3
Sau khi xưng tội, chị Nhung trở về trong tâm trạng đau khổ. Cái nhìn của vị linh mục và những câu nói của ông ta bây giờ mới ngấm đủ vào chị.
Chị không kịp cởi áo hành lễ, nằm vật xuống giường, toàn thân run lên như người vừa bị sốt rét.
Chị nhớ lại hai lần cùng chồng chạy trốn vì kính Chúa và thương chồng, thương con. Rồi cái đêm gặp Tình ở nghĩa địa đã dấy lên trong chị tình thương và lòng thương hại.
Tình cảm yêu thương, tình vợ chồng trước đây, lời cầu khẩn van xin của Tình trong đêm đó khiến chị muốn đưa Tình về nhà giấu. Nhưng nghĩ đến chồng mình đã chạy theo Chúa vào Nam, có người nói đó là chạy theo giặc, chị ngần ngại không muốn đưa Tình về nhà.
Và cũng chính đêm đó, tình thương của người vợ đối với chồng và lòng tin của một giáo dân đối với Chúa, muốn làm mọi điều theo Chúa răn đã đẩy xa ý nghĩ lưỡng lự, đưa chị tới quyết định đưa chồng về nhà giấu.
Rồi hai năm chị giấu Tình ở nhà, chị biết rất rõ, chính chị là một trong những nguyên nhân giúp Tình yêu cuộc sống của một gia đình và nhận làm việc cho công an.
Nhưng sau cái đêm trời mưa to nhỏ giọt vào giữa thân thể hai người khi đang nằm trên chõng tre trong buồng, chị đã có thai. Chị im lặng không dám nói với chồng và cũng chẳng dám nói với ai. Cái thai đã đem đến cho chị dằn vặt, đau khổ, lo lắng. Chị muốn giải tỏa nỗi sợ hãi, u hoài đó. Đã nhiều lần chị định xưng tội với Cha, nhưng lại e sợ mối đe doạ khủng khiếp của nền đạo lý tôn giáo. Có lần chị định báo cáo công an nhưng lại sợ bị công an kết tội chống đối chính quyền, cô tình phá hỏng công việc họ đang yêu cầu vợ chồng chị làm. Chị hoảng sợ muốn né tránh tất cả, nhưng nó cứ đến.
Chị Nhung cứ nằm trên giường trong tâm trạng hoảng loạn như thế cho đến quá nửa đêm. Bỗng có tiếng mở cửa.
Nghe tiếng mở cửa, chị Nhung biết ngay chồng đã về.
Tình bước vào, gian nhà chìm trong bóng nến mờ mờ từ bàn thờ Chúa toả ra. Im lặng, một sự im lặng không tính trước. Phút im lặng kéo dài rất lâu, không ai dám lên tiếng trước, sợ phá vỡ nó là phá vỡ sự yên tĩnh của Chúa, mãi một lúc sau, chị Nhung đành lên tiếng:
- Cha có nói gì với anh không?
Tình không trả lời. Chị Nhung sốt ruột hỏi lại:
- Cha có nói gì với anh không?
- Có.
- Anh có xưng tội với Cha, em đã có thai không?
- Có.
Tình lại ngồi im không nói.
- Sao anh có vẻ buồn thế?
- Cha bảo chúng ta nếu để lộ chuyện cô có thai thì tôi và cô cùng phải chết. Mà chuyện đó thì giữ kín sao được, chi bằng ta coi như không có thai.
- Không được đâu anh ơi! Con Hương đã bỏ đi rồi, bây giờ phải giữ em nó lại chứ!
Sau câu trả lời đó, Tình cảm thấy như đã chết thực sự chứ không phải vì kiệt sức. Hắn ngồi xuống chõng tre, vẻ chán nản.
Chị Nhung nói trong nước mắt:
- Dù thế nào thì nó vẫn là con mình. Anh đừng đang tâm làm điều tàn nhẫn - Chị Nhung thấy lồng ngực như bị nghẹn lại bởi tình cảm âu yếm, thương xót đứa trẻ đang hình thành trong bụng - Nó là con của chúng ta, con của tôi và của anh.
