vào Tỉnh đường Quảng Tín năm xưa đã trải qua hơn bốn thập kỷ. Tuy nhiên, trong trái tim người cựu Chính trị viên Tiểu đoàn 70 dường như vừa mới xảy ra hôm qua. Hằng năm, khi nhìn những cánh mai vàng khoe sắc, ông lại nhớ đến đồng đội đã ngã xuống trong chiến dịch Mậu Thân 1968.

Đối với Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Hải Lý: “Đồng đội là một phần máu thịt của đời mình”. Và trong mỗi cánh hoa xuân, ông đều thấy đồng chí mình chập chờn ẩn hiện.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 03 Tháng Mười Hai, 2020, 04:15:40 pm »

KÝ ỨC HỐ RỔI

LONG AN

Một lần tháp tùng Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Hải Lý và đoàn cựu chiến binh về thăm chiến trường xưa trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, khi đến xã Phú Thọ, huyện Quế Sơn, tôi phát hiện ông thỉnh thoảng lại đưa tay lên xem đồng hồ. Thấy người cựu chiến binh nhìn đồng hồ nhưng có vẻ không quan tâm đến thời gian, tôi bất giác đặt câu hỏi: “Chiếc đồng hồ này có liên quan đến kỷ niệm xưa phải không bác?”. Đại tá Lê Hải Lý gật đầu xác nhận: “Đây là chiếc đồng hồ tôi được đồng chí Đội trưởng Đội công tác Phú Thọ tặng để xem giờ chỉ huy hiệp đồng chiến đấu trong trận Hố Rổi”.

Theo dòng ký ức của các cựu chiến binh, đầu năm 1972, nhằm rút kinh nghiệm cho cách đánh cứ điểm, Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam giao nhiệm vụ cho Tỉnh đội phó kiêm Tham mưu trưởng Tỉnh đội đi chuẩn bị chiến trường ở Hố Rổi, nơi tiếp giáp giữa xã Phú Thọ huyện Quế Sơn và xã Bình Định huyện Thăng Bình. Đại tá Lý nhớ lại: “Sau khi lập kế hoạch, xây dựng quyết tâm chiến đấu, tôi báo cáo với Ban chỉ huy Tỉnh đội và được các đồng chí nhất trí với phương án và quyết tâm đánh cứ điểm Hố Rổi để làm kinh nghiệm cho những trận đánh tiếp theo”. Lúc này, lính Mỹ trên khắp các chiến trường vẫn còn đông. Hễ ta đánh ở đâu là xe tăng Mỹ đến đó, đặc biệt là máy bay trực thăng vũ trang. Khi khói súng của ta chưa tan đầu nòng đã thấy tên lửa rốc-két của chúng bắn dồn dập xuống trận địa. Do đó, đối với người chỉ huy, khi trinh sát chuẩn bị chiến trường, lập kế hoạch chiến đấu, bên cạnh mục tiêu chủ yếu đánh địch bên trong cứ điểm, cần phải xác định tốt vị trí bố trí trận địa hỏa lực đánh địch trên không khi ta thực hành đột phá cũng như quá trình phát triển chiến đấu.

Được lệnh của Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam, các đơn vị nhanh chóng tổ chức hành quân. Thành phần tham gia chiến đấu gồm có Tiểu đoàn 70, Tiểu đoàn 74 và lực lượng của các huyện đội Quế Sơn, Thăng Bình. Tối 20 tháng 2, khi nhận được báo cáo của các đơn vị về việc tập kết quân số, bố trí đội hình chiến đấu, Tỉnh đội phó Lê Hải Lý đưa tay xem đồng hồ để đối chiếu với thời gian hiệp đồng chiến đấu đã quy định. Nhưng đồng hồ của anh không có dạ quang nên phải loay hoay tìm nguồn sáng. Đúng lúc ấy, anh phát hiện thấy chiếc đồng hồ trên tay đồng chí Đội trưởng Đội công tác Phú Thọ có vệt sáng lân tinh. Lê Hải Lý vội quay sang hỏi giờ để kịp thời chỉ đạo các nhiệm vụ tiếp theo. Anh không ngờ người đội trưởng đã tặng luôn cho anh chiếc đồng hồ để tiện chỉ huy hiệp đồng đánh trận Hố Rổi.

Khi các lực lượng đã cơ bản về vị trí tập kết sẵn sàng cơ động chiếm lĩnh xây dựng công sự trận địa tiến công thì có một biến cố bất lợi đã xảy ra. Sáng 21 tháng 2 bất ngờ có hai chiếc máy bay trinh sát, loại máy bay bà già và 5 chiếc trực thăng, cũng loại là máy bay trinh sát nhưng kiểu tàu rọ, quần lượn trên bầu trời thôn 1 và thôn 2, xã Phú Thọ, huyện Quế Sơn. Chúng bay thấp đến mức cánh quạt vè vè thổi bạt cả lá cây, thậm chí có nơi có nguy cơ bị lộ vì cây cối ngụy trang bị gió thổi nghiêng ngả. Tình huống bất ngờ xảy ra khiến người chỉ huy phải thường xuyên căng mắt để quan sát và kịp thời đề ra biện pháp xử trí. Bằng kinh nghiệm đã qua nhiều năm trận mạc, căn cứ động thái của địch, anh xác định quân ta đã bị chúng phát hiện. Cùng lúc đó, pháo binh từ Tuần Dưỡng, núi Quế bắt đầu đánh cấp tập vào núi Ông Lặng và thôn 2.