Tình vụng về đặt tay lên vai chị. Chị Nhung cúi đầu bật khóc. Tên Tình vẫn ngồi im không nói. Một lúc sau chị Nhung hỏi tiếp:
- Anh không bỏ con đi chứ?
Quả thật lúc đó Tình rất bối rối, lúng túng, không còn ý nghĩ giết vợ nữa đành nói một câu chỉ cốt làm vừa lòng chị Nhung trong giây phút hoảng sợ:
- Không!
Sau câu trả lời, tự nhiên Tình lại nghĩ về cuộc đời làm tên gián điệp biệt kích. Đã nhiều lần hắn nghĩ về cuộc đời làm tay sai cho Mỹ bạc bẽo, đầy lo sợ và hoài nghi. Rồi hắn cho con đường hắn đi không thể khác được. Những năm năm mươi, bố bị bắn chết về tội chống lại Tổ quốc. Hắn bất mãn với cách mạng, lúc nào cũng mang bên mình ý nghĩ phải trả thù cho bố. Nhưng rồi không lâu, miền Bắc giải phóng, Chúa chạy vào Nam, cơ quan tình báo trung ương Mỹ đã đưa hắn vào nhà thờ Tiên Sa của xứ đạo bán đảo Sơn Trà "học đạo", học nghề làm gián điệp biệt kích chống cộng sản. Sau nhiều lần đi lễ hắn được linh mục Trịnh Văn Duy, cha xứ bán đảo Sơn trà, tướng Tukơ Cục tình báo trung ương Mỹ huấn luyện nghiệp vụ tình báo. Tướng Tukơ, linh mục Trịnh Văn Duy, đại tá tình báo ngụy Đặng Văn Sung đánh giá Tình chưa phải là một điệp viên xuất sắc nhưng có nhiều khả năng tổ chức. Chúng đã tung Tình trở về Ninh Bình lập mật khu đón Chúa, thực hiện chiến lược "Phá cộng sản từ trong lòng cộng sản".
Nhưng khi về tới Ninh Bình, Tình bị bắt. Hắn tưởng rằng cuộc đời đã bị sụp đổ hoàn toàn, sẽ phải chịu số phận như bố hắn. Và hắn nghĩ, có thể còn tồi tệ hơn: trước khi đóng nắp quan tài không được rửa tội; linh cữu khiêng ra nghĩa địa không kèn không trông; huyệt sẽ chôn ở một nơi không cắm cây thập ác. Nhưng rồi mọi việc lại xáo trộn. Hắn không những không bị xử bắn mà lại được công an cho về sống cùng vợ. Gần hai năm sống cùng vợ, cuộc sống gia đình và đứa con đang hình thành trong bụng vợ, câu hỏi của vợ đã buộc hắn nghĩ đến buốt óc về cuộc sống. Và chính trong giây phút đó, lần đầu tiên sau hơn ba mươi năm theo Chúa, gần mười năm theo địch và có thế trong cả cuộc đời, hắn mới cảm thấy cái hạnh phúc giản dị của một người vợ, người mẹ. Lần đầu tiên hắn cảm nhận được một cách lờ mờ, một cái gì đó rất chính yếu mà hắn phải có, con người phải sống vì nó: Đứa con.
Tình đang trong cuộc đấu tranh dữ dằn nhất giữa việc giết đứa con hay để nó sống. Chính vì cuộc xung đột ác liệt đó chưa phân thắng bại nên hắn vẫn giữ kín chuyện, chưa dám hòa thuốc độc cho vợ uống.
Chị Nhung gục đầu xuống chiếc chiếu gấp xếp ở đầu giường làm gối, để mặc cho ý nghĩ hoảng loạn dằn vặt trong đầu, để mặc cho nước mắt chảy cho vơi đi nỗi khổ cực. Nhưng rồi chị vẫn lạc đường và rơi vào nỗi tuyệt vọng sâu sắc. Mãi một lúc sau, chị mới thoát khỏi sự hoảng loạn và quyết định giữ lấy cái thai, mảnh máu thịt của mình, mặc cho Tình, linh mục Bường hay bất kỳ ai không muốn nó sinh ra ở cái thôn Lưu Hạ vào lúc này.
Chị đứng lên, đi đến bên tượng Chúa làm dấu:
- Mong Chúa ban phước lành cho đứa con của con được thành người.