Trên không, 5 chiếc máy bay trực thăng vũ trang vẫn vè vè quần lượn, có 4 chiếc đã hạ thấp độ cao để quan sát. Chúng bay rà sát ngọn tre và phát hiện được hầm của sở chỉ huy tỉnh đội. Ngay lập tức, bọn giặc lái điều khiển để máy bay treo đứng yên một chỗ cho những tên lính ngồi trong khoang ném lựu đạn và bắn xối xả xuống khu vực sở chỉ huy. Sau đó, địch tiếp tục ném hỏa mù để hạ xuống bắt sống cán bộ ta. Đại tá Lý hồi tưởng: “Lúc này, nhiệm vụ cơ bản của chúng tội là đánh cứ điểm Hố Rổi trong công sự vững chắc để rút kinh nghiệm nên các lực lượng vân còn giữ bí mật”. Tuy nhiên, tình hình chiến sự diễn ra quá bất ngờ và chuyên biến mau lẹ. Một đồng chí chiến sĩ vệ binh đã bị thương ngay hầm chỉ huy. Đường dây thông tin hữu tuyến điện bị rốc-két và pháo binh địch bắn đứt nhiều đoạn, vì thế thông tin liên lạc bị tắc nghẽn. Trong lúc đó, tốp máy bay thứ hai gồm 2 chiếc tiếp tục lao xuống trước hầm chỉ huy. Lê Hải Lý nhanh chóng chộp lấy khẩu súng AK của chiến sĩ bị thương, nhằm vào đầu chiếc máy bay đầu tiên siết cò. Bị trúng đạn, chiếc máy bay trực thăng bốc cháy và rơi xuống trước hầm chỉ huy khoảng 20 mét. Không hiểu do chủ quan hay vì bay quá gần nên khi chiếc thứ nhất bị cháy, chiếc thứ hai vẫn chưa kịp bay lên. Anh nghiến răng căm thù xả hết băng đạn vào đầu chiếc thứ hai. Nó bay lảo đảo rồi bốc cháy và rơi xuống đồi Ông Lặng, phía sau sở chỉ huy.

Sau đó, Tỉnh đội phó Lê Hải Lý ra lệnh cho sở chỉ huy tiền phương cơ động về trực tiếp chỉ huy các tiểu đoàn 70 và 74, đồng thời cho mở máy thông tin vô tuyến để liên lạc nối lại đường dây hữu tuyến. Đúng như nhận định của ta, địch sử dụng 4 chiếc máy bay phản lực bay vào ném bom ở núi Ông Lặng, thôn 2 và bắt đầu đổ quân bằng trực thăng xuống khu vực chiến sự vừa xảy ra. Cứ 10 chiếc thành một tốp, địch đổ liền 10 đợt xuống cánh đồng của thôn 2, xã Phú Thọ. Quan sát trên chiến trường, phát hiện địch đã dừng đổ quân, bộ binh bắt đầu đánh vào làng, anh chỉ huy Tiểu đoàn 70 xuất kích bao vây toàn bộ lực lượng địch, đồng thời, truyền lệnh cho huyện đội Quế Sơn từ đường sắt đánh lên, huyện đội Thăng Bình từ cầu Ông Triệu đánh qua; chỉ đạo Tiểu đoàn 74 dùng hỏa lực 12,7mm bắn máy bay, cối 81mm đánh vào đội hình bộ binh của địch, chi viện cho Tiểu đoàn 70 xung phong tiêu diệt gọn đại đội trinh sát của địch. Sau hai giờ chiến đấu quyết liệt, ba mũi tiến công của ta đã hợp lại trước cánh đồng thôn 2, xã Phú Thọ, diệt gọn đại đội trinh sát của Sư đoàn 2 ngụy. Lực lượng địch chết tại chỗ 85 tên. Ta bắt sống 15 tên và bắn cháy 5 máy bay trực thăng. Đêm hôm ấy, địch tiếp tục bắn pháo sáng và sử dụng pháo binh bắn vào Phú Thọ, nhưng quân ta đã về nơi trú ẩn an toàn.

Kết thúc chiến tranh, cựu chiến binh Lê Hải Lý đã cố tìm lại người đội trưởng năm xưa để trả đồng hồ. Song không ai biết anh ấy ở đâu, nên chiếc đồng hồ tiếp tục gắn bó với ông đến bây giờ, dù đã hơn bốn mươi năm trôi qua, nhưng nó còn chạy tốt. Qua trò chuyện, Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Hải Lý tâm sự: “Tôi muốn hiến tặng kỷ vật này cho Bảo tàng Lịch sử quân sự để góp phần giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng của dân tộc”. Qua tìm hiểu, tôi được biết, trước đây Đại tá Lê Hải Lý cũng từng hiến tặng khẩu súng K59 số hiệu 6H-3189 do Tư lệnh Quân khu 5 Chu Huy Mân tặng ông tại hội nghị mừng công năm 1972, cho Phòng truyền thống Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM